1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những tấm hình đáng quí: Tư liệu lịch sử

Chủ đề trong 'ĐH Hàng Hải Việt Nam (VIMARU)' bởi hoaphonglan1911, 09/12/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoaphonglan1911

    hoaphonglan1911 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/11/2005
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    0
    Những tấm hình đáng quí: Tư liệu lịch sử

    Những tấm hình này do một người bạn của HPL đang định cư bên Hoa Kỳ tên là JENNIFER sưu tầm được và cung cấp. Những ghi chú dưới các tấm hình là do JENNIFER dịch từ nguyên văn tiếng Pháp, bởi vậy có thể có những từ ngữ do người Pháp sử dụng không được trung lập lắm.
    Tất cả các chữ mầu xanh lá là do HPL copy nguyên văn của JENNIFER

    Sở dĩ bây giờ người ta mới mạnh dạn phát tán những hình ảnh lịch sử này, là theo Luật Tác Quyền Quốc Tế, đến năm 2007, những hình ảnh này trở thành sở hữu công cộng sau 50 năm được bảo vệ như là tài sản trí tuệ...

    Vào thời đại phong kiến, chỉ cần nhìn mặt vua là cũng có thể rơi đầu, lý do: "muốn ám sát vua nên mới muốn biết mặt vua như thế nào mà thôi".
    Cũng nhờ vào cái lệ này mà xưa kia vua Lê Lợi đã thoát chết khi bị quân Minh vây. Chỉ cần vua mặc quần áo thường là có thể chạy thoát vì không ai biết mặt vua ra sao.

    Dưới thời Pháp thuộc, các ông vua Việt Nam đã trở thành những "tài tử" nổi tiếng để Pháp bán bưu thiệp, thời đó phải coi là "nhục quốc thể". Nhưng cũng "nhờ" vào đó mà ngày nay chúng ta mới biết được khuôn mặt của các vị vua.

    Nhà Nguyễn: 13 vị vua (hình số 2 là hoàng tử Cảnh, không được làm vua)

    1. Vua Gia Long (~?s?); miếu hiệu: Thế Tổ; thụy hiệu: Cao Hoàng Đế; húy: Nguyễn Phúc Ánh; vua đầu tiên của triều đại nhà Nguyễn (1802-1820); Thiên Thọ lăng:
    [​IMG]


    2. Hoàng tử Cảnh - con cả vua Gia Long (hình vẽ bên Pháp bởi họa sĩ Maupérin vào năm 1787)
    [​IMG]


    3. Vua Minh Mạng (~Z') - con thứ 4 của vua Gia Long; miếu hiệu: Thánh Tổ; thụy hiệu: Nhân Hoàng Đế; húy: Nguyễn Phúc Đảm (1820-1840); Hiếu Lăng
    [​IMG]

    "Đế Hệ Thi" của vua Minh Mạng dùng để đặt tên cho con cháu trực hệ nhà vua:
    Miên Hồng (Hường) Ưng Bửu Vĩnh
    Bảo Quý Ðịnh Long Trường
    Hiền Năng Khang Kế Thuật
    Thế Thoại Quốc Gia Xương



    4. Miếu hiệu: Hiến Tổ - thụy hiệu: Chương Hoàng Đế - húy: Nguyễn Phúc Miên Tông (1841-1847) - vua Thiệu Trị (紹治) - Xương Lăng.
    Hình chùa trong Xương Lăng
    [​IMG]


    5. Dực Tông - Anh Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883) - vua Tự Đức (-德) - Khiêm Lăng
    [​IMG]


    6. Cung Tông - Huệ Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Ưng Ái (1883) - vua Dục Đức (,德) - An Lăng.
    Hình lăng An lăng
    [​IMG]


    7. Nguyễn Phúc Hồng Dật (1883) - vua Hiệp Hòa ("'O): Nhìn vào tên húy Hồng Dật của vua, ta cũng có thể nhận thấy vua Hiệp Hòa và vua Tự Đức (Hồng Nhậm) là anh em với nhau.
    [​IMG]


    8. Giản Tông - Nghị Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Ưng Đăng (1883-1884) - vua Kiến Phúc (建福)


    9. Nguyễn Phúc Ưng Lịch (1884-1885) - vua Hàm Nghi ('o)
    [​IMG]


    10. Cảnh Tông - Thuần Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Ưng Kỷ (1885-1889) - vua Đồng Khánh (O.) - Tư Lăng.
    [​IMG]


    11. Nguyễn Phúc Bửu Lân (1889-1907) - vua Thành Thái (^泰)
    [​IMG]


    12. Nguyễn Phúc Vĩnh San (1907-1916) - vua Duy Tân (維-)
    [​IMG]


    13. Hoằng Tông - Tuyên Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Bửu Đảo (1916-1925) - vua Khải Định (.Ys) - Ứng Lăng
    [​IMG]


    14. Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (1926-1945) - Bảo Đại (保大)
    [​IMG]


  2. hoaphonglan1911

    hoaphonglan1911 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/11/2005
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    0

    Những tấm hình này do một người bạn của HPL đang định cư bên Hoa Kỳ tên là JENNIFER sưu tầm được và cung cấp. Những ghi chú dưới các tấm hình là do JENNIFER dịch từ nguyên văn tiếng Pháp, bởi vậy có thể có những từ ngữ do người Pháp sử dụng không được trung lập lắm.
    Tất cả các chữ mầu xanh lá là do HPL copy nguyên văn của JENNIFER
    [​IMG]
    Vua Gia Long sinh năm 1762, mất năm 1819, là con trai thứ ba của Nguyễn Phúc Luân, lên ngôi năm 1802, có 13 con trai và 18 con gái.
    Vua Minh Mạng sinh năm 1791, mất năm 1840, là con trai thứ tư của vua Gia Long, lên ngôi năm 1820 (ngày 1 tháng giêng âm lịch) vì người anh cả là hoàng tử Cảnh lúc đó đã chết (các anh thứ hai và thứ ba chết lúc còn nhỏ), có 78 con trai và 64 con gái.
    Vua Thiệu Trị sinh năm 1807, mất năm 1847, là con trai lớn của vua Minh Mạng, lên ngôi năm 1841 (ngày 1 tháng giêng âm lịch), có 29 con trai và 35 con gái.
    Vua Tự Đức sinh năm 1829, mất năm 1883, là con trai thứ hai của vua Thiệu Trị, lên ngôi năm 1847, vì không có con nên nuôi 3 người cháu. Cả ba sau đều lên làm vua; Dục Đức, Đồng Khánh và Kiến Phúc.
    Vua Dục Đức sinh năm 1852, mất năm 1883, là con trai trưởng (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi ngày 20 tháng 7 năm 1883 nhưng 3 ngày sau bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truất phế rồi giết chết, có 11 con trai và 8 con gái. Dục Đức, vì ở trên ngôi có 3 ngày, không có thời giờ chọn niên hiệu; Dục Đức là tên của dinh thự của vị vua này. Miếu hiệu và thụy hiệu về sau mới được tôn xưng.
    Vua Hiệp Hòa sinh năm 1847, mất năm 1883, là con trai thứ 29 của vua Thiệu Trị (tức là em của vua Tự Đức), lên ngôi ngày 30 tháng 7 năm 1883 nhưng 4 tháng sau bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết giết chết, không có con.
    Vua Kiến Phúc sinh năm 1869, mất năm 1884, là con trai thứ ba (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1883 nhưng 8 tháng sau thì bị bệnh rồi chết, mọi việc đều được lo bởi Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, không có con.
    Vua Hàm Nghi sinh năm 1872, mất năm 1943, là cháu gọi vua Tự Đức là chú (có cùng cha với vua Đồng Khánh nhưng vua Đồng Khánh là con nuôi của vua Tự Đức), lên ngôi năm 1884 nhưng bị Pháp truất phế 1 năm sau đó vì mưu lược chống họ, có 1 con trai và 2 con gái. Sau khi bị truất phế vua Hàm Nghi tiếp tục việc chống Pháp nhưng bị bắt vào năm 1888 và bị Pháp đày sang Algérie.
    Vua Đồng Khánh sinh năm 1864, mất năm 1889, là con trai thứ hai (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi năm 1885 nhưng sau 3 năm thì bị bệnh rồi chết, có 6 con trai và 3 con gái.
    Vua Thành Thái sinh năm 1879, mất năm 1955, là con trai thứ bảy của vua Dục Đức (người làm vua chỉ trong 3 ngày), lên ngôi năm 1889 nhưng bị Pháp truất phế vào năm 1907 vì chống lại họ, có 16 con trai và nhiều con gái. Vào năm 1916 vua Thành Thái (cùng con là vua Duy Tân) bị Pháp đày sang đảo RéUNI0N, nhưng được đón trở lại Việt Nam vào năm 1947.
    Vua Duy Tân sinh năm 1899, mất năm 1945, là con trai thứ năm của vua Thành Thái, lên ngôi năm 1907 nhưng chỉ lo việc chống Pháp nên bị họ truất phế và đày sang đảo RéUNI0N (cùng với cha là vua Thành Thái) vào năm 1916, có 3 con trai và 1 con gái.
    Vua Khải Định sinh năm 1885, mất năm 1925, là con trai trưởng của vua Đồng Khánh, lên ngôi năm 1916 với ý định hòa hoãn với Pháp, chỉ có 1 con trai.
    Vua Bảo Đại sinh năm 1913, mất năm 1997, là con trai độc nhất của vua Khải Định, lên ngôi năm 1926 trong khi đang du học tại Pháp nên về Việt Nam 6 năm sau đó, có 2 con trai và 3 con gái. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30 tháng 8 năm 1945 và giữ chức "Cố vấn tối cao" cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập, nhưng chẳng bao lâu lại từ chức đi sống tại các nước ngoài. Bảo Đại trở lại Việt Nam với chức vụ Quốc trưởng vào năm 1948 nhưng lại bị mất quyền sau một cuộc trưng cầu dân ý trong năm 1956.
  3. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Những hình ảnh này bên Box Lịch sử văn hoá đã post lên từ lâu rồi bạn ạ [topic]129824[/topic]

Chia sẻ trang này