1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những thiên tình sử mùi mẫn, lịch sử VN cũng thi vị ra phết các bác ạ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ctech, 06/08/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Mời các bác đọc bài thơ ?ohái sen trong mộng? của Nguyễn Du (bản dịch của Lưu trọng Lư)
    Hái sen trong mộng.
    Buộc chặt quần cánh ****
    Thuyền nhỏ, mái chèo bơi
    Hồ Tây nước đầy ắp
    Lung linh in bóng người
    Hái sen nào! Ta hái
    Chất tghuyền : hoa lẫn gương
    Hoa tặng người mình sợ
    Gương trao người minh thương
    Sáng nay đi hái sen
    Có rủ người bên xóm
    Chẳng hay người lỡ hẹn.
    Cách hoa : chợt tiếng cười
    Hoa sen ai chẳng mến
    Thương ngó dễ mấy người
    Ngó sen tơ chẳng dứt Tơ sen, vương vấn hoài.
    Hoa sen nét đầy đặn
    Lá sen màu tươi xanh
    Ngó sen, đừng chạm mạnh
    Năm sau hoa chẳng lành
    .
    Trong phần bình chú, Lưu Trọng Lư viết :
    ?oNguyễn Du như gượng nhẹ ngón tay, còn rành mạch chia làm bao nhiêu thứ : Hoa, gương, cuống rồi lại còn ngó nữa. Trong đó phần hoa như bộc lộ hết sự rực rỡ, màu sắc. Gương sen thể hiện sự trong trắng thầm kín, nhưng ngó sen mới là nơi tơ tình không dứt được, cứ vương vấn hoài : Đây mới là thực chất của sen ??.
    Khi Hồ Xuân Hương mất, mộ chôn cạnh tây Hồ, thường xuyên được mọi người yêu mến xuống hồ hái sen đặt trên mộ.
    Cuộc tình của Hồ Xuân Hương với Nguyễn Du có vẻ như là ? suy diễn, áp đặt của người đời.
    Sau đây là bài ?oCảm cựu kiêm trình? trong tập ?oLưu Hương Ký? mà mọi người hay nhắc đến khi đề cập đến chuyện tình Hồ Xuân Hương ?" Nguyễn Du
    Cảm cựu kiêm trình
    Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu
    (Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền Nhân)
    Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
    Mượn ai tới đây gửi cho cùng
    Chữ tình chốc đã ba năm vạn
    Giấc mộng rồi ra nửa sắc không
    Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
    Phấn son càng tủi phận long đong
    Biết còn mảy chút sương siu mấy
    Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong

    Trong TTVNOL, box Văn học đã có bài đề cập đến Hồ Xuân Hương và các mối tình. Các các có thể tham khảo ở đây http://news.ttvnol.com/vanhoc/132809/trang-2.ttvn
  2. ctech

    ctech Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/05/2003
    Bài viết:
    381
    Đã được thích:
    0
    Tò mò không biết bà Hồ Xuân Hương xinh xấu thế nào, mà đọc thơ thì thấy có vẻ kinh nghiệm phòng the đầy mình . Bác nào có tư liệu giải đáp cái nhỉ?
    Hôm qua vừa đọc mấy bài thơ trong 1 site nước ngoài tìm hiểu văn hóa VN, thấy giới thiệu là thể hiện nét văn hóa đặc biệt khác các nước Đông Á khác. Đọc 1 lúc mới ngớ ra là thơ Hồ Xuân Hương vì bản dịch cũng hơi chuối. Post lại cho các bác đọc xem có nhận ra thơ của Bà chúa thơ Nôm nữa không.
    ----------------
    On Sharing a Husband
    Screw the fate that makes you share a man.
    One cuddles under cotton blankets; the other''s cold.
    Every now and then, well, maybe or maybe not,
    once or twice a month, oh, it''s like nothing.
    You try to stick to it like a fly on rice
    but the rice is rotten. You slave like the maid,
    but without pay. If I had known how it would go
    I think I would have lived alone.
    ----------------------
    Jackfruit
    My body is like the jackfruit on the branch:
    my skin is coarse, my meat is thick.
    Kind sir, if you love me, pierce me with your stick.
    Caress me and sap will slicken your hands.
    --------------
    Weaving at Night
    Lampwick turned up, the room glows white.
    The looms moves easily all night long
    as feet work and push below.
    Nimbly the shuttle flies in and out,
    wide or narrow, big or small, sliding in snug.
    Long or short, it glides out smoothly.
    Girls who do it right, let it soak
    ------------
    Three-Mountain Pass
    A cliff face. Another. And still a third.
    Who was so skilled to carve this craggy scene:
    the ****rn''s red door, the ridge''s narrow cleft,
    the black knoll bearded with little mosses?
    A twisting pine bough plunges in the wind,
    showering a willow''s leaves with glistening drops.
    Gentlemen, lords, who could refuse, though weary
    and shaky in his knees, to mount once more?
    --------------------------
    Autumn Landscape
    Drop by drop rain slaps the banana leaves.
    Praise whoever sketched this desolate scene:
    the lush, dark canopies of the gnarled trees,
    the long river, sliding smooth and white.
    I lift my wine flask, drunk with rivers and hills.
    My backpack, breathing moonlight, sags with poems.
    Look, and love everyone.
    Whoever sees this landscape is stunned.
    Được ctech sửa chữa / chuyển vào 23:32 ngày 23/08/2004
  3. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Thái Học ?" Nguyễn Thị Giang
    Cuộc đời Nguyễn Thái Học nhiều người đã biết rõ, vì ông quá nổi tiếng. Lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng, làm nên cuộc khởi nghĩa Yên Bái vang lừng sử xanh.
    Ở đây chủ yếu nói về Nguyễn thị Giang và mối tình sâu đậm, mùi mẫn của 2 người. Cũng như trường hợp Lê Hồng Phong - Nguyễn Thị Minh Khai, chuyện tình của họ vừa lâm ly, vừa mang màu sắc lãng mạn của những người hoạt động cách mạng, cùng chung chí hướng.
    Nguyễn Thị Giang là liệt nữ của Việt nam Quốc dân đảng, sinh năm nào không rõ, người tỉnh Bắc Giang, vì thế 3 chị em bà được đặt tên là Bắc, Giang, Tỉnh. Giang là con thứ hai.
    Bắc, Giang, Tỉnh, là ba chị em ruột, con một nhà nho ở Phủ Lạng Thương tỉnh Bắc Giang. Vốn nhà thanh bạch, nhưng cả ba cô đều có công, dung, ngôn, hạnh hoàn toàn. Hai cô chị lại được học ít nhiều Hán văn, chữ Pháp theo hết bậc tiểu học. Cô Giang lại thông minh sắc sảo và tài ba hơn cô chị nhiều. Mặt hơi rỗ hoa, nhan sắc tuy không đẹp lắm, nhưng duyên dáng và lịch sự vô cùng. Vì nhà nghèo nên cô phải thôi học sớm, về làm nghề dạy trẻ em, nên người ta thường gọi là cô giáo Giang.
    Từ sau vụ ám sát Bazin, Nguyễn Thái Học đeo hai cái án xử vắng mặt với trát truy nã rất gắt gao đến các hang cùng ngõ hẹp. Nguyễn Thái Học luôn luôn phải hóa trang, khi khoác áo cà sa, đóng vai nhà tu hành khổ hạnh đi khuyến giáo, lúc khoác áo thương nhân đóng vai bác lái trâu, lái thuốc lào; hoặc anh nông phu vác cuốc vồ ra đồng làm ruộng; đôi khi còn hóa trang giả phụ nữ ra đồng nhổ mạ cấy lúa; Cũng có khi đóng vai ông lý Đình Dù vác chiếc ô rách đi chơi Kinh Kỳ thăm bà con họ hàng?
    Gặp bao hoàn cảnh khó khăn! Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng hăng say hơn bao giờ hết! Công tác chính là công tác kiện toàn lại Đảng tiến tới giai đoạn cấp bách Tổng khởi nghĩa. Vấn đề liên lạc luôn phải thay đổi đồng chí để tránh tai mắt nhòm ngó của mật thám. Nên từ đấy được ủy thác cho mấy nữ đảng viên: Đỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Tình, Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang... Cô Giang là nữ liên lạc đứng vào hạng xuất sắc nhất. Không những thế! Cô Giang còn là một nhà tuyên truyền giỏi, tổ chức được Binh đoàn Yên Bái, Binh đoàn này làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa đêm mồng 9 rạng mồng 10 hồi tháng 2 năm 1930.
    Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng mạnh mẽ trong thời kỳ ấy, một phần lớn là nhờ sự giúp đỡ của nhân dân; và cũng một phần phải nhờ ở tai mắt và sự khuyên ngăn khuyến khích của Nguyễn Thị Giang; và một đồng chí luôn luôn ở bên cạnh bảo vệ là Sư Trạch; hai người này là hai cánh tay của Nguyễn Thái Học vậy. Nhiều khi Thái Học phải cải trang tạm lánh ở vùng Hòa Bình, Ninh Bình, Phú Thọ, nơi rừng núi bao lao. Nguyễn Thị Giang luôn đem tin tứ cho Thái Học, và lại đem chỉ thị của Thái Học truyền đi các nơi. Bất cứ một công tác nào, dầu khó khăn đến đâu được Đảng trao phó, cô Giang đều thi hành có kết quả.
    Theo điều lệ VNQDĐ thì không kết nạo phụ nữ vào Đảng, mà chỉ có sự kết nạp vào Đoàn. Trường hợp Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang là một trường hợp đặc biệt. Vì trước ngày thành lập VNQDĐ hai cô Bắc Giang đã ở trong tổ chức cách mạng bí mật của cụ Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Giang. Đến khi cụ Nguyễn Khắc Nhu tham gia VNQDĐ thì lý đương nhiên cả tổ chức của cụ, cũng đều được tham gia VNQDĐ
    Một đôi trai tài gái sắc, lại cùng chung chí hướng, cùng cảnh ngộ, cùng có dịp gần gũi bên nhau luôn, nên chẳng mấy lúc đã nẩy lên những tiếng đàn đồng điệu. Họ đã cảm thông và đồng quan điểm như nhau, họ cảm thấy yêu nhau, và đã cảm thấy không thể xa cách được nhau.
    Một buổi chiều hè, trên đường từ Phú Thọ về miền xuôi, Nguyễn Thái Học cùng Nguyễn Thị Giang cùng ghé vào đền Hùng Vương để đàm với Phó Đức Chính, Lê Hữu Cảnh và Đặng Trần Nghiệp. Sau khi họp bàn xong, Học và Giang rủ nhau ra ngoài hóng gió.
    Đêm đã vào khuya, Lê Hữu Cảnh bước ra sân đền, với ý định gọi hai người vào ngủ. Cảnh thấy Thái Học vì quá mệt mỏi đã ngồi tựa lưng vào gốc cây ngủ say, bên cạnh cô Giang ngồi tay phe phẩy quạt xua muỗi và trông chừng. Lê Hữu Cảnh lặng lẽ quay gót vào mật bàn với Phó Đức Chính và Đặng Trần Nghiệp: có dịp thuận tiện nên yêu cầu Đảng bộ cho phép Học Giang được thành đôi lứa kết hôn.
    Một lần khác lại có dịp qua đền Hùng Vương. Thái Học cùng Cô Giang vào chiêm bái, trước bàn thờ Tổ, khói nhang nghi ngút, hai người cùng nhau thề thốt nặng lời. Thề thế nào cũng lấy nhau nhưng sẽ chỉ thành chính thức sau khi cách mạng thành công, và được Đảng cho phép. Thấy Nguyễn Thái Học đeo khẩu súng lục, cô Giang xin được đeo, để sau này nếu Nguyễn Thái Học có vì Tổ quốc mà mệnh hệ nào! thì Giang cũng quyết dùng khẩu súng này để chết theo!
    Nguyễn Thái Học (1904-1930)
    Không thành công thành nhân
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 23:05 ngày 31/08/2004
  4. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Thái Học - Nguyễn Thị Giang
    (Tiếp theo)
    Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại. Quay về Bắc Ninh, Bắc Giang, Nguyễn Thị Giang đang chuẩn bị việc đánh chiếm một đồng binh Khố Xanh để làm căn cứ địa; thì được tin Nguyễn Thái Học đã bị bắt, ban đầu cô còn nghi ngờ, vì rất có thể thực dân cho phao đồn tin ấy để trấn áp dư luận, khủng bố tinh thần những đảng viên còn thoát ở vòng ngoài, chứ chưa chắc đã là sự thực, cô Giang liền thu xếp mọi việc rồi tức tốc sang Hà Nội, tìm đến Lê Hữu Cảnh. Cảnh cho biết Nguyễn Thái Học bị bắt thực rồi! Ngoài anh Học ra, Sư Trạch, Phó Đức Chính, Nguyễn Như Liên cũng đều bị bắt hết.
    Nghe Lê Hữu Cảnh thuật lại xong, cô Giang nghẹn ngào gần như tắt thở. Cô rất lo cho tiền đồ của Đảng, vận mệnh của Tổ quốc. Tinh thần cô Giang trở nên khủng hoảng, bỗng dưng khóc! bỗng dưng cười! gần như một người mất trí, người điên! khiến các đồng chí của cô có mặt ở Hà Nội, phải tìm hết lời an ủi và tìm đủ mọi cách để bảo vệ tính mạng cho cô có thể ở yên Hà Nội, để gián tiếp thăm nom và giữ vững tinh thần cho Nguyễn Thái Học.
    Một ý nghĩ táo bạo thoáng xuất hiện trong đầu óc cô Giang, là phải làm thế nào để cứu thoát được Nguyễn Thái Học và các đồng chí bây giờ? Cô Giang đem ý định bàn với các đồng chí tổ chức một cuộc bạo động để cướp lại tự do cho Nguyễn Thái Học, cho các đồng chí và tất cả những đồng bào bị thực dân giam cầm trong ngục thất Hỏa lò. Trong ngục thất Hỏa lò, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bí mật viết một tờ báo lấy tên là "Tù nhân báo" để cổ võ tinh thần các đồng chí và tuyên truyền cách mạng trong các trại giam. Những vật liệu viết báo đều do tài vận động của cô Giang qua tay Giám thị và lính lê dương có phận sự canh gác ngục thất Hỏa Lò. Cô Giang còn tìm đủ mọi cách để giử quà bánh và thông tin tức ở ngoài vào cho Nguyễn Thái Học. Thái Học cũng luôn luôn gửi thư ra khuyến khích cô Giang nên tích cực hợp tác với các đồng chí ở ngoài để cải tổ phụng sự Đảng; hầu làm tròn sứ mạng giải phóng dân tộc ở tương lai.
    Đến chiều ngày 16 tháng 6, một đồng chí tất tả chạy đến báo cho cô Giang biế t: "Tối nay Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí sẽ bị đưa lên Yên Bái để hành hình."
    Tin đâu xét đánh ngang tai! Cô Giang lo lắng bồi hồi ngồi không yên mà đứng không yên! Đợi trời đổ tối, cô Giang giấu khẩu súng lục trong mình và mấy trái bom trong tay nải, rồi lẳng lặng cùng mấy đồng chí tìm những con đường vắng tiến ra ga Hàng Cỏ; nhưng không thể làm thế nào lên được trên xe lửa; sau nhờ có mấy đồng chí đốt than và thợ máy ngầm đưa quần áo cải trang, Cô Giang và mấy đồng chí mới lên được toa xe lửa. Dưới vòm trời đen tối, sương sa mờ mịt, gió lộng từng cơn, bánh xe lửa rít lên không gian im lặng, lòng Nguyễn Thị Giang càng se thắt lại. Cùng đi một chuyến xe mà không được gặp nhau, dầu chỉ được nói một câu thôi. Bao nhiêu tình yêu thương! bao nhiêu nỗi căm hờn! rồn rập cả vào tâm hồn nhà nữ cách mạng trẻ tuổi ấy. Hai giòng lệ trào xuống. Thôi thế là hết! chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Nguyễn Thị Giang mím niệng lắc đầu lảo đảo bước xuống ga Yên Bái.

  5. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Thái Học - Nguyễn Thị Giang
    (Tiếp theo)
    Nguyễn Thị Giang (Cô Giang ? - 1930)
    Trai đã trung thì gái phải trinh
    Trống điểm tàn canh, gà gáy rồn báo sáng. Nguyễn Thị Giang cùng hai đồng chí cải trang thành nông phu địa phương lặng lẽ tiến đến pháp trường.
    Trước sức mạnh của thực dân, hàng rào lính, cảnh binh và mật thám vây kín, không cho ai bén mảng đến gần. Nguyễn Thị Giang đành xen vào đứng lẫn trong đám người đến xem từ phía xa nhìn vào. Một lần nữa âm mưu phá pháp trường thất bại! Cô Giang cố nén nỗi căm hờn uất hận, không hề lộ ra nét mặt để một ai hay!
    Cô Giang đã chứng kiến suốt từ đầu đến cuối tấn bi kịch chém giết dã man tàn bạo của quân cướp nước. Còn sự đau đớn nào hơn mỗi khi nhìn thấy lưỡi dao phập xuống, đầu một đồng chí rơi, máu đào phun ra; rồi cuối cùng đến người mà mình tôn thờ yêu quý. Những giòng máu trong cổ tuôn ra là những mũi dao đâm vào con tim người Liệt nữ.
    Tấm thảm kịch hạ màn vào đúng hồi 5 giờ 35 phút sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930. Cô Giang cố gắng lấy lại bình tĩnh lặng lẽ bước theo đám người lui về nhà trọ, nằm vật xuống giường nghỉ ngơi chốc lát, rồi mua giấy bút viết hai bức thư "Tuyệt Mệnh" trên ba trang giấy trắng khổ hẹp bằng bút chì xanh, đề ngày 17 tháng 6, nguyên văn như sau:
    BỨC THỨ NHẤT :
    Thưa thày, mẹ,
    Con chết vì hoàn cảnh bó buộc con. Không báo được thù nhà, rửa nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở Đền Hùng.
    Giờ con tìm về chỗ quê cha đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con.
    Đứa con dâu bất hiếu kính lạy.
    Nguyễn Thị Giang

    BỨC THỨ HAI :
    "Anh là người yêu nước!
    Không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước!
    Anh giữ lấy linh hồn cao cả để về chiêu binh rèn lính ở dưới suối vàng!
    Phải chịu đựng nhục nhã mới có ngày mong được vẻ vang!
    Các bạn đồng chí phải sống lại sau anh để đánh đổ cường quyền mà cứu lấy đồng bào đau khổ".

    Thân không giúp ích cho đời!
    Thù không trả được cho người tình chung!
    Dẫu rằng đương độ trẻ trung,
    Quyết vì dân chúng thể lòng hy sinh;
    Con đường tiến bộ mênh mông,
    Éo le hoàn cảnh buộc mình biết sao!
    Bây giờ hết kiếp thơ đào,
    Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây!
    Dẫu rằng chút phận thơ ngây,
    Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên;
    Chết đi dạ những buồn phiền,
    Nhưng mà hoàn cảnh chuân chuyên buộc mình!
    Đảng kỳ phất phới trên thành,
    Tủi thân không được chết vinh dưới cờ!
    Cực lòng nhỡ bức sa cơ,
    Chết sầu chết thảm có thừa sót sa.
    Thế ru! Đời thế ru mà.
    Đời mà ai biết! Người mà ai hay!
    Nguyễn Thị Giang

    Viết xong hai bức tâm thư, cô Giang ra chợ mua mấy vuông vải trắng thắt ngang đầu, và ngay buổi chiều tối hôm ấy cô đáp xe lửa trở về Vĩnh Yên.
    Tờ mờ sáng hôm sau, cô Giang trở về làng Thổ Tang, vào mái nhà xưa của Nguyễn Thái Học, báo tin Thái Học đã bị hành hình; rồi lạy tạ cụ ông và cụ bà Nguyễn Văn Hách, giối giăng lại mấy lời tâm sự, tháo chiếc đồng hồ đương đeo tay tặng cho Nguyễn Văn Lâm, mặt sau đồng hồ có khắc chữ "G", rồi lững thững như người mất trí tiến ra cái quán bán nước trà xanh dưới gốc cây đề, tục gọi là xóm Mới thuộc xã Đông Vệ giáp quốc lộ số 2, cách làng Thổ Tang ngót một cây số.
    Ngồi uống bát nước trà xanh nghĩ đến tình nhà nợ nước, mà lòng đau xót chua cay, tinh thần cô rất là rối loạn; nhưng chí đã quyết định, cô liền từ biệt bà chủ quán ra đứng dưới gốc cây đề, hướng mặt về phía làng Thổ Tang, rút khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng Vương ra kết liễu đời mình; hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930 tức ngày 22 tháng 5 năm Canh Ngọ (22 tuổi).
    Một vụ án mạng, hương lý xã Đông Vệ cấp báo với tri phủ Vĩnh Tường. Phủ cấp báo lên tỉnh, Công sứ Vĩnh Yên đánh điện về sở mật thám Hà Nội.
    Thi thể cô Giang năm dưới gốc cây đề, bên cạnh có khẩu súng lục phơi sương nắng cho mãi đến hồi 16 giờ ngày hôm sau, bọn thực dân mới kéo nhau đến. Arnoux còm đem theo Thanh Giang và Nguyễn Văn Quý từ Hà Nội lên để nhận diện.
    Viện cớ khám xét, Chính quyền thực dân bắt lột hết áo quần cô Giang; khi khám xét xong không cho phép mặc lại; rồi hạ lệnh cho Tri phủ Vĩnh Tường cùng hương lý sở tại mai táng, chứ không cho phép gia đình Nguyễn Thái Học được làm phận sự ấy.
    Công sứ Vĩnh Yên lại ra lệnh bắt đào huyệt sâu hơn 3 mét, trên đắp thành nấm tròn, bắt dân sở tại phải làm điếm canh nơi gần mộ; cho mãi đến cuối năm 1930 mới bãi lệnh.
    Khách bộ hành qua đấy thường thấy phủ kín trên nấm mồ nhà nữ cách mạng Nguyễn Thị Giang những bó hoa tươi thắm, và những nén nhang khói tỏa nghi ngút suốt 5 canh. Một chiến sĩ vô danh thời ấy đã vịnh bài thơ:
    Sống nhục sao bằng sự thác vinh!
    Nước non cho vẹn kiếp chung tình.
    Lưỡi dao xử tử chàng không ngại!
    Tiếng súng quyên sinh thiếp cũng đành!
    Một tấm can tràng trời đất thảm,
    Ngàn thu vẹn tiết quỷ thần kinh
    Cuộc đời xá kể chi thành bại,
    Trai đã trung thì gái phải trinh!

    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 22:59 ngày 31/08/2004
  6. TruongLaoCaiBang

    TruongLaoCaiBang Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2002
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    0
    có 2 mối tình nữa nhưng mà cũng không nổi tiếng lắm :
    Đề Thám với bà vợ ba
    nàng Phi Yến với tổng Cai Vàng.
    tư liệu thì để tớ đi tìm đã, chả biết sách vở vứt đâu hết rồi.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hôm nọ vừa đọc trên ANTG số tết có chuyện này! Chuyện này thì em cũng đã nghe chương trình đọc truyện đêm khuya của đài tiếng nói Vn rùi! Giờ gửi lên đây cho các bác!
    Tình yêu của họ đẹp và bi tráng như một huyền thoại Trixtang và Idơ của Việt Nam những năm chống Mỹ. Gặp nhau trong phong trào đấu tranh, họ đã chờ nhau đằng đẵng 15 năm trong ngục tối của kẻ thù. Và số phận cá nhân gắn chặt với vận mệnh của toàn dân tộc. Họ đã sum họp cùng nhau ngay giữa Sài Gòn trong ngày đầu tiên thống nhất, với tư cách của những người chiến thắng?
    Hai nửa riêng chung
    Sau bốn lần bị bắt vì tội ?olàm *********?, năm 1950, ba của chị Nguyễn Thị Châu được tha về. Nhưng do bị bọn cai ngục liên tục thọc ống vào cổ họng rồi đổ nước vôi trộn xà phòng, ớt bột vào bụng và thi nhau giẫm lên, cái bao tử của ông đã bục nát, vô phương cứu chữa. Sau gần một tháng, ông mất. Nhờ được một ông chú trợ giúp, một năm sau Nguyễn Thị Châu mới có tiền đi học lại. Chị tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp, khóa 1955-1956 với số điểm cao nhất của tỉnh Biên Hoà, được đích thân tỉnh trưởng tặng phần thưởng: Một cuốn từ điển Larousse dày cộp và nặng trịch.
    Lẽ ra, với kết quả học tập đó, chị được quyền theo học trường áo tím Gia Long tại Sài Gòn. Nhưng chi phí theo học trường công quá cao, nhà nghèo không kham nổi, chị đành phải đổi qua học trường tư Văn Lang. Ngày đầu tiên nhập học, chị gặp anh Lê Hồng Tư, cũng cơ hàn không kém. Anh lớn lên ở An Lạc, Bình Chánh, Sài Gòn. Nhà nghèo đến nỗi cả hai cha mẹ anh chỉ có chung một chiếc? lãnh đen, ai có việc phải đi ra đường mới được mặc, còn người ở nhà thì cứ quanh năm bao bố, đệm bàng thay vải che thân. Học đến lớp nhì (lớp 5 ngày nay), anh phải nghỉ, lên Sài Gòn làm thuê rồi học nghề thợ tiện để kiếm sống. Sau năm 1954, để tránh bị bắt lính, Lê Hồng Tư xin vào làm ở Sở Hoả xa và học nghề vô tuyến điện. Trong thời gian đó, anh đã cố theo đuổi các lớp ?obồi dưỡng văn hóa? (tức học bổ túc) để hoàn tất chương trình trung học đệ nhất cấp. Do đó, đến năm 1956, Tư mới bắt đầu vào học đệ tam (lớp 9 ngày nay) cùng lớp với Nguyễn Thị Châu, dù anh sinh năm 1935, hơn chị 3 tuổi.
    Lúc đó, Lê Hồng Tư đã trở thành một hạt nhân của phong trào sinh viên-học sinh đô thị. Anh là người có kinh nghiệm đấu tranh khá phong phú. Chị là nữ sinh duy nhất đến trường với tà áo dài trắng giản dị bằng vải phin nội hóa, nhưng trong mắt Lê Hồng Tư, ngay từ cái nhìn đầu tiên, Nguyễn Thị Châu vẫn toát ra một vẻ đẹp vừa đài các, vừa chân thật đáng tin cậy. Bị thôi thúc bởi cả yêu cầu của việc tổ chức đấu tranh lẫn con tim một người trai mới lớn, Lê Hồng Tư đã? áp dụng ngay 5 bước liên hệ-điều tra-tuyên truyền lý luận-tổ chức huấn luyện đến ?ođấu tranh? để? tranh thủ cô hoa khôi của lòng anh. Một năm sau, khi đứng ra thay mặt Ban Thanh vận (sau nàt là Thành Đoàn) kết nạp Châu vào Đoàn TNCS thì Lê Hồng Tư hiểu rõ: trái tim anh đã hoàn toàn thuộc về chị.
    Sắp thi tú tài 1 thì Lê Hồng Tư bị lộ, buộc phải chuyển sang trường khác. Tìm mãi, anh vẫn không tìm được người thay mình ở lại Văn Lang lãnh đạo phong trào. Cuối cùng, duy mỗi chị là có thể khiến anh tin cậy? Chỉ có họ, hai người đang yêu mới hiểu nổi tại sao một cô nữ sinh học giỏi như chị lại có thể liên tục trượt tú tài hai năm liền?
    Cuối năm 1960, Nguyễn Thị Châu được Ban Thanh vận chỉ đạo giữ chức uỷ viên Ban cán sự, phụ trách phụ nữ. Ngày tiễn chị lên xe ra cứ nhận nhiệm vụ, anh thu hết can đảm hỏi chị một câu: ?oEm có bằng lòng làm vợ anh không? Chỉ một lời thôi: đồng ý hoặc không đồng ý??. Chị chưa kịp trả lời, xe đã lăn bánh. Anh cố hét vọng theo: ?oCòn sống, anh còn yêu em!?. Chị vũng cố nhoài người ra cửa: ?oEm sẽ chờ, đến ngày thống nhất??.
    Lời thề hẹn của họ, không ngờ chính là định mệnh.
    Những câu thơ trong hầm tối
    Bị lộ khi chuyển tài liệu ?oCương lĩnh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam-MTDTGPMN? cho một cơ sở, ngày 9-2-1961, Nguyễn Thị Châu bị địch bắt, đưa vài trại Lê Văn Duyệt. Sau 21 ngày thuyết phục, khủng bố tinh thần vẫn không ép được chị ?ochuyển hưởng?, những tên hung thần trong ?oĐoàn công tác đặc biệt miền Trung? của Ngô Đình Cẩn đã ném chị vào ngục tối P.42 ở Sở Thú. Đủ ngón tra tấn từ dùi cui, đánh đập, quay điện đến ?otàu lặn, tàu bay?, chúng vẫn không moi được từ chị nửa lời. Sau P.42 là Quân lao Gia Định rồi Hầm khói Thủ Đức, rồi lại trở về trại Lê Văn Duyệt?, đi đâu chị cũng một mực trung kiên, không chào cờ nguỵ, không chuyển hướng, không nhận tội. Mặc dù trên người chịu hàng trăm vết thương vì đòn tra, chị vẫn hát véo von những bài hát thời 9 năm kháng chiến. Sợ hãi, những tên đồ tể gọi cô nữ sinh nhỏ nhắn bằng? bà, đồng thời không tiếc tay hành hạ để trả thù. Trong xà lim cầm cố của nhà tù Phú Lợi (Biên Hoà), chúng chỉ cho chị 1 ngày 1 bát cơm gạo mục trộn muối mặn chát và với chỉ 1/3 lon nước cho cả uống lẫn vệ sinh. Không ăn thua, chúng đưa chị về Hầm khói Thủ Đức, nhốt xuống hầm sâu, dẫn ống dẫn khói nhà bếp vào khiến chị luôn nóng như ở trong lò thiêu và ho sặc sụa? Tại Quân lao Gia Định, Nguyễn Thị Châu đã được chị Bùi Thị Ngọc (phu nhân của Chủ tịch Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Huỳnh Tấn Phát) bồi dưỡng và báo cáo với chi bộ nhà tù, ra nghị quyết kết nạp Đảng đúng ngày Quốc khánh 2-9-1961.
    Trở thành đảng viên, sau đó là Bí thư chi bộ trại Lê Văn Duyệt, chị đã thiết lập được một đường dây bí mật nhận tin tức, chỉ thị từ bên ngoài đưa vào, lấy đó làm cơ sở để soạn tài liệu giúp anh em đồng chí ở trong tù học tập chính trị.
    Từ những tài liệu chuyển vào, chị biết được tin anh. Bằng những vũ khí tự tạo từ chiến khu đưa vào, Lê Hồng Tư đã cùng đồng đội gây ra hàng loạt tiếng nổ long trời ngay giữa đô thành Sài Gòn, tiêu diệt Đại tá công binh William Thomas-kẻ phụ trách việc mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất; đánh sập cư xá sĩ quan Mỹ tên đường Trần Hưng Đạo?Cũng chính anh là người đã vạch kế hoạch và tổ chức đánh bom vào xe Đại sứ Mỹ Feredric Nolting tại ngã tư Pasteur-Hồng Thập Tự trưa ngày 7-8-1961. Số phận đã giúp viên Đại sứ Mỹ thoát chết trong gang tấc: lon guigoz nhồi đầy thuốc nổ đã phá vỡ kính xe, nằm gọn trong lòng viên đại sứ nhưng vẫn không chịu nổ.
    Địch điên cuồng lùng sục, Lê Hồng Tư và một loạt đồng đội đã bị địch bắt. 1 giờ khuya ngày 25-4-1962, Toà án quân sự đặc biệt của chính quyền Ngô Đình Diệm đã kết án tử hình Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư, Lê Văn Thành và Huỳnh Văn Chính; 4 nguời khác bị kết án chung thân?
    Trước toà, 12 chiến sĩ bị gọi là ?oTổ chức võ trang khủng bố của Liên hiệp Sinh viên-học sinh Sài Gòn?, mình đầy thương tật đòn tra vẫn dìu nhau ngẩng cao đầu hát vang bài ?oGiải phóng miền Nam?. Từ chối luật sư bào chữa, họ đã biến phiên toà bù nhìn thành diễn đàn tố cáo tội ác của giặc Mỹ và bọn tay sai, được đồng bào hoan hô nhiệt liệt. Khi được nói lời cuối cùng, Lê Hồng Tư đã đanh thép tuyên bố: ?oChúng tôi chỉ tiếc không đủ lựu đạn để tiêu diệt hết bọn giặc Mỹ xâm lược?.
    Đau đớn nhưng cũng rất tự hào về anh, khi soạn tài liệu gửi đi khắp các buồng giam của trại Lê Văn Duyệt, chị đã gửi kèm theo câu nhắn: ?oLê Hồng Tư là vị hôn phu của tôi. Nếu có đồng chí nào gặp anh, xin nói với anh ấy rằng: Nguyễn Thị Châu đồng ý!?.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 4-3-1963, khi vừa nhận được tài liệu từ giỏi thăm nuôi, chị bị Thái Đen-một hung thần khát máu của trại Lê Văn Duyệt phát hiện. Bỏ tài liệu vào miệng, chưa kịp nuốt chị đã bị cả đám hung đồ nhào tới bóp họng bắt nhè ra, đồng thời cây dùi cui trên tay Thái Đen đã liên tục nhắm đầu chị quật xuống, máu tuôn xối xả. Chỉ kịp thét lên mấy tiếng đánh động cho các bạn tù khác biết, Nguyễn Thị Châu đã bị chúng vất lên xe bịt kín đưa sang P.42, thay nhau đánh đập, bỏ thùng nước ?ođi tàu lặn? suốt đêm. Gần sáng, Thái Đen dựng ngược chị dậy, lấy đinh đóng nát 10 đầu ngón tay. Không còn đủ sức để chịu đựng, chị gục xuống. Sợ chị chết, bọn cai tù vội đưa chị vào nhà thương Chợ Quán cấp cứu. Sau đó, chúng ném chị vào một buồng giam chung với một đám thường phạm bị bệnh hủi, giang mai, lậu và các thứ bệnh xã hội khác? Không giống như dự đoán của kẻ thù, khi biết chính trị phạm đang mê man ấy là Nguyễn Thị Châu, những người tù thường phạm đã không hề hành hạ mà còn thay nhau chăm sóc chị cẩn thận. Không đạt mục đích, bọn cai tù lại đưa chị ra xe, ném về ngục tối P.42.
    Cảm thấy cái chết đã cận kề, chị lại nghĩ về anh, lại nghĩ về cuộc đấu tranh vẫn còn dang dở. Nhặt chiếc kẹp tóc đã gỉ ai đó làm rơi trên sàn buồng giam, chị thu hết sức tàn vạch lên tường xà lim bốn câu trăng trối:
    Áo trắng em chưa vướng bụi đời
    Chưa từng mơ tưởng chuyện xa xôi
    Nhưng nay gặp cảnh đời chua xót
    Áo trắng này nguyện trắng mãi thôi.

    Vạch xong nét chữ cuối cùng, đôi tay đã trở nên tê cóng, chị ngã vật xuống sàn xà lim ngất đi. Địch lại đưa chị ra Chợ Quán cấp cứu. Đêm hôm đó, khi vừa thoát cơn mê, chị đã tận mắt chứng kiến cảnh anh Nguyễn Văn Trỗi mới nhảy lầu, bị gãy chân vừa được đưa vào nhưng vẫn sa sả mắng quân xâm lược.
    Cuối năm 1964, sau cuộc chỉnh lý của Nguyễn Khánh, nguỵ quyền Sài Gòn cố tỏ ra mị dân, đã thực hiện một vài động tác nới lỏng đối với tù chính trị. Một số sinh viên, ký giả được đưa vào ?otham quan? P.42. Từ ảnh của họ chụp, 4 câu thơ của Nguyễn Thị Châu đã đươc phóng to, dựng thành băng rôn treo ngay trước nhà Quốc hội trong những cuộc đấu tranh tố cáo tội ác đế quốc Mỹ và tay sai. Tên tuổi và cuộc đấu tranh kiên trung của chị, sự bất công, tàn bạo, vô luân của bộ máy nhà tù bị phơi bày lên nhiều mặt báo. Buộc phải nhượng bộ, nguỵ quyền Sài Gòn đành phải xếp tên chị vào danh sách một nhóm tình báo viên của ta đang bị chúng giam giữ tại P.42 sẽ được đem ra để trao đổi lấy một số giặc lái bị bắt khi ném bom ra miền Bắc.
    Trước khi trao đổi, chúng đưa cả nhóm lên giam giữ tại Tổng nha Cảnh sát để thanh lọc. Trong buồng giam mới, chị được xếp nằm gần chị Nguyễn Thị Quyên, vợ anh Trỗi, nên đã có dịp kể cho chị Quyên nghe những gì về anh mà mình từng chứng kiến. Trong tác phẩm Sống như anh, nhà văn Trần Đình Vân đã nhắc đến chi tiết này, nhưng hai nữ phạm chính trị đã giúp đỡ chị Quyên trong nhà tù, vì tuân thủ nguyên tắc bí mật, chỉ được gọi bằng bí danh chị X, chị Y. Chị X là Nguyễn Thị Châu, còn chị Y là chị Trương Mỹ Hoa, nay là Phó *************.
    Trong những lần bị địch hỏi cung tại Tổng nha, chị đã khẳng định: ?oTôi chỉ là học sinh, bị mấy ông mật vụ tay sai nhà Ngô vô cớ bắt vô tù, không có gì để khai nên họ nhốt hoài, đánh đập hoài không chịu thả?.
    Không có lý do gì để kết án, hay đày đọa chị lâu hơn nữa, ngày 2-5-1965, kẻ địch phải trả tự do cho Nguyễn Thị Châu. Ra tù, không chút chần chừ, chị đã móc nối và tìm được đường lên chiến khu (ở Củ Chi), chữa bệnh và tiếp tục cuộc đấu tranh. Tháng 5-1969, chị được Trung ương Cục đưa sang Campuchia rồi đi máy bay ra Hà Nội. Nghe chị kể chuyện, Bác khóc. Thỉnh thoảng, mỗi khi có dịp, Bác lại cho gọi chị đến Phủ Chủ tịch ăn cơm với Người.
    Sau một thời gian chữa bệnh tại Hà Nội, Nguyễn Thị Châu được Trung ương cử đi nhiều nước xã hội chủ nghĩa để tiếp tục điều trị và tham gia Đại hội Thanh niên, Đại hội Phụ nữ thế giới, tiếp đó tham dự nhiều chuyến tham quan, dự lễ kỷ niệm lớn ở Triều Tiên, Trung Quốc, Liên Xô, Phần Lan, Hunggari? Câu chuyện chị kể trên diễn đàn các đại hội đã khiến hàng ngàn đại biểu các nước phải lấy khăn lau mắt, khâm phục và kính trọng đối với cô gái Việt Nam nhỏ nhắn nhưng kiên trung, bất khuất. Khi khám bệnh cho chị, các bác sĩ Liên Xô đã đứng lặng đi. Họ khóc. Trên cơ thể chị, hàng trăm vết thương bởi những trận đánh đập, đòn tra vẫn chưa lành hẳn?
    Trong khi đó, phong trào đấu tranh ở miền Nam dâng lên mạnh mẽ đã buộc địch chùn tay, phải đem nhiều tử tù, trong đó có Lê Hồng Tư trở lại Côn Đảo giam cầm, đày đọa nhưng không dám thì hành án tử hình. Tại đó, qua một tử tù khác, là Lê Văn Dầu, Lê Hồng Tư nhận được lời nhắn đồng ý của người yêu, người đồng chí Nguyễn Thị Châu. Sau 4 năm bị đọa đày trong tù ngục, đó là lần đầu tiên anh rơi nước mắt.
    Ngày 5-5-1975, cùng hàng ngàn đồng chí đồng đội khác đang ở Côn Đảo, Lê Hồng Tư được tàu đón về Trung tâm đón tiếp các chiến sĩ tù Côn Đảo đặt tại Trường trung học Hùng Vương, quận 5. Gần 10 giờ đêm, một chiếc xe Jeep phóng vào trung tâm. Trên xe là chị Chủ tịch Uỷ ban quân quản quận 10 Nguyễn Thị Châu. Nhìn thấy chị, đôi chân người tử tù đã nhiều lần mạnh mẽ đạp lên cái chết chực khuỵu xuống. Nước mắt anh tuôn trào. Dưới ánh đèn, họ chợt nhận ra trên đầu người mình yêu đã điểm nhiều sợi bạc.
    Ngày 17-8-1975, họ làm đám cưới, thực hiện lời hò hẹn năm xưa khi tuổi thanh xuân đã bị năm tháng lao tù tước đi gần hết. Mời 200 khách nhưng có hơn? 600 người đến dự. Người Sài Gòn tò mò muốn đến ?ocoi cho biết? đám cưới Cách mạng được tổ chức thế nào. Quả thật, cũng? có lạ: Căngtin Học viện Hành chính Quốc gia, nơi tổ chức đám cưới, được trang hoàng bằng rất nhiều khẩu hiệu, không khác gì một buổi lễ kết nạp Đảng, với cả bàn thờ Bác, cờ Tổ quốc, cờ Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam.
    ?oÁo trăng?-Cuốn sách Việt Nam hơn 30 năm khuấy động tâm hồn Hàn Quốc
    Ở Hà Nội, nhà văn Nguyễn Văn Bổng đã nảy ra ý tưởng lấy cuộc đời chị làm chất liệu để viết một cuốn sách. Đang nuôi ý định về Nam tiếp tục chiến đấu, ban đầu Nguyễn Thị Châu từ chối vì sợ lộ. Đồng chí Tố Hữu đã gặp và bảo chị: ?oBác Hồ đã nghe chuyện về cháu. Bác rất cảm động. Bác muốn cháu kể để nhà văn viết sách, đó cũng là một cách động viên thúc đẩy cuộc đấu tranh?. Nghe nhà thơ Tố Hữu nói, chị khóc. Bác Hồ đã quan tâm, làm sao chị có thể phụ lòng. Và chị đã kể, kể miên man, kể trong nước mắt.
    Sau một thời gian thai nghén, năm 1971, tại Yalta (Liên Xô), nhà văn Nguyễn Văn Bổng đã hoàn tất cuốn truyện dài nhan đề Áo trắng. Câu chuyện cảm động về sự chịu đựng hy sinh của Phượng, cô nữ sinh áo trắng hiện thân của Nguyễn Thị Châu đã làm rung động cả một thế hệ thanh niên hai miền Nam Bắc. Như một Thép đã tôi thế đấy của châu Á. Phượng đã thay Pavel Corsaghin chinh phục trái tim, khối óc của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam, Indonesia, Triều Tiên, Hàn Quốc? những quốc gia có làn sóng đấu tranh chống độc tài, đòi dân chủ đang dâng mạnh mẽ. Tại Hàn Quốc, Phượng và Áo trắng là biểu tượng của niềm tin, của sự hy sinh cao cả vì tự do dân chủ. Bị chính quyền độc tài Pak Chung Hee, rồi sau đó là Chun Do Hwan ngăn cấm, sinh viên Hàn Quốc đã dịch và bí mật xuất bản cuốn sách này, xem như một cuốn ?oSách đỏ? gối đầu giường, một kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh vì dân chủ của họ. Áo trắng đã nuôi lớn tâm hồn khao khát tự do của nhiều thế hệ thanh niên, sinh viên bán đảo này. Năm 1980, khi tiến hành cuộc biểu tình và bị chính quyền độc tài Chun Do Hwan đàn áp dã man tại Kwang Zou, rất nhiều sinh viên Hàn Quốc vẫn ôm khư khư cuốn Áo trắng trước ngực. Đến nay, tại Hàn Quốc, Áo Trắng vẫn là cuốn sách nước ngoài được in nhiều nhất, đã tái bản tới lần thứ 35, mỗi lần lên tới hàng vạn bản.
    Gần 30 năm sau ngày đầu tiên xuât bản cuốn Áo trắng tại Hàn Quốc, nhiều đoàn với rất đông nhà văn, nghệ sĩ, ký giả? của đất nước này, đã tìm đến TP.HCM thăm ông là Lê Hồng Tư-Nguyễn Thị Châu, để được tận mắt chứng kiến những anh hùng thần tượng của họ bằng thịt. Đài truyền hình Văn hóa Hàn Quốc (MBC) đã quay một bộ phim dài về họ.
    Gần 70 tuổi, họ vẫn xưng hô với nhau là ?oanh-em? đầy trìu mến. Hôm tôi đến thăm, ông Lê Hồng Tư, tuy khá gầy gò vẫn chạy ngược lên lầu, dìu bà xuống từng nấc cầu thang. Khi bà ngồi tiếp chuyện tôi, ông ân cần rót nước cho bà từng ngụm nước?
    Tôi hỏi: ?oChắc hồi trẻ cô đẹp lắm phải không cô??. Nhìn sang ông, bà cười, vẫn còn bẽn lẽn: ?oLàm sao cô biết, cái này cháu phải hỏi ông?. Trời đất, vụ này xem chừng không mấy khách quan. Cô ơi, cháu hỏi ông thì hỏi làm gì? Chẳng phải từ xưa đến giờ, lòng chú cũng chỉ có một mình cô đó hay sao?
    ---------------------
    Hết rùi ạ! Thực ra thì bài báo này chỉ tóm tắt thôi chứ truyện thì dài hơn nhiều. Bác nào có truyện thì đưa lên đi cho bà con đọc!
  9. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Bạn ptlinh có vẻ ?okết? chủ đề này nhỉ. Nhân đây mời bạn ptlinh và mọi người thưởng thức câu chuyện tình giữa Phạm Thái và Trương Quỳnh Như.
    Có thể nói đây là thiên tình sử diễm lệ, cả về phương diện văn chương lẫn đời thường. Nhà văn Khái Hưng miêu tả khá hấp dẫn chuyện tình của họ trong cuốn ?oTiêu Sơn tráng sỹ?, chắc nhiều người ở đây đã từng đọc. Đây là 2 nhân vật có thực chứ không phải sáng tác, hư cấu. Phạm Thái là nhà hoạt động ?ocách mạng?, là nhà thơ. Còn Quỳnh Như cũng là một nữ sỹ rất giỏi về cầm, kỳ, thi, họa. Thật là một cặp uyên ương trai tài, gái sắc, đáng được hưởng hạnh phúc bên nhau.
    Nhưng ai đâu ngờ?.
    Mời các bác theo dõi
    ----------------------------------
    PHẠM THÁI ?" QUỲNH NHƯ
    Phạm Thái (1777 - 1813)
    Là nhà thơ, nghĩa sỹ thời Lê mạt, chống tây Sơn. Phạm Thái còn có tên là Phạm Phượng Sinh hoặc Phạm Đan Phượng, tên tục là Chiêu Lỳ (Chiêu là từ thông tục gọi con cái nhà quan), người làng Yên Thị, xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh.
    Phạm Thái sinh trưởng trong một gia đình quan lại, cha là Trạch Trung hầu, võ tướng, cụu thần nhà Lê, từng khởi binh chống Tây Sơn nhưng thất bại. Phạm Thái theo chí cha, mưu đồ chống Tây Sơn, kết giao với nhiều người cùng mục đích như Phổ Tĩnh thiền Sư Trần Quang Ngọc, Nguyễn Đoàn? Bị quân tây Sơn truy nã, Phạm Thái phải trá hình làm nhà sư, ẩn ở trong chùa Tiêu Sơn (Hà Bắc), lấy đạo hiệu là Phổ Chiếu thiền sư. Phạm Thái được người bạn thân là Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thụ làm quan ở Lạng Sơn bắt liên lạc, đón Thái lên để cùng tìm cách đánh nhà Tây Sơn?
    Tác phẩm nổi tiếng của Phạm Thái là Sơ Kính tân trang, tả cuộc tình duyên lãng mạn, cay đắng của mình với Trương Quỳnh Như. Về mối tình với Trương Quỳnh Như, Phạm Thái còn sáng tác một loạt 3 bài trường thi : Cầm tháo Triệu linh, Thuật hoài, văn tế Trương Quỳnh Như nói lên nỗi lòng đau đơn vì mối tình tan vỡ.
    Người ta còn đánh giá Phạm Thái là người đi đầu trong việc cách tân thể thơ trữ tình tiếng Việt.
    -------
    Trương Quỳnh Như (1782? ?" 1802?)
    Trương Quỳnh Như, người làng Thanh Nê, huyện Chân Định, Trấn Sơn nam (sau là huyện Kiến Xương, Thái Bình).
    Quỳnh Như là con gái duy nhất của Thượng thư Kiến Xuyên hâu Trương Đăng Quỹ, em gái của Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thụ giữ chức Hiệp trấn xứ Đoàn Thành (Lạng Sơn).
    Thuở bé, Quỳnh Như rất thông minh được cha mẹ cho mặc giả trai để dễ bế xin vào trường học. ?oCậu bé? Quỳnh Như học hành rất tấn tới. nhưng đến năm 13 tuổi, năm thiếu nữ dậy thì, không thể che dấu lâu hơn, bà mẹ Quỳnh Như đành cho con thôi học và hoàn trang con gái, bắt đấu cho sự tập tành việc tề gia nội trợ, đồng thời cũng được nữ gia sư dạy học. Quỳnh Như mau chóng thông thạo cả cấm, kỳ, thi, họa. Bản tính thơ mộng, ưa ngâm vịnh, có sở trường, sáng tác quốc âm.
    Thời gian này, cô thường được cùng mẹ du ngoạn đ1o đây và thỉnh thoảng lại đi hành hương các chùa chiền. Trước cảnh sắc gấm hoa, non xanh nước biếc, cảnh chùa u tịch thanh thoát dễ khiến tâm hồn nữ sỹ Quỳnh Như thêm lâng lâng, tới đâu cũng đề vịnh lưu niệm
    ?o? Đoành chở bè từ vờn sắc ngọc
    Đỉnh in trăng tuệ tỏ màu hoa?

    (Trích Sơn Âm Cổ Tự)
    Lúc này người anh ruột của Quỳnh Như là Trương Đăng Thụ vẫn giữ chức Hiệp Trấn ở mạn ngược. Tuy làm việc quan, nhưng ông vẫn bí mật làm nội ứng cho nghĩa binh cần vương chống tây Sơn, mong khôi phục nhà Lê. Nhưng bỗng nhiên, ông bị bạo bệnh qua đời. Linh cữu được đưa về làng Thanh Nê chôn cất.
    Khi hay tin bạn mất, bạn chí thiết, cũng là đồng chí của Trương Đăng Thụ là Phạm Thái về tận Thanh Nê viếng mộ, làm nhiều văn thơ khóc bạn

    (Còn tiếp)
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 22:38 ngày 18/01/2005
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bác TLV ơi! "Kết" thì em cũng không kết lắm đâu, nhưng thấy có chuyện thì đưa lên thôi! Đọc cũng được! Bác gửi tiếp nữa đi!

Chia sẻ trang này