1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam

Chủ đề trong 'Nam Định' bởi sweetlove_17, 02/09/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. sweetlove_17

    sweetlove_17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2006
    Bài viết:
    2.356
    Đã được thích:
    0
    Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam

    Chào các bác! Trong lịch sử có rất nhiều danh nhân nổi tiếng sinh ra trên đất Nam Định chúng ta vậy bác nào biết chỉ cho đàn em với! Chúng ta cũng mở một forum để bàn luận về các danh nhân để học hỏi và tự hào về quê hương Nam Định chứ nhỉ!
  2. 450nm

    450nm Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/07/2006
    Bài viết:
    683
    Đã được thích:
    0
    Đầu tiên phải kể đến là Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn, anh hùng dân tộc, nhà văn hoá vĩ đại, một trong những vị tướng giỏi nhất mọi thời đại. Lịch sử dân tộc ta có hai thời đại chói lọi nhất, làm rạng danh đất nước, đó là thời nhà Trần vào thế kỷ 13, ba lần đánh bại quân Nguyên Mông, và thời đại Hồ Chí Minh, cả hai thời kỳ đều có dấu ấn của những danh nhân Nam Định, tiêu biểu là Trần Hưng Đạo và cố tổng bí thư Trường Chinh.
    Nam Định là đất học, trạng nguyên Lương Thế Vinh, quá nổi tiếng rồi, trạng Nguyễn Hiền, còn một ông trạng nữa, cũng là lưỡng quốc trạng nguyên: Đào Sư Tích, ông này ít nổi tiếng hơn, nhưng cũng khá giỏi, nếu nhớ không nhầm thì ở Văn miếu Quốc Tử Giám còn trưng bày 1 bộ áo của cụ Đào Sư Tích. Ôi, cái lần vào sờ đầu rùa, tiện thể đi loanh quanh, nhìn thấy bộ áo đấy mới thấy tự hào với bọn bạn.
    Văn học thì có Tú Xương, Nguyễn Bính, thơ các cụ đi vào sách giáo khoa thì ít nhất các thế hệ học sinh cả nước cũng biết đến 2 chữ Nam Định
    sơ sơ thôi cũng đủ để anh em vì quê hương giàu truyền thống!
    ps: nhân tiện nói thêm, không phải chỉ có trong quá khứ, đương đại vẫn có rất nhiều danh nhân làm rạng danh quê hương: như GS Trần Văn Nhung, được ví như cuốn từ điển sống, em được nghe ông này nói chuyện 1 lần khi về thăm trường Hải Hậu A, NGƯT Nguyễn Ngọc Ký, thầy này thì quả là đáng khâm phục vì nghị lực phi thường, 2 tay bị liệt và phải dùng chân để viết...
    còn một người nữa cũng rất nổi tiếng,GS Nhà giáo nhân dân Nguyễn Châu. Ai học vật lý thì đều biết thầy Châu, một trong những nhà vật lý hàng đầu VN. Thầy có kiến thức rất uyên thâm, và rất khuyến khích sinh viên, luôn luôn giành thời gian ở lại sau khi hết giờ để trả lời tất cả thắc mắc về vật lý của sv.
    Được 450nm sửa chữa / chuyển vào 02:07 ngày 03/09/2006
    Được 450nm sửa chữa / chuyển vào 02:18 ngày 03/09/2006
  3. jigoro_and_jigoro

    jigoro_and_jigoro Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    bác nguyễn văn an, nguyên chủ tích Quốc Hội khoá X.
    bác nguyễn văn tính, mới mất khi đương chức thứ trưởng Bộ Công An.
  4. sweetlove_17

    sweetlove_17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2006
    Bài viết:
    2.356
    Đã được thích:
    0
    Oạch! Nhìn cái list mém xỉu rùi! Công nhận các bác cũng để ý và tìm hiểu khá rõ về quê hương chúng ta đấy nhỉ!
  5. aqcharles

    aqcharles Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/07/2004
    Bài viết:
    2.668
    Đã được thích:
    1

    Một chủ đề hay tuy nhiên người mở chủ đề và các bạn tham gia chưa thật tích cực để khai thác. Bạn Mod có thể đổi lại tên chủ đề cho phù hợp thành : Những nhân vật nổi tiếng của lich sử Thành Nam/Nam Định nếu không sẽ dễ gây hiểu nhầm là của cả nước. Tôi xin đóng góp với các bạn một số các danh nhân, trước hết là Cố tổng bí thư Trường Chinh :
    TRƯỜNG CHINH
    (1907 - 1988)​


    Cố Tổng Bí thư Trường Chinh
    Tên thật là Đặng Xuân Khu, bút danh: Sóng Hồng.
    Quê quán: Làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
    Ông nội ông là Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng, từng làm Giám sát ngự sử trong triều đình Huế, Tri phủ, Tuần Phủ, Bố chánh nhiều tỉnh và Đốc học Nam Định.
    Thân phụ ông là Đặng Xuân Viện, một nhà nho yêu nước, am hiểu Quốc văn, viết nhiều sách.
    Năm 1927 ra nhập Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Năm 1929 vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Năm 1930 là Uỷ viên Ban tuyên truyền Trung ương. Tháng 11 - 1930 bị giặc Pháp bắt, kết án 12 năm tù, giam ở Hoả Lò, Hà Nội sau đầy đi Sơn La. Năm 1936 tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ, được bầu vào BCH Trung ương Đảng.
    Ông là chủ bút báo Cờ giải phóng. Năm 1941 - 1956 là Tổng bí thư của Đảng. Sau cải cách ruộng đất ông thôi giữ chức này, nhưng vẫn tiếp tục ở trong Bộ chính trị.
    Năm 1960 - 1981 là Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Năm 1981 - 1987 là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và trở lại làm Tổng bí thư Đảng từ 1986.
    Ông là một nhà Cách mạng, một lãnh tụ hàng đầu của Đảng, một nhà chính trị, một nhà lý luận xuất sắc. Một nhà báo và làm nhiều thơ. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm chính trị theo khuynh hướng chủ nghĩa Mác- Lênin và tinh thần dân tộc.
    Những tác phẩm chính: Vấn đề dân cày - Chính sách mới của Đảng - Chiến tranh Thái Bình và CM giải phóng dân tộc Đông Dương - Cách mạng tháng Tám - Kháng chiến nhất định thắng lợi - Chủ nghĩa Mác với vấn đề văn hoá Việt Nam - Bàn về cách mạng Việt Nam- Thơ Sóng Hồng.
    Ông mất tại Hà Nội ngày 30 - 9 - 1988.
    Nguồn : Namdinhnet
    u?c songdanamdinh01 s?a vo 15:51 ngy 12/09/2006
  6. sweetlove_17

    sweetlove_17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2006
    Bài viết:
    2.356
    Đã được thích:
    0
    Hoan hô! Cám ơn pác đã có lòng thương xót đến cái topic bị đóng bụi này. Nhưng các pác nói em thiếu tích cực thì đúng là oan Thị Kính đấy ạ! Cái lịch của em dầy đặc là thế mà cứ rảnh một tí là em chạy ngay ra tiệm net rùi. Giữ chế độ cao tăng như thế thì làm sao em thở nổi! Hic hic hu hu
  7. sweetlove_17

    sweetlove_17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2006
    Bài viết:
    2.356
    Đã được thích:
    0
    Không chỉ có bấy nhiêu danh nhân thôi đâu mà còn rất rất rất nhìu danh nhân nữa mong các pác ủng hộ nhìu nhìu vào nhá! Chẳng lẽ dân Nam Định không có chút tự hào quê hương nào cả sao?????
  8. songdanamdinh01

    songdanamdinh01 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/05/2004
    Bài viết:
    2.729
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Khuyến
    Nguyễn Khuyến lúc nhỏ tên là Thắng, sinh năm Ất Mùi (1835) ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Thủa nhỏ chăm học. Năm 17 tuổi, ông đi thi cùng một khóa với cha, nhưng bị hỏng. Sau đó cha mất, nhà nghèo, Nguyễn Khuyến phải đi dạy học để kiếm sống và nuôi mẹ. Ông nghè Vũ Văn Lí, học trò cũ của ông bác Nguyễn Khuyến thương tình cảnh của Nguyễn Khuyến, đem về nuôi cho ăn học tiếp.
    Năm 1864, Nguyễn Khuyến thi hương đậu giải nguyên (đậu đầu); năm sau thi hội bị hỏng, ông vào kinh theo học trường Quốc Tử Giám. Năm 1871, ông thi lại lần nữa và đỗ liền cả Hội nguyên và Đình nguyên. Nguyễn Khuyến đậu đầu cả ba kỳ nên người ta thường gọi ông là ông Tam nguyên hay Tam nguyên Yên Đỗ.
    Ông Tam nguyên Yên Đỗ đã từng làm ở nội các Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, rồi Biện lí bộ Hộ,... Thời gian Nguyễn Khuyến ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và đang đánh ra miền Bắc.
    Cuối năm 1883, Nguyễn Khuyến được cử làm quyền Tổng đốc Sơn Tây thay cho Tổng đốc Nguyễn Đình Nhuận đã bỏ Sơn Tây lên Hưng Hóa chống thực dân Pháp, nhưng Nguyễn Khuyến từ chốị Sau đó Hoàng Cao Khải Kinh lược sứ Bắc Kì mời ông đến nhà dạy học, rồi Lê Hoan - Tuần phủ Hưng Yên tổ chức thu vịnh Kiều cũng mời ông làm giám khảọ Hoàng Cao Khải, Lê Hoan là những kẻ cộng tác với thực dân Pháp. Từ chối lời mời của họ ông biết sẽ sinh chuyện lôi thôi nên đành miễn cưỡng nhận lờị
    Nguyễn Khuyến làm quan tất cả hơn 10 năm, rồi từ quan về nhà. Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở thôn quệ Ông mất năm 1909, thọ 75 tuổị
    SỰ NGHIỆP THƠ CA:
    Sáng tác của Nguyễn Khuyến hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện còn khoảng hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm. Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm, cả hai đều rất điêu luyện. Sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba nội dung:
    - Bộc bạch tâm sự của mình;
    - Viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê hương - một vùng đồng chiêm nghèo ở Bắc Bộ;
    - Chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, ích kỉ, tùy thời, cơ hội lúc bấy giờ.
    Nguyễn Khuyến là một nhà thơ được đào tạo theo khuôn mẫu của đạo đức của Nho giáọ Đối với ông, con người sinh ra ở đời sau khi học hành, đỗ đạt thì phải ra làm quan để "thờ vua giúp nước", thực hiện nghĩa vụ "trí quân trạch dân" (vừa giúp vua, vừa làm cho dân được nhờ) mà đạo lý nhà nho đã quy định.
    Trong một thời buổi bình thường chắc Nguyễn Khuyến sẽ trở thành một ông quan thanh liêm, mẫu mực. Nhưng thời Nguyễn Khuyến sống, Pháp đang đánh chiếm Việt Nam, triều đình vì bạc nhược nên đã lần lượt đầu hàng giặc. Trong một bối cảnh như thế nếu Nguyễn Khuyến cứ làm quan thì không khác nào tiếp tay cho giặc, đó là điều mà các nhà nho chân chính rất sợ. Nguyễn Khuyến lúng túng trong thái độ ứng xử. Cuối cùng ông quyết định từ quan.
    Trong thơ ông có rất nhiều bài thể hiện cái tâm trạng ấỵ Lúc đầu ông do dự "mình bỏ nước về nhưng bạn bè đâu phải không có người ở lạị Và về như thế chắc gì con cháu đã khen".
    Về sau ông mới dứt khoát cho rằng lui về là phải, và ông tiếc là một số bạn bè đã không hành động như ông. Có điều thời cuộc thì mỗi ngày một xấụ Thực dân Pháp ngày một lấn tới, bọn cơ hội, tùy thời lúc đầu còn rụt rè, về sau thì công khai ra cộng tác với giặc. Nguyễn Khuyến cảm thấy buồn vô hạn. Ông viết về tiếng con cuốc kêu và đó cũng là tiếng lòng của ông đối với non sông đất nước:
    Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
    Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
    Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
    Hay là nhớ nước vẫn nằm mợ
    Và cho đến lúc nghĩ là mình sắp từ giã cuộc đời, trong bài Di chúc, ông vẫn nói:
    Ơn vua chưa chút báo đền
    Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹo trời!
    Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở nông thôn. Quê ông là một miền đồng chiêm nghèo trũng nước. Nguyễn Khuyến sống ở quê và quan hệ thân tình với mọi ngườị Ông làm thơ tặng bạn bè, tặng anh vợ, tặng ông hàng thịt,... làm câu đối viếng người làng, viếng người thợ rèn, mừng đám cưới, mừng nhà mới,... Nguyễn Khuyến viết nhiều về con người, về thiên nhiên, cảnh vật ở nông thôn. Trước Nguyễn Khuyến, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng có những tác phẩm viết về nông thôn, nhưng hình ảnh nông thôn trong văn học nói chung còn mờ nhạt. Có thể nói, với Nguyễn Khuyến lần đầu tiên nông thôn Việt Nam mới thực sự đi vào văn học.
    Nguyễn Khuyến xứng đáng được gọi là nhà thơ của nông thôn. Dưới ngòi bút của ông, cuộc sống ở nông thôn dường như lúc nào cũng khó khăn, túng thiếu:
    Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
    Chợ búa, trầu cau chẳng dám muạ
    (Chốn quê)
    Nỗi ám ảnh thường xuyên của người nông thôn là lo mất mùa, lụt lội:
    Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
    Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùạ
    (Chốn quê)
    Hay:
    Quai Mễ Thanh Liêm đã vờ rồi,
    Vùng ta thôi cũng lụt mà thôị
    (Nước lụt Hà Nam)
    Ngày tết đến, nếu là năm được mùa thì còn có chút vui:
    Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
    Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt.
    (Cảnh tết)
    nhưng chẳng may gặp năm mất mùa thì tết nhất lại càng thê thảm:
    Dở trời mua bụi còn hơi rét,
    Nếm rượu tường đền được mấy ông?
    Hàng quán người về nghe xáo xác,
    Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
    (Chợ Đồng)
    Trong thơ Nguyễn Khuyến, thiên nhiên được miêu tả cũng là một thiên nhiên nông thôn rất rõ. Cảnh mùa thu trong thơ của ông không phải là mùa thu ở miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đông chiêm Bắc Bộc lúc bấy giờ. Ta có thể nhận thấy điều ấy qua cái màu "xanh ngắt" của bầu trời, đến cái nước "trong veo" của ao cá; hay từ cái "Lưng giậu phát phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe". Và cũng phải đến Nguyễn Khuyến, trong thơ Việt Nam mới có những bữa trưa đặc biệt nông thôn như:
    Chuông trưa vẳng tiếng người không biết,
    Trâu thả sườn non ngủ gốc câỵ
    (Nhớ cảnh chùa Đọi)
    Viết về nông thôn với những tình cảm đằm thắm như thế, không phải trước mà sau Nguyễn Khuyến cũng hiếm có người nào viết được như ông.
    Một mảng sáng tác khác cũng rất có giá trị của Nguyễn Khuyến là mảng thơ trào phúng, đả kích. Nguyễn Khuyến thấy khá rõ cái xấu của xã hội đương thờị Là một nhà nho đã từng làm quan, ông chú ý trước hết đến cái xấu của đám nho sĩ, của bọn quan lạị Đi thi, làm quan trong thời buổi nước mất nhà tan thì có gì là thực chất, thì làm được việc gì? Ông gọi là "tiến sĩ giấy", là "phỗng đá", là anh hề chèọ Ông vạch trần bọn quan lại chỉ lo cho túi mình đầy ắp và bất chấp tất cả mọi sự khen che của dư luận. Ông đả kích thói rởm đời lố lăng, thứ con đẻ của cã hội thực dân. Ngòi bút đả kích của Nguyễn Khuyến trở nên chua xót, cay đắng khi ông thấy chính nhân dân bị bọn thực dân lừa gạt đã tham gia một cách vô ý thức vào những trò chơi làm hạ phẩm giá của mình. Ông tả cảnh ngày "Hội Tây" lúc bấy giờ và kết luận:
    Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
    Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêụ
    Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến ngoài bộ phận hướng vào cái xấu của cã hội để đả kích, ông còn dành một số bài để tự chế giễu cái bất lực, cái bạc nhược của bản thân mình. Trong những bài thơ này, cái cười của ông thường trở nên chua chát, tội nghiệp.
    Thơ Nguyễn Khuyến không những có nội dung thâm thúy mà nghệ thuật cũng rất đặc đắc. Ông là người đã đưa chất trào phúng vào thờ chữ Hán, và dùng cả "điển cố" lấy từ ca daọ
    Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, ngôn ngữ dân tộc được nhà thơ sử dụng là thứ ngôn bgữ hằng ngày giải dị, nhưng rất sinh động, tinh tế, Nhà thơ khai thác được giá trị tạo hình của nhiều từ lấp láỵ Bút pháp của Nguyễn Khuyến trong thơ về cơ bản là hiện thực trữ tình, thỉnh thoảmg có điểm xuyết những yếu tố trào phúng. Cái cười trong thơ Nguyễn Khuyến không vang lên thành tiếng, mà thường là cái cười kín đáo, thâm trầm. Ông đã sử dụng hầu hết các thể loại thơ ca cổ mà thể loại nào cũng rất thành công.
    PS: Nhắc nhở bạn sweetlove_17: Bạn là người lập tocpic này nhưng bạn chưa có bài nào viết về bất kỳ một danh nhân như bạn nói. Tôi sẽ xoá những bài viết ko nói về, bàn về các danh nhân người Nam Định trong topic. Điển hình 2 bài của bạn và bạn doanvuongbac2003
  9. sweetlove_17

    sweetlove_17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2006
    Bài viết:
    2.356
    Đã được thích:
    0
    Pác nói oan cho em rùi đấy ạ!muốn post bài cũng phải có thời gian chuẩn bị và tìm tòi chứ lị. Em đang lên trang web văn học Việt Nam để tìm thêm thông tin và tư liệu về tác gia Trần Tế Xương nhưng nghe pác nói vậy thì cục tự ái lại nổ cái bùm rùi. Nhưng thôi bỏ qua vậy, nhưng pác nên nhớ giùm cho là muốn xông trận thì phải có sức và "nội lực thâm hậu" một tí chứ post bài linh tinh lại chẳng ra gì thì các pác làng mình lại phản đối ấy chứ!
  10. sweetlove_17

    sweetlove_17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2006
    Bài viết:
    2.356
    Đã được thích:
    0
    Kính chào quý bà con cô bác xa gần đã từng gặp mặt cũnh như chưa gặp mặt lần nào. Sau một thời gian "tu luyện" trên sách vở cũng như trên mạng em đã thu hoạch được một số thông tin chi tiết, chính xác nhất và quý báu nhất để post lên topic của mình. Mong bà con xem qua và bình phẩm.
    TRẦN TẾ XƯƠNG​
    Trần Tế Xương (còn gọi là Tú Xương) tên thật là Trần Duy Uyên sinh ngày 5/9/1870 mất ngày 29/1/1907, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích. Kì thi Hương năm 1885 đổi tên là Trần Tế Xương, đến khoa thi năm 1903 lại đổi tên là Trần Cao Xương.
    Cha là Trần Duy Nhuận quê làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định ( nay là phố Hàng Nâu, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định)
    Năm 1885 tú xương lấy vợ là bà Phạm Thị Mẫn (bà Tú) là con gái gia đình dòng dõi thi thư quê ở Hải Dương. Cùng năm đó ông dự thi Hương nhưng không đỗ.
    Năm 1886 sinh con đầu lòng là Trần Thị Thục.
    Năm 1888 Tú Xương tiếp tục thi nhưng không đỗ.
    Năm 1894 Tú Xương thi đỗ Tú tài.
    Năm 1896 em gái ông là bà Trần Thị Khiết qua đời.
    Năm 1897 Tú Xương thi Hội nhưng không đỗ.
    Năm 1900 Tú Xương thi Hội nhưng không đỗ. Nhân dịp này ông sáng tác bài thơ "khoa thi năm Canh Tí",nhân Phan Bội Chậu (một người bạn của ông) đỗ thủ khoa trường Nghệ ông đã viết bài "gửi ông thủ khoa Phan".
    Năm 1903 tú xương tiếp tục thi nhưng không đỗ. Ông sáng tác bài thơ "Hỏng thi" kể về việc đổi tên Trần Tế Xương thành Trần Cao Xương.
    Năm 1906 ông tiếp tục thi nhưng lại trượt.
    Năm 1907 Tú Xương qua đời ngày 29/1/1907 (tức ngày rằm tháng chạp năm bính ngọ) do bị cảm khi về quê ngoại ăn giỗ. Lúc ấy ông mới 37 tuổi.
    Năm 1931 bà Phạm Thị Mẫn vợ Tú Xương qua đời.
    Năm 1937 hội trí tri Nam Định tổ chức kỷ niệm 30 năm ngày mất Tú Xương (1907-1937).
    Năm 1957 hội nhà văn Việt Nam tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm ngày mất tú xương (1907-1937).
    Năm 1970 bộ Văn Hóa và hội nhà văn Việt Nam tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tú Xương (1870-1970).
    Hiện nay tác phẩm của ông còn lại hơn 150 bài (đa số là thơ) và chủ yếu viết theo 2 phong cách trào phúng và trữ tình đã được sưu tầm và xuất bản thành tuyển tập thơ văn trần tế xương do hoàng ngọc phàch - lê thước - đỗ đức hiểu biên soạn.
    P/S: Để soạn được bài này em đã mất 3 tuần liền vào thư viện trường lục tìm với lại lên mạng tìm thêm nữa thế nên mất thời gian lắm và mệt nữa. Vì vậy em sẽ post bài theo định kì mỗi tháng 1 lần cho đến khi......cạn lời cạn vốn thì thôi. Post nhiều quá em không có thời gian để thở đâu vì vừa đi học vừa post bài thì làm sao chịu nổi. Nên các bác đừng có chưa gì đã nhảy vào giựt micrô của...... lãnh đạo rồi nói xấu ....lãnh đạo đấy nhớ!

Chia sẻ trang này