1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những thiên tình sử mùi mẫn, lịch sử VN cũng thi vị ra phết các bác ạ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ctech, 06/08/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ozone

    ozone Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    82
    Đã được thích:
    0
    Hi hi, Không có đâu. Tìm quyển đó thì tôi biết 2 cách:
    Một là ........ra hàng sách
    Hai là lên thư viện Quốc Gia mà đọc
    còn sách online thì tôi chưa tìm thấy
  2. witch141v

    witch141v Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/06/2002
    Bài viết:
    5.882
    Đã được thích:
    0
    Vậy hử bác, nếu vậy chắc nhờ bác post vài đoạn mà bác cho là hay lên cho tui đọc ké với, chứ vụ lên thư viện và chui ra hàng sách thì tui đại lười ....... chờ lòng hảo tâm của bác vậy. Post nhé
  3. ozone

    ozone Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    82
    Đã được thích:
    0
    He he, Sorry cậu nhá. Tôi cũng muốn giúp lắm nhưng tui hiện đang đi học xa nhà, nên cái vụ này chịu chết không giúp được. Mấy hôm nọ rỗi việc cũng muốn tìm xem có trang web nào có không để đọc lại cho nó đỡ buồn. Nhưng chưa thấy đâu cả. Nếu mà tui tìm được thì tôi sẽ gửi link cho cậu, còn không thì đành chịu vậy thôi. OKIE?
  4. witch141v

    witch141v Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/06/2002
    Bài viết:
    5.882
    Đã được thích:
    0
    He he, Sorry cậu nhá. Tôi cũng muốn giúp lắm nhưng tui hiện đang đi học xa nhà, nên cái vụ này chịu chết không giúp được. Mấy hôm nọ rỗi việc cũng muốn tìm xem có trang web nào có không để đọc lại cho nó đỡ buồn. Nhưng chưa thấy đâu cả. Nếu mà tui tìm được thì tôi sẽ gửi link cho cậu, còn không thì đành chịu vậy thôi. OKIE?
    [/quote]
    Bác nói thế không okie cũng chả được .......... nhỉ bác nhỉ ......... bác tìm nhanh rồi share nhá bác nhá
  5. Bundeswehr

    Bundeswehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/11/2004
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    Có không chuyện tình Huyền Trân Công chúa - Trần Khắc Chung?
    Báo Người lao động - 15:35'' 23/02/2005 (GMT+7)
    Từ rất lâu câu chuyện đàm tiếu về một chuyến đi mang yếu tố lịch sử được thượng hoàng Trần Nhân Tông và nhà vua Anh Tông giao phó cho quan hành khiển Trần Khắc Chung, chuyến đi mà tên tuổi ông được các giới sử học sau đó đánh giá khá mỉa mai bởi tính định mệnh của nó:
    Người dũng tướng trong trận chiến vệ quốc chống quân Nguyên -Mông, được phong đến chức Nhập nội hành khiển, một nội tướng quan trọng trong triều đình, đã gục ngã trước nhan sắc nàng công chúa duy nhất của vua Trần Nhân Tông. Sử gia Ngô Sĩ Liên, người thực hiện bộ Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) đã đánh giá một cách khá gay gắt về câu chuyện này, rồi ông xem đó như là một vết nhơ đáng trách. Chính việc ĐVSKTT ghi chép một thiên tình sử tựa như câu chuyện của Tây Thi - Phạm Lãi thời Việt Vương Câu Tiễn bên nước Tàu được thêu dệt truyền tụng khắp nhân gian, đã tạo nên những cơn phong ba của hỷ, nộ, ái, ố, qua các thế hệ trước sau. Câu chuyện bắt đầu từ việc ''''Năm Đinh Mùi, tháng 5, Chế Mân chết. Tháng 9, con của Huyền Trân là Chế Đa Da sai sứ thần tên là Bảo Lộc Kê đem voi trắng dâng. Tháng 10, sai Trần Khắc Chung và Đặng Văn sang Chiêm Thành. Bọn Khắc Chung sang mượn cớ làm lễ viếng rồi nói rằng: Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về sẽ vào đàn thiêu, người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ để cướp đi rồi đưa về. Bèn cùng công chúa tư thông loanh quanh mãi ở đường biển, lâu ngày mới đến kinh sư (ĐVSKTT 6 tờ 32a7-33a2). Và rồi cũng chính từ đây ĐVSKTT 6 tờ 33b3-4 lại nói tiếp "Mùa thu ngày 18 tháng 8 năm Giáp Thân (1308) Công chúa Huyền Trân từ Chiêm Thành về nước. Thượng hoàng sai trại chủ Hóa Châu đưa 300 người Chiêm đi thuyền trở về nước họ". Cũng theo hư truyền rằng trước khi sang làm dâu xứ Chiêm, Huyền Trân và Trần Khắc Chung đã có một mối tình sâu đậm, vì lợi ích quốc gia nên đành phải hy sinh mối tình đầy thơ mộng để đổi lấy hai châu Ô Mã và Ô Rí. Rồi khi Chế Mân mất đi, tình xưa của hai người được kết nối qua cuộc giải vây và hộ tống Huyền Trân về lại Đại Việt. Rồi năm qua tháng lại, dòng đời tuôn mãi, câu chuyện ấy vẫn được các thế hệ truyền lưu. Nhưng đâu là sự thật lịch sử, một sự thật lịch sử công bằng để đánh giá đúng tầm của cả hai nhân vật Khắc Chung và Huyền Trân?
    Những đối lập đáng ngờ
    Khi đọc lại những gì mà ĐVSKTT ghi chép, nếu tinh ý chúng ta sẽ thấy được những điểm đáng ngờ và đầy tính bất ổn về sự kiện này. Trước nhất ở Q.6 tờ 20a3-6 ĐVSKTT ghi là: "Tháng 2 năm Ất Tỵ (1305) Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng 500 người đem biểu dâng vàng, bạc, hương quý, vật lạ để xin đính lễ cầu hôn. Triều thần cho là không được. Riêng Văn Túc Vương Đạo Tải chủ trương việc nghị bàn và Trần Khắc Chung tán thành nên việc bàn mới quyết". Vậy thì cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân và vua Chiêm Thành là Chế Mân đã gặp phải sự kháng cự khá gay gắt bởi các quan lại trong triều đình dẫn đến việc Văn Túc Vương Đạo Tải phải tổ chức một hội nghị luận bàn nên hay không nên gả Huyền Trân về xứ Chiêm. Cuộc luận bàn này diễn ra trong sự tranh luận nảy lửa về tính dị tộc nhưng chính quan Nhập nội thành khiển Trần Khắc Chung lại hoàn toàn nhất trí về cuộc hôn nhân này. Nếu quan hệ tình cảm với công chúa Huyền Trân có thật thì đây là cơ hội cho Khắc Chung đứng về phía triều thần để phản đối, chứ đâu lại là người ủng hộ việc đưa Huyền Trân về với Chế Mân. Đứng về quan hệ huyết thống thì Khắc Chung là cháu của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Quốc Tung, anh cả của Nguyên Chánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Huyền Trân là con của Thái hậu Nguyên Chánh với thượng hoàng Trần Nhân Tông, một trực hệ rất gần như thế thì khó có chuyện quan hệ tình cảm, dù rằng vấn đề quan hệ hôn nhân đồng huyết đã xảy ra khá phổ biến trong nội bộ hoàng gia triều Trần nhưng chỉ xảy ra đối với trực hệ xa từ hai đời trở lên, chứ không quá gần như Khắc Chung với Huyền Trân.
    Còn nếu bảo rằng Khắc Chung vì lợi ích quốc gia nên đồng ý gả công chúa Huyền Trân để lấy lại châu Ô Mã và Ô Rí như ĐVSKTT 6 t 22a7-b2 ghi "Đổi 2 châu Ô, Rí làm Thuận Châu và Hóa Châu, sai hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến ổn định dân chúng. Trước đó chúa Chiêm Thành là Chế Mân đem đất ấy làm vật dẫn cưới". Liệu điều này có đúng không? Theo một tư liệu có từ đời Trần nói về việc đi Chiêm Thành của thượng hoàng Nhân Tông thì Trần Chí Chính trong lời đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ có ghi: "Có lúc ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía Nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Chiêm biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn ngài về nước và đem đất hai châu làm lễ cúng dâng cho Ngài. Ấy là Thuận Châu và Hóa Châu nay vậy". Tác phẩm ra đời trước ĐVSKTT như tư liệu nêu trên vào đời Trần chắc chắn phản ánh sự việc có tính chính xác hơn là ĐVSKTT vào đời nhà Lê - như vậy vấn đề đất đai với chuyện hôn nhân của Huyền Trân hầu như không có gì liên hệ với nhau. Mặt khác cuộc nghị bàn mà ĐVSKTT gọi là của các quan lại trong triều đình do Văn Túc Vương Trần Đạo Tải chủ trì nên nhìn từ góc độ thân tộc. Chúng ta nhớ rằng đa số các quan lại trong triều Trần là những hoàng thân, quốc thích nên vấn đề đồng ý và không tán đồng có ý nghĩa thân tộc nhiều hơn ý nghĩa chính sự quốc gia.
    Theo cách ghi chép của ĐVSKTT mà chúng tôi trích dẫn ở phần trên thì những điểm bất ổn đã liên tục xảy ra. Việc thế tử Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê đem voi trắng đến dâng vào tháng 9 Đinh Mùi (1307) và việc gả công chúa Huyền Trân vào tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) thì ở thời điểm này thế tử Chế Đa Da mới có 4 hay 5 tháng tuổi và trước đó vào tháng 5 năm Đinh Mùi thì vua Chế Mân đã băng hà. Theo tư liệu Thư tịch cổ của người Chăm bàn về các vật lễ dâng cúng cho thần và vua (Dăk Tôh Kaya Pô yang Patau) thì con voi trắng là vật thế hay con vật trả. Sứ thần Bảo Lộc Kê đưa voi trắng đến dâng cúng có hàm ý là xin trả công chúa Huyền Trân về lại Đại Việt, vì vua Chế Mân đã chết. Chính yếu tố này giúp cho chúng ta thấy rằng sự việc mà phái bộ sứ thần yêu cầu là chính đáng vì người Chiêm Thành theo chế độ mẫu hệ. Tính mẫu hệ ở đây được hiểu như là mẫu tính (người con theo họ mẹ) và mẫu cư, người con sinh sống với mẹ, việc cho phép thế tử Chế Đa Da theo Huyền Trân về nước đã phần nào nói lên điều này. Thêm một điều nữa, do vua Chiêm là chàng rể ngoại tộc nên mọi vấn đề triều chính là do Hội đồng Hoàng gia nghị bàn và quyết định, hoàng hậu mới được xem là nội tộc và những đứa con của hoàng hậu mới chính là nội tộc hoàng gia có quyền đảm nhận việc thừa tự truyền ngôi và vua Chế Mân không được chọn lựa ai khác ngoài những đứa con của Hoàng hậu.
    Giàn hỏa đầy tai tiếng
    ĐVSKTT chép ''''Tục nước Chiêm Thành, hễ vua chết thì hoàng hậu phải vào đàn thiêu chết'''' và thế là vào tháng 10 triều đình đã sai sứ bộ gồm nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung và An phủ sứ Đặng Văn dẫn đầu đến Chiêm Thành để đón Huyền Trân và thế tử Chế Đa Da về nước. Việc hỏa táng mà ĐVSKTT chép thật ra là một tục lệ của Ấn Độ dành riêng cho các đẳng cấp Bà La Môn. Trong khi đó, sử ký Chiêm Thành và tất cả các thư tịch cổ bàn về nghi lễ hỏa táng (Dăk Ngăk Dam Chuh) không bao giờ đề cập đến việc khi vua mất đưa lên đàn thiêu, hoàng hậu cũng chấp nhận thân phận chết theo đầy phi lý ấy. Theo thư tịch Dăk Ngăk Dam Chuh thì việc hỏa táng là cách mà chính thể xác và linh hồn được nhập thân vào vũ trụ. Tổ chức một đám hỏa táng với đầy đủ các nghi lễ của nó là diễn lại sự tái sinh của linh hồn người đã mất về lại thế giới thực tại. Tục hỏa táng diễn ra rất cổ xưa ngay từ thời đại văn hóa Sa Huỳnh, một dạng văn hóa mà chủ nhân của nó là những cư dân Chămpa của Vương quốc Chiêm Thành, người ta đã thấy những vò, chum chôn cất những phần tro xương của những người đã hỏa táng. Tập tục hỏa táng chung được xem như húy kị (tabo) đối với cộng đồng người Chăm, nên việc mà ĐVSKTT ghi chép hoàn toàn mang tính truyền thuyết hơn là sự thật lịch sử. Nhìn từ góc độ gia tộc thì đối với người Chiêm Thành phụ nữ là Nội và nam giới thì Ngoại (Mư Kèeh Mék Pên) nên phụ nữ chết theo chồng là chuyện không thể xảy ra bởi tính thừa tự của gia đình và dòng họ (Muh thuôh Plei). Người đàn ông Chiêm có thân phận như cô gái Việt, chấp nhận thân phận đi ở rể, con gái đến cưới. Việc làm vua của vương quốc này cũng thế, con gái út của hoàng hậu mới hưởng quyền truyền thừa ngôi báu và chồng cô ta khi cưới về sẽ đảm nhận vai trò là quốc vương. Chính vì vậy mà cộng đồng người Chăm có câu ca dao ca thán về tục lệ này "Còn sống thì làm cho người ta/Khi chết ra ma đem xương về tộc họ" (Thok thiêuk ngăk ka urang, Mư tai pà kalan ka kậu). Từ đó cho chúng ta thấy việc đồn đại rằng Huyền Trân phải lên giàn hỏa cùng Chế Mân là cách đàm tiếu của người xưa bởi tính hẹp hòi và ích kỷ của việc hôn nhân dị tộc. Nó không bao giờ xảy ra như thế. Ngược lại khi vua Chế Mân chết vào tháng 5, sứ bộ Chiêm Thành dâng voi trắng vào tháng 9 và đến tháng 10 sứ bộ nhà Trần mới có mặt tại Vương quốc Chiêm Thành để đưa Huyền Trân về nước thì vào thời điểm đó việc hỏa táng Chế Mân đã tiến hành đến 4 tháng. Do vậy vấn đề hỏa táng Huyền Trân chung cùng Chế Mân lại càng không thể xảy ra.
    Sứ hộ Chiêm Thành đưa voi trắng như chúng tôi trình bày ở phần trên là cách mà Hội đồng Hoàng gia Chiêm Thành vừa báo lễ tang và xin trao trả công chúa Huyền Trân và con là Chế Đa Da về lại Đại Việt. Cũng chính từ yêu cầu này mà một phái bộ sứ thần do hai vị quan đứng đầu triều Trần là Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung và An phủ sứ Đặng Văn đã đến Chiêm Thành để đón Huyền Trân, Chế Đa Da và những người hầu mà công chúa được phép mang theo khi qua làm dâu Chiêm Thành. Dĩ nhiên đoàn sứ bộ lúc này không chỉ có Trần Khắc Chung mà có cả quan An phủ sứ Đặng Văn, một người có uy danh trong triều Trần cùng đi, mọi vấn đề đều diễn ra trước hàng trăm cặp mắt thì không có việc mà Ngô Sĩ Liên chép trong ĐVSKTT rằng ''''Họ có tư thông với nhau'''' chỉ vì căn cứ vào một lý do cực kỳ đơn giản là chuyến đi loanh quanh gắn một năm trời mới về đến Đại Việt. Một điều là cho đến nay chưa ai có thể xác định được là ngày và tháng mà Trần Khắc Chung và phái đoàn sứ bộ rời Chiêm Thành. Riêng ĐVSKTT chỉ chép chung chung về việc giải vây cho Huyền Trân của Trần Khắc Chung, vậy thì trong lúc giải vây này An phủ sứ Đặng Văn đang ở đâu? Căn cứ vào những yếu tố mà chúng tôi phân tích có thể thấy rằng câu chuyện tư thông cũng như mối tình giữa Huyền Trân và Khắc Chung chỉ là lời đồn đại có chủ ý của các nhân vật bất đồng quan điểm với nhà Trần và chống đối với cuộc hôn nhân mang tính dị tộc. Việc mà chờ cho đến ngày 18 tháng 8 năm Giáp Thân (1308) sứ bộ mới đưa được Huyền Trân công chúa về đến Thăng Long và việc thượng hoàng Trần Nhân Tông cho đưa về Chiêm Thành 300 người Chiêm ở trại Hóa Châu đã phản ánh tinh thần hòa hiếu giữa hai triều đình lúc bấy giờ. Ở đây chuyến đi kéo dài gần tròn một năm là bởi theo chúng tôi có thể là phái bộ phải chờ tham dự lễ giáp năm (Păk thuôn) cho vua Chế Mân, đồng thời cho công chúa làm tròn bổn phận của người vợ hiền đối với vị vua Chiêm Thành Chế Mân. Tuy vậy đây chỉ là những thông tin ban đầu mà chúng tôi xin cung cấp cho các giới nghiên cứu lưu tâm đến vấn đề Chiêm Thành và quý độc giả tham khảo. Chúng tôi hy vọng trong một ngày gần đây nhất sẽ tìm được những sử liệu khoa học về vấn đề này giúp bổ sung và làm sáng tỏ câu chuyện rắc rối đã lưu truyền hàng mấy trăm năm nay.

  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Topic bắt đầu bị chìm dần, em kéo nó lên phát! Bản quyền của VietNamnet!
    Mối ti?nh đâ?u cu?a tướng Giáp va? Nguyêfn Thi Quang Thái
    Đại tướng Vof Nguyên Giáp, vị tướng huyê?n thoại cu?a QĐND Việt Nam anh hu?ng va? giáo sư Vof Hô?ng Anh, con gái Đại tướng đaf có nhưfng dịp nói vê? mối tình đâ?u cu?a đại tướng va? nưf chiến sif cách mạng Nguyêfn Thị Quang Thái, người chiến sĩ trung kiên, người vợ hiền dâu thảo của gia đình Đại tướng.
    Giáo sư - Tiến sif khoa học toán lý Vof Hô?ng Anh, con gái Tướng Giáp va? nưf chiến sif cách mạng Nguyêfn Thị Quang Thái cho biết mẹ chị sinh năm 1915 tại Vinh, ngươ?i gốc la?ng Nhân Chính (nay la? phươ?ng Nhân Chính, quân Thanh Xuân, Ha? Nội) la? con cu?a một kyf sư câ?u đươ?ng (nga?y đó gọi la? kyf lục lộ) la?m việc ơ? tha?nh phố Vinh (Nghệ An). Mối ti?nh đâ?u cu?a Tướng Giáp với chị Quang Thái chớm nơ? tư? nhưfng nga?y hai ngươ?i học tập va? tham gia hoạt động cách mạng ơ? Huế. Có một điê?u đặc biệt, Quang Thái la? em ruột cu?a nha? cách mạng Nguyêfn Thị Minh Khai, va? cufng như Minh Khai, Quang Thái va?o Đa?ng Tân Việt cánh ta?, tiê?n thân cu?a Đông Dương cộng sa?n liên đoa?n, một trong ba Đa?ng sau na?y hợp nhất tha?nh Đa?ng Cộng sa?n Đông Dương.
    Va?o năm 1929, với tư cách đại diện Tô?ng bộ Đa?ng Tân Việt đặt trụ sơ? tại Huế, đô?ng chí Vof Nguyên Giáp đaf có chuyến công tác tư? Huế ra Vinh va? Ha? Nội, sau đó trơ? va?o Sa?i Go?n rô?i cuối cu?ng mới vê? Huế, với mục đích chính là bàn việc hợp nhất với Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội và Việt Nam cộng sản Đảng, đồng thời bàn với các chi bộ ở Vinh và Hà Nội tổ chức cho đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đi thoát ly. Trong dịp này, Võ Nguyên Giáp đã nghe cái tên Nguyễn Thị Quang Thái, cô em gái còn rất trẻ nhưng tham gia các hoạt động rất hăng hái của chị Minh Khai. Nghe tiếng mà chưa gặp mặt. Thế rồi trong lần trở vào Huế, Võ Nguyên Giáp đã gặp Nguyễn Thị Quang Thái trên một chuyến tàu hoả. Quang Thái lúc ấy đang trên đường vào Huế để nhập học tại trường Nữ sinh Đồng Khánh. Cô mặc áo dài, tóc để xoã, da trắng hồng, gương mặt rất sáng, đặc biệt là đôi mắt. Ấn tượng đó rất đậm nét trong tâm hồn Võ Nguyên Giáp. Trên chuyến tàu này anh Giáp đóng vai một nhà báo ăn vận khá diện. Về sau Quang Thái nói lại cho anh biết về ấn tượng đầu tiên của mình khi gặp: Một chàng thư sinh, hơi "công tử bột". Chỉ khi nghe Võ Nguyên Giáp tự giới thiệu mình là nhà báo thì Quang Thái mới dịu lòng và bắt chuyện.
    Sau lần gặp gỡ ấy, tại Huế, anh Giáp nhiều lần đạp xe qua cổng trường Đồng Khánh với hy vọng thấy lại gương mặt đã in đậm vào tâm trí mình, nhưng đều chưa "gặp may". Thế rồi một việc bất ngờ đến làm anh không giấu nổi vui mừng trên nét mặt: Người con gái tìm đến liên hệ công tác tại nơi ở mới của anh ở Đông Ba lại chính là Quang Thái. Rồi họ gặp nhau ở đó mấy lần tiếp theo về công việc. Tuy nhiên, bấy giờ về phía chị Quang Thái vẫn chưa nảy nở tình yêu đáp lại. Chị đang dồn tâm trí cho hoạt động và lo lắng cho người chị ruột của mình, Nguyễn Thị Minh Khai.
    Và họ lại gặp nhau, không phải trong một khung cảnh nên thơ nào đó, mà là... trong nhà tù đế quốc - nhà lao Thừa Phủ, Huế. Sự kiện này trở thành một kỷ niệm quý giá, làm sâu nặng thêm mối tình thiêng liêng của họ. Khi ấy vào những năm 1929-1930, đang học tại trường Nữ sinh Đồng Khánh, chị Quang Thái được đoàn thể giao cho phát triển tổ "Nữ sinh đỏ". Học sinh trong trường truyền tay nhau những truyền đơn in thạch, giấu kín để đọc về những cuộc bãi công của công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ, về phong trào cách mạng Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Thế rồi xe hòm đen xông vào trường bắt nhiều học sinh lên xe đóng kín đưa đi. Chị Quang Thái bị bắt cùng các bạn của mình như chị Lài, chị Lý, chị Nga. Cùng bị bắt trong thời gian này có chị Nguyễn Khoa Diệu Hồng, sau này là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hà Nội thời kỳ 1954-1977. Chị Diệu Hồng nhớ mãi và nhiều lần nhắc lại câu nói nổi tiếng của Quang Thái nhắc nhở và động viên đồng chí trong tù: "Không ai tố giác bạn, bạn đừng tố giác ai", mà nguyên văn được nói bằng tiếng Pháp để bọn lính gác không hiểu được: "Personne ne vousa a dénoncés, ne dénoncéz personne". Khi Võ Nguyên Giáp bị bắt rồi bị giam vào nhà lao Thừa Phủ, đi ngang qua trại giam nữ, đã giật mình: Quang Thái. Rồi bài thơ đầy khí phách cách mạng của Quang Thái được chuyền tay nhau khắp nhà lao, Võ Nguyên Giáp càng mến phục, càng yêu Thái hơn. Bài thơ đó như sau:
    "Mười sáu năm nay sống ở đời
    Nhân tình nghĩ đến lệ đầy vơi
    Trông phường đế quốc lòng ngao ngán
    Thấy bạn cần lao dạ rối bời
    Quyết chí hy sinh thây kệ chết
    Dốc lòng phấn đấu mặc đầu rơi
    Ngọn cờ vô sản bao giờ phất
    Chín suối hồn ta mỉm miệng cười".
    Trong thời gian bị giam cầm ở nhà lao Thừa Phủ, anh Giáp cũng gặp lại người em trai của mình là Võ Thuần Nho cũng đang bị bắt giam tại đây. Lúc này, Võ Thuần Nho đang học tại trường Quốc học Huế, tham gia các hoạt động cách mạng sôi nổi trong "Hội học sinh đỏ" và ở cùng nhà với anh Giáp sau chùa Diệu Đế. Cứ mỗi buổi sáng hai anh em lại chia tay nhau, lòng không khỏi lo lắng: "Không biết hôm nay ai bị bắt? Liệu anh em có gặp lại nhau không?"
    Võ Thuần Nho đi học, Võ Nguyên Giáp đi làm ở báo Tiếng Dân của chí sĩ cách mạng Huỳnh Thúc Kháng. Thế rồi hai anh em gặp lại nhau trong nhà lao Thừa Phủ. Trong lần bị bắt này cũng có các thầy giáo trường Quốc học Huế như Giáo sư Đặng Thai Mai, Lê Thế Dị, Lê Thế Tiết.
    Hai người kết hôn khi Quang Thái tròn 20 tuổi. Sau khi sinh con gái Hồng Anh, Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc hoạt động. Sau này, Tướng Giáp đã nhắc lại, trong hoàn cảnh khó khăn, vì con còn quá nhỏ, không cùng đi thoát ly như đã ước hẹn được, chính chị Quang Thái đã tỏ ra cương quyết, động viên chồng rất nhiều trong việc yên lòng sang Trung Quốc hoạt động theo chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
    Trong hồi ký "Từ nhân dân mà ra" của mình, Tướng Giáp đã kể lại buổi chia tay với chị Quang Thái và con gái Hồng Anh bên Hồ Tây đầy cảm động: "Đến đường Cổ Ngư, qua chùa Trấn Vũ, tôi thấy Quang Thái ẵm Hồng Anh đã đứng đợi ở một gốc cây vắng người. Quang Thái rơm rớm nước mắt, thỉnh thoảng lại quay về phía mặt hồ để mọi người không chú ý. Tôi nói với Quang Thái ở nhà giữ liên lạc với các đồng chí, tiếp tục công tác, cố gắng gửi gắm Hồng Anh để đi hoạt động bí mật. Quang Thái nhắc tôi hết sức giữ gìn sức khoẻ và cẩn thận trong khi hoạt động, gắng tìm cách cho nhà biết tin. Một vài người quen đi ngang chào hỏi, tưởng chúng tôi đang đứng hóng mát. Chúng tôi đang nói chuyện thì có tiếng người hỏi phía sau:
    - Thầy có đi xe không?
    Quay lại, tôi nhận ra anh giáo Minh đang kéo một xe tay đứng đợi, tôi chia tay Quang Thái. Chúng tôi không ngờ phút chia tay đó lại là phút vĩnh biệt".
    Năm 1942, chị Quang Thái bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai, giam ở nhà lao Hoả Lò với mức án 16 năm tù giam. Nhà cách mạng lão thành Hoàng Thị Ái, nguyên Bí thư Đảng đoàn, nguyên Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, người bị giam cầm cùng chị Quang Thái, kể lại: Trong nhà lao, chị Quang Thái hết lòng chăm sóc, động viên đồng chí chị em dũng cảm, kiên quyết đấu tranh với địch, chống tra tấn, chống chế độ hà khắc của nhà tù thực dân. Chị đã bất chấp mọi cực hình tra tấn cuả địch, giữ trọn khí tiết của người đảng viên cộng sản kiên trung và đã hy sinh trong nhà tù Hoả Lò năm 1944. Còn cụ Nguyễn Thị Tam, cán bộ lão thành cách mạng, cô ruột nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, nhớ lại hình ảnh chị Quang Thái dạy chị em trong tù học văn hoá. "Trong tù không có giấy bút, nên phải lấy gạch non viết xuống sàn xi măng, nếu để lộ ra, con đầm giám ngục biết thì chúng tôi lại bị nhốt vào xà lim. Tuy thiếu thốn thế, nhưng chị em chúng tôi đều học rất tốt, lại còn được học thêm cả tiếng Pháp nữa". Cụ Tam cho biết như vậy trong hồi ký "Mười năm tù cấm cố trong Hoả Lò".
    Vào lúc chị Quang Thái bị địch bắt giam, đồng chí Võ Nguyên Giáp về nước theo chỉ thị của Bác Hồ, cùng các đồng chí lãnh đạo khác làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng xây dựng chiến khu Cao - Bắc - Lạng. Điều kiện hoạt động bí mật rất ngặt nghèo, lâu lâu anh mới gửi được về nhà một bức thư viết trên mẩu giấy thuốc lá khi có liên lạc trực tiếp. Đã có lần trong đợt khủng bố trắng của địch, anh ốm nặng, sốt cao. Không thể về nhà cơ sở vì giữ bí mật, một mình ngồi dưới gốc cây cổ thụ trong rừng đại ngàn, lo công việc cách mạng bị trì hoãn, rồi nghĩ... không biết mình có cơ hội gặp lại Quang Thái và con gái Hồng Anh không... Rồi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời với chiến công đầu Phai Khắt - Nà Ngần. Trong sự lớn mạnh của cách mạng, nhiều khi anh bắt gặp trong tâm trí mình hình ảnh vợ con, cha mẹ và nghĩ đến một ngày hội ngộ không còn xa... Vậy mà... mãi đến tháng 4/1945, trong Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ họp tại huyện Hiệp Hoà, Bắc Giang, anh mới nghe đồng chí Trường Chinh nhắc đến tin dữ mà tưởng anh đã biết: chị Thái đã hy sinh! Trong tập hồi ký "Những chặng đường lịch sử", Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể:
    "Tôi lặng người đi... Tôi bàng hoàng đi sang buồng bên, vẫn chưa tin hẳn điều các anh nói là sự thật!
    Tôi nằm nhớ lại ngày chúng tôi mới gặp nhau ở Huế trong khi cùng nhau hoạt động bí mật, nhớ những lời hứa hẹn cùng nhau phấn đấu suốt đời cho chủ nghĩa cộng sản, nhớ lại những điều đã dặn dò nhau khi chia tay, nghĩ đến Hồng Anh. Sau này tôi mới biết trong thời gian tôi đi xa, Thái vẫn tiếp tục hoạt động, làm công tác thông tin liên lạc cho Trung ương. Sau chuyến đi Sài Gòn để gặp chị Nguyễn Thị Minh Khai lần cuối cùng trước khi chị bị đế quốc đem xử bắn, trở về nhà ít lâu thì bị bắt. Trong nhà tù, bọn đế quốc đã dùng mọi cực hình tra tấn để truy tìm mối dây liên lạc với anh Hoàng Văn Thụ, Thái đã quyết không khai một lời, giữ trọn khí tiết của người Đảng viên Cộng sản và đã mất tại nhà giam Hoả Lò, Hà Nội".
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng con gái Hồng Anh đã nhiều lần đến thăm khu di tích Hoả Lò, cùng Ban liên lạc và nhiều chiến sĩ cách mạng từng bị đế quốc giam cầm tại đây thắp hương và đặt vòng hoa tại nơi người vợ, người mẹ của họ cùng bao nhiêu người con ưu tú của đất nước đã vượt qua mọi cực hình tra tấn, giữ trọn khí tiết của người chiến sĩ, đã sống anh dũng - chết vẻ vang.
    Võ Hồng Anh mất mẹ khi còn quá bé. Nhưng những tình cảm sâu nặng, thiêng liêng, sự khâm phục quý trọng mà ông bà nội, ngoại, ba chị và những người thân khác của mẹ, gìn giữ và truyền cho chị, như "Tâm truyền Tâm", và cả sợi dây tâm linh vô hình của huyết thống đã cho chị có được và giữ mãi một hình ảnh rõ nét, sinh động và xác thực của mẹ. "Trong suốt tuổi thơ, thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành, hình ảnh của mẹ trong tôi luôn là sự kết tinh hài hoà của tâm hồn và trí tuệ, của sự dịu dàng và lòng kiên định, của cái đẹp hình thức và nội tâm. Hình ảnh ấy luôn thể hiện bên hình ảnh người cha để dẫn dắt tôi trên mọi nẻo đường của cuộc đời. Và tôi luôn ước ao mình có được một chút gì giống như thế" - Giáo sư Võ Hồng Anh tâm sự.
    http://www.vnn.vn/psks/baoban/2005/02/375879/

Chia sẻ trang này