1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những tác phẩm văn học cổ bất hủ

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi nore, 02/10/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Những tác phẩm văn học cổ bất hủ

    Có một số tác phẩm Văn học cổ của VN như Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, Cáo bình ngô, Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc ... Thiết nghĩ box Văn học cũng nên có 1 topic tập hợp các tác phẩm này để tra cứu và tìm kiếm dễ dàng.


    Hịch Tướng sĩ - Trần Hưng Đạo​

    Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?
    Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
    Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
    Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
    Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
    Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?
    Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?
    Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
    Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
    Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.


    <FONT face=Verdana color=deepskyblue>Trời xanh thế... Đời xanh thế...</FONT>

    Được pittypat sửa chữa / chuyển vào 23:31 ngày 02/10/2003
  2. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Thiên Đô Chiếu - Chiếu Dời Đô (Lý Công Uẩn) ​
    Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần đời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời ? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẩm rất đau xót về việc đó, không thể không đổi dời.
    Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: ở vào nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
    Trẩm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chổ ở. Các khanh nghĩ thế nào ?
    Trời xanh thế... Đời xanh thế...
  3. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0

    Bình Ngô Đại Cáo
    - Tác Giả : Nguyễn Trãi
    - Ngô Tất Tố dịch . ​
    Từng nghe:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
    Như nước đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
    Nước non bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác;
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
    Song hào kiệt thời nào cũng có.
    Cho nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại;
    Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
    Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
    Việc xưa xem xét.
    Chứng cứ còn ghi.
    Vưà rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
    Để trong nước lòng dân oán hận
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
    Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
    Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
    Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
    Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
    Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
    Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa ?
    Nặng nề những nổi phu phen tan tác cả nghề canh cửi.
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
    Lòng người đều căm giận,
    Trời đất chẳng dung tha;
    Ta đây:
    Núi Lam sơn dấy nghĩa
    Chốn hoang dã nương mình
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung
    Căm giặc nước thề không cùng sống
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đang mạnh.
    Lại ngặt vì:
    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu,
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
    Thế mà:
    Trông người, người càng vắng bóng,
    Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
    Tự ta, ta phải dốc lòng,
    Vội vã hơn cứu người chết đói.
    Phần vì giận quân thù ngang dọc,
    Phần vì lo vận nước khó khăn,
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
    Ta gắng trí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà,
    Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
    Tướng sĩ một lòng phụ tử,
    Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
    Trọn hay:
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạọ
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
    Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
    Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
    Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
    Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong,
    Giặc đã trí cùng lực kiệt,
    Chẳng đánh mà người chịu khuất,
    Ta đây mưu phạt tâm công.
    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
    Nên đã thay lòng đổi dạ
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
    Lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên đức động binh không ngừng
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
    Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
    Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
    Sau lại sai tướng chẹn đường tuyệt nguồn lương thực
    Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
    Sĩ tốt kén người hùng hổ
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc
    Đánh hai trận tan tác chim muông.
    Cơn gió to trút sạch lá khô,
    Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
    Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
    Ghê gớm thay ! Sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
    Bị ta chặn ở Lê Hoa,
    Quân Vân Nam nghi ngờ
    Khiếp vía mà vỡ mật
    Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
    Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau
    Chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
    Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
    Thành đan Xá, thây chất thành núi,
    Cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
    Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
    Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
    Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
    Chẳng những mưu kế kì diệu
    Cũng là chưa thấy xưa nay
    Xã tắc từ đây vững bền
    Giang sơn từ đây đổi mới
    Càn khôn bĩ rồi lại thái
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh
    Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc
    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
    Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
    Than ôi ! Một cỗ nhung y chiến thắng,
    Nên công oanh liệt ngàn năm
    Bốn phương biển cả thanh bình,
    Ban chiếu duy tân khắp chốn.
    Xa gần bá cáo,
    Ai nấy đều hay.
    Trời xanh thế... Đời xanh thế...
  4. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0

    Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc
    (Tác giả : Nguyễn Đình Chiểu)​
    Hỡi Ôi !
    Súng giặc đất rền,
    Lòng dân trời tỏ.
    Mười năm công vỡ ruộng,
    Xưa ắt còn danh nổi như phao,
    Một trận nghĩa đánh Tây,
    Thân tuy mất tiếng vang như mõ.
    Nhớ linh xưa
    Côi cút làm ăn,
    Riêng lo nghèo khổ,
    Chưa quen cung ngựa đưa tới trường nhung
    Chỉn biết ruộng trâu ở theo làng hộ;
    Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy,
    Tay vốn làm quen;
    Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ,
    Mắt chưa từng ngó.
    Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng,
    Trông tin quan như nắng hạn trông mưa.
    Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm,
    Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
    Ðêm thấy bòng bong che trắng lớp,
    Những muốn ăn gan;
    Ngày xem ống khói chạy đen xì,
    Toan ra cắn cổ.
    Một mối xa thư đồ sộ,
    Há để ai chém rắn đuổi hưu;
    Hai vầng nhật nguyệt chói lòa,
    Ðâu dung lũ treo dê bán chó.
    Nào đợi ai đòi ai bắt,
    Phen này xin ra sức đoạn kình.
    Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi,
    Chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
    Khá thương thay
    Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ,
    Theo giòng ở lính diễn binh;
    Chẳng qua là dân ấp, dân làng,
    Mến nghĩa làm quân chiêu mộ
    Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
    Chín chục trận binh thư, không chờ bài bố.
    Ngoài cật có một manh áo vải,
    Nào đợi mang bao tấu, bao ngòi,
    Trong tay dùng một ngọn tầm vông,
    Chi nài sắm dao tu, nón gỗ.
    Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi,
    Cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
    Gươm đeo dùng một ngọn dao phay,
    Cũng chém đặng đầu quan hai nọ
    Chi nhọc quan Quản gióng trống kỳ trống giục,
    Ðạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không.
    Mặc kệ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to,
    Xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
    Kẻ đâm ngang, người chém dọc,
    Làm cho mả tà, mả ái hồn kinh.
    Bọn hè trước, lũ ó sau,
    Trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
    Những lăm lòng nghĩa sau dùng
    Ðâu biết xác phàm vội bỏ.
    Một chắc sa trường rằng chữ hạnh,
    Nào hay da ngựa bọc thây;
    Trăm năm âm phủ ấy chữ quy,
    Xá đợi gươm hùm treo mộ
    Ðoái sông Cần Giuộc,
    Cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
    Chẳng phải án cướp, án gian đày tới,
    Mà vi binh đánh giặc cho cam tâm.
    Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi,
    Mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
    Nhưng nghĩ rằng
    Tấc đấc ngọn rau ơn chúa,
    Tài bồi cho nước nhà ta
    Bát cơm manh áo ở đời,
    Mắc mớ chi ông cha nó ?
    Vì ai khiến quan quân khó nhọc,
    Dãi tuyết nằm sương ?
    Vì ai xui hào lũy tan hoang,
    Xiêu mưa ngà gió ?
    Sống làm chi theo quân tả đạo,
    Quẳng vùa hương, xô bàn độc
    Nghĩ lại thêm buồn;
    Sống làm chi ở lính mả tà,
    Chia rượu ngọt, gặm bánh mì,
    Nghe càng thêm hổ.
    Thà thác mà đặng câu dịch khái,
    Về sau tổ phụ cũng vinh,
    Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây,
    ở với man di rất khổ.
    Ôi thôi thôi
    Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh,
    Tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
    Ðồn Tây Dương một khắc đặng rửa hờn,
    Tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
    Ðau đớn mấy, mẹ già ngồi khóc trẻ,
    Ngọn đèn khuya leo lét trong lều,
    Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng,
    Con bóng xế vật vờ trước ngõ.
    Ôi !
    Một trận khói tan,
    Nghìn năm tiết rỡ.
    Binh tướng nó hày đóng sông Bến Nghé,
    Còn làm cho bốn phía mây đen.
    Ông cha ta còn ở đất Ðồng Nai,
    Ai cứu đặng một phường con đỏ.
    Thác mà trả nước non rồi nợ,
    Danh thơm đồn sáu tỉnh cũng đều khen;
    Thác mà ưng đền miếu để thờ,
    Tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ
    Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc,
    Linh hồn theo giúp cơ binh
    Muôn kiếp nguyện được trả thù kia
    Sống thờ vua, thác cũng thờ vua,
    Lời dụ dạy đã rành rành
    Một chữ ấm đủ đền công đó.
    Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,
    Thương vì hai chữ thiên dân.
    Cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm,
    Cám bởi một câu vương thổ.
    Hỡi Ôi !
    Có linh xin hưởng.


    Trời xanh thế... Đời xanh thế...
  5. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0

    Nam quốc sơn hà
    Lý Thường Kiệt
    Nam quốc sơn hà Nam đế cư
    Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
    Như hà nghịch lổ lai xâm phạm
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
    (Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Rành rành đã định tại sách trời
    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)​
    Trời xanh thế... Đời xanh thế...
  6. nktvnvn

    nktvnvn Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    916
    Đã được thích:
    0
    Không biết các bác có đăng bài Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du chưa. Tìm giùm em nhé. Cảm ơn nhiều.
    ---------------------------
    [​IMG]
     
  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh
    Nguyễn Du
    Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
    Toát hơi may lạnh buốt xương khô
    Não ngườI thay buổi chiều thu,
    Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
    Đường bạch dương bóng chiều man mác,
    Dịp đường lê lác đác mưa sa
    Lòng nào lòng chẳng thiết tha
    Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
    Trong trường dạ tối tăm trời đất,
    Có khôn thiêng phảng phất u minh...
    Thương thay thập loại chúng sing
    Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
    Hương lửa đã không nơi nương tựa
    Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...
    Còn chi ai khá ai hèn
    Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!
    Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
    Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
    Muôn nhờ đức Phật từ bi
    Giải oan cứu khổ độ về tây phương.
    Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
    Chí những lăm cất gámh non sông
    Nói chi những buổi tranh hùng
    Tưởngn khi thế khuất vận cùng mà đau!
    Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở
    Khôn đem mình làm đứa thất phu
    Giàu sang càng nặng oán thù
    Máu tươi lai láng xương khô rụng rời
    Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
    Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
    Cho hay thành bại là cơ
    Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
    Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
    Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
    Một phen thay đổi sơn hà,
    Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
    Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy
    Phận đã đành trâm gãy bìng rơi
    Khi sao đông đúc vui cười
    Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
    Đau đớn nhẽ không hương không khói
    Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
    Thương thay chân yếu tay mềm
    Càngnăm càng héo một đêm một dài.
    Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
    Ngọn bút son thác sống ở tay
    Kinh luân găm một túi đầy
    Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
    Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
    Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
    Ngàn vàn khôn đổi được mình
    Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
    Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
    Biết lấy ai bát nước nén nhang?
    Cô hồn thất thểu dọc ngang
    Nặng oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh?
    Kìa những kẻ bài binh bố trận
    Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
    Gió mưa sấm sét đùng đùng
    Phơi thây trăm họ nên công một người.
    Khi thất thế tên rơi đạn lạc
    Bãi sa trường thịt nát máu rơi
    Mênh mông góc bể chân trời
    Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
    Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
    Khí âm huyền mờ mịt trước sau
    Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
    Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
    Cũng có kẻ tính đường trí phú
    Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
    Ruột rà khôngkẻ chí thân
    Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
    Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
    Của phù vân dẫu có như không
    Sống thời tiền chảy bạc ròng
    Thác không đem được một đồng nào đi.
    Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
    Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
    Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
    Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?
    Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
    Dẫn mình vào thành thị lân la
    Mấy thu lìa cửa lìa nhà
    Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
    Dọc hàng qúan gặp tuần mưa nắng
    Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
    Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
    Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
    Bóng phần tử xa chừng hương khúc
    Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
    Cô hồn nhờ gửi tha phương
    Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
    Cũng có kẻ vào sông ra bể,
    Cánh buồm mây chạy xế gió đông
    Gặp cơn giông tố giữa dòng
    Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
    Cũng có kẻ đi về buôn bán
    Đòn gánh tre chín dạn hai vai
    Gặp cơn mưa nắng giữa trời
    Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
    Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
    Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
    Nước khe cơm vắt gian nan
    Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
    Buổi chiến trận mạng người như rác
    Phận đã đành đạn lạc tên rơi
    Lập lòe ngọn lửa ma trơi
    Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
    Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
    Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
    Ngẩn ngơ khi trở về già
    Ai chồng con tá biết là cậy ai?
    Sống đã chịu một đời phiền não
    Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ
    Đau đớn thay phận đàn bà,
    Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
    Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
    Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
    Thương thay cũng một kiếp người
    Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
    Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
    Gửi mình vào chiếu rách một manh
    Nắm xương chôn rấp góc thành
    Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?
    Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
    Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
    Lấy ai bồng bế xót xa
    U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
    Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
    Cũng có người sẩy cối sa cây
    Có người leo giếng đứt dây
    Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
    Người thì mắc sơn tinh thủy quái
    Người thì sa nanh sói ngà voi
    Có người hay đẻ không nuôi
    Có người sa sẩy có người khốn thương.
    Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
    Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
    Mỗi người một nghiệp khác nhau
    Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
    Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
    Hoặc là nương ngọn suối chân mây
    Hoặc là điếm cỏ bóng cây
    Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
    Hoặc là nương thần từ Phật tự
    Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
    Hoặc là trong quãng đồng không
    Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre
    Sống đã chịu một bề thảm thiết
    Ruột héo khô dạ rét căm căm
    Dãi dầu trong mấy mươi năm
    Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
    Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
    Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
    Lôi thôi bồng trẻ dắt già
    Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
    Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
    Phóng hào quang cứu khổ độ u
    Rắp hòa tứ hải quần chu
    Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
    Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
    Chuyển pháp luân tam giới thập phương
    Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
    Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
    Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
    Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
    Mười loài là những loài nào?
    Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
    Kiếp phù sinh như hình như ảnh
    Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
    Ai ơi lấy Phật làm lòng
    Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
    Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
    Của có khi bát cháo nén nhang
    Gọi là manh áo thoi vàng
    Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
    Ai đến đây dưới trên ngồi lại
    Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
    Phép thiên biến ít thành nhiều
    Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
    Phật hữu tình từ bi phổ độ
    Chớ ngại rằng có có không không.
    Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
    Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài

Chia sẻ trang này