1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Tấm Gương Xưa - Quách Tấn

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi lyenson, 02/07/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0


     
    Câu chuyện giữa Yêu Ly và Khâu Tố bay đến tay Vua Ngô là Hạp Lư. Hạp Lư tức là Công tử Quang giết vua Ngô là Vương Liêu và lên nối ngôi dùng Ngũ Tử Tư làm tướng quốc. Vương Liêu có một công tử là Khánh Kỵ lưu lạc ở nước Trịnh. Hạp Lư sợ Khánh Kỵ phục hận, muốn cho người đi thích khách, mới hỏi Ngũ Tử Tư. Tử Tư đáp: - Việc này khó khăn lắm. Tuy vậy tôi có quen một người bé nhỏ, có thể dùng việc này được. Hạp Lư nói: - Khánh Kỵ có sức khoẻ muôn người khôn địch. Một người bé nhỏ thì làm gì nên việc. Tử Tư đáp: - Vóc tuy bé, nhưng sức định muôn người, trí khôn hơn người, lo gì không thắng nổi Khánh Kỵ.
     
    Đoạn giới thiệu Yêu Ly. Hạp Lư cho triệu Yêu Ly đến. Nghe tiếng Yêu Ly, tưởng Yêu Ly là người khôi ngô tuấn tứ, nhưng khi trông thấy hình thù đã thấp bé, mặt mũi lại xấu xí, Hạp Lư có ý không bằng lòng, bèn hỏi: - Ngũ Viên nói Yêu Ly là dũng sĩ, có phải nhà ngươi chăng? Yêu Ly đáp: - Tôi nhỏ bé, không có sức khỏe, gió thổi cũng đủ ngã, nhưng hễ Đại Vương sai bảo gì, tôi cũng dám làm. Hạp Lư mời Yêu Ly vào Hậu cung. Yêu Ly hỏi: - Có phải Đại Vương muốn giết Công tử Khánh Kỵ chăng? Điều này tôi có thể làm được. Hạp Lư cười: - Khánh Kỵ sức mạnh lạ thường, chạy mau hơn ngựa. Ta sợ nhà ngươi địch không nổi. Yêu Ly nói: - Thắng người cốt ở trí khôn, đâu phải ở sức khoẻ. Tôi được gần Khánh Kỵ thì giết Khánh Kỵ có khó gì. Hạp Lư bảo: - Khánh Kỵ là kẻ mưu trí. Thấy nhà ngươi là người nước Ngô, đời nào cho đến gần. Yên Ly đáp: - Khánh Kỵ lâu nay chiêu nạp anh hùng hào kiệt bốn phương, dung dưỡng những kẻ có tội, cốt đem về phục nghiệp, báo thù. Nay tôi giả làm người có tội, đi trốn. Xin Đại Vương giết vợ con tôi, chặt cánh tay phải của tôi, để cho Khánh Kỵ tin tôi. Như thế mới thành công được. Hạp Lư có ý buồn bã, nói: Một kẻ không có tội gì mà phải bị phế gia đình, hại bản thân, lòng ta sao nỡ. Yêu Ly khẳng khái đáp: - Vui với vợ con mà bỏ đạo vua tôi sao gọi là trung. Giúp người mà không chịu hy sinh thì sao gọi là nghĩa. Tôi đã cố giữ tròn trung nghĩa, dẫu phải hy sinh đến đâu cũng vui lòng. Hạp Lư cau mày, không quyết. Ngũ Tử Tư đứng bên cạnh nói chen vào : - Làm tôi hy sinh vì chúa là việc thường. Yêu Ly vì nước quên nhà quên thân. Đó là bậc hào kiệt. Lúc xong việc, Đại Vương phong tặng cho gia đình, để tiếng lại nghìn thu. Như thế là đủ. Hạp Lư nhận lời.
     
    Ngày hôm sau Ngũ Tử Tư và Yêu Ly vào triều xin vua Ngô phong cho Yêu Ly làm tướng, cử binh đi đánh Sở. Hạp Lư nói: - Ta xem sức Yêu Ly trói gà không chặt, làm gì cầm quân ra trận được. Vả lại, trong nước chưa yên, ta không muốn chinh phục nước ngoài. Yêu Ly lớn tiếng đáp: - Ngũ Viên vì thù cha mà phải bỏ nước Sở sang giúp Đại vương thu phục giang sơn nước Ngô, mà Đại Vương lại không chịu giúp Ngũ Viên báo được thù riêng thì thật là thiếu độ lượng. Hạp Lư nổi giận vỗ án thét : - Nhà ngươi biết đâu được việc lớn trong nước. Sao dám dùng lời lỗ mãng với ta.
     
    Đoạn truyền võ sĩ bắt Yên Ly chặt một cánh tay, rồi đem giam vào ngục. Rồi lại sai người bắt giết cả vợ con Yêu Ly. Ngũ Tử Tư thở dài lui ra. Các quan trong triều không hiểu gì cả. Ngày hôm sau, Ngũ Tử Tư sai người đến mở cửa ngục cho Yên Ly trốn thoát . Đi đến đâu Yên Ly cũng kể nỗi oan khổ của mình, rồi tìm đến ra mắt Khánh Kỵ, kể hết hoàn cảnh đau đớn. Khánh Kỵ không tin. Yêu Ly bèn cởi áo cho xem dấu hình phạt. Khánh Kỵ hỏi: - Vua Ngô giết vợ con ngươi, lại chặt tay ngươi, nay ngươi muốn theo ta để làm gì ? Yêu Ly nói: - Hạp Lư giết Vương phụ của Công tử và cướp ngôi nước Ngô. Công tử đương nhiên chiêu hiền đãi sĩ liên kết cùng chư hầu toan việc báo thù. Vì vậy tôi muốn đem chút thân tàn này giúp Công tử. Tôi đã rõ hết tình hình nước Ngô. Cứ như tài năng và vũ dũng của công tử mà có tôi làm hướng đạo thì đại sự chắc thành. Công tử sẽ báo thù cho vương phụ, tôi sẽ báo thù cho vợ con.
     
    Khánh Kỵ chưa lấy làm tin. Được ít lâu có người thám thính ở nước Ngô về, đem việc vợ con Yêu Ly bị bêu đầu giữa chợ thuật lại. Khánh Kỵ mới thực lòng tin dùng Yêu Ly. Một hôm hỏi Yêu Ly: - Ta nghe vua Ngô dùng Ngũ Viên và Bá Hy làm mưu thần luyện tập binh tướng, trong nước cường thịnh lắm, thế thì ta phải làm cách nào để khôi phục cơ nghiệp cũ ? Yêu Ly đáp: - Bá Hy là người vô mưu. Chỉ có Ngũ Viên là người trí dũng song toàn, nhưng nay lại có hiềm khích với vua Ngô rồi. Khánh Kỵ cười, hỏi: - Ngũ Viên là ân nhân của vua Ngô, vua tôi rất tương đắc. Cớ sao gọi là hiềm khích được? Yêu Ly đáp: - Công tử mới biết bên ngoài mà chưa biết rõ được nội tình. Ngũ Viên sở dĩ theo vua ngô là muốn mượn tay vua Ngô để báo thù riêng ở nước Sở. Nay vua Ngô an hưởng phú quí chẳng nghĩ đến việc báo thù cho Ngũ Viên. Tôi vì muốn giúp cho Ngũ Viên mà bị vua Ngô làm hại. Lòng Ngũ Viên cũng oán vua Ngô lắm. Tôi trốn thoát được là nhờ Ngũ Viên đó. Khi ra đi, y có dặn tôi hãy dò xem ý kiến công tử như thế nào. Nếu công tử chịu báo thù thì Ngũ Viên sẽ làm nội ứng để chuộc lại tội đồng mưu với Hạp Lư trước kia. Vậy nếu công tử nhân dịp này đem quân về đánh thì việc phục thù không khó.
     
    Khánh Kỵ rất mừng, dùng Yên Ly làm kẻ tâm phúc, luyện tập binh mã, sửa sang thuyền bè, định trong ba tháng nữa sẽ theo dòng sông tiến đánh nước Ngô. Định kỳ đến, Khánh Kỵ cùng Yêu Ly ngồi chung thuyền lướt trên dòng nước thuận. Được nửa đường, một cơn gió lớn nổi dậy. Đoàn thuyền của Khánh Kỵ bị xao động. Yêu Ly bảo Khánh Kỵ; - Công tử nên ra trước mũi thuyền để chỉ huy tướng sĩ. Khánh Kỵ bước lên mũi thuyền ngồi. Yêu Ly cầm giáo đứng hầu. Nhân lúc xuất kỳ bất ý, Yêu Ly nương theo đà gió thổi mạnh, đâm Khánh Kỵ một giáo lút từ bụng đến sau lưng. Khánh Kỵ vốn là tay thần dũng nên mũi giáo của Yêu Ly không giết chết ngay được. Khánh Kỵ đưa tay tóm lấy Yêu Ly, nhận xuống nước ba lần rồi giở lên, để vào lòng, nhìn mặt cười khanh khách: - A ha ! Trong thiên hạ còn có kẻ dũng sĩ này dám cả gan đâm ta! Quân sĩ xúm lại muốn đâm chết Yêu Ly. Khánh Kỵ cản lại: - Người này là dũng sĩ. Một ngày không nên giết đến hai dũng sĩ trên thiên hạ. Hãy tha cho hắn để hắn tỏ được lòng trung của hắn đối với vua Ngô.
     
    Nói đoạn bỏ Yên Ly xuống mũi thuyền, đưa tay rút ngọn giáo, máu ra lai láng. Khi gần chết còn dặn đi dặn lại kẻ bộ hạ chớ nên giết Yêu Ly. Yêu Ly nói: - Ta có ba điều không thể tha được. Dẫu công tử không giết ta cũng không sống làm gì. Mọi người hỏi. Yêu Ly đáp ; - Vì đạo thờ vua mà giết cả vợ con, là bất nhân. Vì vua mới mà giết con vua cũ, là bất nghĩa. Làm cho người ta nên việc mà phải hại cả gia đình cả bản thân , là bất trí. Đã phạm ba điều ác ấy, ta còn mặt mũi nào sống trên đời. Nói xong nhảy xuống sông tự tử. Người lái thuyền vớt Yêu Ly lên. Yêu Ly hỏi: - Ngươi vớt ta để làm gì? Người lái thuyền thành thật đáp: - Tráng sĩ về nước ắt được tước lộc, trọn đời vinh hiển. Tại sao lại liều thân? Yêu Ly cười: - Vợ con và bản thân ta, ta còn chưa tiếc, huống hồ tước lộc. Các ngươi hãy đem xác ta về Ngô mà lãnh thưởng. Nói đoạn giật thanh kiếm của người đứng cạnh, đâm vào cổ mà chết.
     
    Quân sĩ đem thi thể Khánh Kỵ và Yêu Ly về nước Ngô cho Hạp Lư. Hạp Lư mừng rỡ trọng thưởng cho quân sĩ, rồi làm lễ Thượng Khanh an táng Yêu Ly dưới thành, và khóc: - Ta xin nhờ tài vũ dũng của nhà ngươi giữ vững thành trì nước Ngô. Hạp Lư lại làm lễ phong tặng vợ con Yêu Ly và lập miếu thờ. Còn Khánh Kỵ thì được chôn cất theo lễ công tử bên mộ Liêu Vương. Xem chuyện Yêu Ly có người hỏi: - Yêu Ly đã biết việc mình làm là bất nhân, bất nghĩa, bất trí, mà tại sao vẫn cứ làm ? Xin thưa: - Mình không phải là Yêu Ly thì không biết đích xác những gì Yêu Ly không nói cho đời biết. Chỉ biết rằng trong thế gian không mấy ai đứng hẳn ra ngoài vòng danh lợi. Nếu Yêu Ly không làm những việc Yêu Ly đã làm, thì ngày nay chúng ta đâu còn nhắc đến tên Yêu Ly, Khánh Kỵ, Khấu Tố. Đem quãng đời của trăm năm đổi được cái danh trong nghìn thu, ngoài nghìn thu, như thế tưởng đã lời lắm lắm. Yêu Ly bảo rằng mình bất nhân, bất nghĩa có thể cho là đúng, còn bảo là bất trí thì thật không đúng. Đem cái vũ dũng của mình để làm những việc kinh dị kia, Yêu Ly hẳn đã nghĩ kỹ vậy.
     
  2. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Thanh Liêm


    Tham là một bệnh lớn nhất trong thiên hạ và dễ mắc hơn tấc cả các bệnh, cho nên Thanh Liêm là một đức quí nhất và cũng khó rèn luyện nhất trong các Đức. Tuy vậy, người vẫn còn để lại nhiều gương sáng cho đời soi. Như Công Nghi Hưu thời Chiến Quốc, là một. Công Nghi Hưu làm tướng nước Lỗ, tánh rất thích ăn cá. Nhưng, một hôm, có người đem cá đến biếu. Ông lại không nhận. Người em ngạc nhiên hỏi, ông đáp: - Người ta đem cá cho chắc có ý muốn cầu ta việc gì. Nếu ta nhận thì ta phải giúp việc cho người. Giúp việc cho người, lỡ trái phép nước thì đến mất quan. Mà mất quan, thì chẳng những không có cá biếu, đến cả cá mua cũng không có nữa. Không nhận cá chính ta muốn có cá ăn hoài vậy.
     
    Như thế là Thanh Liêm. Nhưng bằng theo lời nói trên đây xét thì lòng Thanh Liêm của Công Nghi Hựu không tuyệt đối, vì còn sự cân nhắc lợi hại, thiệt hơn. Chưa bằng Dương Chấn đời Hậu Hán. Dương Chấn tiến cử Vương Mật ra làm quan. Sau đó Dương công được bổ đi làm Thái Thú Đông Lai, đi ngang qua đất Xương Ấp là nơi Vương Mật cai trị. Nhớ ơn đề bạt ngày xưa, Vương Mật xin đến yết kiến rồi đêm khuya đem vàng đến dâng Dương công. Công từ chối và bảo: - Trước kia biết ông là người khá, tôi mới tiến cử ông. Thế mà ông vẫn chưa rõ bụng, còn đem vàng cho tôi ? Vương Mật cố này ép, thưa: - Xin Ngài nhận cho. Đêm khuya không ai biết. Công liễm dung đáp: - Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết. Sao gọi rằng không ai biết? Vương Mật nghe nói xấu hổ bưng vàng lui ra.
     
    Tấm lòng của Dương Chấn thật sáng tỏ như mặt trời ban trưa. Nhưng chưa bằng lòng Tư Hãn đời Xuân Thu. Tư Hãn làm quan giữ thành nước Tống. Có người được viên ngọc đem biếu, Tư Hãn không nhận. Người biếu ngọc thưa: - Ngọc này tôi đã đem cho thợ ngọc xem. Quả là thứ ngọc báo mới dám đem dâng Ngài. Xin Ngày nhận cho tôi được vui lòng. Tư Hãn đáp: - Nhà ngươi cho ngọc là của báu, ta cho tánh không tham là của báu. Ngươi đem ngọc cho ta, nếu ta nhận, thì hai bên điều mất của báu. Âu là ngươi cứ đem về. Của báu ai nấy giữ. Như thế cả hai đều còn của báu, thì chẳng hơn sao ? Người biếu ngọc cúi đầu thưa: - Chúng tôi là thường dân mà giữ ngọc báu thì e không tránh khỏi trộm cướp, mà có khi còn bị hại đến thân. Tư Hãn bèn lưu người biếu ngọc ở lại. Đoạn tìm thợ đến dũa ngọc rồi đem bán lấy tiền trao cho người chủ ngọc mang về.
     
    Tấm lòng của Tư Hãn vừa liêm khiết vừa nhân hậu và cách xử sự kia cao đẹp không chi bằng! Làm quan mà được như Công Nghi Hựu, như Dương Chấn, trên đời kể không được nhiều lắm. Đến như Tư Hãn thì xưa nay e chưa có người thứ hai. Mà xưa nay nhiều người lầm tưởng rằng đức Liêm chỉ cần cho người có quyền có thế. Cho nên chỉ nghe nói đến quan Thanh Liêm chứ không nghe nói đến dân Thanh Liêm. Thật ra Thanh Liêm là thu liễm lòng tham lại để cho phẩm hạnh được trong sạch, thì riêng gì người làm quan, người có quyền có thế mới có đức Liêm. Và người Liêm chẳng những không tham lợi, mà đến danh cũng không tham. Gặp phú quí mà không phải đạo thì người Liêm nhất định không nhận. Như người bán thịt dê ở nước Sở thời Xuân Thu.
     
    Người bán thịt dê ấy tên là Duyệt. Vua nước Sở là Chiêu Vương bị giặc đánh phải bỏ nước chạy, người bán thịt dê cũng chạy theo. Sau vua Chiêu Vương lấy lại được nước, bèn thưởng cho những kẻ tòng vong. Người bán thịt dê cũng ở trong đám được thưởng. Ai nấy đều nhận, chỉ có người bán thịt dê từ chối, nói rằng: - Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay nhà vua lấy lại được nước, tôi được trở lại nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ, đủ ăn rồi, còn đâu dám mong thưởng nữa. Nhà vua cố ép. Người bán thịt dê thưa: - Nhà Vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Nhà Vua lấy lại nước không phải là công tôi, nên tôi không dám lãnh thưởng. Nhà Vua bảo: - Để rồi ta đến nhà của ngươi chơi vậy. Người bán thịt dê đáp: - Theo phép nước Sở, người nào có công to, được trọng thưởng thì Vua mới đến nhà. Nay tôi xét bản thân tôi, mưu trí không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào nước, tôi lánh nạn, phải theo nhà Vua, chớ có phải cốt theo giúp nhà Vua đâu. Nay nhà Vua bỏ phép nước, đến chơi nhà tôi, e thiên hạ nghe thấy chê cười vậy.
     
    Vua Chiêu Vương nghe nói quay lai bảo quan Tư Mã Tử Kỳ rằng: - Người hàng thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào mời ra nhận chức Tam Công cho ta. Người hàng thịt dê nói: - Tôi biết chức Tam Công quí hơn nghề bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám ham tước lộc mà để Vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi thực không dám nhận. Xin cho tôi về giữ lấy nghề bán thịt dê của tôi. Nói đoạn lui ra ngay.
     
    Người bán thịt dê không nhận thưởng vì biết mình không có công cán gì, không nhận chức vì biết mình không có tài cán hơn người. Như thế thật là Liêm. Và đó là một tấm gương " dân liêm " vậy. Lòng liêm khiết của các nhân vật nói trên là không tham danh, không tham lợi do người khác đem đến. Cũng đã thật cao, nhưng chưa tuyệt cao. Lòng liêm của Duyên Lăng Quí Tử đời Xuân Thu mới thật là tuyệt. Duyên Lăng Quí Tử ở nước Ngô sang sứ nước Tấn, ghé qua chơi với Vua nước Từ. Vua nước Từ thấy Quí Tử mang thanh bảo kiếm, có ý muốn xin mà không muốn nói ra. Quí Tử đoán biết, định bụng sẽ dâng kiếm cho nhà vua sau khi lo xong sứ mệnh. Nhưng khi về qua nước Từ thì Vua Từ đã mất. Quí Tử toan trao cho tự quân. Kẻ tùy tùng ngăn lại, nói: - Thanh kiếm này là vật báo của nước Ngô, không phải thứ để tặng. Quí Tử đáp: - Không phải là ta tặng. Độ trước ta ghé lại đây, Vua Từ xem kiếm ta, tuy ý muốn, nhưng không nói ra. Vì ta còn phải đi sứ thượng quốc nên chưa dâng được. Tuy vậy bụng đã định cho. Nay Vua Từ mất mà ta không hiến thanh kiếm, thì ta tự dối lòng ta. Tiếc kiếm mà dối tâm người Liêm không chịu làm.
     
    Nói đoạn tháo kiếm trao cho tự quân. Tự quân nói: - Tiên quân không dặn việc ấy nên tôi không dám nhận kiếm. Quí Tử bèn đem kiếm treo nơi mộ Vua Từ rồi đi. Chao ôi! Liêm đến mức ấy thì thật quá đỗi cao, người đời không thể nào với tới. Chúng ta có thể theo kip chăng, hoạ may theo kip Công Nghi Hựu, Dương Chấn là hết sức ...Đã biết rằng không phải ai ai cũng có thể thành hiền, thành thánh, nhưng ai nấy đều có thể lấy hiền thánh mà tự kỳ. Tây triết có câu " Vouloir c''est pouvoir" nghĩa là " muốn thì được ". Chúng ta thử rủ nhau " muốn Liêm " xem sao.
     
  3. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Lòng Tham
    Có người hỏi một tu sĩ: - Trời sanh con người ra, sanh tánh nào trước? Tu sĩ đáp: - Tánh tham. - Sao biết? - Đứa bé vừa lọt lòng mẹ liền đòi bú. Cho bú đã vừa rồi, bà mẹ rút vú ra, đứa bé liền khóc vì còn tham bú nữa. Người kia vỗ tay cười: - Như thế lời của thầy Mạnh Kha : " Nhân chi sơ tánh bổn thiện" sai rồi sao? Tu sĩ ôn tồn đáp: - Phải nói "Nhân chi so tánh bổn tham" thì đúng hơn.
     
    Lời tu sĩ mới nghe thì có vẻ khôi hài, nhưng xét kỹ lại thì là chơn lý. Vì lòng tham của đứa bé cứ theo ngày tháng mà lớn dần. Tục ngữ có câu: "Hễ tham thì thâm, bụt đã bảo thầm, bảo đừng có tham". Bụt bảo thì bảo mà người tham thì tham. Và vì tham mà bị thâm, xưa nay thật không hiếm kẻ. Như vua nước Thục thời Đông Châu là một. Vua nước Thục có tiếng là tham lam. Vua Huệ Vương nước Tấn muốn đánh Thục, nhưng vì núi khe hiểm trở khó tiến binh. Huệ Vương lấy đá tạc hình một con trâu to lớn đem để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày sai người lén đem bỏ vàng sau đuôi trâu mà phao lên rằng : " trâu đá vãi phân vàng " . Tiếng đồn thấu tai vua Thục. Vua Thục liền sai xẻ núi, lấp khe và cho năm mươi người lực sĩ vào rừng kéo con trâu đá về. Vua Huệ Vương sẵn lối đi, đem quân sang đánh nước Thục. Nước Thục không đề phòng nên chưa đánh đã rã, nước bị mất, vua bị giết, để lại một trò cười cho nghìn sau.
     
    Rõ là: "Điều tham thật nhi vong, nhân tham tài nhi tử " . Lẽ xưa nay bao giờ cũng thế. Mà có tham thì tham vừa vừa, người ta còn chịu nổi, còn có thể chiều hay nể mà thoả mãn lòng tham của mình, chớ tham quá lắm , thì " tức nước phải lở bờ". Như chuyện Ngu Công yêu cầu ngọc, kiếm, trong Tả Truyện. Ngu Thúc là em Ngu Công có một viên ngọc bích và một thanh bửu kiếm vô cùng quí giá. Ngu Công muốn lấy ngọc, sai người đến cầu. Ngu Thúc ban đầu không chịu, sau hối lại, nói rằng: - Ngạn ngữ nhà Châu có câu :" Kẻ thường dân vô tội, vì giữ ngọc bích mà thành tội ". Ta dùng vật ấy làm gì cho sanh hại vào thân. Bèn đem vật dâng cho Ngu Công. Ngu Công được ngọc rồi lại đòi luôn cả kiếm. Ngu Thúc cả giận nói: - Như thế là con người vô liêm! Lòng tham không chán. Đã không chán, tất sẽ hại đến thân ta. Không trừ không được.
     
    Liền cử binh đánh. Ngu Công bị thua, chạy ra đất Cung Trì. Lữ Đông Lai bàn rằng: "Ngu Công vì tham lam mà mất nước. Ngu Thúc vì keo kiết mới đuổi vua. Một bên tham, một bên keo, tuy không đồng danh nhưng đồng tánh, vì cả hai bởi lòng yêu của mà sanh ra. Nếu Ngu Công biết lòng cầu kiếm của mình cũng như lòng giữ kiếm của Ngu Thúc, thì không đến nỗi tham lam. Và nếu Ngu Thúc biết lòng giữ kiếm của mình cũng giống như lòng cầu kiếm của Ngu Công, thì không đến nổi keo kiết. Vì không rộng lượng dung cho nhau nên trở lại tránh lẫn nhau, mới gây thành giận lớn.
     
    " Vậy nên làm thế nào ? " Xin đáp: " Nên dùng tham lam trị tham lam, nên dùng keo kiết trị keo kiết. Trong chí lý không có điều gì bỏ được, thì trong lòng người không có ý niệm nào trừ được. Nếu không có ý niệm tham lam và keo kiết , thì làm sao có sự keo kiết và tham lam được? Vậy thì đối với tham lam và keo kiết, không đáng cưỡng bách cho đừng có, mà cũng chẳng cần bảo là không nên có. Nếu lòng ta không còn vương vấn điều chi nữa, ngày ngày như tuyết như băng, thì tham lam hay keo kiết, điều nào không phải là chí lý? "Vả chăng, về việc thì có lành có dữ. Còn về ý niệm thì không có gì là dữ với lành. Ý niệm ấy gia vào việc lành thì gọi là " thiện niệm " , gia vào việc dữ thì gọi là " ác niệm ". Như vậy, về ý chỉ có một , nào phải là hai. Đời Chê Ngu Công là tham làm vì lòng thích cầu không biết chán. Nhưng nếu Ngu Công biết dùng ý niệm tham đó để cầu Đạo, khi bực " lập" chưa rồi đã cầu đến bực " quyền ", làm "hiền" chưa xong đã cầu "thánh". Như vậy có khác gì đức Khổng Tử " học hoài không biết chán " ư ?
     
    "Đời lại cho Ngu Thúc là keo kiết, vì lòng thích giữ của không muốn mất. Nếu Ngu Thúc biết dùng ý niệm keo kiệt đó để giữ Đạo, khi đạo sống thì sống với , vật dục không dời lòng được; khi Đạo chết thì sẽ chết theo, uy quyền không cướp đạo được. Như vậy khác gì Nhan Hồi " được điều lành mau ghi vào dạ, không để cho mất " ư ? "Vậy thì tham lam với keo kiết, trước là ác, sau là thiện, theo vật mà đổi tên, chớ nào phải hai ý niệm ".
     
    Lời bàn thật là cao siêu mà cũng thật là chí lý. Nếu ai cũng theo được lời dạycủa Đông Lai thì thiên hạ sẽ thái bình, bom nguyên tử sẽ trở thành vô dụng. Bởi vậy nên ít ai theo. Ít ai theo nên thiên hạ loạn lạc, bom nguyên tử chế tạo không ngừng. Có người lạc quan bảo rằng: - Thiên hạ loạn lạc, bom nguyên tử chế tạo không ngừng, đó là một cái may cho trần thế . Hỏi: - Vì sao vậy ? Đáp rằng: - Vì tranh giành cho thật kịch liệt, bom nguyên tử chế tạo cho thật nhiều, đến khi lòng tham nổi lên đến mức, làm bung nổ các bom nguyên tử đã chế ra một lần, thì lòng tham trong thế gian cũng sẽ bị hoàn toàn tiêu diệt cùng nhân loại. Chừng ấy sẽ không còn ai phải lo. Chớ bây giờ thì:
     
    Ếch kêu dưới vũng tre ngâm Ếch kêu mặc kếch, tre dầm mặc tre.
     
    - Tuy vậy đêm sâu có tiếng ếch kêu cũng đỡ buồn vì tăm tối.
     
     
  4. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Đức Nhẫn Nhục


    Ở đời nhuc là điều khó nhịn nhất. Cho nên có cầu rằng " Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục " nghĩa là " thà chịu chết, chớ không chịu nhục". Nhịn được những điều người ta không thể nhịn được, dung được những đều người ta không thể dung được, phải người độ lượng lớn, kiến thức cao, căn bản vững. Tô Đông Pha đời Tống nói rằng: - Kẻ mà gọi là hào kiệt tất phải có tiết khí hơn người. Nhơn tình có chỗ không thể nhịn được, nên kẻ thất phu gặp nhục thì tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Nhưng bậc đại dũng thình lình gặp những chuyện phi thường cũng không kinh, vô cớ bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão lớn, lập chí cao vậy.
     
    Vua nước Việt là Câu Tiễn đánh Ngô bị thua to. Vua nước Ngô là Phù Sai buộc Câu Tiển phải sang Ngô làm tôi tớ. Câu Tiển cùng bầy tôi là Phạm Lãi sang Ngô, vào ra mắt Phù Sai, trần vai áo sụp lạy dưới thềm, và nói: - Tôi là Câu Tiễn nước Việt, vì không biết sức mình đến nỗi đắc tội với Đại Vương, nay Đại Vương xá tội, cho được sang hầu hạ, thật cảm nghĩa vô cùng. Phù Sai truyền xây một thạch thất bên mộ của Hạp Lư, giam vua tôi Câu Tiển. Mỗi khi Phù Sai đi chơi, bắt Câu Tiển dắt ngựa. Người nước Ngô trông thấy, cười bảo nhau: - Kìa, vua nước Việt! Câu Tiển cứ cúi gầm mặt, không nói không rằng.
     
    Ở nơi thạch thất ngót hai năm, Câu Tiển lo việc giữ ngựa, hốt phân, quét chuồng, phải chịu không biết bao nhiêu sỉ nhục. May nhờ có Phạm Lãi sớm tối hầu hạ, không rời nửa bước, và luôn luôn kiếm lời an ủi, khuyến khích. Thấy Câu Tiễn lúc nào cũng rụt rè khúm núm, suốt ngày lo làm lụng như kẻ tôi đòi, Phù Sai khinh thường cho là kẻ khiếp nhược, ý muốn tha. Ngũ Tử Tư can: - Ngày xưa vua Kiệt giam vua Thang, vua Trụ giam Văn Vương mà không giết, đến lúc đạo Trời quay lại chuyện hoạ thành phước, vua Kiệt bị vua Thang đuổi, vua Trụ bị nhà Châu diệt. Nay Đại Vương giam Câu Tiển mà không giết, tôi e nước Ngô sắp có cái họa của nhà Hạ và nhà Thương đó.
     
    Nghe lời Ngũ Tử Tư nói phải, Phù Sai trở muốn giết Câu Tiễn, bèn sai người triệu vào cung. Câu Tiễn được tin, sợ hãi. Phạm Lãi nói: - Đại Vương đừng sợ. Vua Ngô giam Đại Vương đã ba năm mà không nỡ giết, huống chi bây giờ. Xin Đại Vương cứ an tâm vào yết kiến. Câu Tiễn vào chầu chực ngót ba ngày mà Phù Sai không lâm triều. Ngày thứ ba, kẻ cận thần là Bá Hi ở trong cung ra truyền cho Câu Tiễn trở về thạch thất. Câu Tiễn lấy làm lạ hỏi. Bá Hi đáp: - Đại Vương nghe lời Ngũ Viên định giết Ngài nên sai triệu đến, nhưng bỗng bị cảm hàn không thể dậy được. Vào thăm bệnh thấy thế tôi bèn tâu cùng Đại Vương rằng: " Muốn trừ hoạ phải làm phúc. Nay vua Việt chầu chực ở đây chỉ đợi ngày đem giết, lòng ta thán cảm động đến trời. Đại Vương tạm tha cho về thạch thất, đợi Đại Vương khỏi bệnh rồi sẽ định liệu". Đại Vương nghe lời của tôi tha cho Ngày trở về thạch thất đó.
     
    Câu Tiễn bái tạ, về thạch thất, ngót ba tháng vẫn không nghe tin tức của Phù Sai. Phạm Lãi bấm quẻ rồi nói: - Phù Sai không chết, đến ngày Kỷ tị thì bớt, qua ngày Nhâm thân thì khỏi hẳn. Bây giờ Đại Vương cố xin vào thăm, và phải nhẫn nhục nếm phân của Phù Sai rồi lại mừng mà nói kỳ khỏi bệnh. Đến kỳ bệnh khỏi thật, tất nhiên Phù Sai phải cảm ơn mà tha cho Đại Vương. Câu Tiễn ứa nước mắt nói: - Ta đây dẫu chẳng ra gì cũng là một ông vua, không lẽ phải chịu nhục nếm phân cho người ta sao? Phạm Lãi đáp: - Ngày xưa vua Trụ giam Văn Vương nơi Dũ Lý, giết con Văn Vương là Bá Ấp Khảo rồi làm mắm đem vào cho Văn Vương ăn. Thế mà Văn Vương vẫn chịu nhục, ăn thịt con. Ta muốn làm đại sự cần gì những điều nhỏ mọn. Vua Ngô tính nết đàn bà, không có lòng quả quyết, nay tha mai giết, nếu không dùng kế ấy đánh vào tình cảm thì làm sao thoát nạn được.
     
    Câu Tiễn gạt lệ theo lời, đến nói cùng Bá Hi: - Tôi nghe Đại Vương bị bệnh trong lòng hồi hộp, ăn ngủ không yên, xin Ngài cho tôi theo vào thăm cho trọn tình thần tử. Bá Hi nói: - Ngài có lòng tốt, xin đợi tôi chuyển tấu đã. Bá Hi vào yết kiến Phù Sai, thuật lại lời nói của Câu Tiễn. Đang lúc đau buồn bã, Phù Sai nghe nói động lòng thương bèn chấp thuận cho vào.
     
    Câu Tiễn vào gặp lúc Phù Sai " chột bụng", Câu Tiễn sụp lạy trước gường, thưa: - Khi tôi ở Đông Hải có học cách niếm phân mà biết được bệnh chóng hay chậm. Đoạn khoanh tay đứng chờ Phù Sai đại tiện xong, bước đến lấy tay bốc nếm. Nếm xong sụp lạy một lần nữa và tâu: - Tù nhân xin chúc mừng Đại Vương. Bệnh Đại Vương đến ngày Kỷ tị thì bớt, sang tháng ba vào ngày Nhâm thân thì khỏi hẳn. Phù Sai hỏi: - Vì sao biết được ? Tâu: - Y sư dạy tôi rằng phân là cốc vị, hễ thuận thời khí thì sống, trái thời khí thì chết. Nay từ nhân nếm phân Đại Vương thấy vị đắng mà chua, hợp với thời khí xuân hạ phát sinh, nên mới biết được.
     
    Phù Sai cảm động nói: - Câu Tiễn đối với ta thật hơn thần tử đối với quân vương. Ta chưa thấy ai chịu nếm phân để đoán bệnh bao giờ! Thấy Bá Hi đứng cạnh Phù Sai bèn hỏi: - Quan Thái Tể có nếm được không ? Bá Hi sụp lại đáp: - Tôi rất yêu Đại Vương, song việc này không sao làm được Phù Sai nói: - Chẳng riêng gì quan Thái Tể, cho đến Thái Tử của ta cũng không thể làm được việc ấy.
     
    Đoạn truyền tha Câu Tiễn, không bắt về thạch thất nữa, cho tự tiện tìm chỗ ở. Đợi khi nhà vua khỏi bệnh sẽ cho về nước. Câu Tiễn lại tạ lui ra. Từ ấy được thong thả, nhưng vẫn giữ việc nuôi ngựa như xưa. Rồi quả nhiên Phù Sai khỏi bệnh đúng như lời Câu Tiễn. Nhà vua cho rằng Câu Tiễn là kẻ tận trung với mình, truyền bày tiệc trên Vân Đài, cho Câu Tiển vào dự. Câu Tiễn vẫn khiêm tốn, ăn mặc theo lối tù nhân, Phù Sai truyền tắm gội và ban mũ áo. Câu Tiễn hai ba lần tạ từ rồi mới nhận. Phù Sai nói cùng các quan: - Câu Tiễn là người nhân hậu, ta không nên làm nhục lâu. Ta sắp tha tội cho về nuớc, nên nay tiếp đãi tử tế. Các quan mời Câu Tiễn vào tiệc. Ngũ Tử Tư tức giận ra ngoài. Sáng hôm sau vào tâu: - Hôm qua Đại Vương lấy lễ khách mà đãi kẻ thù, là nghĩa làm sao? Câu Tiễn là kẻ nham hiểm, bên trong chứa gươm đao, bên ngoài giả cách cung kính. Những người như thế thật đáng đề phòng. Sao Đại Vương không thấy cái hại về sau? Đại Vương bỏ lời trung thực, nghe lời nịnh bợ, nghĩ điều nhân nhỏ, nuôi kẻ thù lớn. Thật khác nào buông nắm lông trên than hồng mà mong cho lông khỏi cháy, ném quả trứng xuống đá mà mong cho trứng không bể là nghĩa gì?
     
    Phù Sai lắc đầu nói: - Ta bị bệnh đã ba tháng, quan Tướng Quốc không có một lời hỏi thăm, không có một lễ mọn dâng hiến. Còn Câu Tiễn bỏ nước sang đây, đem thân làm tôi tớ, chịu nếm phân ta để xét bệnh. Nếu quan Tướng Quốc bảo ta giết kẻ ấy thì còn gì nhân luân. Ta không muốn vì lời Tướng Quốc mà trở thành kẻ bất nhân bất nghĩa. Ngũ Tử Tư thưa: - Đại Vương xét việc như thế là lầm to! Khi con hổ thu mình lại thì tất muốn chụp mồi đấy, con ly rút cổ lại thì tất định đánh cướp đấy. Vua Việt vào làm tôi nước Ngô, lòng không thể không oán hận. Kẻ oán hận mà giữ được lòng kiên nhẫn thì thật là thâm độc. Bây giờ Câu Tiễn cúi xuống nếm phân của Đại Vương, nhưng chắc gì sau này không ngẩng lên để ăn bộ lòng của Đại Vuơng. Đại Vương không xét để mắc mưu kẻ thâm độc, thì thật là nông cạn lắm.
     
    Phù Sai nói: - Quan Tướng Quốc chớ nói nữa. Ý ta đã quyết, can ngăn có ích chi. Ngũ Tử Tư tức giận trở về dinh. Ba hôm sau, Phù Sai bày tiệc nơi Sà Môn, đưa Câu Tiễn về nước. Các quan triều thần đều đến chúc mừng. chỉ có Ngũ Viên không có mặt. Phù Sai bảo Câu Tiễn: - Ta cho hiền hầu về nước, hiền hầu nên nhớ ơn, chớ có đem lòng oán hận. Câu Tiễn sụp lạy, thưa: - Đại Vương không nỡ giết kẻ cô cùng, cho được sống mà về nước, đời đời tôi nguyện không dám quên ơn. Trời cao thăm thẳm soi xét lòng tôi. Nếu tôi phụ Ngô thì trời nào dung thứ.
     
    Phù Sai nói: - Người quân tử chớ có hai lời. Câu Tiễn sụp lại, nước mắt đầm đìa. Ai nấy đều cho là thật tâm quyến luyến. Phù Sai cầm tay Câu Tiễn đưa lên xe, và đứng trông theo cho đến lúc xe đi khuất. Năm ấy là năm thứ 26 đời vua Kính Vương nhà Châu. Câu Tiễn trở về nước ngày đêm lo việc phục thù. Phù Sai chẳng hề lưu ý đến, chỉ một mực kiêu ngạo và say đắm trong cuộc truy hoan...thành ra nước Ngô dần dần suy, nước Việt dần dần thịnh.
     
    Hai mươi năm sau Câu Tiễn cất binh đánh Ngô. Phù Sai đại bại bỏ kinh thành chạy đến Vu Toại. Câu Tiền đem quân vây bốn mặt, bắt Phù Sai phải tự tử. Thế là nước Ngô bị diệt và Câu Tiễn rửa được cái nhục thạch thất ở Cối Kê. Trước kia nếu Câu Tiền không chịu nổi cái nhục ấy mà tự sát, hay làm càn đến phải thiệt thân, thì nước Việt không mong gì khôi phục. Lòng kiên nhẫn của Câu Tiễn thật là phi thường. Mà sở dĩ có thể nhẫn nhục được đến thế là vì Câu Tiễn có hoài bão lớn, lập chí vững...
     
    Nhưng nếu không có Phạm Lãi, hỏi Câu Tiễn có giữ được chí lớn hay chăng? Câu Tiễn đã có lần nói cùng Phạm Lãi: - Ta nhẫn được bấy lâu là nhờ công của nhà ngươi. Đó là lời nói thành thật phát tự trong đáy lòng của Câu Tiễn. Cho nên sự nhẫn nhục phi thường của Câu Tiễn gốc ở Phạm Lãi vậy, và câu nói của Phạm Lãi :" Ta muốn cầu đại sự thì cần gì những điều nhỏ mọn " là một câu châm ngôn đối với những người muốn lập chí, và lòng kiên nhẫn của Câu Tiễn là tấm gương sáng cho những người muốn thành công, trong khi mưu cầu đại sự. Nhưng không nên quên mặt trái của chiếc huy chương.
     
  5. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Lễ Độ


    Quản Di Ngô lên làm Tướng Quốc nước Tề liền lấy LỄ, NGHĨA, LIÊM, SĨ làm tiêu chuẩn để trị quốc và đào luyện nhân dân, ông bảo:
     
    Lễ, nghĩa, liêm, sĩ Thị vị tứ duy. Tứ duy bất trương, Quốc nãi diệt vương.
     
    Nghĩa là: "Lễ, nghĩa, liêm, sĩ là bốn mép lưới. Bốn mép lưới không gương thẳng lên thì nước phải mất." Gọi Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ là bốn mép lưới, bởi vì bốn mép lưới là giềng mối của tấm lưới. Bốn mép lưới có gương thẳng lên thì những mắt nhỏ trong lưới mới tề chỉnh được, cũng như trong nước từ trên xuống dưới ai nấy đều theo đúng bốn tiêu chuẩn kia thì xa hội mới có trật tự, nước nhà mới yên vui. Bằng trái lại thì "quốc nãi diệt vong".
     
    Nhờ theo đúng chánh sách và chủ trương của Quản Trọng mà vua Tề làm bá chủ thiên hạ. Mà trong Tứ Duy thì Lễ đứng đầu. Vì sao vậy ? Vì những tánh táo bạo, lỗ mãng, thô bỉ, kiêu ngạo, khinh bạc ..., là những nguyên nhân gây lủng củng làm mất trật tự trong xã hội, đều bởi không học Lễ mà sinh ra. Cho nên Cổ nhân thường nói rằng: - Người trên có lễ thì kẻ dưới dễ bảo. Trị nước có lễ thì dân sợ không dám làm xằng. Nhưng người đời nay lại chỉ đem cái lễ phép dạy cho kẻ dưới khỏi thất lễ đối với người trên, mà không có ai khuyên người trên đối đãi với kẻ dưới nên cẩn thận nhiều về lễ độ, mặc dù kẻ trên thất lễ với người dưới rất thường, thường đến nỗi không còn ai lấy làm trái!
     
    Thất lễ là không biết trọng nhân vị của kẻ khác. Và theo thuật xử thế của người xưa thì người trên đối với kẻ dưới lại càng phải thận trọng về lễ phép nhiều hơn kẻ dưới đối với người trên. Bởi vì kẻ dưới sẳn có lòng sợ quở phạt đi kèm, nên ít khi dám bỏ quên chữ Lễ. Còn kẻ phú quí bị hoàn cảnh chi phối, thường sanh ra khinh bạc, kiêu căng tưởng rằng trên đời chỉ có giàu sang là đáng kể, nên đem lòng xem nhẹ kẻ khó nghèo. Thường bị khinh khi, kẻ dưới rất dễ bị phẫn khích vì những điều sơ xuất về lễ độ của người trên. Giận nhưng vì thất thế, đành phải nuốt giận, tạm bỏ qua. Người trên dù có biết cũng không điếm xỉa vì nghĩ rằng sự bất bình kia cũng chả có chi ảnh hưởng đến mình. Nhưng có ngờ đâu lại kết sinh ra những hậu quả rất tai hại. Như chuyện xảy ra giữa Tống Mẫn Công và Nam cung Trường Vạn.
     
    Nam Cung Trường Vạn là một đại tướng nước Tống, đánh giặc thua bị bắt về nước Lỗ. Sau Tống Mẫn Công xin tha về nước. Trường Vạn vào tạ ân Mẫn Công. Mẫn Công nói đùa: - Ngày trước ta kính trọng ngươi; bây giờ người là tên tù nước Lỗ, ta không kính trọng nữa. Nam Cung Trường Vạn thẹn đỏ mặt, cáo từ lui ra. Quan Đại phu Cừu Mục nói riêng với Tống Mẫn Công: - Vua tôi giao tiếp nhau, cần phải giữ lễ, không nên đùa bỡn. Đã đừa bỡn thì lòng hết mà lại sinh ra mối phản nghịch. Chúa công nên nghĩ kỹ đến điều ấy. Mẫn Công nói: - Ta với Nam Cung Trường Vạn là chỗ chí thân, cần gì điều ấy.
     
    Một hôm Mẫn Công cùng Trường Vạn ngồi đánh cờ nơi hoa viên. Trường Vạn thua luôn mấy ván, bị phạt uống một chung rượu lớn. Trường Vạn đã ngà ngà say, nài xin đánh thêm một ván nữa. Mẫn Công đáp: - Tù nhân thì tất phải thua, lại còn dám xin đánh nữa ư? Trường Vạn xấu hổ, ngồi nín lặng. Vừa lúc ấy có sứ giả nhà Châu đến báo tin vua Trang Vương thăng hà và vua Hi Vương kế vị. Mẫn Công nói: - Nhà Châu mới có vua mới, ta nên sai người vào chầu. Trường Van thưa: - Nghe nói kinh đô nhà Châu đẹp lắm, mà mắt tôi chưa được xem. Vậy xin chúa công cho tôi đi sứ. Mẫn Công cười đáp: - Khi nào nước Tống không có người mới sai tù nhân đi sứ.
     
    Các cung nhân đứng hầu, nghe nói, cười ầm cả lên. Trường Vạn thẹn quá, thét lớn: - Hôn quân! Người nên biết rằng đứa tù nhân này cũng có thể giết ngươi được lắm. Mẫn Công nổi giận, giật cây họa kích định đâm Trường Vạn, nhưng chưa kịp hạ thủ thì Trường Vạn vác bàn cờ đánh Mẫn Công ngã gục, rồi bồi thêm mấy đấm nữa chết tươi! Không chút hối hận, Trường Vạn giết luôn những kẻ phản đối rồi tôn người khác lên nối ngôi. Chuyện này xảy ra thời Đông Châu còn một chuyện nữa cũng có thể làm gương cho những người hay khinh xuất trong việc đối xử. Đó là chuyện Trịnh Linh Công và Công tử Tống.
     
    Công tử Tống là một người trong hoàng tộc của nước Trịnh, cùng công tử Quy Sinh phò vua Linh Công. Một hôm sắp vào triều thì ngón thực chỉ (tức là ngón tay trỏ) của công tử Tống lay động. Công tử Tống bèn giơ tay cho công tử Quy Sinh xem và nói: - Mỗi lần ngón thực chỉ của tôi lay động, thì trong ngày hôm ấy thế nào cũng được hưởng một món ăn lạ. Trước kia đi sứ nước Tần, được ăn bạch hoa ngư. Sau sang nước Sở, một lần được ăn thiên nga, một lần được ăn hợp long quất. Những lần như vậy ngón thực chỉ của tôi đều có báo trước. Hôm nay chắc chúng ta cũng được ăn món gì quí lắm đây. Rồi hai công tử cùng nhau vào triều. Khi đến nơi, nghe lệnh truyền đi gọi tể phu rất gấp, công tử Tống bèn hỏi. Kẻ nội thị đáp: - Có người ở Hán Giang về dâng một con giải nặng đén 200 cân. Chúa công truyền gọi đồ tể đến làm thịt đãi các quan đại phu.
     
    Vào chầu, hai công tử nghĩ đến sự lịnh nghiệm của ngón tay, thích chí, ngó nhau cười mãi. Trịnh Linh Công phán hỏi: - Hôm nay hai khanh chắc có chuyện chi vui? Công tử Quy Sinh bèn tâu rõ câu chuyện ngón thực chỉ của công tử Tống báo tin lành. Linh Công phán: - Ngón thực chỉ của công tử Công dẫu có lay động, nhưng linh ứng hay không là tùy thuộc nơi ta. Bãi chầu, công tử Quy Sinh bảo công tử Tống: - Thịt giải ngon lắm, nhưng nhà vua muốn bác bỏ cái điềm " thực chỉ lay động " mà không triệu công tử đến thì sao? Công tử Tống đáp: - Đã làm tiệc đãi các quan đại phu thì lẽ gì không triệu ta được.
     
    Quả như lời, công tử Tống được triệu. Vào triều thấy Quy Sinh, công tử Tống cười lớn và nói: - Tôi rõ biết chúa công đâu nỡ bạc đãi tôi. Rồi tiệc mở. Tể phu dâng trước lên nhà vua một dĩa thịt giải bốc hương. Nhà vua nếm thử, khen ngon, rồi truyền dâng cho mỗi quan một dĩa và một chung ngự tửu, bắt đầu từ bàn phía đông ra phía tây. Công tử Tống cùng ngồi với Quy Sinh ở cuối bàn phía tây. Khi tể phu dâng thịt đến đó thì tâu cùng Trịnh Linh Công: - Thịt giải chỉ còn có một dĩa mà số người lại còn đến hai, chẳng biết nên dâng cho người nào?
     
    Nhà vua phán: - Hãy dâng cho công tử Quy Sinh. Tể phu tuân lệnh. Nhà vua tiếp: - Ta định ban cho mỗi quan mỗi người một phần, nhưng rủi lại thiếu phần công tử Tống. Ấy bởi công tử Tống không có duyên ăn thịt giải, và sự lay động của ngón thực chỉ của công tử không hiệu nghiệm. Biết rằng nhà vua bày trò để gạt gẫm, công tử Tống vừa thẹn vừa tức, đẩy bàn đứng dậy, đến gần Linh Công, thò tay vào đĩa, lấy một miếng thịt giải bỏ vào miệng, vừa nhai vừa nói: - Ngón thực chỉ của ta bao giờ lại không linh nghiệm. Linh Công phẩn nộ, bỏ đũa nạt: - Công tử hỗn láo! Có lẽ công tử khinh nước Trịnh không có hình phạt để trị tội kể khi quân chăng?
     
    Các quan thất kinh, đều quì xuống xin tội cho công tử Công. Nhà vua bỏ vào cung. Các quan ai vào dinh nấy. Tối đến công tử Quy Sinh sang bảo công tử Tống: - Chúa công giận công tử lắm đó. Ngày mai vào chầu phải xin lỗi mới được. Công tử Tống đáp: - Hễ mình khinh người ta thì người ta khinh lại mình, sao lại còn nói đến lỗi phải?
     
    Từ ấy vua tôi bất bình nhau. Cuối cùng công tử Tống lập mưu giết Linh Công và tôn em Linh Công lên nối ngôi nước Trịnh. Trịnh Linh Công cũng như Tống Mẫn Công có ngờ đâu sự đùa bỡn của mình gây tai hại đến thế. Có người bảo rằng hai nhà vua vì ỷ chỗ thân tình mà không giữ lễ cùng kẻ bề tôi, chớ không có ý khinh thị. Bảo thế cũng có phần đúng, nhưng không đi sâu vào tâm lý con người. Thử hỏi: nếu Nam Cung Trường Vạn và công tử Tống là kẻ bề trên thì Tống Mẫn Công và Trịnh Linh Công có đám đùa cợt như thế không? Nhất định là không. Như vậy thì lòng khinh thị, lúc đùa bỡn, không có nơi ý thức của hai vua, nhưng vốn đã nằm ở trong tiềm thức.
     
    Cho nên những người đã thấm nhuần Lễ rồi thì luôn luôn thận trọng, không bao giờ chạm vào lòng tự ái của kẻ khác, và bất kỳ trong trường hợp nào cũng để bản ngã của mình ở sau kẻ khác, cũng biết châm chước việc làm của mình cho hợp với thiên lý và nhân tâm. Nếu ai nấy đều học Lễ và trong việc giao tế ai ai cũng lấy Lễ đối đãi nhau thì nhà yên, nước trị, thiên hạ thái bình. Quản Di Ngô để Lễ lên đầu tứ duy là vì việc đó.
     
  6. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Đãi Ngộ


    Người đời thường lấy danh và lợi để làm thân nhau. Do đó thường phản bội nhau. Nếu lấy nghĩa mà đối đãi nhau, thì lúc thường cũng như lúc biến, mới mong giữ vững được lòng thủy chung. Chuyện Trí Bá và Dự Nhượng đời Chiến Quốc là một bằng chứng cụ thể. Trí Bá là quan Thượng Khanh nước Tấn, cùng với Hàn Hổ, Ngụy Câu và Triệu Vô Tuất nắm quyền bính trong nước.
     
    Trí Bá muốn chiếm đoạn giang san nhà Tấn bèn hội bọn gia thần thương nghị. Bọn gia thần của Trí Bá có Trí Khai, Trí Quốc là thân thuộc của Hi Tì, Dụ Nhượng là thủ túc. Hi Tì nói: - Bốn quan khanh quyền lực bằng nhau, nếu chúng ta khởi sự, ắt ba nhà kia chống cự. Chi bằng trừ ba nhà kia trước rồi sẽ lo đến việc nước Tấn. Trí Bá hỏi: - Nên dùng cách nào để trừ ba nhà ấy? Hi Tì đáp: - Nay nước Việt đang thịnh, chiếm quyền bá chủ của nước Tấn. Ngài mượn cớ cất quân đánh Việt để giành lại quyền bá chủ cho nước Tấn, lại tâu cùng nhà vua bắt ba nhà Hàn, Ngụy, Triệu phải nạp vào công gia một trăm dặm đất để thu thuế nạp vào quân phí. Nếu họ chịu thì họ Trí ta được thêm đất, khí thế hùng cường. Bằng không chịu thì Ngài tâu xin nhà vua đem quân trừ diệt. Đó là kế "Muốn ăn quả phải bóc vỏ trước " vậy. Trí Bá khen hay rồi sai Trí Khai đến Hàn Hổ. Họ Hàn không dám chống cự, sai vẽ điạ đồ một trăm dặm đất, ngày hôm sau đem nạp cho Trí Bá. Trí Bá cả mừng bày tiệc thiết đãi.
     
    Rượu được vài tuần Trí Bá sai đem bức tranh vẽ Biện Trang Tử nước Lỗ đâm chết ba con hổ, cho Hàn Hổ xem và nói đùa: - Tôi thường xem sách, thấy các nước cũng có kẻ trùng tên với ngài. Như Tề có Cao Hổ, Trịnh có Hàn Hổ. Nay Tấn ta lại có ngài là Hàn Hổ. Lúc bấy giờ có Đoàn Quì là mưu sĩ theo hầu Hàn Hổ, đứng bên cạnh, nghe nói động đến chủ mình, bèn thưa: - Cứ theo lễ thì không nên động đến tên húy của nhau. Ngày nói đùa chủ tôi như vậy tưởng thất lễ lắm. Đoàn Quì thân ngũ đoản, đứng cạnh Trí Bá chỉ tới vú. Trí Bá lấy tay vỗ vào trán Đoàn mà nói: - Thằng bé này biết gì mà xen vào? Liệu có muốn miếng ăn thừa nào chăng?
     
    Nói xong vỗ tay cười ầm lên. Đoàn Quì đưa mắt nhìn Hàn Hổ. Hàn Hổ giả cách say, nói vài câu rồi cáo từ ra về. Trí Quốc hay việc ấy liền vào nói cùng Trí Bá: - Ngài đã đùa Hàn Hổ lại còn khinh bỉ Đoàn Quì, tôi e rằng việc này gieo vào lòng họ mối thù không nhỏ. Xin Ngài phải đề phòng. Trí Bá trợn mắt nói: - Tôi không hại người ta thì thôi, chứ người ta làm sao hại tôi nổi. Trí Khai thưa: - Loài ong, loài kiến còn hại được người, huống chi là bọn quân tướng. Ngài không phòng bị, e rồi hối không kịp. Trí Bá cười, nói: - Ta bắt chước Biện Trang Tử, một tay đâm chết ba con hổ. Lo gì những giống ong kiến.
     
    Ngày hôm sau Trí Bá lại sai người sang đòi cắt đất của Ngụy Câu. Ngụy Câu nghe lời mưu sĩ, đem một trăm dặm đất nộp cho Trí Bá. Trí Bá lại cho người sang họ Triệu đòi nạp đất. Triệu Vô Tuất nổi giận nói: - Đất phong là của tiền nhân ta để lại, ta há chịu đem nạp cho ai. Họ Ngụy và Hàn có đất thì cứ nạp, ta nhất quyết không theo thói du mị ấy. Trí Bá rất giận, sai người đến ước với họ Hàn họ Ngụy, hẹn hễ thắng được Triệu Vô Tuất thì đem đất họ Triệu chia làm ba. Hàn Hổ và Ngụy Câu vì sợ thế lực của Trí, lại ham đất đai họ Triệu, nên đem quân theo Trí Bá đi đánh Triệu Vô Tuất. Vô Tuất liệu không thể chống nổi với quân ba họ, bèn bỏ Triệu phủ sang thành Tấn Dương cố thủ. Quân ba nhà vây thành đến một năm mà không hạ nổi. Sau dùng đến kế đem nước sông vào thành làm ngập hết nhà cửa. Triệu Vô Tuất hoảng sợ. Mưu sĩ là Trương Mạnh Đàm dùng kế ra thuyết phục họ Ngụy và Hàn phản lại Trí Bá. Mạnh Đàm nói: - Hàn và Ngụy giúp họ trí là mong giết được họ Triệu để chia đất. Hai ngài quả chưa kịp nghĩ. Đất của tiên nhân mà họ Trí còn bắt hai ngài nạp, huống hồ đất của người khác. Sau này trừ xong họ Triệu, tôi e các ngài đã không chia được đất họ Triệu mà còn mất luôn đất của mình nữa. Nay đất họ Trí nhiều hơn đất họ Triệu, nếu Hàn và Ngụy muốn chia đất thì nên quay lại cùng chủ tôi diệt họ Trí. Đang lúc nguy ngập mà được Hàn Ngụy giúp sức, chủ tôi không lẽ nào phụ ơn.
     
    Hàn Hổ chưa quyết, bàn cùng Đoàn Quì. Nhân trước kia bị Trí Bá làm nhục oán hận chưa nguôi, nay nghe chuyện phản họ Trí, Đoàn Quì liền tán thành ngay. Hàn Hổ đến tham nghị cùng Ngụy Câu. Ngụy Câu cùng Ngưu Thần bàn tính mấy hôm rồi mới cùng Hàn Hổ và Trương Mạnh Đàm uống máu ăn thề, hẹn nửa đêm hôm sau ở ngoài phá đê cho nước rút lui. Ở trong quân Triệu kéo ra để cùng bắt Trí Bá. Đúng hẹn, Ngụy Câu và Hàn Hổ mật sai người giết chết quân giữ đê, khai cừ cho nước chảy về phía dinh trại của Trí Bá đóng. Trí Bá không đề phòng, bị nước ngập thình lình, quân sĩ chết vô số. Biết họ Ngụy họ Hàn phản mình, Trí Bá ngửa mặt lên trời than: - Ôi! Bởi ta không nghe Hi Tỳ nên mới đến nỗi này! Hi Tỳ đoán biết thế nào Hàn Ngụy cũng làm phản, nên đã nhiều lần khuyên Trí Bá phải đề phòng. Trí Bá không chịu nghe lời. Hi Tỳ bèn bỏ đi để khỏi mang họa. Lúc bấy giờ chỉ còn Trí Quốc và Dự Nhượng ở bên cạnh Trí Bá. Dự Nhượng liều thân cự địch để cho Trí Quốc bơi thuyền đưa Trí Bá đi trốn. Chẳng ngờ Trương Mạnh Đạt biết trước chận đánh, Trí Quốc không địch nổi bị chết và Trí Bá bị bắt sống.
     
    Dự Nhượng nghe tin, bỏ trốn vào Thạch Thất Sơn. Trương Mạnh đem Trí Bá nạp cho Triệu Vô Tuất. Vô Tuất kể tội rồi đem giết. Để tru diệt tộc đảng họ Trí, và để lấy đất đai của họ Trí chia cho nhau, Vô Tuất cùng họ Ngụy Hàn vu cho Trí Bá phản quốc. Nhưng vẫn chưa đã giận, Vô Tuất còn đem đầu lâu của Trí Bá dùng làm đồ đi tiểu. Dự Nhượng ở Thạch Thất Sơn hay được việc ấy, khóc lớn có than rằng: - Ta chịu ơn họ Trí rất nặng. Nay họ Trí đã bị diệt mà còn bị người ta làm nhục đến nắm xương tàn. Như thế ta còn mặt mũi nào sống nữa! Đoạn đổi tên họ, giả kẻ làm thuê, giắt dao nhọn vào dinh họ Triệu, chực ám sát Vô Tuất. Chẳng may việc bại lộ, Dự Nhượng bị bắt. Vô Tuất hỏi: - Ta không có thù gì với nhà ngươi. Cớ gì nhà ngươi lại mong làm hại ta?
     
    Dự Nhượng khẳng khái đáp: - Ta là bề tôi của Trí Bá. Vì họ Trí báo thù. Vô Tuất tự nghĩ: - Họ Trí đã bị diệt, thế mà Dự Nhượng vẫn nhớ ơn không bỏ. Kẻ trung nghĩa ấy, ta nỡ nào giết đi. Bèn tha Dự Nhượng. Dự Nhượng ra về, lo việc trả thù nữa. Sợ người biết mặt khó hành động, họ Dự xén râu, cạo chân mày và sơn mình, giả làm kẻ hủi, đi ăn xin ngoài chợ. Người vợ đi tìm chồng nghe tiếng, mừng rỡ chạy lại, nhưng ngơ ngác, lẩm bẩm: - Lạ thật, rõ là tiếng chồng ta, nhưng sao hình dung lại khác đến thế? Thấy vợ nhận biết được tiếng, Dự Nhượng bèn nuốt than hồng cho khản giọng, rồi luẩn quẩn ăn xin ở Tấn Dương để đợi thời.
     
    Một hôm dò biết Vô Tuấn sắp đến xem chiếc Xích Kiều mới bắt xong, Dự Nhượng bèn giắt dao lén đến núp dưới gầm cầu, đợi Vô Tuấn. Vô Tuấn vừa tới đầu cầu thì con ngựa kéo xe bỗng hí lên một tiếng rồi thối lui. Ai nấy đều lấy làm lạ. Vô Tuấn xuống xe bảo lục xem có vật gì làm cho ngựa sợ. Kẻ tùy tùng tìm kiếm khắp nơi rồi về thưa rằng chỉ thấy một tên hủi nằm dưới gầm cầu. Vô Tuấn bảo dẫn đến xem, thì tuy hình dung đổi khác, vẫn nhận ra được Dự Nhượng, bèn mắng rằng: - Khi trước nhà ngươi thờ họ Phạm. Họ Phạm bị họ Trí diệt, nhà ngươi tham sống theo thờ Trí Bá. nay họ Trí bị diệt, ngươi lại cố ý báo thù là nghĩa làm sao? Dự Nhượng đáp: - Khi trước ta thờ Phạm thị, Phạm thị đãi ta là chúng nhân, nên ta lấy lòng chúng nhân xử lại. Nay ta thờ Trí Bá, Trí Bá nhường cơm sẻ áo cho ta, đãi ta là quốc sĩ, nên ta cũng lấy lòng quốc sĩ mà xử lại. Hai bên khác nhau, so sánh thế nào được?
     
    Vô Tuấn nói: - Lòng nhà ngươi như sắt đá, không thể lay chuyển. Ta không thể tha nhà ngươi được nữa. Nhưng ta cho nhà ngươi được quyền xử lấy. Dự Nhượng ứa nước mắt nói: - Ngài tha cho một cũng đã quá lắm rồi. Tôi nghe kẻ trung thần không sợ chết, bậc minh chủ không bỏ điều nghĩa. Tôi hai lần báo thù cho chủ mà không được, lòng uất ức không bao giờ tan. Nếu ngài có nhân, xin cởi áo cho tôi đánh vào đó mấy cái, gọi chút nghĩa báo thù, thì chết cũng hả dạ. Vô Tuấn thương lòng nghĩa khí, liền cởi áo bào trao cho. Dự Nhượng cầm kiếm, trừng mắt nhìn vào chiếc áo như nhìn vào kẻ thù, rồi chuyển thần lực đánh vào áo ba lần, vừa đánh vừa hét. Đoạn trỏ gươm đâm vào cổ mà chết, Từ xưa đến nay ai cũng khen Dự Nhượng là người có đại nghĩa. Mà Dự Nhượng hết lòng với Trí Bá vì cảm ơn tri ngộ. Còn Trí Bá bị Hàn Hổ và Ngụy Câu phản vì thất lễ và vì lợi. Cho nên cách đãi ngộ là một yếu tố cần thiết và quan trọng nhất trong việc thu phục và củng cố nhân tâm.
     
  7. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Xét Người


    Cùng một việc làm như nhau mà động cơ và mục đích khác hẳn nhau. Như việc giết con của Thạch Thác, việc chặt chân của Dục Quyền mà chúng ta đã kể cho nhau nghe kỳ trước, và việc làm thịt con của Dịch Nha, việc tự thiến mình của Thụ Điêu, mà tôi xin kể sau đây: Thụ Điêu là đầy tớ yêu của Tề Hoàn Công. Vua Tề giao quyền chính cho Quản Trọng, ngày ngày ở trong cung mà vui cùng các cung phi. Để có thể vào nơi cung cấm đặng gần vua, Thụ Điêu tự thiến mình rồi xin vào cung hầu hạ. Tề Hoàn Công thương tình, cho hầu cận một bên.
     
    Lúc bấy giờ trong cung lại có một tên đầu bếp nấu ăn rất khéo tên là Dịch Nha. Dịch Nha tìm cách làm thân cùng Thụ Điêu và nhờ tiến cử. Thụ Điêu tâu cùng Tề Hoàn Công. Hoàn Công cho gọi đến, hỏi: - Ngươi có phải là kẻ nấu ăn khéo chăng? Dịch Nha tâu: - Tài ấy không ai sánh kịp. Hoàn Công nói đùa: - Các giống điểu, thú, trùng, ngư, ta đã dùng đủ. Chỉ có thịt người ta chưa biết vị mà thôi.
     
    Dịch Nha lui ra. Đến bữa trưa đem vào dâng một mâm thịt chín, mềm như thật dê non, mùi thơm ngát mũi. Hoàn Công ăn xong, hỏi: - Thịt gì mà ngon thế? Dịch Nha tâu: - Đó là thịt người. Hoàn Công thất kinh, hỏi: - Nhà ngươi lấy ở đâu? Dịch Nha tâu: - Trộm nghĩ đã trung với vua thì không kể gì tình nhà. Tôi có đứa con trai lên ba. Tôi đã làm thịt dâng cho Chúa Công nếm cho biết vị.
     
    Tề Hoàn Công cho rằng Dịch Nha có lòng trung nghĩa, nên từ đó có lòng yêu quí như Thụ Điêu. Thụ Điêu và Dịch Nha không ưa Quản Trọng, nên khi được vua tin dùng liền tâu: - Chúng tôi thiết tưởng quyền của bề tôi có hạn. Nay mỗi mỗi Chúa Công đều giao cho Quản Trọng, tựa hồ như nước Tề không còn có vua. Tề Hoàn Công vừa cười vừa đáp: - Ta đối với Quản Trọng chẳng khác thân thể và tay chân. Nếu tay chân mất thì thân thể bị tàn phế, hỏi còn dùng được việc gì? Chúng bay là tiểu nhân biết chi mà nói. Thụ Điêu và Dịch Nha không dám nói nữa.
     
    Còn Quản Trọng từ ngày bỉnh chánh đã làm cho nước Tề mỗi ngày mỗi thêm cường thịnh. Quản Trọng vẫn biết Thụ Điêu và Dịch Nha giết con và thiến mình, không phải vì lòng trung nghĩa, mà chỉ muốn được gần vua để mưu cầu lợi riêng, vẫn biết là hai tên gian thần nguy hiểm, nhưng không hề đả động tới. Đến khi Quản Trọng lâm bệnh nặng, Tề Hoàn Công đến thăm, cầm tay hỏi: - Trọng phụ bệnh nặng lắm, bất hạnh có điều gì, ta biết tin cậy vào ai? Quản Trọng tiến cử Thấp Bằng. Hoàn Công hỏi đến bọn Dịch Nha, Thụ Điêu, Quản Trọng đáp: - Chúa Công không hỏi, tôi cũng sắp nói: Bọn người ấy, Chúa Công không nên gần.
     
    Hoàn Công nói: - Dịch Nha làm thịt con đem dâng cho ta ăn, quí trọng ta như thế còn nghi gì nữa? Quản Trọng thưa: - Trời đã sanh ra loài người không gì quí hơn tình máu mủ. Nếu tình máu mủ mà nỡ dứt bỏ, thì con người ấy không thể thương ai đâu. Hoàn Công lại nói: - Thụ Điêu tự thiến mình để được gần gũi ta, ta tưởng tình quyến luyến ấy không còn gì phải nghi ngờ?
     
    Quản Trọng thưa: - Không thể quí trọng người khác hơn cơ thể mình. Cơ thể mà còn chưa quí, thì kẻ ấy còn quí ai. Ngoài Thụ Điêu và Dịch Nha ra, Hoàn Công còn một kẻ thân yêu nữa là Khai Phương. Hoàn Công hỏi Quản Trọng: - Khai Phương bỏ ngôi nước Vệ, theo hầu ta. Khi cha mẹ chết cũng không về chịu tang. Như thế là Khai Phương đã yêu ta hơn cha mẹ, còn nghi gì nữa? Quản Trọng thưa: - Cha mẹ mà bỏ để theo hầu người khác, kẻ ấy là một người ham danh lợi hơn tình thâm. Thêm nữa Khai Phương đương ở ngôi Thái Tử mà bỏ đi, là ý muốn có một địa vị cao hơn, chớ có phải vì yêu Chúa Công đâu. Xin Chúa Công chớ tin cậy.
     
    Tề Hoàn Công đáp: - Ba người ấy theo hầu ta đã lâu, sao đến bây giờ Trọng Phụ mới nói? Quản Trọng đáp: - Tôi không nói ra là vì tôi đủ sức chế ngự những kẻ gia nịnh. Nay tôi chết đi, cũng như bờ đê bị vỡ, nếu Chúa Công dùng họ sẽ bị họ lung lạc, gây tai biến cho quốc gia. Tề Hoàn Công thở dài rồi cáo biệt.
     
    Không bao lâu, Quản Trọng chết. Tề Hoàn Công theo lời trối của Quản Trọng giao việc triều chánh cho Thấp Bằng, nhưng chưa được một tháng thì Thấp Bằng cũng chết! Tề Hoàn Công cậy Bảo Thúc Nha thay Thấp Bằng. Thúc Nha từ chối. Hoàn Công nói: - Nếu khanh từ chối thì ta biết ủy thác việc nước cho ai? Thúc Nha tâu : - Tôi vốn là người không ưa kẻ nịnh, chắc Chúa Công cũng biết. Nếu dùng tôi, xin Chúa Công đuổi Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương đi đã. Hoàn Công nói: - Trước kia Trọng Phụ cũng có ý đó. Nay ta xin theo.
     
    Nội ngày hôm ấy nhà vua ra lịnh đuổi Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương, cấm không cho vào triều nữa. Thúc Nha bèn nhận lãnh chức Tể Tướng. Trong nước được yêu. Nhưng từ khi đuổi bọn Dịch Nha đi rồi, Tề Hoàn Công mất vui, lúc nào cũng có vẻ tư lự. Người ái phi là Trưởng Vệ Cơ khuyên nhà vua triệu bọn Dịch Nha về. Hoàn Công nói: - Thiệt ta cũng nhớ họ lắm, nhưng triệu về sợ trái ý Bảo Thúc Nha. Vệ Cơ đáp: - Thúc Nha đâu dám trái ý Chúa Công. Chúa Công đã già rồi, lẽ nào chịu buồn vậy mãi sao?
     
    Hoàn Công nghe lời triệu bọn Dịch Nha về, giao coi việc ngự thiện. Bảo Thúc Nha vội can: - Chúa Công đã quên lời trối của Trọng Phụ rồi sao? Hoàn Công đáp: - Ba người ấy có ích cho ta, mà chẳng có hại cho Quốc Gia. Lời Trọng Phụ nghiêm khắc quá! Thúc Nha can ngăn không được, uất ức, lâm bệnh từ trần! Bọn Thụ Điêu không còn kiên nể ai nữa, thông đồng với nhau tính việc chuyên quyền.
     
    Trưởng Vệ Cơ âm mưu cùng bọn chúng để lập con mình là Công tử Vô Khuy lên làm Thế Tử. Nhưng Tề Hoàn Công đã lập công tử Chiêu là con một người vợ khác rồi, nên bọn chúng luôn tìm cách hãm hại công tử Chiêu. Tề Hoàn Công bỗng lâm bệnh nặng, các ngự y điều không chữa khỏi. Bọn Thụ Điêu bèn bàn với nhau cấm không cho bất cứ người nào, trừ Trưởng Vệ Cơ và công tử Vô Khuy, vào trong cung và đuổi cả thị vệ ra ngoài. Chúng còn đắp một bức tường cao ba trượng chung quanh gường bệnh của Tề Hoàn Công và nghiêm cấm không cho người dòm ngó. Tề Hoàn Công nằm thiêm thiếp ít lâu rồi băng. Chúng không cho phát tang, ngầm đem binh giết công tử Chiêu rồi tôn công tử Vô Khuy lên kế vị. Các triều thần không chịu, các công tử khác con Hoàn Công không chịu nhượng, nhất định buộc phải chia nước Tề.
     
    Anh em tranh chấp nhau lâu ngày khiến thi thể Hoàn Công bị bỏ sình, mùa hôi thúi nực cả cung! Rồi từ đó nước Tề bị loạn và lần lần đi đến chổ diệt vong. Đó chỉ vì Hoàn Công không nghe lời Quản Trọng và Bảo Thúc Nha, đã tin dùng bọn nịnh. Không nên vội trách Tề Hoàn Công. Trong thời phong kiến, thử xét xem từ nghìn xưa đã được mấy ông vua không ưa kẻ nịnh? Huống nữa nịnh khéo thì có khác gì trung. Và thánh hiền dạy rằng: "Xét người không nên ở lời nói, mà phải xét ở việc làm". Những việc làm của Dịch Nha, Thụ Điệu có khác gì việc làm của Thạch Thác, Dục Quyền? Chính Tề Hoàn Công đã dựa vào việc làm của Dịch Nha, Thu Điêu...mà tin rằng chúng yêu mình chân thật.
     
    Xem chuyện Tề Hoàn Công lại có người bảo: - Muốn biết rõ được lòng người thì không nên căn cứ vào hành động mà nên xét kỹ động cơ thúc đẩy họ hành động, nghĩa là nên xét kỷ coi họ hành động như thế có mục đích gì. Nói thế đúng lắm, nhưng nếu Hoàn Công không đòi bọn Dịch Nha, Thụ Điêu...trở vào lại để chúng có cơ hội làm loạn quốc chính, thì ai đã dám quả quyết rằng chúng không thật bụng yêu Hoàn Công?
     
    Cho nên biết người, nhất là những người đại gian đại ác, không phải là việc dễ. Nếu không có con mắt sáng suốt, tấm lòng sáng suốt thì thế nào cũng phải lầm. Đến như Khổng Minh mà còn lầm Mã Tắc huống hồ những người trí não kém cỏi như phần đông chúng mình. Bởi vậy phải cẩn thận cho lắm mới được
     
  8. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Vì Nghĩa Công Quên Thù Riêng


    Người trong thế gian, trừ bậc thánh hiền, trừ bậc chân tu, phần đông có mối thù trong lòng, không nhiều thì ít. Chỉ khác nhau ở điểm là thù bộc lộ hay thù ngấm ngầm, và lòng bôn bức trả hay thong thả trả ...đó thôi. Và kẻ tiểu nhân thì vì thù riêng mà bỏ nghĩa công, còn người quân tử vì nghĩa công quên thù riêng. Vì thù riêng quên nghĩa công thì như Cự Đà nước ta, Dương Châm nước Tàu đã kể kỳ trước. Vì nghĩa công quên thù riêng thù như Lạn Tương Như thời Đông Châu Liệt Quốc.
     
    Lạn Tương Như là một xá nhân của viên hoạn gia quan nước Triệu tên Mục Hiển. Vua Triệu có viên ngọc dạ quang để ở chỗ tối, tự nhiên phát ánh sáng thay thế được đèn, để bên chỗ nằm ngồi, mùa đông có thể thay lò sưởi, mùa hè có thể thay quạt, trong vòng năm bước, ruồi nhặng không dám đậu gần. Vua Tần nghe tiếng, muốn đoạt, bèn lập kế, viết thư sang Triệu, yêu cầu mang ngọc đến sẽ đổi cho mười lăm thành liền ở đất Tây Dương. Vua Triệu biết rằng đem ngọc sang Tần thì ngọc mất mà thành cũng chẳng được, nhưng không đem ngọc sang thì tại sợ Tần gây hấn. Vua tôi còn đang bối rối thì Mục Hiển giới thiệu Lạn Tương Như là người đã có sức mạnh mà còn đa mưu túc trí. Vua liền đòi Tương Như đến vấn kế. Tương Như đem ngọc sang Tần, nếu được thành thì giao ngọc, bằng không thì nguyện bảo vệ viên ngọc cho đến cùng.
     
    Vua Triệu mừng rỡ, phong Tương Như làm đại phu mang ngọc sang Tần. Sang Tần, Tương Như dùng mưu đem được ngọc trở về Triệu mà vua Tần sợ tiếng bất nghĩa đành phải dẹp lòng tham. Vua Triệu cả mừng, phong Tương Như làm Thượng Đại Phu. Sau đó vua Tần vời vua Triệu đến hội kiến ở Mãnh Trì. Cũng nhờ Tương Như mà vua Triệu khỏi bị vua Tần làm nhục và vua Tần phải kính nể nước Triệu. Khi trở về nước, vua Triệu hết lời ban khen và phong Tương Như làm Thượng Tướng.
     
    Đại Tướng Liêm Pha bất bình, hằn học nói cùng kẻ bộ hạ: - Ta có công to đánh thành cướp đất, còn Lạn Tương Như chỉ lấy chút công ở đầu lưỡi mà thứ vị lại ở trên ta. Huống nữa hắn là một tên xá nhân của kẻ hoạn quan, xuất thân hèn mọn, ta đời nào chịu đứng dưới hắn. Cho nên hễ gặp mặt hắn là ta giết ngay. Lạn Tương Như nghe những lời ấy, luôn luôn tìm cách tránh mặt Liêm Pha. Những buổi triều đều cáo bệnh, và một hôm ra đường thấy xa giá của Liêm Pha đi đến, Tương Như bảo tên đánh xe tránh vào ngõ hẻm, đợi Liêm Pha qua khỏi mới ra đi. Bọn xá nhân thấy thế tức giận, xúm lại bảo Tương Như: - Chúng tôi bỏ hàng xóm, xa thân thích đến đây hầu Ngài, coi Ngài là bậc Trượng Phu. Ngày nay Ngài cùng Liêm Pha đồng phò một Vua, ngôi thứ lại ở trên, thế mà bị Liêm Tướng Quân nói một câu hăm dọa, Ngài đã chẳng dám vào triều, lại còn tránh mặt ở nơi đường sá. Tại sao Ngài lại sợ Liêm Pha đến thế? Chúng tôi xấu hổ thay cho Ngài, và hết muốn theo Ngài nữa.
     
    Tương Như buồn bã đáp: - Ta tránh Liêm Pha đâu phải vì sợ, mà vì một duyên cớ khác, các ngươi chưa hiểu đó thôi. Bọn xá nhân xin cho biết. Tương Như bèn hỏi: - Các ngươi xem Liêm tướng quân uy lực có bằng vua Tần không ? Bọn xá nhân đáp: - Không thể bằng được.
     
    Lạn Tương Như nói tiếp: - Uy lực của vua Tần, trong thiên hạ không ai dám chống. Thế mà ta dám công nhiên mắng vào mặt và làm nhục cả quần thần. Như thế ta lại sợ Liêm Pha hay sao. Nhưng ta nghĩ sở dĩ nước Tần sợ nước Triệu mà không dám xâm phạm là vì Triệu có ta và Liêm Pha. Nếu ta cùng Liêm Pha xung đột lẫn nhau, thì Tần ắt sẽ thừa cơ đánh Triệu vì xem trọng việc nước nên ta xem nhẹ thù riêng. Bọn xá nhân nghe đều kính phục. Cách mấy hôm, bọn xá nhân họ Lạn và bọn xá nhân họ Liêm gặp nhau ở quán rượu. Hai bên tranh chỗ ngồi. Xá nhân họ Lạn nói : - Chủ ta vì nước phải nhường Liêm tướng quân, thì chúng ta cũng vì ý chủ mà nhường khách của họ Liêm vậy. Liêm Pha được thể càng thêm kiêu ngạo. Trái lại Lạn Tương Như lại càng nhường nhịn thêm. Nhờ vậy mà không xảy ra sự xích mích.
     
    Được ít lâu có người ở Hà Đông tên Ngu Khanh đến chơi nước Triệu, nghe chuyện liền vào yết kiến nhà vua và tâu rõ mọi sự. Vua Triệu thất kinh nhờ Ngư Khanh tìm cách dàn xếp để nối lại mối hoà bảo giữa Lạn - Liêm. Ngu Khanh đến yết kiến Liêm Pha, trước hết ca tụng công đức của Lão Tướng. Liêm Pha mừng hớn hở. Ngu Khanh tiếp. - Kể công không ai bằng tướng quân, nhưng nói đến đức không ai bằng Lạn Tương Như. Liêm Pha cau mày nói: - Tương Như là kẻ hèn mạt, lấy chót lưỡi lập công nên danh, có gì mà gọi rằng đức?
     
    Ngu Khanh đáp: - Tương Như đâu phải kẻ hèn nhát. Nếu hèn nhát sao dám đương nhiên mắng vua Tần trước mặt quần thần. Chẳng qua vì nghĩ đến việc lớn mà nhường nhịn tướng quân đó thôi. Nói đoạn thuật lại những lời Tương Như đã nói cùng bọn xá nhân, và tiếp. - Nếu tướng quân không đặt mình vào nước Triệu thì thôi. Bằng đặt mình ở nước Triệu, mà hai vị Đại Thần, một nhường nhịn, một kiêu, tôi e tiếng tốt không về tướng quân đó. Liêm Pha hổ thẹn nói: - Nếu không có tiên sinh chỉ giáo, thì không bao giờ tôi thấy được điều lỗi của tôi. Tôi thật kém Lạn Tương Như nhiều lắm.
     
    Nói xong, tự cởi trần vai áo, cầm roi đến dinh Tương Như mà tạ tội: - Bỉ nhân hẹp hòi, không nhận thấy lượng khoan hồng của Tướng Quốc. Dầu chết cũng không xứng tội. Đoạn quì mọp giữa sân. Tương Như vội chạy đến đỡ dậy, nói: - Hai ta chung vai phò xã tắc. Tướng quân hiểu lòng cho như thế cũng là một ân huệ rồi. Xin chớ nên tị hiềm. Liêm Pha cảm ta: - Tôi vốn thô bạo, đội ơn Tướng Quốc bao dung, nghĩ lại lấy làm xấu hổ.
     
    Tương Như nói: - Không nên nghĩ đến chuyện cũ. Từ nay hai ta nguyện kết tình huynh đệ, dù chết cũng không đổi lòng. Lượng bao dung của Tương Như thật đáng kính, mà lòng biết hối ngộ của Liêm Pha cũng thật đáng khen. Cả hai đều là bậc quân tử. Đời nhà Đường cũng có một chuyện tương tự. Đó là chuyện Quách Tử Nghi và Lý Quang Bậc. Quách Tử Nghi và Lý Quang Bậc cùng làm phó tướng cho An Tử Thuận. Hai bên không ưa nhau. Nhiều khi cùng đi với nhau một xe, ngồi với nhau một tiệc, mà coi nhau như cừu địch, không ai nói với ai nửa lời. Sau Tử Nghi được lên làm Tướng Quốc thay Tử Thuận. Quang Bậc sợ Tử Nghi hại mình, mạnh dạn đến nói: - Phần tôi dù chết cũng cam, xin đừng hại đến vợ con tôi là kẻ vô tội.
     
    Tử Nghi vội chạy lại cầm tay thưa: - Tôi đâu dám đem lòng oán hận riêng mà hại ông. Hiện trong nước loạn lạc, Vua lo, tôi nhục, không ông thì ai gánh nổi việc thiên hạ. Vừa nói vừa khóc. Quang Bậc cũng khóc theo. Liền đó Quách Tử Nghi cất Quang Bậc lên chức Tiết Độ Sứ, cùng nhau chung lòng giúp nước, yên dân. Người đời khen là Sĩ Quân Tử.
     
  9. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Vì Thích Hạc Mà Bị Mất Nước


    Hạc là một giống chim hình dáng thanh nhã, lại múa khéo, hót hay. Vua Ý Công nước Vệ đời Xuân Thu rất ham thích giống chim ấy. Trong cung nuôi hàng nghìn con. Tất cả đều được phong hàm phẩm cấp lương bổng. Những con đẹp mhất được ăn lộc Đại Phu. Những kẻ chăn nuôi được ăn lương rất hậu. Triều đình phải đánh thuế nặng nào dân để đủ tiền cấp dưỡng cho hạc. Và mỗi khi Vệ Công đi chơi thì có đoàn hạc gọi là hạc tướng quân đậu bao quanh xe loan. Ngót chín năm trời ở ngôi, Vệ Ý Công chỉ biết có hạc là quí. Mãi đến khi nước Bắc Dịch kéo quân sang xâm lấn bờ cõi, Vệ Ý Công mới thất kinh, hạ lệnh gọi quân đi đánh giặc. Dân nước Vệ bỏ trốn hết. Ý Công sai quan Tư Đồ đi khắp nơi chỉ độ trăm người, đem về tra hỏi. Dân đáp: - Chúa Công chỉ dùng một giống vật cũng đủ dẹp được quân Bắc Dịch, hà tất phải gọi lính làm gì? Ý Công hỏi giống vật gì, thì dân tâu rằng giống hạc. Ý Công nổi giận quát mắng: - Hạc làm sao đánh được giặc? Các ngươi sao dám dùng lời khi quân? Dân vẫn không chút sợ sệt, đáp lại rằng: - Chim hạc không dám đánh được giặc thì là đồ vô dụng. Thế mà Chúa Công đã ban tước lộc cho giống vô dụng, còn kẻ hữu dụng thì lại bỏ rơi. Như thế bảo sao trong lúc hữu sự dân chúng lại không bỏ trốn? Ý Công tỉnh ngộ, dịu giọng nói : - Nay ta biết lỗi. Ta sẽ theo ý dân đuổi hết chim hạc. Hai vị trung thần là Thạch Kỳ Tử và Ninh Trang Tử tâu xin nhà vua thực hành ngay ý định. Ý Công sai người đánh đuổi hạc đi hết. Nhưng hạc đã quen nơi ăn chốn ở, cứ quanh quẩn không chịu đi khỏi cung. Thạch Kỳ và Ninh Trang phải thân hành ra giữa chợ giảng dụ dân chúng, nói rõ lòng hối hận của Ý Công. Dân chúng mới chịu nhập ngũ. Tuy vậy lòng oán hận vẫn chưa nguôi, nên lúc đi đường ba quân hát những câu thật uất ức.
     
    Hát rằng: Hỡi hạc! Hỡi hạc! ***g son cửa các, Lộc nước ơn vua. Ruộng lúa nương dưa Dân lo cày cấy. Hạc vui bay nhảy, Xuống ngựa lên xe, Dân cực trăm bề Vua nào hay biết ! Đến khi có việc Lại bắt tòng chinh! Đi phen này số phận mỏng manh!Đến khi ra trận, binh Vệ vẫn chưa được tập luyện, phần không có tinh thần chiến đấu, nên bị đại bại. Vệ Ý Công bị chết trong đám loạn quân và nước Vệ bị quân Bắc Dịch tàn phá! Vệ Ý Công vì hạc mà mất nước, ai nấy đều chê cười. Nhưng một danh Nho đời Tống là Lữ Đông Lai lại luận rằng: - Chưa dễ khinh Vệ Ý Công được! Vì người đời mỗi khi thấy đầu đỏ lông trắng, hai chân có sáu cạnh thì gọi là hạc, mà không thấy rằng nhưng kẻ sĩ ham phù hoa, thích phong cách cao đạo, kỳ thật trong trí óc không có gì, thì ngoài mặt hẳn là người mà trong lòng có khác gì giống chim hạc. Như lúc nước Tề thạnh vượng, nhà cao cửa rộng liên tiếp, thì vù vù như ong vỡ, cuồn cuộn như suối chảy, những hạng người đội mũ cao đeo gươm dài, khoát áo rộng thắt đai to, biện bác việc trời, tô điểm hình rồng, chí hướng dường vua Võ vua Thuấn. Nhưng đến khi xảy ra nạn Tề Mân Vương bị rút gân treo nóc nhà, nạn Tề Vương Kiến bị đày ra Cung Thành, bốn bề tòng bá, thì không có một ai ra tay đối phó! Như thế, bọn kia cũng chỉ là một bầy hạc của Vệ Ý Công mà thôi. Như lúc nhà Hán còn thạnh trị, những bậc văn hào chữ đẹp như dấu chân chim, như dấu trùng bò, tự khoe xuất chúng, ngày nào cũng tụ họp đông đầy, người nào cũng được ban tước phong quan, uy nghi, hiển hách, Ai cũng tưởng họ giúp nhà vua mưu cao kế sâu. Nào ngờ khi có giặc Huỳnh Cân, thiên hạ chấn động, lại không có một người dâng được một kế hoạch, không thấy một người hăm hở xông ra trước mũi gươm! Như thế, bọn kia cũng chỉ là một bầy hạc của Vệ Ý Công mà thôi. Như niên hiệu Vĩnh Gia đời Tấn, trong chốn Triều đình đầy rẫy những hạng người miệng lưỡi như suối chảy, ngày ngày uống rượu ngâm thơ, vui ngắm cảnh vật, tâm trí như đã thoát ra ngoài trần tục, phong độ dường ánh ngọc bích ngọc trai. Nhưng đến khi gặp phải nạn Ngũ Hồ thì lại để cho dân chúng lâm vào cảnh thịt băm trên thớt! Như thế, bọn kia cũng chỉ là một bầy hạc của Vệ Ý Công mà thôi. Như trong niên hiệu Phổ Thông (đời Lương), những hạng người buổi sớm cầu Kinh Phật, buổi tối giảng Đạo Lão, dân chúng ngồi chung quanh nghe bác bỏ nhau, vấn nạn nhau, gây thành phong tục một nước. Rồi ngày kia, bị Hầu Cảnh dấy binh hãm tại Đài Thành, các sĩ phu trong triều đeo thói kiêu căng quen thân biếng nhác, không biết cầm gươm cưỡi ngựa, đành phải bó tay chịu chết. Như thế, bọn kia cũng chỉ là một bầy hạc của Vệ Ý Công mà thôi. Xem qua vài nước và xét đến những nhân vật ngày thường được tin dùng, thì nhận thấy lời lẽ của họ, dung nghi của họ trong khi luận bàn hay thu tiếp, kể cũng đáng khen đáng mến lắm. Nhưng đến khi có quốc nạn, họ lại sửng sốt kinh hoàng, thì thử hỏi bọn ấy có hơn bầy hạc của Vệ Ý Công là bao nhiêu? Vậy tại sao dám khinh dễ Ý Công của nước Vệ? Bị đem ra dùng không phải là kẻ được nuôi dưỡng hàng ngày, kẻ được nuôi dưỡng hàng ngày lại không đem ra dùng! Cho người thân được nương vào chốn an ninh, buộc kẻ sơ ra nơi nguy hiểm. Cho người trên được hưởng lợi, ép kẻ dưới phải chịu hại! Làm như thế có khi nào lại tránh được mối hoạ của Vệ Ý Công. Lại nghĩ rằng: Hạc là giống chim được ghi nơi Kinh Dịch, được truyền trong Kinh Thi, được tao nhân mặc khách quí mến, thế là không phải giống chim thường. Vậy mà khi Ý Công chở trên xe dành riêng cho các quan đại phu, thì dân trong nước trở ghét hạc như diều hâu, kên, ó. Đó đâu phải là lòng thương ghét trên dưới khác nhau, mà chỉ vì tội ở không đúng địa vị. Kìa hạc là giống chim xưa nay được quí trọng mà khi ở sai địa vị còn bị ghét dường ấy, huống hồ lũ chim khác mà đặt sai địa vị thì bị thù ghét đến ngần nào? Đó là lời trích dịch ở sách Đông Lai Bác Nghị. Lời lẽ vừa vững chắc sâu sắc và tuy là văn nghị luận song vẫn có tiếng đàn ở ngoài dây tơ, Thật là ý vị. Và đó là chuyện bên Tàu. Bên ta cũng có một chuyện không kém phần " ngộ nghĩnh " . Rằng: Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, ở Hà Đông có một vị quốc cửu ỷ thế lộng hành. Quốc cửu có nuôi một con hạc, cổ đeo bài ngà khắc chữ: " Ai đánh chết phải thường mạng". Nhân dân địa phương bị hạc quấy nhiễu, đành bóp bụng thở than. Cầm cân công lý ở Hà Đông lúc bấy giờ là quan án họ Cao. Quan rất bất bình, nhưng vì phận thấp thế yếu, đành phải nhịn nhục chờ thời cơ. Một hôm hạc đến phá một trại kia, bị bầy chó săn cắn chết. Chủ trại sợ quá đến lạy quốc cửu, xin đem hết tài sản để bồi thường. Nhưng quốc cửu nhất định không chịu, ra lệnh cho quan án bắt giam người chủ trại để hành hình. Quan án bắt người chủ trại và bầy chó săn giam chung một chỗ. Nhân dân rất phẫn uất, và ai nấy cũng đều đợi ngày đưa ma. Nhưng suốt mấy hôm không thấy quan án xét xử, Quốc cửu cho người đến giục. Quan xin thêm vài hôm để thảo bản án cho được chết lý. Trong lúc ấy quan lén cho gia quyến về Thăng Long, và thuê một chiếc thuyền con chực sẳn nơi bến vắng. Đoạn cho dẫn người chủ trại cùng bầy chó đến công đường và cho thỉnh Quốc cửu sang. Sau khi hỏi cung theo thường lệ, quan tuyên quán:
     
    Hạc chi bội bài Khuyển bất thức tự. Cầm thú tương thuơng, Ư nhân hà dự ?Nghĩa là : Hạc tuy đeo bài, Chó không biết chữ. Cầm thú hại nhau Việc chi người dự
     
    Rồi tha bổng người chủ trại và bầy chó săn. Quốc cửu tức quá, về điểm binh sang vây bắt quan án, thì quan án đã trốn xuống thuyền đi thẳng về Kinh Đô, đem mọi việc tâu lên vua. Vua giáng chỉ hạ ngục Quốc Cửu và cho quan án trở về nhiệm sở cũ. Ai nấy đều mừng. Câu chuyện hạc Tàu và hạc Ta, " tướng " tuy có phần khác, song " tánh" và "dụng" vẫn như nhau. Và cả hai đều có " ý tại ngôn ngoại " , phải ngẫm nghĩ mới hưởng trọn cái hay.
     
     
     
  10. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Thuật Lãnh Đạo


    Xưa nay các bật tài trí muốn chung sức lại với nhau để làm việc lớn trong thiên hạ, thì trước hết phải tìm người lãnh đạo. Người lãnh đạo, tài trí nếu tuyệt luân thì đức hạnh toàn vẹn, và phải biết nghe lời phải, theo kế hay, thấy rõ người, dùng đúng chỗ. Bốn điều đó, cổ nhân gọi trong tám chữ là " ngôn thích, kế tùng, tri nhân, thiện dụng ". Thuật Lãnh đạo chỉ có tám chữ ấy. Hễ áp dụng triệt để thì thành công. Như Tề Hoàn Công biết rõ tài trí của Quản Di Ngô mà dùng làm tướng quốc, nghìn lời đều theo, nên dựng nên nghiệp Bá. Quản Di Ngô thường gọi là Quản Trọng, có người tiểu thiếp tên Tĩnh Nương, vừa thông minh vừa uyên bác. Vì vậy Quản Trọng đi đâu cũng đều đem nàng theo. Một hôm, Quản Trọng kéo quân đến núi Diêu Sơn thì gặp một người chăn trâu, mặc áo cộc, đội nón rách, vừa gõ sừng trâu vừa ca. Nghe tiếng ca, Quản Trọng biết không phải kẻ tầm thường, bèn khiến quân sĩ đem rượu thịt đến đãi. Người chăn trâu ăn xong nói. - Tôi muốn được yết kiến quan Tể Tướng. Quân sĩ đáp: - Xe quan Tể Tướng đi đã xa rồi. Vậy cứ ăn cho no, cần chi phải gặp mặt. Người chăn trâu nói: - Tôi có một lời muốn thưa. Quân sĩ nói: - Lời gì ? Nếu chỉ nói một lời thì bọn ta giúp cho cũng được. Người chăn trâu bèn đọc: - Hạo hạo bạch thủy. Quân sĩ đem lời ấy trình lên. Quản Trọng không hiểu ý nghĩa, bèn hỏi Tĩnh Nương. Nàng đáp: - Thiếp có nghe một bài cổ thi rằng:
     
     
    Hạo Hạo bạch thủy, Đằng đằng chi ngư. Quân lai triệu ngã, Ngã tương an cư.
    Nghĩa là:
     
    Nước trong ngời ngời, Cá lội thảnh thơi. Người đến đón rước, Ta về cùng người.
    Ý chừng người ấy muốn ra làm quan. Quản Trọng khiến xe dừng lại, sai người đến vời người chăn trâu. Người chăn trâu đến cúi đầu thi lễ, chứ không lạy. Quản Trọng hỏi tông tích. Người chăn trâu đáp: - Tôi là Nịnh Thích, người nước Vệ. Được nghe Tướng Quốc là kẻ ưa hiền, chuộng sĩ, nên tìm qua nước Tề để tiến thân. Ngặt không có người tiến dẫn, nên phải tạm chăn trâu cho người mà sống. Quản Trọng thử thách để xem trình độ học vấn, Nịnh Thích ứng đáp như lưu. Quản Trọng rất mừng, nói: - Kẻ hào kiệt lúc chưa gặp vận cũng khó thi thố tài năng. Đại binh của Chúa Công cũng sắp đến. Ta viết cho nhà ngươi một phong thư, mà ngươi an lòng ở đây mà chờ. Lúc Chúa Công đến, hãy xin yết kiến mà dâng thư, ắt được trọng dụng. Nói rồi viết thư trao cho Nịnh Thích. Nịnh Thích nhận thư ở lại Diêu Sơn chăn trâu như cũ. Ba hôm sao đại binh Tề Hoàn Công kéo đến. Nịnh Thích cũng gõ sừng trâu ca hát vang lừng. Trong câu hát có ý chê bai thiên hạ không có minh quân, hiền sĩ. Hoàn Công nghe ca, lấy làm lạ, kêu lại hỏi tên họ, quê quán. Nịnh Thích tâu: - Tôi người nước Vệ, lưu lạc đến đây. Nhà vua mắng: - Người là một đứa chăn trâu, sao dám chê bai thiên hạ? Nịnh Thích đáp: - Tôi đâu dám chê bai. Tôi chỉ tiếc rằng đời nay không có người hiền. Hoàn Công hỏi : - Sao ngươi dám nói rằng: " Đời thiếu minh quân ", trong lúc Thiên Tử nhà Châu đương trị vì thiên hạ, còn ta làm vua một nước chư hầu cường thịnh, trên phục tùng Thiên tử, dưới chế ngự chư hầu, đêm lại thái bình cho thiên hạ ? Nịnh Thích đáp: - Một minh quân tất phải biết mình biết người, rõ được thời bình, thấy được lúc biến, đem ân đức rải khắp nhân gian, lấy lòng nhân mà trị thiên hạ. Như nhà Châu hiện nay, vận nước mỗi lúc một suy, trong thì dân tình không phục, ngoài thì chư hầu không tuân, tài trị nước không có, sao gọi là minh quân? Đến như Chúa Công giết anh ruột mình mà cướp ngôi, mượn uy thiên tử để chế ngự chư hầu, nhưng chư hầu đều không phục. Như vậy sao gọi là cường thịnh? Tề Hoàn Công nổi giận mắng lớn: - Đứa thất phu, sao dám nói càn? Liền hô kẻ tả hữu bắt đem chém. Nịnh Thích không chút sợ hãi, ngước mặt lên trời than: - Ngày xưa vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỷ can, nay tôi cùng hai ông ấy chết, kể là ba người. Thấp Bằng vội đến tâu cùng Hoàn Công: - Người ấy, lời nói không dua mị, lòng không sợ uy vũ, chắc không phải kẻ tầm thường. Xin Chúa Công chớ nên giết. Tề Hoàn Công sực nghĩ lại, cơn giận liền nguôi, bước tới mở trói cho Nịnh Thích, và nói: - Ta thử nhà ngươi đó thôi. Nhà ngươi quả là người có khí phách. Nịnh Thích thò tay vào túi lấy phong thư của Quản Trọng dâng cho Tề Hoàn Công. Nhà vua tiếp thư đọc, rồi nói : - Nhà ngươi đã có bức thư của Trọng Phụ, sao không tâu trình cho sớm? Nịnh Thích đáp: - Tôi nghe nói vua hiền chọn người ngay, tôi trung chọn chúa có đức. Nếu Chúa Công ghét người thẳng, ưa kẻ nịnh, thì thà tôi chịu chết còn hơn đưa thư để được tận dụng. Hoàn Công rất đẹp lòng, truyền ngồi vào cỗ xe theo sau. Và đêm hôm đó đóng quân lại nghỉ, sai thắp đuốc, tìm mũ áo để phong chức tước cho Nịnh Thích. Tên gian thần là Thụ Điêu tâu: - Từ đây đến nước Vệ không xa. Xin Chúa Công đợi tới đó hỏi xem Nịnh Thích có phải thật là người hiền không đã rồi sẽ phong cũng không muộn gì. Hoàn Công nói : - Đã nghi thì không nên dùng, mà đã dùng thì đừng nên nghi. Giả sử trước kia Nịnh Thích có một vài lỗi nhỏ đi nữa, nay ta cũng không nên vì lỗi nhỏ mà bỏ phí một nhân tài. Nói xong, ngay đêm ấy, phong Nịnh Thích làm quan Đại Phu, lại khiến cùng Quản Trọng coi việc quốc chính. Nhờ có Nịnh Thích phụ tá Quản Trọng mà nước Tề mỗi ngày một thêm thịnh vượng và ngôi bá chủ của Tề Hoàn Công thêm vững bền. Nhưng đến lúc trở về già. Tề Hoàn Công không còn được sáng suốt. Không chịu nghe theo lời trối của Quản Trọng, không chịu nghe theo lời can gián của Bảo Thúc Nha, nhà vua đã tin dùng hai tên nịnh thần là Thụ Điêu và Dịch Nha, đến nỗi quốc chính loạn, nhà vua bị chết sình ở trong một xó tối và nước Tề đi lần lần đến chỗ diệt vong! Cũng thì một người, mà trước biết xét người, biết dùng người đúng chỗ, biết nghe lời phải, biết theo kế hay, lập nên bá nghiệp; sau vì không biết dùng người, không biết nghe lời phải, mà chẳng những làm hại cho bản thân, còn để lụy cho Tổ Quốc. Chẳng riêng gì một mình Tề Hoàn Công. Trong sử sách còn để lại nhiều tấm gương đáng soi. Ví dụ gương Lưu Bang và Hạng Võ. Nếu đem so tài so sức, thì Hạng Võ nghìn muôn lần vượt hẳn Lưu Bang. Thế mà Lưu Bang lại thắng Hạng Võ chỉ vì một bên tự cho mình là thần thánh, coi khinh cả mọi người, chê Hàn Tín là kẻ luồn trôn, không chịu nghe lời phải của Phạm Tăng chỉ thích nghe những lời mơn trớn của kẻ thù địch. Nhưng chớ vội chê. " Tri Nhân " không phải dễ. Chính Khổng Minh mà còn lầm Mã Tắc, huống những người không có tài trí như Khổng Minh. " Tri nhân " đã khó, mà " thiện dụng " lại còn khó hơn. Lưu Bang tuy đã biết rõ Hàn Tín có tài, nhưng nếu không có Trương Lương thì Hàn Tín đâu được dùng đúng chỗ. "Tri nhân, thiện dung " đã khó, mà " ngôn thính kế tùng " lại còn khó hơn. Bởi vì những kẻ trung trực, tài năng chỉ nhắm đến sự lợi ích chung cho nhân dân cho Tổ Quốc. Những cái ưa thích quá đáng của kẻ có quyền ưa thích ít được kẻ trung người tài tán thành. Một lần còn nhịn được, hai lần còn ráng nhịn được, ba lần đã hết nhịn được nhưng còn cố dằn, đến bốn lần thì lòng sân hận nổi lên, tất cả đều đổ xuống sông xuống biển ...! Tục có câu " Lời thật mích lòng ", " Trung ngôn nghịch nhĩ ". Cho nên khó lắm, khó lắm... Bởi vậy sử dụng tám chữ kia được chu đáo, tất phải là người sáng suốt, biết đặt sự lợi ích chung lên trên quyền lợi riêng. Các nhà lãnh đạo thành công xưa nay đều là những người nắm vững trong tay tám chữ ấy.
     

Chia sẻ trang này