1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận hải chiến bên bờ sông Nile ( tiếp theo)
    Vịnh Aboukir Bay
    Khi thấy bến cảng Alexandria không đủ sâu cho hạm đội của mình, Brueys đã tập hợp các thuyền trưởng của mình và thảo luận về lựa chọn của họ. Bonaparte ra lệnh cho hạm đội neo ở Aboukir Vịnh, một neo cạn và chống chải, nhưng có bổ sung các mệnh lệnh với đề nghị rằng nếu Brueys thấy vịnh Aboukir quá nguy hiểm thì có thể đi thuyền về phía bắc tới Corfu, chỉ để lại tầu vận tải và một số tàu chiến nhẹ tại Alexandria. Brueys từ chối, với niềm tin rằng hạm đội của ông có thể cung cấp hỗ trợ cần thiết cho quân đội Pháp trên bờ biển, và cho gọi các thuyền trưởng của ông trên boong chiếc tàu 120 súng kỳ hạm Phương Đông để thảo luận về việc phản ứng như thế nào nếu Nelson tìm ra các đội tàu tại nơi neo đậu của nó. Bất chấp sự phản đối cao giọng của Chuẩn đô đốc Armand Blanquet, người nhấn mạnh rằng hạm đội tốt nhất có thể đáp trả (quân Anh) trong vùng nước mở, các thuyền trưởng đều nhất trí rằng neo đậu trong một tuyến chiến đấu bên trong vịnh sẽ tạo ra một hoả lực mạnh để đối phó với Nelson. Có thể là Bonaparte dự tính cho các tầu thả neo để tạo một căn cứ tạm thời, trong ngày 27 Tháng bảy, ông bày tỏ sự kỳ vọng rằng Brueys sẽ chuyển tới Alexandria và ba ngày sau đó đã ban hành lệnh cho các đội tàu sửa soạn tới Corfu để chuẩn bị cho các hoạt động của hải quân chống lại các lãnh thổ của Đế quốc Ottoman trong vùng Balkan.
    Vịnh Aboukir là một chỗ thụt vào ở ven biển dài 16 hải lý (30 km), kéo qua từ làng Abu Qir phía tây đến thị trấn Rosetta ở phía Đông, nơi mà một trong những cửa của con Sông Nile chảy vào Địa Trung Hải. Năm 1798 vịnh được bảo vệ ở cuối phía tây của nó bằng các bãi cát ngầm rộng chạy dài 3 dặm (4,8 km) vào vịnh từ một doi đất được phòng vệ bởi lâu đài Aboukir. Những bãi cát ngầm cũng đã được bảo vệ bởi một pháo đài nhỏ nằm trên một hòn đảo giữa các tảng đá. Pháo đài này được đồn trú bởi lính Pháp và trang bị ít nhất bốn khẩu pháo và hai khẩu cối hạng nặng. Brueys đã tăng cường cho các đồn với tàu phóng bom và pháo hạm, được buông neo ở phía các tảng đá ở phía tây của hòn đảo ở một vị trí để cung cấp hỗ trợ cho chiếc tầu đứng đầu đội hình tuyến của Pháp. Các bãi cát ngầm chạy không đều ở phía nam của đảo và mở rộng trên vịnh biển và trong một hình bán nguyệt khoảng 1.650 yard (1.510 m) từ bờ biển. Những bãi cát ngầm quá cạn để cho phép các tàu chiến lớn hơn đi qua, do đó Brueys đã ra lệnh mười ba tàu của ông lập đội hình thành một tuyến của trận đánh sau rìa đông bắc của bãi cát ngầm ở phía nam của đảo, một vị trí cho phép các tàu để lấy nguồn cung cấp từ phía cảng của họ trong khi kiểm soát cả việc đổ bộ với pháo mạn phải của họ. Một tuyến thứ hai bên trong bốn tàu khu trục được bố trí khoảng 350 yards (320 m) ở phía tây của tuyến chính, khoảng nằm giữa đội hình chiến đấu và bãi cát ngầm. Các tầu tiên phong của Pháp được chỉ huy bởi chiếc Guerrier, được định vị ở khoảng 2.400 yards (2.200 m) phía đông nam của đảo Aboukir và khoảng 1.000 yards (910 m) từ các cạnh của bãi cát ngầm bao quanh các hòn đảo. Đội hình tuyến sau đó kéo dài về phía đông nam với trung tâm hướng mũi ra phía biển từ bãi cát ngầm. Các tàu chiến của Pháp có khoảng cách với nhau khoảng 160 yards (150 m) và toàn bộ đội hình tuyến kéo dài 2.850 yards (2.610 m), với kỳ hạm Phương Đông ở trung tâm và hai tàu lớn 80-gun, neo ở hai bên. Đội hậu quân của đội hình này dưới sự chỉ huy của Chuẩn đô đốc Pierre-Charles Villeneuve trong chiếc Guillaume Tell.
    Bằng việc triển khai các tàu của mình theo cách này, Brueys hy vọng rằng người Anh sẽ bị mắc vào các bãi cát ngầm khi tấn công vào đội hình trung tâm trang bị mạnh mẽ của mình và đội hậu quân, cho phép đội tiền quân của mình để sử dụng gió đông bắc để phản công người Anh khi họ (tiền quân Pháp) tham gia vào trận đánh. Tuy nhiên, ông đã thực hiện một sự xét đoán sai nghiêm trọng: có đủ chỗ giữa chiếc Guerrier và bãi cát ngầm cho một tàu của đối phương đi cắt ngang qua chiếc đứng đầu đội hình tuyến của Pháp, làm cho các tầu tiên phong không được hỗ trợ và rơi vào trường hợp bị bắn chéo cánh sẻ từ hai đội tàu của đối phương. Trong bố trí của Brueys có một lỗ hổng quan trọng thứ hai, đó là khoảng trống 160 yard giữa các tàu là đủ lớn cho một chiếc tàu của Anh xuyên qua và phá vỡ đội hình tuyến của Pháp, và không phải tất cả các thuyền trưởng của ông đã làm theo lệnh buộc kèm dây cáp vào mũi và đuôi tầu bên cạnh họ, nếu làm việc này đã có thể ngăn ngừa sự vận động uyển chuyển của người Anh. Vấn đề đã trở nên nghiêm trọng bởi mệnh lệnh cho phép chỉ neo tại các mũi, cho phép các tàu dịch chuyển trong gió và mở rộng các khoảng trống. Nó cũng tạo ra các khu vực trong đội hình của Pháp mà (khu vực này) không bị bao phủ bởi những pháo mạn của bất kỳ tàu nào, trong khu vực đó một tàu của Anh có thể neo và tấn công tầu của Pháp mà không sợ bị bắn trả . Ngoài ra, việc triển khai các hạm đội của ông ta (người Pháp) ngăn cản đôị hậu quân hỗ trợ có hiệu quả các các tầu tiên phong do gió mậu dịch.
    Một vấn đề bức xúc hơn cho Brueys là một thiếu thức ăn và nước cho các đội tàu: Bonaparte đã bốc dỡ gần như tất cả các đồ cung cấp dự trữ trên tàu và không có nguồn cung cấp đã được mang tới cho các tàu từ bờ biển. Để khắc phục điều này, Brueys gửi các đội đi lục lọi dọc theo bờ biển để trưng thu thực phẩm và lấy nước, nhưng các cuộc tấn công liên tục của du kích Bedouin yêu cầu mỗi đội tầu phải có một đội bảo vệ vũ trang hạng nặng, dẫn đến một phần ba thủy thủ của hạm đội phải ra khỏi tàu của họ tại bất kỳ thời gian nào. Brueys đã viết một lá thư mô tả tình hình đển Bộ trưởng Hải quân Étienne Eustache Bruix, báo cáo rằng " Thuỷ thủ đoàn của chúng tôi rất yếu, cả về số lượng và chất lượng, buồm cơ của chúng tôi, nói chung không sửa chữa được nữa, và tôi chắc chắn rằng phải đòi hỏi không ít can đảm để quản lý một hạm đội được trang bị với các công cụ như vậy."
    Khi Nelson đến
    Mặc dù ban đầu thất vọng rằng phần chính của hạm đội Pháp đã không ở tại Alexandria, Nelson biết từ quá trình vận chuyển rằng họ phải ở gần đó. Lúc 14:00 ngày 01 Tháng 8, những người đứng gác trên chiếc HMS Zealous báo cáo rằng Hạm đội của Pháp neo trong vịnh, trung úy tín hiệu của nó (chiếc HMS Zealous) đánh tín hiệu cho trung úy của chiếc HMS Goliath, nhưng miêu tả không chính xác 16 tàu tiền tuyến Pháp thay vì 13. Những người gứng gác của tầu Pháp đồng thời nhìn cũng thấy hạm đội Anh, khoảng 9 hải lý (17 km) ở ngoài cửa Vịnh Aboukir, mặc dù chiếc Swiftsure và Alexander đã trở về từ Alexandria, và đã đi được dặm 3 hải lý (5,6 km) về phía tây của hạm đội chính, ra khỏi tầm mắt. Troubridge của tàu HMS Culloden ở một khoảng cách khá xa đội hình chính, kéo một chiếc tàu buôn bị bắt. Trong tầm mắt của người Pháp, Troubridge bỏ con tàu kia lại và không ngừng hăng hái để tái gia nhập đội của Nelson. Do cần thiết phải để nhiều thủy thủ làm việc trên bờ, Brueys không triển khai các tàu chiến nhẹ hơn của ông như các chiếc tầu trinh sát, mà ông ta còn không thể nhanh chóng phản ứng trước sự xuất hiện bất ngờ của người Anh. Khi tàu của ông sẵn sàng cho chiến đấu, Brueys vội vàng thu hồi thủy thủ của ông từ bờ, mặc dù hầu hết các đội thủy thủ đi kiếm lương thực vẫn không quay lại cho đến khi thời gian của trận đánh bắt đầu. Để thay thế cho họ, một số lượng lớn người đã được đưa ra khỏi tàu khu trục và phân phối vào các tàu của tuyến. Brueys cũng hy vọng sẽ thu hút các hạm đội Anh vào bãi cát ngầm tại Đảo Aboukir, và tung các chiếc brig Alerte và Railleur để hoạt động như mồi nhử trong vùng nước nông. Vào l úc 16:00 hai chiếc Alexander và Swiftsure vẫn ở trong tầm mắt, mặc dù chỉ cách hạm đội chính của Anh một khoảng, và Brueys đã cho lệnh bỏ kế hoạch thả neo và thay vào đó cho ra lệnh cho đội tầu của mình căng buồm lên. Nelson sau đó lệnh cho tàu đi đầu của mình chậm lại để cho phép các đội tàu tiếp cận với một đội hình có tổ chức. Việc này đã thuyết phục Brueys rằng thay bằng một trận chiến vào buổi tối ở các vùng nước nông, người Anh có lập kế hoạch để chờ ngày hôm sau, và ông đã hủy bỏ lệnh của mình trước đó để dương buồm. Brueys có thể đã hy vọng rằng sự chậm trễ sẽ cho phép ông ta trượt qua người Anh trong đêm và do đó làm theo mệnh lệnh của Bonaparte không tham gia chiến đấu trực tiếp với hạm đội Anh, nếu họ có thể tránh được. ( nếu người Pháp có đủ dũng cảm để giao chiến như người Hà Lan thì họ đâu có thua đến mức te tua như vậy)
    Mệnh lệnh của Nelson là tiến chậm, được đưa ra vào lúc 16:00, để cho tàu của ông có thể xắp sếp các cáp neo của họ, điều này cho phép họ đưa đi đưa lại các pháo mạn của mình khi đối mặt với kẻ thù bị thả neo bất động. Nó cũng làm giảm nguy cơ bị bắn vào cột buồm (raking) khi họ di chuyển vào vị trí. Kế hoạch của Nelson được định hình thông qua các cuộc thảo luận với thuyền trưởng cấp cao của ông trong suốt chuyến đi trở về Alexandria, là tiến về phía quân Pháp và tấn công từ phía biển đội hình tiền quân và trung tâm của đội hình tuyến của Pháp, sao cho mỗi tàu Pháp sẽ phải đối mặt với hai tàu của Anh và chiếc kỳ hạm Phương Đông sẽ phải chiến đấu chống lại ba chiếc tầu đối phương. Hướng gió chỉ ra rằng đội hậu quân Pháp sẽ bị cắt ra từ phía sau và không thể dễ dàng tham gia vào cuộc chiến và sẽ bị cắt bỏ với phần phía trước của đội hình tuyến. Để đảm bảo rằng trong khói và sự dễ nhầm lẫn của một trận chiến đêm các tàu của ông sẽ không vô tình bắn vào nhau, Nelson đã ra lệnh cho rằng mỗi con tàu chuẩn bị bốn đèn ngang ở phần đầu cột buồm giữa của tầu của họ và cũng để chiếu sáng cờ hiệu trắng, Đó là sự khác nhau khi cờ của người Pháp có đủ ba màu rõ rằng người ta sẽ không bị lầm lẫn trong tầm nhìn hạn chế. Khi con tàu đã sẵn sàng cho trận đánh, Nelson đã tổ chức một bữa ăn tối cuối cùng với các sĩ quan của tầu Vanguar, và nói rằng: " trong thời gian này của ngày mai hoặc là tôi sẽ có được một chiến thắng hoặc là Tu viện Westminster. (ý nói nếu thua ông ta sẽ chết và xác sẽ được gửi về tu viện Westminster) "
    Ngay sau khi lệnh căng buồm của Pháp lại bị huỷ bỏ, hạm đội Anh bắt đầu tiến lại gần một lần nữa và Brueys, bây giờ nhất định rằng có một cuộc tấn công vào ban đêm, ra lệnh cho các tàu của ông cũng đặt ( spring) trên dây neo của họ và chuẩn bị cho chiến đấu. Chiếc Alerte đã được gửi đi trước, đi qua gần các tàu hàng đầu của Anh và sau đó ngoặt nhanh về phía tây với hy vọng rằng các tàu của Anh có thể làm theo và trở nên bị mắc cạn. Không có thuyền trưởng nào của Nelson mắc phải mưu mẹo này và hạm đội Anh tiếp tục tiến lên một cách không nao núng. Lúc 17:30 Nelson ca ngợi một trong hai chiếc tàu hàng đầu của ông, chiếc HMS Zealous dưới thuyền trưởng Samuel Hood, vốn đang chạy đua với chiếc Goliath để là người đầu tiên bắn vào người Pháp. Đô đốc đã ra lệnh cho Hood tiến hành một di chuyển an toàn nhất vào bến cảng; người Anh không có bảng xếp hạng độ sâu hoặc hình dạng của vịnh, ngoại trừ một bản đồ họa thô mà chiếc Swiftsure đã thu được từ một thuyền trưởng tầu buôn, một tập bản đồ không chính xác của người Anh trên chiếc HMS Zealous và một bản đồ Pháp 35 năm tuổi trên tàu Goliath. Hood trả lời rằng ông sẽ đi cẩn thận dò độ sâu khi ông tiến lên, để kiểm tra độ sâu của nước. Ngay sau đó, Nelson phải tạm dừng để nói chuyện với chiếc HMS Mutine, mà chỉ huy của nó là Trung úy Thomas Hardy vừa mới bắt được một hoa tiêu từ một tàu nhỏ ở Alexandrine. Chiếc Vanguard đến để chặn lại, các tàu phía sau đi chậm lại. Điều này gây ra một khoảng cách lớn giữa chiếc Zealous và Goliath và phần còn lại của đội tàu. Để cuộc tấn công này có hiệu lực, Nelson ra lệnh cho chiếc HMS Theseus dưới thuyền trưởng Ralph Miller vượt qua kỳ hạm của mình và tham gia cùng với chiếc Zealous và Goliath trong đội hình tiên phong. Vào lúc 18:00, hạm đội Anh đã căng buồm đầy đủ, chiếc Vanguard là thứ sáu trong đội hình mười tàu, với chiếc Culloden bị dấu ở đằng sau về phía bắc và hai chiếc Alexander và Swiftsure chạy nhanh để bắt kịp về phía tây. Sau sự thay đổi nhanh chóng từ một đội hình không chặt trẽ để hình thành một đội hình tuyến chiến đấu cả hai hạm đội kéo cao cờ của mình lên cột buồm, các tàu của Anh được bổ sung thêm chiếc Union Jack. Lúc 18:20, chiếc Zealous và Goliath nhanh chóng lac vào hai tầu hàng đầu của Pháp chiếc Guerrier và Conquérant và nổ súng.
    Trận đánh
    [​IMG]
    Sơ đồ trận Hải chiến sông Nile tại Vịnh Aboukir
    [​IMG]
    Tranh vẽ tại TK19 tổng quát về trận Hải chiến sông Nile
    Mười phút sau khi nổ súng vào tầu Pháp chiếc Goliath bất chấp đạn bắn từ pháo đài để lái sang phải và từ chiếc Guerrier tới cảng, vượt qua phần đầu của dòng tầu Pháp. Thuyền trưởng Thomas Foley nhận thấy là ông đã tiếp cận trong một khoảng cách không mong muốn giữa chiếc Guerrier và mực nước nông của của các bãi cát này. Bằng sự sáng tạo của mình, Foley đã quyết định sửa chữa lỗi chiến thuật này và thay đổi góc của ông để đi thuyền qua khoảng cách này. Khi mũi của chiếc Guerrier trong phạm vi tầm bắn, chiếc Goliath nổ súng, các pháo mạn bắn đạn đôi gây thiệt hại nghiêm trọng trong khi tàu Anh quay sang mạn bên kia, phía mạn không được chuẩn bị gì của chiếc Guerrier. Foley đã có dự định neo tàu ở cạnh tàu Pháp và áp chặt vào nó, nhưng dây neo của ông lại quá dài để hạ xuống và tàu của ông hoàn toàn vượt qua chiếc Guerrier. Chiếc Goliath cuối cùng dừng lại ở gần mũi của chiếc Conquérant (Pháp), nổ súng vào đối thủ mới và sử dụng súng mạn phải bắn qua bắn lại với các tàu khu trục nhỏ Sérieuse và tàu tầu phóng bom Hercule đang được neo gần bờ của đội hình tuyến chiến đáu. Foley tấn công tiếp liên trong khi chiếc Zealous của Hood, cũng đi qua tuyến tầu của Pháp và neo thành công bên cạnh cạnh chiếc Guerrier vào đúng chỗ Foley đã định neo tầu, tấn công vào mũi tàu Pháp từ cự ly gần. Trong vòng năm phút cột buồm mui của chiếc Guerrier gẫy, tạo nên sự khuyến khích cho tàu của Anh. Các thuyền trưởng người Pháp đã bị bất ngờ bởi tốc độ của tầu Anh, và vẫn ở trên boong của tàu Phương Đông và hội họp với các đô đốc khi trận đánh bắt đầu (đô đốc Pháp ngu tệ, quân địch đến đít rồi vẫn hội với nghị). Vội vàng hạ thủy các con xuồng nhỏ để trở về tàu của họ, thuyền trưởng Jean-François-Timothée Trullet của chiếc Guerrier hò hét từ trên một chiếc xuồng nhỏ để ra lệnh cho người của mình bắn trả chiếc Zealous.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:24 ngày 20/11/2009
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận hải chiến bên bờ sông Nile ( tiếp theo)
    [​IMG]
    Tranh vẽ lúc tầu Anh bắt đầu tiến vào vịnh Abourkir, mở màn cho trận sông Nile
    Chiếc tàu thứ ba của Anh HMS Orion tham gia tấn công dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Sir James Saumarez, làm tròn sự tham gia ở phần đầu của dòng chiến và xuyên qua giữa dòng chính của Pháp và các tàu khu trục nằm gần bờ. Và ông đã làm như vậy, con tàu khu trục nhỏ Sérieuse nổ súng vào chiếc Orion, làm bị thương hai người . Theo quy ước trong hải chiến thời đó là tàu tiền tuyến không tấn công các tàu khu trục khi có các tầu có kích cỡ tương đương để tấn công, nhưng trong loạt bắn đầu tiên thuyền trưởng Claude-Jean Martin (của tầu khu trục Sérieuse) đã nhổ toẹt vào quy tắc này và Saumarez đợi cho đến khi chiếc tàu khu trục nhỏ vào cự ly gần trước khi bắn trả. Orion chỉ cần nổ một loạt pháo mạn là hạ ngay một tàu khu trục nhỏ, tàu bị vô hiệu hoá của Martin trôi đi trong vùng nước nông. Trong lúc chậm trễ do đường vòng này, hai tàu khác của Anh tham gia vào cuộc chiến chiếc Theseus vượt dòng Pháp giữa hai chiếc Guerrier và Conquérant, Miller lái tàu của mình đi xuyên qua giữa cuộc hỗn chiến của các tàu Anh và Pháp cho đến khi ông gặp con tàu thứ ba của Pháp chiếc Spartiate. Neo xong Miller nổ súng ở cự ly gần. Chiếc HMS Audacious dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Davidge Gould theo sau, thả neo giữa chiếc Guerrier và Conquérant và bắn vào cột buồm của họ. Chiếc Orion sau đó tham gia vào tấn công ở xa hơn về phía nam so với dự định, và bắn vào chiếc tàu thứ năm của Pháp Peuple Souverain và chiếc hạm Franklin của Đô đốc Blanquet.
    [​IMG]
    Hải đội tiền quân của Pháp bị tấn công
    Ba tầu tiếp theo Anh do chiếc Vanguard dẫn đầu theo sau là hai chiếc HMS Minotaur và HMS Defence, vẫn giữ đội hình tuyến chiến đấu và thả neo ở bên mạn phải của đội hình của người Pháp lúc 18:40 Nelson tập trung pháo hạm của ông vào chiếc Spartiate, trong khi thuyền trưởng Thomas Louis của chiếc Minotaur tấn công chiếc Aquilon và thuyền trưởng John Peyton của chiếc Defence tham gia vào các cuộc tấn công chiếc Peuple Souverain. Lúc này đội tiên phong của Pháp bị tràn ngập bởi rất nhiều tầu Anh, sau đó hai chiếc tàu Anh là HMS Bellerophon và HMS Majestic đi xuyên qua chận hỗn chiến và tiến về phía đội trung tâm của Pháp cho đến lúc này vẫn chưa giao chiến. Cả hai tàu này phải chiến đấu với kẻ thù mạnh hơn mình và bắt đầu thiệt hại nghiêm trọng: Thuyền trưởng Henry Darby trên chiếc Bellerophon lỡ mất dự định của ông là thả neo gần chiếc Franklin, và thay vào đó tàu của ông lại đến đúng bên dưới khẩu đội pháo chính của chiếc kỳ hạm Pháp, trong khi thuyền trưởng George Blagdon Westcott trên chiếc Majestic cũng bị mất chỗ neo của mình và gần như va chạm với chiếc Heureux, và bị dính đạn nặng nề nặng từ chiếc Tonnant. Không thể dừng lại trong lúc này, Chiếc tầu kiểu Job Boom của Westcott chạy xung quanh chiếc Tonnan, làm cho chiếc nàu bị lúng túng. Các tàu Pháp cũng bị trúng quá nhiều phát bắn: Đô đốc Brueys trên chiếc Phương Đông bị thương nặng nề ở vùng mặt và tay bởi các mảnh vỡ bay trong khi bắn qua lại với chiếc Bellerophon. Con tàu cuối cùng của đội tầu Anh, chiếc Culloden theo Troubridge, khởi hành quá gần đảo Aboukir trong màn đêm đang lan nhanh và bị mắc kẹt trên các bãi cát ngầm. Bất chấp những nỗ lực vất vả từ thủy thủ đoàn của con tàu, các tầu brig Mutine và tầu 50 súng HMS Leander dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Thomas Thompson, Con tàu tiền tuyến này không thể di chuyển được, những chuyển động của sóng biển đẩy chiếc Culloden sâu thêm vào bãi cát ngầm gây thiệt hại nghiêm trọng cho thân của Troubridge.
    Tầu tiên phong Pháp đầu hàng
    Vào lúc 19:00 đèn nhận dạng tại cột buồm trung tâm của hạm đội Anh đã được thắp sáng. Vào thời gian này, chiếc Guerrier đã hoàn toàn bị gãy hết cột buồm và thiệt hại nặng nề: Hood để cho chiếc Zealous ở bên ngoài tầm của hầu hết các pháo mạn tàu Pháp và trong bất kỳ trường hợp nào chiếc Guerrier đã không được chuẩn bị sẵn sàng cho một trận đánh với các khẩu đội pháo ở đồng thời cả hai bên mạn, với cửa các hàng súng bị chặn cổng. Mặc dù tàu của họ chỉ là còn là một cái xác đầy thương tích, các thủy thủy đoàn của chiếc Guerrier từ chối không chịu đầu hàng, họ vẫn tiếp tục bắn vài khẩu súng nhỏ mỗi khi có thể bất chấp đạn hạng nặng bắn từ chiếc Zealous. Ngoài súng hạng nặng của mình, Hood lệnh cho Thủy quân lục chiến Hoàng gia trên tầu của mình bắn súng hỏa mai cầu vồng vào boong của tàu Pháp, xua thủy thủ đoàn ra khỏi tầm mắt nhưng vẫn thất bại trong việc đảm bảo an toàn cho sự đầu hàng của thuyền trưởng Trullet. Mãi cho đến 21:00, khi Hood gửi một chiếc thuyền nhỏ đển chiếc Guerrier với một đội thủy thủ nhảy lên boong, thì chiếc tàu Pháp cuối cùng mới chịu đầu hàng. Chiếc Conquérant bị đánh bại nhanh chóng, sau những loạt pháo mạn hạng nặng từ các tàu Anh đang vượt qua và sự áp sát của chiếc Audacious và Goliath đánh gẫy cả ba cột buồm trước 19:00. Với con tàu bất động và hư hỏng nặng của mình, vị thuyền trưởng Etienne Dalbarade đang bị thương nặng cho lệnh vẫy cờ đầu hàng. Và một đội thủy thủ Anh đổ bộ lên boong và nắm quyền kiểm soát con tầu. Không giống như chiếc Zealous, Tàu của Anh tham gia tấn công đã bị hư hại khá nghiêm trọng, chiếc Goliath mất phần lớn buồm của nó, cả ba cột buồm đều bị thiệt hại và có hơn 60 thương vong. Với những đối thủ mà ông đánh bại, Thuyền trưởng Gould trong chiếc Audacious sử dụng vào lò xo trên cáp của mình để bắn vào chiếc Spartiate, chiếc tiếp theo trong dòng tầu Pháp. Về phía tây của trận đánh chiếc Serieusé chìm trong bãi cát ngầm, cột buồm nhô ra từ mặt nước và những người còn sống sót tranh giành các xuồng cứu sinh và bơi vào bờ.
    [​IMG]
    Tranh vẽ đô đốc Nelson (người đầu quấn băng) dù bị thương vẫn không rời vị trí chỉ huy
    Việc chiếc tầu Audacious dùng pháo mạn để bắn chiếc Spartiate có nghĩa rằng thuyền trưởng Maurice-Julien Emeriau (của chiếc Spartiate) bây giờ đã phải đối mặt với ba đối thủ. Trong vòng vài phút cả ba cột buồm đã gẫy, nhưng các trận đánh trên tàu vẫn tiếp tục cho đến 21:00, khi đó do bị thương nặng Emeriau mới cho phất cờ chấp nhận đầu hàng. Mặc dù chiếc Spartiate bị tràn ngập bởi số lượng đối thủ lớn hơn, con tàu này thỉnh thoảng được hỗ trợ bởi chiếc tiếp theo trong dòng, Aquilon, mà đây là chiếc duy nhất của Hải đội tiên phong Pháp được chiến đấu chỉ với một đối thủ, chiếc Minotaur. Thuyền trưởng Henri-Alexandre Thévenard sử dụng các lò xo trên cáp neo của mình để tạo góc bắn pháo mạn của mình vào một vị trí bắn thia lia vào mũi chiếc kỳ hạm của Nelson, kết quả tạo ra hơn 100 thương vong, trong đó có cả vị đô đốc (Nelson). Vào lúc khoảng 20:30, con mắt bên phải của Nelson bị mù mắt bởi một mảnh vụn sắt bắn vào một loạt bắn của chiếc Spartiate. Vết thương tạo ra một miếng da lòng thòng trên mặt của ông, ông ta (Nelson) tạm thời bị mù hoàn toàn. Nelson ngã vào cánh tay của thuyền trưởng Edward Berry và được đặt nằm ở dưới đất. Cho rằng vết thương của ông sẽ gây tử vong, ông khóc và nói " Tôi bị giết rồi hãy nhớ chăm sóc vợ tôi" và gọi linh mục Stephen Comyn tới. Vết thương đã được kiểm tra ngay lập tức bác sĩ phẫu thuật Michael Jefferson của chiếc Vanguard, người đã thông báo với đô đốc rằng nó chỉ là một vết thương phần mềm đơn giản và khâu vết thương ngoài da với nhau. Nelson sau đó bỏ qua các hướng dẫn của Jefferson là không hoạt động, trở lại boong chỉ huy ngay trước khi vụ nổ trên chiếc Phương Đông xảy ra để giám sát việc kết thúc các giai đoạn của trận đánh. Mặc dù đã có được một số thành công, chiếc Aquilon quay vòng mũi tầu tại vị trí của mình dưới các làn đạn của chiếc Minotaur và đến 21:25 tàu Pháp đã hoàn toàn bị gãy hết cột buồm và thiệt hại nặng nề, Thuyền trưởng Thévenard thiệt mạng và các sỹ quan của ông buộc phải đầu hàng. Saukhi đánh bại đối thủ của mình, thuyền trưởng Thomas Louis của chiếc Minotaur tiến về phía nam tham gia các cuộc tấn công vào chiếc Franklin.
    Chiếc tàu thứ năm của Pháp, Peuple Souverain bị tấn công từ bên bởi hoặc bởi chiếc Defence hoặc chiếc Orion và nhanh chóng bị mất phần mũi và cột buồm chính, Thuyền trưởng Saumarez (tầu Orion - Anh) mặc dù bị thương ở đùi bằng một mảnh gỗ bị bắn văng ra từ một trong những cột buồm của chiếc Orion và nó cũng giết chết hai người lính thủy khác trước khi làm ông ta bị thương. Trên chiếc Peuple Souverain, thuyền trưởng bị thương nặng Pierre-Paul Raccord đã ra lệnh cắt cáp neo tàu của ông trong một nỗ lực để thoát khỏi trận pháo kích và Peuple Souverain trôi dạt về phía nam của hạm Phương Đông, Có nổ súng nhầm lẫn trên các tàu trời tối. Chiếc Orion và Defence không thể ngay lập tức theo đuổi, Chiếc Defence đã mất cột buồm trước của nó và Orion suýt bị phá hủy bởi một chiếc fireship tình cờ trôi dạt qua trận đánh. Nguồn gốc của tàu này là một bị bỏ lại và đốt cháy với hắc ín và với các vật liệu dễ cháy, không chắc chắn chiếc tầu này là của bên nào nhưng nó có thể đã được phóng ra từ chiếc Guerrier khi trận chiến bắt đầu. chiếc Peuple Souverain neo không xa chiếc Phương Đông, và không tham gia thêm vào một cuộc giao tranh nào nữa. Các tàu đắm đầu hàng vào ban đêm. Về phía Nam, chiếc Bellerophon gặp rắc rối nghiêm trọng với hệ thống pháo mạn cực lớn của chiếc Phương Đông, chúng đã đánh nát con tàu này. Vào lúc 19:50 các buồm giữa và buồm chính đều đổ gục và cháy nổ xảy ra đồng thời ở một vài chỗ. Mặc dù đã được dập tắt các đám cháy chiếc tàu (chiếc Bellerophon) đã có hơn 200 thương vong. Thuyền trưởng Darby công nhận rằng vị trí của ông đã không thê? tự ba?o vệ và đã ra lệnh cắt dây neo lúc 20:20, con tàu mang đầy thương tích trôi ra khỏi cuộc chiến và tiếp tục dính đạn từ chiếc Tonnant làm cột buồm mui cũng sụp đổ. Chiếc Phương Đông cũng bị hư hại đáng kể và Đô đốc Brueys đã bị bắn trúng vào cơ hoành bằng bằng một viên đạn hình cầu cắt gần một nửa người của ông. Đô đốc Pháp có mười lăm phút hấp hối trước khi chết, ông vẫn cố nằm lại trên boong và từ chối được cáng xuống boong dưới bởi người của mình. Thuyền trưởng Luc-Julien-Joseph Casabianca của chiếc Phương Đông cũng đã bị thương trúng vào mặt bằng mảnh gỗ vỡ bay và bất tỉnh. Chiếc tầu Anh cuối cùng lao vào tấn công là chiếc Majestic, trong một khoảng thời gian ngắn vướng mắc vào chiếc tầu 80-súng Tonnant của Pháp, thuyền trưởng Westcott đã bị giết bởi súng hỏa mai Pháp. Trung úy Robert Cuthbert được chỉ định làm thuyền trưởng và ra lệnh tách tàu của mình ra, cho phép chiếc Majestic bị hư hỏng nặng trôi dạt về phía nam đến 20:30 nó đã định vị ở giữa chiếc Tonnant và chiếc Heureux ở đội hình tiếp theo. Để hỗ trợ đội hình trung tâm, thuyền trưởng Thompson của chiếc Leander từ bỏ những nỗ lực vô ích để kéo chiếc Culloden ra khỏi bãi cát ngầm và đi vào thế trận của dòng tầu Pháp, qua khoảng trống được tạo ra bởi chiếc Peuple Souverain bị thả trôi và nổ một loạt súng kinh hồn vào chiếc Franklin.
    Trong khi trận đánh đang diễn ra một cách cuồng bạo ở trong vịnh, hai chiếc tầu không còn thứ tự của Anh không ngừng tiến lên để tham gia chiến đấu, chúng tập trung vào các nhấp nháy của tiếng súng trong bóng tối. Được cảnh báo từ các bãi cát ngầm của Aboukir từ chiếc Culloden, thuyền trưởng Benjamin Hallowell trong chiếc Swiftsure đi xuyên qua các trận hỗn chiến ở phần đầu của dòng này và nhằm tàu của ông vào đội hình trung tâm của Pháp. Ngay sau lúc 20:00, một thân tầu gãy hết cột buồm đã được phát hiện trôi trước mặt chiếc Swiftsure, Hallowell bước đầu ra lệnh cho người của mình trước khi hủy bỏ mệnh lệnh, quan tâm về dạng của chiếc tàu lạ ông ta cho gọi tới tấp, Hallowell nhận được câu trả lời "Bellerophon, ra khỏi trận đánh vì mất sức chiến đấu." Để chắc chắn rằng ông đã không tấn công mhầm lẫn một tàu của quân mình trong bóng tối, Hallowell đi lên giữa chiếc Phương Đông và Franklin và nổ súng vào cả hai. Chiếc Alexander, chiếc tầu Anh cuối cùng chưa tham chiến bơi lại gần chiếc Tonnant, lúc này (chiếc Tonnant) đã bắt đầu trôi dạt ra khỏi vị trí bên cạnh chiếc kỳ hạm Pháp. Sau đó thuyền trưởng Alexander Ball sau đó ra lệnh tham gia vào cuộc tấn công chiếc Phương Đông.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:22 ngày 20/11/2009
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tiêu diệt chiếc Kỳ hạm Phương Đông
    [​IMG]
    Tranh vẽ khoảnh khắc chiếc Kỳ hạm Phương Đông phát nổ, vinh danh hơn 1.000 liệt sỹ Pháp từ vị đô đốc tư lệnh hạm đội đến người lính trơn
    Lúc 21:00, ngọn lửa đã được nhìn thấy lây lan qua sàn thấp hơn của chiếc Phương Đông. Nhận ra mối nguy hiểm này đối với chiếc kỳ hạm Pháp, thuyền trưởng Hallowell chỉ đạo người của mình nhằm đích pháo của họ trực tiếp vào ngọn lửa này, làm nó lây lan khắp tàu và ngăn chặn những nỗ lực để dập tắt nó. Trong vòng vài phút ngọn lửa đã cháy lên các cánh và làm chiếc buồm rộng lớn bốc cháy, con tàu chuyển thành một địa ngục trần gian. Các tầu Anh gần nhất chiếc Swiftsure, Alexander và Orion, tất cả đều ngừng bắn, cho đóng các cửa súng của họ và lượn xa khỏi chiếc kỳ hạm đang bốc cháy với dự đoán rằng sẽ có vụ nổ của khối lượng lớn đạn dược được lưu trữ trên boong tầu. Tương tự như vậy các tàu Pháp khác như chiếc Tonnant, Heureux và Mercure tất cả đều cắt dây neo và trôi dạt về phía nam ra khỏi xác chiếc tầu cháy. Lúc 22:00 ngọn lửa lan vào kho đạn và chiếc tàu bị nổ tung bởi một vụ nổ lớn. Những chấn động của riêng vụ nổ này đủ để xé toạc các mạch của các tàu gần nhất, và đống đổ nát cháy rực đã rơi xuống thành một vòng tròn lớn, phần lớn chúng (mảnh vụn) bay xung quanh thành ngoài của các tàu ở quanh đó. Các chiếc Swiftsure, Alexander và Franklin tất cả đã bị bắt lửa do đống đổ nát của chiếc Phương Đông rơi xuống mặc dù trong tất cả các trường hợp các thủy thủ với xô nước trên tay đã thành công trong việc dập lửa, mặc dù một vụ nổ thứ cấp nữa trên chiếc Franklin.
    Người ta chắc chắn không bao giờ biết nguyên nhân gì làm ngọn lửa trên tầu Phương Đông bốc nổ dữ dội như vậy, nhưng một tài liệu chung chung có ghi lại là các lọ dầu và sơn đã được để trên phần đuôi tầu chứ không phải là bị bỏ đi sau khi công việc sơn lại thân của con tàu đã được hoàn tất một thời gian ngắn trước khi trận đánh xảy ra. Tàn từ thành phần của thuốc súng của một trong những tàu Anh được cho là đã lây lan trên trên phần đuôi tầu và lamd sơn bốc cháy, ngọn lửa nhanh chóng lan rộng xuyên qua cabin của đô đốc và tấn công vào kho thuốc súng lưu trữ đã tạo ra một vụ nổ dữ dội trong môi trường nước hơn là trong không khí. Thuyền trưởng của hạm đội Honoré Ganteaume sau đó báo cáo việc này như là nguyên nhân gây ra vụ nổ trên khoang chỉ huy của con tầu này, và bởi một loạt các vụ cháy nhỏ trên bong chính của con tàu. Dù nguồn gốc của nó là thế nào, ngọn lửa lan nhanh chóng lên các cánh buồm, và việc bơm chữa cháy trên tàu đã bị ngăn chặn bởi đạn của Anh. Một ngọn lửa thứ hai sau đó đã bắt đầu tại mũi tầu nơi còn bị kẹt hàng trăm thủy thủ của con tàu. Khi các kho đạn phát nổ chiếc tàu đã bị phá hủy. Các điều tra khảo cổ về sau tìm thấy mảnh vỡ rải rác trên 500 mét (550 yd) ở đáy biển và bằng chứng cho thấy tàu Phương Đông đã bị chìm bởi một trong hai vụ nổ lớn, vụ này nối tiếp vụ kia. Hàng trăm người trong thủy thủ đoàn lao xuống biển để thoát khỏi lửa, nhưng chỉ có dưới 100 người còn sống sót sau vụ nổ, khoảng 70 người sống sót đã được cứu bởi tàu của Anh, bao gồm cả thủy thủ trưởng đã bị thương Léonard-Bernard Motard. Một số rất ít những người khác đã cố gắng để vào bờ bằng bè, bao gồm cả Ganteaume. Phần còn lại của thủy thủ đoàn, gồm hơn một nghìn người đã thiệt mạng, bao gồm thuyền trưởng Casabianca và con trai 10 tuổi của ông.
    Khoảng mười phút sau khi vụ nổ tất cả chìm trong yên lặng; thủy thủ của cả hai bên đã quá sốc hoặc là do vụ nổ hoặc dập lửa một cách tuyệt vọng để tiếp tục chiến đấu. Trong thời gian này, Nelson ra lệnh gửi các xuồng đi để kéo người sống sót từ các vùng nước xung quanh những gì còn lại của chiếc Phương Đông. Lúc 22:10, chiếc Franklin khởi động lại cuộc chiến bằng cách bắn vào chiếc Swiftsure. Bị cô lập và bắn phá, con tàu của Blanquet (người đã phản đối chiến thuật rùa rụt cổ của chỉ huy Pháp ?" ông muốn có một trận đánh đàng hoàng tại biển mở và quân Anh có thắng được cũng phải chịu một tổn thất nặng nề ) đã sớm bị gãy các cột buồm và đô đốc bị thương đã buộc phải đầu hàng do hỏa lực kết hợp của chiếc Swiftsure và Defence. Hơn một nửa thủy thủ đoàn của chiếc Franklin đã chết hoặc bị thương. vào 24:00 chỉ còn chiếc Tonnant vẫn tham gia vào trận dánh, thuyền trưởng kỳ cựu Aristide Aubert Du Petit Thouars tiếp tục cuộc chiến của mình với chiếc Majestic và cũng có thể đã bắn vào cả chiếc Swiftsure khi tàu này di chuyển trong phạm vi tầm bắn của tầu Anh. Vào 03:00, sau hơn ba giờ chiến đấu cận chiến, chiếc Majestic bị mất cột buồm chính và buồm lái của nó trong khi chiếc Tonnant chỉ là một thân tầu trơ trọi. Mặc dù thuyền trưởng Du Petit Thouars đã bị mất cả hai chân và một cánh tay ông vẫn chỉ huy và nhấn mạnh rằng phải ghim một lá cờ tam tài (cờ Pháp) vào cột buồm để chứng tỏ họ (chiếc Tonnant) không đầu hàng và ra lệnh đỡ bản thân mình lên trong một thùng lúa mì trên boong. Dưới sự hướng dẫn của ông, chiếc Tonnant đầy thương tích dần dần trôi dạt về phía nam ra khỏi khu vực chiến sự và gia nhập vào bộ phận phía Nam thuộc quyền chỉ huy của Villeneuve (bác này về sau lại thua một trận còn thảm hơn trước Nelson ?" đó là trận Trafangar). Trong suốt trận đánh hậu đội của Pháp đã không nổ súng và chi viện cho bất kỳ chiếc tàu đồng đội nào đang chiến đấu ở phía trước, đáng chú ý có một sự kiên xảy ra khi khi chiếc Généreux vô tình bắn vào chiếc hàng xóm Timoléon và phá vỡ bánh lái của nó. ( Lúc này đội hậu quân Pháp kéo lên thì kết cục chưa biết thế nào vì các tầu Anh cũng đã bị thương hoặc hết đạn.)
    [​IMG]
    Tranh chân dung Đô đốc Nelson ( bác này đánh trận nào cũng đại thắng, nhưng đánh một trận mất một cánh tay, đánh trận nữa thì mất một con mắt, rồi nữa nữa thì mất mạng)
    [​IMG]
    Chân dung đô đốc Pháp Brueys dAigalliers - người đã thua trận sông Nile
    Buổi sáng ngày hôm sau
    Khi mặt trời lên lúc 04:00 ngày 02 tháng 8, súng lại nổ một lần nữa giữa các bộ phận phía Nam của Pháp (đội hậu quân) là các chiếc Guillaume Tell, Tonnant, Généreux và Timoléon bắn vào hai chiếc Alexander và Majestic. Mặc dù thời phải có một khoảng thời gian ngắn tạm ngừng chiến (có lẽ đây là thời cơ vàng cho người Pháp nếu không lật được thế cờ cũng hạn chế được quân Anh chăng??), tàu của Anh đã nhanh chóng gia nhập bởi các chiếc Goliath và Theseus. Thuyền trưởng Miller đưa tàu của ông vào vị trí chiến đấu, chiếc Theseus một thời gian ngắn phải chịu các làn đạn từ chiếc tàu khu trục Artémise. Miller chuyển tàu của mình theo hướng chiếc Artémise, nhưng thuyền trưởng Pierre-Jean Standelet đã ra hiệu cờ đầu hàng và ra lệnh cho người của mình rời khỏi chiếc tàu khu trục. Miller đã gửi một chiếc thuyền chở theo một đội thủy thủ để chiếm lấy con tầu nhưng Standelet đã cho đốt tàu của mình khi ông ta rời khỏi con tầu và chiếc Artémise nổ tung lên ngay sau đó. Các tàu Pháp còn sót lại của Pháp trong đội hình này, cố gắng bảo vệ cuộc rút lui của họ trong tiếng nổ súng, và kéo dần ra ngoài khơi phía đông lúc 06:00. Chiếc Zealous đuổi theo, và đã ngăn chặn tàu khu trục Justice tấn công lên boong chiếc chiếc Bellerophon (bị thương và trôi ra khỏi vùng chiến sự) lúc này được neo tại điểm phía nam của vịnh đang tự sửa chữa một cách vội vàng.
    Hai tàu khác của Pháp vẫn còn vẫy cờ tam tài, nhưng không phải là ở một vị trí hoặc rút lui hoặc chiến đấu. Khi chiếc Heureux và Mercure đã cắt dây neo của họ để thoát khỏi vụ nổ của chiếc Phương Đông, thủy thủ đoàn của họ đã quá hoảng sợ và thuyền trưởng của các tầu này (cả hai đều bị thương) đã không lấy lại được quyền kiểm soát tàu của họ. Kết quả là cả hai tàu đã trôi dạt vào các bờ cát ngầm. Đứng một mình và không có hành động tự vệ, các tàu này bị tấn công bởi các chiếc Alexander, Goliath, Theseus và Leander và cả hai tầu trên đều đầu hàng trong vòng vài phút. Sự quấy nhiễu gây ra bởi các chiếc Heureux, Mercure và Justice cho phép Villeneuve (đô đốc hậu quân Pháp) mang theo hầu hết các tàu Pháp còn sót về phía cửa vịnh lúc 11:00. Tuy nhiên, trên chiếc tầu trọng thương Tonnant, Đại thuyền trưởng Du Petit Thouars lúc này đã chết vì vết thương của ông được và ném qua boong tầu theo yêu cầu riêng của mình, đã không thể tăng tốc độ yêu cầu và bị đẩy lên bờ bằng thủy thủ đoàn của nó, trong khi chiếc Timoléon đã đi quá xa về phía nam để thoát với cùng với đội của Villeneuve và cố gắng vớt những người sống sót trên bãi cát ngầm. Các tàu còn lại của Pháp là: các tàu tiền tuyến Guillaume Tell và Généreux và tàu khu trục Justice và Diane, lập thành đội và chạy ra biển, bị đuổi theo bởi chiếc Zealous. Bất chấp những nỗ lực lớn, tầu của thuyền trưởng Hood bị cô lập dưới hỏa lực hạng nặng và không thể đuổi bắt chiếc Justice, Những tầu Pháp sống sót chạy thoát ra biển.
    Đối với phần còn lại của đội tàu của Nelson ngày 02 tháng 8 được sửa chữa và củng cố và treo giải thưởng. Chiếc Culloden yêu cầu sự trợ giúp một cách đặc biệt, cuối cùng họ cũng kéo con tàu này cho bãi cát ngầm vào lúc 02:00, chiếc Troubridge thấy rằng nó đã bị mất bánh lái của mình và đã bị ngập hơn 122 tấn nước. Sửa chữa thân tàu khẩn cấp và thay thế một bánh lái và buồm chính lâu nhất là trong hai ngày. Sáng ngày 03 tháng 8, Nelson đã gửi chiếc Theseus và Leander đến địa điểm của chiếc Tonnant và Timoléon để ép chúng phải đầu hàng, một chiếc thì đầu hàng ngay khi tàu Anh lượn lờ tiếp cận, chiếc kia bị đốt cháy bởi các thủy thủ của nó những người sau đó chạy thoát vào bờ trong những chiếc xuồng cứu sinh. Timoléon phát nổ ngay sau giữa trưa, chiếc tầu tiền tuyến thứ thứ mười một và là chiếc tầu Pháp cuối cùng bị phá hủy hoặc bị bắt trong trận đánh.
    ( còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:29 ngày 20/11/2009
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận sông Nile ( tiếp)
    Hậu quả của trận đánh
    Phía quân Anh thương vong trong trận đánh được ghi chép lại với một tính chính xác cao, hậu quả trước mắt là 218 người chết và khoảng 677 người bị thương, mặc dù số người bị thương đã chết sau đó thì không được biết. Các tàu phải chịu nhiều nhất là chiếc Bellerophon với 201 thương vong và Majestic với 193, trong khi đó ngoài chiếc Culloden ra chiếc thiệt hại nhẹ nhất là Zealous, chỉ có một người thiệt mạng và bảy người bị thương. Danh sách các sỹ quan bao gồm thuyền trưởng Westcott, năm phó và 10 sỹ quan trẻ trong số những người chết và Đô đốc Nelson, Captains Saumarez, Ball và Darby cùng với sáu trung úy bị thương. Ngoài chiếc Culloden (mắc cạn không thể tham gia trận đánh), các tàu Anh bị hư hỏng nghiêm trọng ở phần thân tầu của họ là các chiếc Bellerophon, Majestic và Vanguard, và chỉ có chiếc Bellerophon và Majestic bị mất cột buồm, chiếc Majestic mất buồm chính và sau chiếc Bellerophon cả ba cột buồm. Thương vong của Pháp thì khó để tính được nhưng đặc biệt cao hơn người Anh. Ước tính thiệt hại của người Pháp nằm trong khoảng từ 2.000 đến 5.000, với một đề nghị lấy số trung bình là khoảng 3.500 bao gồm hơn một ngàn người bị thương và bị bắt giữ, gần 2.000 người chết, một nửa trong số đó đã chết trên chiếc Kỳ hạm Phương Đông. Ngoài Đô đốc Brueys chết, Đô đốc Blanquet bị thương, bốn thuyền trưởng chết và bảy người khác đã bị thương nặng. Các tàu Pháp bị hư hại nghiêm trọng tương tự như vậy: hai tàu tiền tuyến và hai tàu khu trục bị phá hủy và ba tàu khác bị bắt nhưng cũng bị thương quá trầm trọng không thể đi biển được nữa. Trong số các tầu chiến lợi phẩm còn lại, chỉ có ba chiếc được sửa chữa là còn đủ cho khả năng chiến đấu. Hàng tuần sau đó nhiều thi thể của những thủy thủ trong trận đánh dạt lên dọc theo bờ biển Ai Cập, từ từ mục nát trong gió khô nóng và dữ dội.
    Nelson vẫn thả neo tại Vịnh Aboukir hai tuần sau đó, ông này cần phải điều trị vết thương của mình, viết công văn, đánh giá tình hình quân sự tại Ai Cập bằng cách sử dụng các tài liệu bị bắt trên một boong tầu chiến lợi phẩm. Trong lúc người của mình tước đoạt các vật hữu ích từ các xác tầu địch và sửa chữa tàu họ cũng như các tầu chiến lợi phẩm. Trong suốt tuần, Vịnh Aboukir được bao phủ bởi pháo hoa, được đốt bởi bộ lạc Bedouin tại lễ kỷ niệm chiến thắng của người Anh. Vào ngày 05 tháng 8 chiếc Leander đã xuất phát để đến Cadiz với những thông điệp cho Earl St Vincent được chuyển qua thuyền trưởng Edward Berry. Trong vài ngày sau đó tất cả khoảng 200 tù nhân bị bắt đã đổ bộ vào bờ với các điều khoản nghiêm ngặt về việc phóng thích, và sau đó Bonaparte sau đó ra lệnh cho họ (lúc này đã được phóng thích) thành lập một đơn vị bộ binh và bổ sung vào đội quân của ông. Ngày 08 tháng 8 Hạm đội tấn công đảo Aboukir, đơn vị đồn trú đã đầu hàng mà không chiến đấu. Quân đổ bộ gỡ bỏ bốn khẩu súng và phá hủy phần còn lại cùng với các đồn trại của người Pháp và đổi tên hòn đảo thành " Hòn đảo của Nelson".
    Ngày 10 tháng tám Nelson gửi Trung úy Thomas Duval từ chiếc Zealous với các thông điệp đến chính phủ (Anh) ở Ấn Độ. Duval đi đường bộ ngang qua Trung Đông đến Aleppo và lấy một con tàu từ Basra tới Bombay, báo cáo với Tổng đốc Ấn Độ Tử tước Wellesley về tình hình tại Ai Cập. Ngày 12 Tháng Tám các tàu khu trục (các tầu này bị một cơn bão lớn thổi khỏi đội hình của Nelson lúc ở ngoài khơi TouLon) HMS Emerald dưới quyền thuyền trưởng Thomas Moutray Waller, HMS Alcmene dưới quyền thuyền trưởng George Johnstone Hope và HMS Bonne Citoyenne dưới quyền thuyền trưởng Robert Retalick đến ngoài khơi Alexandria. Ban đầu đội tàu khu trục nhỏ đã bị nhầm lẫn với tàu chiến Pháp và đuổi đi bởi chiếc Swiftsure, chúng quay lại ngày hôm sau khi đã nhận ra nhau. Cùng ngày với việc các tàu khu trục đến nơi, chiếc Mutine đã được gửi đến nước Anh dưới sự chỉ huy của Trung úy Thomas Bladen Capel, Người đã thay thế Hardy sau đó được thăng cấp làm thuyền trưởng của chiếc Vanguard. Ngày 14 tháng tám, Nelson đã đưa các chiếc Orion, Majestic, Bellerophon, Minotaur, Defence, Audacious, Theseus, Franklin, Tonnant, Aquilon, Conquérant, Peuple Souverain và Spartiate tiến ra biển dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Saumarez. Nhiều tàu chỉ có cột buồm tạm thời và mất một ngày để đoàn tầu ra đến cửa vịnh, cuối cùng dong buồm vào vùng biển mở vào ngày 15 tháng 8. Vào ngày 16 Tháng 8 chiếc Heureux bị đốt cháy và tiêu huỷ vì không còn khả năng phục vụ chiến đấu và vào ngày 18 tháng 8 các chiếc Guerrier và Mercure cũng bị cháy. Vào ngày 19 Tháng tám, Nelson khởi hành đi Napoli với chiếc Vanguard, Culloden và Alexander, để lại Hood chỉ huy các chiếc, Goliath, Swiftsure và các tàu khu trục vừa mới gia nhập để thăm dò các hoạt động của quân Pháp tại Alexandria.
    Thông điệp đầu tiên đến được Bonaparte về thảm họa đã hủy diệt hạm đội Pháp vào ngày 14 tháng 8 tại doanh trại của ông trên con đường giữa Salahieh và Cairo. Người đưa thư là một viên chức do Thống đốc Alexandria Jean Baptiste Kléber cử đi, và báo cáo vội vàng bằng văn bản của Đô đốc Ganteaume, người sau đó lên tàu Villeneuve ở ngoài biển. Một nguồn tin nói rằng khi ông ta được trao các tin nhắn, Bonaparte đọc nó mà không có cảm xúc trước gì trước khi gọi người đưa thư để và đòi hỏi thêm chi tiết. Khi người đưa thư đã tường thuật xong, Vị tướng Pháp tuyên bố "Noun navrons plus de flotte: eh bien. Il faut rester en contrées ses, ou en sortie grands comme les anciens" ( "Chúng tôi không còn có một hạm đội nữa: tốt thôi, chúng tôi hoặc là phải ở lại đất nước này hoặc bỏ nó như là tổ tiên chúng tôi đã làm"). Một câu chuyện khác, được kể bởi thư ký của tướng Bourienne rằng Bonaparte là hầu như bị mất tự chủ bởi những tin tức trên và kêu lên " Thật là bất hạnh cho Brueys về những gì ông ta đã làm!" Bonaparte sau đó đổ lỗi cho thất bại vào Đô đốc Blanquet, buộc tội ông một cách sai lầm là đã giao nộp chiếc Franklin trong khi chiếc này không hề bị hư hại. Những phản hồi từ Ganteaume và Bộ trưởng Étienne Eustache Bruix sau đó giảm mức độ mà Blanquet phải đối mặt với những lời chỉ trích, nhưng ông không bao giờ trở lại phục vụ trong một cương vị chỉ huy.
    Phản ứng
    Chuyến công văn đầu tiên của Nelson đã bị bắt khi chiếc Leander bị chặn và đánh bại và đánh bại bởi chiếc Généreux trong một trận đánh ác liệt xảy ra ở bờ biển phía Tây của đảo Crete vào ngày 18 tháng 8 1798. Kết quả là các báo cáo của trận đánh đã không đến được Anh cho đến khi Capel đến được Mutine ngày 2 tháng 10. Mặc dù các thông tin này trước đó đã được Nelson đưa lên báo chí một cách giễu cợt rằng đã thất bại trong việc đánh chặn hạm đội Pháp, các tin đồn về trận đánh đã bắt đầu đến được Anh từ lục địa vào cuối tháng Chín, và các tin tức được đưa bởi Capel đã được chào đón với lễ kỷ niệm trên toàn nước Anh. Tại Bộ Hải quân, Lord Spencer đã ngã lăn ra bất tỉnh khi ông nghe tin tức này. Trong vòng bốn ngày Nelson đã được trao tặng tước hiệu Huân tước Nelson của Nile và Burnham Thorpe, một tước hiệu mà cá nhân ông không hài lòng hài lòng cho lắm, vì ông tin rằng chiến công của mình phải được thưởng tốt hơn (chắc là khoái được thưởng về mặt tài chính ?" thịt bò dễ chia hơn).
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận hải chiến nổi tiếng thời cận đại - Châu Âu đầu thế kỷ 19
    Trận hải chiến Trafangar
    Ngày 21 tháng 10 năm 1805
    Vị trí Mũi Trafalgar, Tây Ban Nha
    Kết quả Anh chiến thắng quyết định
    Các bên tham chiến
    Vương quốc Anh
    Chỉ huy
    Horatio Nelson, 1st Viscount Nelson ?
    Sức mạnh
    27 tàu tiền tuyến và 6 tầu khác.
    Thương vong và thiệt hại
    458 thiệt mạng
    1.208 bị thương
    Tổng số 1.666
    Pháp
    Tây Ban Nha
    Chỉ huy
    Pierre de Villeneuve
    Federico Gravina
    Sức mạnh
    Pháp: 18 tầu tiền tuyến và 8 tầu khác.
    Tây Ban Nha: 15 tàu tiền tuyến
    Thương vong và thiệt hại
    7.000 bị bắt,
    21 tàu bị bắt,
    1 tàu bị phá hủy
    Pháp: 2.218 chết,
    1.155 bị thương
    Tây Ban Nha: 1.025 chết,
    1.383 bị thương
    Tổng số: 12.781 binh lính bị bắt, bị chết, bị thương
    Trận Trafalgar (Ngày 21 Tháng Mười 1805) là một hải chiến nổ ra giữa Hải quân Hoàng gia Anh và hạm đội liên hợp của Hải quân Pháp và Hải quân Tây Ban Nha, Trong chiến tranh của Napoleon (1803-1815) chống lại Liên minh thứ ba (August-Tháng 12 năm 1805). Trận đánh là một chiến thắng quyết định của hải quân Anh trong cuộc chiến. Hai mươi bảy Anh tàu của dòng dưới sự chỉ huy của Đô đốc Lord Nelson trên tàu HMS Victoria đã đánh bại 33 tầu tiền tuyến Pháp và Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của Đô đốc Pháp Pierre Villeneuve ngoài khơi bờ biển phía tây nam của Tây Ban Nha, gần phía tây Mũi Trafalgar. Các hạm đội Pháp-Tây Ban Nha mất 22 tàu, mà người Anh không có bất cứ một tàu nào bị mất cả.
    Chiến thắng ngoạn mục của Anh đã khẳng định uy quyền về sức mạnh hải quân mà nước Anh đã tạo lập trong thế kỷ qua và có được một phần từ chiến thuật của Nelson xuất phát từ chiến thuật hải quân chính quy hiện hành, đây là chiến thuật dàn một đội tàu theo đội hình đơn giản duy nhất một tuyến hàng dọc song song với đội hình của đối phương để tạo tín hiệu cho đối phương tham gia trận chiến hoặc bỏ chay, và để sử dụng tối đa hóa các ô súng ở các mạn tầu và các tối đa hóa phạm vi bắn phá của hải pháo. Chiến thuật của Nelson thì lại không như vậy, ông ta chia lực lượng của mình thành hai cột nhỏ trực tiếp giao chiến (theo góc vuông) chống lại một hạm đội đối phương lớn hơn, với kết quả là ông đã thu được quyết định.
    Nelson đã tử vong vì vết thương trong trận đánh, và trở thành anh hùng vĩ đại nhất của Anh Quốc. Các chỉ huy của Pháp và Tây Ban Nha của lực lượng liên hợp, Đô đốc Pierre de Villeneuve bị bắt cùng với tàu Bucentaure của ông. Đô đốc Tây Ban Nha Federico Gravina trốn thoát với phần còn lại của hạm đội, và chết vài tháng sau đó do vết thương của ông trong lúc xảy ra trận đánh
    Bối cảnh lịch sử

    Năm 1805, Đệ nhất Đế chế của Pháp, dưới sự thống lãnh của Napoléon, có một lực lượng quân sự hùng mạnh chi phối quyền lực trên lục địa châu Âu, trong khi Hải quân Hoàng gia Anh kiểm soát các vùng biển. Trong quá trình chiến tranh, người Anh áp đặt một cuộc phong tỏa bằng Hải quan vào nước Pháp, làm ảnh hưởng đến thương mại và ngăn chặn người Pháp trong việc huy động hoàn toàn nguồn lực hải quân của họ. Mặc dù một số phá vây thành công vào cuộc phong tỏa từ hải quân Pháp, nó không tạo ra một thất bại lớn cho người Anh. Người Anh đã có thể tấn công vào lợi ích của Pháp trong và ngoài nước Pháp một cách tương đối dễ dàng.
    Trong khi đó, Pháp xây dựng cái gọi là Continental System không cho phép bất kỳ thương mại nào của người Anh vào lục địa Châu Âu và kết quả là thương mại của Anh đã bị đóng băng (phong tỏa) khỏi Châu Âu, cũng như việc Pháp kiểm soát tất cả các cảng lớn châu Âu, ngoại trừ những cảng của người Phổ. Vì vậy Anh cuối cùng đã buộc phải tấn công Napoléon trên đất liền.
    Khi Liên minh thứ ba tuyên chiến với Pháp sau Hòa ước Amiens ngắn ngủi, Napoléon Bonaparte đã xác định là phải xâm lược nước Anh. Để làm như vậy, ông thấy cần thiết phải đảm bảo rằng Hải quân Hoàng gia sẽ không thể phá vỡ cuộc xâm lược bằng những đội tầu nhỏ, Mà việc này yêu cầu phải kiểm soát được English Channel.
    Các thành phần chính của hạm đội Pháp đóng tại cảng Brest trong vùng Brittany và tại cảng Toulon trên bờ biển Địa Trung Hải. Các cảng khác trên bờ biển Đại Tây Dương thuộc Pháp có những hải đội nhỏ hơn. Pháp và Tây Ban Nha lúc này đã ra nhập một liên minh, do đó, hạm đội Tây Ban Nha có căn cứ tại Cádiz và Ferrol cũng đã sẵn sàng.
    Anh sở hữu một đội ngũ sĩ quan hải quân hạm đội có kinh nghiệm và được đào tạo. Ngược lại, hầu hết các sĩ quan tốt nhất trong hải quân Pháp đã nghỉ hưu hoặc miễn nhiệm khỏi phục vụ trong hải quân thời kỳ đầu của Cách mạng Pháp. Kết quả là, phó Đô đốc Pierre-Charles Villeneuve đã trở thành viên chức có thẩm quyền cấp cao nhất và sẵn có cho chức vụ tư lệnh hạm đội Địa Trung Hải của Napoléon. Tuy nhiên, Villeneuve đã thể hiện một sự khác biệt đó là sự thiếu lửa khi phải đối mặt với Nelson và Hải quân Hoàng gia Anh sau thất bại tại trận sông Nile.
    Kế hoạch hải quân của Napoléon vào năm 1805 là cho hạm đội Pháp và Tây Ban Nha đang đóng tại căn cứ ở Địa Trung Hải và Cádiz phá vỡ phong tỏa và gia nhập với các lực lượng tại Đông Ấn. Sau đó họ sẽ trở về nhập với các đội tàu ở Brest để phá vỡ vòng phong tỏa, và cùng nhau giành lấy quyền kiểm soát English Channel từ tay Hải quân Hoàng gia Anh, để đảm bảo cho một hành lang an toàn cho các xà lan chở quân xâm lược.
    Quân đội Nga và Áo đã chuẩn bị một cuộc tấn công vào Pháp khi mà Armée Grand (Đại quân Pháp ?" gồm người Pháp và rất nhiều người Châu Âu chiến đấu cho Đệ nhất đế chế) vượt English Channel. Napoléon, do kết quả của việc Villeneuve không tuân theo mệnh lệnh của mình, đã có thể điều chỉnh chiến lược của mình bằng cách chuyển Đại quân đang chuẩn bị xâm lược Anh để tấn công người Nga và Áo với tốc độ đáng ngạc nhiên, và ông ta đã đánh bại các đồng minh của Anh Quốc ở trận Austerlitz.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 14:20 ngày 24/11/2009
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận hải chiến Trafalgar - tiếp theo
    Tại Tây Ấn
    Đầu năm 1805, Đô đốc Lord Nelson chỉ huy hạm đội Anh bao vây Toulon. Không giống như người tiền nhiệm William Cornwallis, người đã duy trì một mạng lưới phong tỏa chặt chẽ pháo đài Brest bằng Hạm đội English Channel, Nelson đã sử dụng một cuộc phong tỏa lỏng với hy vọng thu hút người Pháp tiến ra để đánh một trận đánh lớn. Tuy nhiên, Villeneuve thành công trong việc đưa đội tàu của ông chạy trốn Nelson khi hạm đội của ông (Nelson) đã bị thổi đi xa vì một cơn bão lớn. Trong khi Nelson đã tìm kiếm ông ta tại Địa Trung Hải, Villeneuve đi qua Eo biển Gibraltar, hợp nhất với hạm đội Tây Ban Nha, và khởi hành theo kế hoạch đến Tây Ấn. Khi Nelson nhận ra rằng Pháp đã vượt ra khỏi Đại Tây Dương, ông đã đặt ra kế hoạch theo đuổi.
    Cádiz
    Villeneuve trở về châu Âu từ Tây Ấn với ý định phá bỏ phong tỏa ở Brest, nhưng sau khi hai tàu Tây Ban Nha của ông bị bắt giữ trong Trận Finisterre Cape bởi một hải đội dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Sir Robert Calder, Villeneuve từ bỏ kế hoạch này và khởi hành trở lại Ferrol. Tại đó ông ta đã nhận được mệnh lệnh từ Napoléon là phải tiếp tục đến Brest theo kế hoạch chính.
    Kế hoạch xâm lược của Napoléon vào nước Anh hoàn toàn phụ thuộc vào việc có một số lượng đủ lớn các tàu tiền tuyến này tại thành phố Boulogne, Pháp. Việc này đòi hỏi kết hợp lực lượng 32 tầu của Villeneuve với lực lượng 21 tàu của Phó Đô đốc Ganteaume ở Brest và một đội 5 tàu dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Allemand, và những đội tầu này đã có thể tạo cho ông ta một lực lượng liên hợp gồm 58 tàu tiền tuyến.
    Khi Villeneuve dương buồm từ Ferrol ngày 10 Tháng Tám, ông nhận được mệnh lệnh từ Napoléon đi thuyền về hướng phía bắc Brest. Nhưng thay vào đó, ông lo lắng rằng người Anh đã quan sát thấy hoạt động của mình, do đó, ngày 11 Tháng Tám, ông đi về phía nam hướng tới Cádiz trên bờ biển phía tây nam của Tây Ban Nha. Không thấy tăm hơi hạm đội của Villeneuve, và vào 26 Tháng tám, quân đoàn 3 của quân đội Pháp ở gần Boulogne dỡ trại và tiến gần đến nước Đức, nơi nó sẽ tham gia vào các trận đánh.
    Cùng tháng đó, Nelson trở về nhà tại Anh sau hai năm làm nhiệm vụ trên biển, ông cho một số lính thủy về nhà nghỉ ngơi, giữ một số còn lại. Ông vẫn chưa lên bờ cho tới tận ngày 25, và đã nhận tình cảm nồng nhiệt từ những người dân của mình, những người đã lo lắng về việc có thể có một cuộc xâm lược của Pháp. Các thông tín đến nước Anh vào ngày 02 Tháng chín về hạm đội liên hợp của Pháp và Tây Ban Nha trong bến cảng Cádiz. Nelson đã phải đợi cho đến ngày 15 tháng chín trước khi tàu của ông chiếc HMS Victoria sẵn sàng để căng buồm.
    Ngày 15 tháng 8, Cornwallis quyết định tách 20 tàu tiền tuyến từ hạm đội canh gác English Chanel và gửi chúng xuống phía Nam để tấn công các lực lượng Tây Ban Nha đối phương. Việc này lấy đi các lực lượng của Channel chỉ để lại đây 11 tàu tiền tuyến. Tuy nhiên, lực lượng này được tách và ra tạo thành hạt nhân của hạm đội Anh mà hạm đội này sẽ chiến đấu tại Trafalgar. Hạm đội này dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Calder, đến được Cádiz vào ngày 15 tháng 9. Nelson gia nhập đội tàu ngày 29 tháng 9 và nắm lấy quyền chỉ huy.
    Hạm đội Anh sử dụng các tàu khu trục như là để duy trì một chiếc đồng hồ liên tục trên bến cảng, trong khi các lực lượng chính tránh ra xa khỏi cảnh khoảng 50 dặm (80 km) về phía tây của bờ biển. Nelson hy vọng là sẽ thu hút được lực lượng liên hợp Pháp-Tây Ban Nha và tấn công và tiêu diệt lực lượng này trong một cuộc hỗn chiến. Các lực lượng canh chừng ở cảng được chỉ huy bởi thuyền trưởng Blackwood, trên chiếc HMS Euryalus. Ông đã mang đến một lực lượng gồm bảy tàu (năm tàu tầu khu trục và hai tầu schooner) vào ngày 8 tháng 10.
    Vấn đề về cung cấp và tiếp liệu
    Vào thời điểm này hạm đội của Nelson rất cần nhiều đồ cung cấp. Vào ngày 2 tháng 10, năm tàu tiền tuyến trong hạm đội này, chiếc HMS Queen, HMS Canopus, HMS Spencer, HMS Zealous, HMS Tigre, và chiếc tàu khu trục nhỏ HMS Endymion đã được phái đi Gibraltar cùng với Chuẩn đô đốc Louis để tìm nguồn cung cấp. Những tàu sau này được chuyển hướng giao nhiệm vụ áp tải tại Địa Trung Hải, trong khi Nelson dự kiến chúng sẽ quay trở lại. Các tàu khác của Anh tiếp tục đến nơi, và vào ngày 15 tháng 10 hạm đội Anh đã có đầy đủ số tầu chiến cho trận đánh. Nelson bị mất chiếc kỳ hạm của Calder (Phó Đô đốc Anh), chiếc chiến hạm mang 98- súng tên là Prince of Wales mà ông gửi về nhà cùng với Calder, người bị triệu hồi bởi bộ ha?i quân để phải đối mặt với một tòa án quân sự cho sự thiếu rõ ràng của ông ta (Calder) trong quá trình chiến dịch ngoài khơi Cape Finisterre ngày 22 tháng Bảy.
    Trong khi đó, hạm đội của Villeneuve tại Cádiz cũng bị thiếu nguồn cung cấp một cách nghiêm trọng mà không thể dễ dàng được cải thiện vì người Pháp thiếu tiền mặt. Các cuộc phong tỏa được duy trì bởi hạm đội Anh đã tạo ra những khó khăn cho đồng minh (Pháp - Tây Ban Nha) đến được các xưởng sửa chữa tầu và sửa chữa tầu của họ. Các tầu của Villeneuve cũng thiếu một lực lượng cần thiết khoảng hơn hai nghìn người điều khiển buồm. Đây không phải là những vấn đề duy nhất mà hạm đội Pháp-Tây Ban Nha phải đối mặt. Các tàu tiền tuyến của Pháp làm nòng cốt trong Hạm này đã được giữ tại cảng trong nhiều năm qua do phong tỏa của Anh, thi thoảng họ mới được ra khơi trong những lần xuất kích ngắn. Các chuyến hiếm hoi vượt Đại Tây Dương và quay trở lại đã làm họ sử dụng hết nguồn cung cấp quan trọng và làm cho họ bị thụt lùi về kinh nghiệm đi biển và đào tạo so với hạm đội Anh. Các thủy thủ đoàn của Pháp có rất ít thủy thủ dày dạn kinh nghiệm, và hầu hết các đoàn được truyền dạy các yếu tố của việc điều khiển tầu bè vào những dịp hiếm hoi khi họ ra biển, thuật bắn súng bị lãng quên( đến người Anh cũng không có đủ thuốc súng, phải học bắn chay nữa là người Pháp). Tình hình cung cấp của Villeneuve bắt đầu được cải thiện vào tháng đó, nhưng những tin tức đến về các hoạt động của Nelson khiến Villeneuve phải miễn cưỡng rời khỏi cảng. Thật vậy, các thuyền trưởng của ông đã tổ chức một cuộc bỏ phiếu về vấn đề này và quyết định ở lại bến cảng.
    Vào ngày 16 tháng chín, Napoléon đã ra mệnh lệnh cho các tàu Pháp và Tây Ban Nha tại Cádiz là phải tiến ra biển và ở cơ hội thuận lợi đầu tiên họ gia nhập với hải đội bảy tàu tiền tuyến Tây Ban Nha đang đóng ở Cartagena đi đến Napoli và đổ bộ binh sĩ mà họ chuyên chở để củng cố quân đội Pháp đồn trú ở đó, và sẵn sàng hành động kiên quyết (tấn công ) nếu họ gặp một hạm đội Anh kém hơn về số lượng.
    Hạm đội các bên
    Anh
    Loại tầu/ số lượng
    Hạng nhất 3
    Hạng nhì 4
    Hạng ba 20
    Tổng số tàu tiền tuyến 27
    Tàu khác 6
    Vào ngày 21 tháng mười Nelson đã có 27 tàu-of-the-line. Ông chỉ huy hạm đội trên chiếc kỳ hạm của mình, chiếc tầu hạng nhất 100 súng HMS Victoria. Ông có hai chiếc tầu hạng nhất 100 súng khác trong hạm đội của mình. Ông cũng có bốn chiếc tầu hạng nhì 98 súng và hai mươi tầu hạng ba. Một trong số những tầu hạng ba là tầu 80 súng và mười sáu chiếc là loại 74 súng. Số còn lại là ba tầu 64 súng, đây là loại tầu đã bị loại bỏ khỏi biên chế Hải quân Hoàng gia Anh vào thời điểm trận đánh. Nelson cũng đã có bốn tàu khu trục khoảng 38 hoặc 36 súng, một tầu schooner 12 súng và một pháo thuyền 10 súng.
    Pháp-Tây Ban Nha
    Loại tầu/ số lượng
    Hạng nhất 4
    Hạng nhì
    Hạng ba 29
    Tổng số tàu tiền tuyến 33
    Tàu khác 7
    Để chống lại hạm đội của Nelson, Phó Đô đốc Villeneuve có 33 tàu-of-the-line, gồm cả một số tầu lớn nhất thế giới lúc bấy giờ. Người Tây Ban Nha đã góp bốn tầu hạng nhất vào hạm đội này. Trong số những tàu này, một chiếc 136 súng và hai chiếc 112 súng, lớn hơn nhiều so với bất cứ tầu nào mà Nelson có. Chiếc tầu hạng nhất thứ tư có 100 súng. Hạm đội có sáu tầu hạng ba 80 súng, (bốn tầu Pháp và hai tầu Tây Ban Nha), và một tầu hạng ba Pháp với 64 súng. Còn lại là 22 tầu hạng ba loại 74 súng (loại tiêu chuẩn), trong đó có 14 tầu Pháp và 8 tầu Tây Ban Nha. Như vậy tổng số người Tây Ban Nha góp 15 tàu và người Pháp góp 18 tầu tiền tuyến vào hạm đội này. Hạm đội cũng có năm tầu 40 và hai tàu khu trục brig18 súng, tất cả tầu nhỏ đều là của Pháp.
    Trận đánh
    Kế hoạch của Nelson
    Chiến thuật hải quân chính thống hiện hành tại thời điểm là phương pháp tiếp cận hạm đội đối phương theo một đội hình dòng chiến đấu đơn tuyến và sau đó trận đánh sẽ nổ ra theo hai đường song song. Trước thời gian này, hạm đội các bên thường được tham gia vào một trận hỗ chiến ( Melee ) làm cho các đội tàu trà trộn vào nhau. Một trong những lý do cho sự phát triển của chiến thuật (Battle of the line) này là tạo điều kiện cho các đô đốc trong việc kiểm soát Hạm đội. Nếu tất cả các tàu đã xắp thành hàng, đây là dấu hiệu cuộc chiến sắp xảy ra . Chiến thuật này cũng có tính chất phòng thủ, nó cho phép một trong hai bên phá bỏ đội hình để rút lui. Nếu phía tấn công chọn phương án tiếp tục chiến đấu đội hình dòng của họ cũng sẽ bị phá vỡ. Thường thì chiến thuật này dẫn đến những trận chiến không có chiến thắng mang ý nghĩa quyết định hoặc cho phép bên bị thua có thể giảm bớt thiệt hại của họ. Nelson thì lại muốn có một trận quyết định.
    Giải pháp cho tham vọng của ông (phải có một trận quyết định) là cố ý cắt đội hình tuyến của đối phương ra thành hai phần. Tiếp cận bằng hai đội tầu tiến theo hướng vuông góc với đội hình tuyến của đối phương, một đội tầu hướng vào các tàu trung tâm và một đội khác hướng vào phía cuối của đội hình tuyến của quân địch, tàu của ông sẽ phá vỡ sự đội hình một nửa số tầu của đối phương, bao quanh họ và buộc họ phải chiến đấu đến cùng. Nelson hy vọng một cách cụ thể là sẽ cắt dòng của đối phương chỉ ở phía trước chiếc kỳ hạm của quân địch và làm cho các tàu bị cô lập ở phía trước đội hình vì không thể nhìn thấy tín hiệu của chiếc kỳ hạm, và các tầu này sẽ không thể tham gia chiến đấu trong khi chúng lập lại được đội hình. Chiến thuật lao thẳng vào đội hình địch là sự lặp lại của các chiến thuật được sử dụng bởi Đô đốc Duncan tại Trận Camperdown và Đô đốc Jervis tại Trận Cape St Vincent, tất cả các trận này đều diễn ra vào năm 1797.
    Kế hoạch này có ba lợi thế chính. Thứ nhất, nó sẽ cho phép hạm đội Anh tiếp cận với hạm đội Pháp-Tây Ban Nha càng nhanh càng tốt, làm giảm cơ hội mà nó (hạm đội Pháp-Tây Ban Nha) có thể thoát ra mà không có chiến đấu. Thứ hai, nó sẽ nhanh chóng tạo ra một trận chiến Melee (đánh tay đôi) dữ dội bằng cách phá vỡ đội hình tuyến của Pháp - Tây Ban Nha và trở thành một loạt các tàu đơn lẻ đấu tay đôi theo kiểu ship-to-ship, và khi đó người Anh có khả năng thắng thế. Nelson biết rằng thủy thủ đoàn của ông có khả năng điều khiển tầu tốt hơn, thuật bắn nhanh hơn và tinh thần cao hơn và điều này là yếu tố quyết định của chiến thắng mà những lợi thế về số lượng tầu hoặc sự dũng cảm trong một phần trong các thủy thủ đoàn của đối phương không thể bù đắp lại được. Ba là, nó sẽ tạo ra một cuộc tấn công tập trung vào hậu đội của hạm đội liên hợp Pháp-Tây Ban Nha. Các tàu trong đội hình tiền quân của hạm đội đối phương sẽ phải quay trở lại để hỗ trợ đội hậu quân, nỗ lực đó sẽ phải mất một thời gian khá dài.
    Hạn chế chủ yếu của chiến thuật tấn công này là vào thời gian đầu các tầu Pháp - Tây Ban Nha sẽ có thể duy trì việc bắn phá thia lia bằng các pháo mạn vào phần mũi của các tàu hàng đầu của Anh khi họ tiếp cận, đây là thời điểm các tàu Anh không thể bắn trả (vì mũi các tầu buồm thường đặt rất ít súng). Tuy nhiên Nelson cũng tiên liệu rằng các pháo thủ Pháp và Tây Ban Nha thường không được đào tạo tốt, và thường được bổ sung bằng các binh sĩ (ít pháo thủ chuyên nghiệp -- > thuật bắn kém), và sẽ khó bắn chính xác từ các khẩu súng đang di chuyển (tầu chở súng đang di chuyển -- > súng cũng di chuyển theo ). Sau tất cả là Hạm đội liên hợp (Pháp - Tây Ban Nha) đang bơi trên một cơn sóng cồn làm cho các con tầu cuộn vào nhau và trầm trọng hơn tình thế của họ. Kế hoạch của Nelson thực sự là một canh bạc, nhưng đó là một canh bạc được tính toán một cách cẩn thận.
    Trong thời gian phong tỏa ngoài khơi Tây Ban Nha vào tháng mười, Nelson nói với các thuyền trưởng của mình rằng ông có ý định như thế nào để chiến đấu trong một trận chiến áp sát trong hai bữa ăn tối trên tàu Victoria. Các nguyên tắc điều hành trong những hướng dẫn của ông là thứ tự của các tầu, đó chính là cách bố trí hạm đội khi lần đầu tiên nhìn thấy đối phương, và thứ tự này được duy trì đến cuối của trận đánh, do đó không có thời gian để lãng phí trong việc lập một đội hình tuyến chính quy. Cuộc tấn công sẽ được thực hiện bởi hai hải đội, một trong số đó được chỉ huy bởi Collingwood một phó của Nelson, và đội tầu này được tung vào phía hậu đội của đối phương, trong khi một hải đội khác do đích thân Nelson chỉ huy sẽ săn sóc đội trung tâm và tiên phong của đối phương. Để chuẩn bị cho trận đánh, Nelson ra lệnh cho các tàu của hạm đội của mình phải quét một mầu sơn màu vàng và đen đặc biệt (sau này gọi là ke vuông của Nelson) để làm cho họ có thể dễ dàng phân biệt với các đối thủ.
    Nelson đã cẩn thận để chỉ ra những gì có thể tạo ra cơ hội cho chiến thắng. Không có gì là chắc chắn rằng trong một cuộc hải chiến trên biển cả , và ông ra lệnh cho các thuyền trưởng của mình bỏ lại tất cả các đồ cồng kềnh bằng cách nói với họ rằng: "Không có chỗ cho sai lầm của các thuyền trưởng khi họ đang bơi dọc theo tầu của kẻ thù." Sau này mệnh lệnh đã được chấp hành theo đúng hướng dẫn của ông và hậu đội của đối phương đã bị chia cắt và hạm đội Anh tập trung lực lượng vượt trội vào một phần đội hình tuyến của đối phương.
    Đô đốc Villeneuve tự bày tỏ tin tưởng rằng Nelson sẽ sử dụng một chiến thuật tấn công không chính thống, cụ thể ông tin rằng Nelson sẽ tấn công vào cánh phải của mình. Nhưng cuộc chơi mèo vờn chuột với Nelson đã làm mòn ông ta và ông đã bị mất tinh thần. Lập luận rằng sự thiếu kinh nghiệm của các sỹ quan của ông có nghĩa là ông ta sẽ không thể duy trì đội hình ở nhiều hơn một nhóm, ông ta chọn cách chẳng làm gì để đoán biết một đánh giá chính xác về ý định của Nelson.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:06 ngày 26/11/2009
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Hải chiến Trafalgar - tiếp theo
    Khởi hành
    Hạm đội tàu chiến kết hợp của Pháp và Tây Ban Nha neo tại Cadiz dưới sự chỉ huy của Đô đốc Villeneuve trở nên như rối loạn. Vào ngày 16 tháng 9 năm 1805 Villeneuve nhận được mệnh lệnh của Hoàng Đế Napoléon điều họ từ Cadiz tới Napoli. Lúc đầu, Villeneuve rất lạc quan về việc quay trở về Địa Trung Hải nhưng sau đó ông ta lại sớm có ý tưởng thứ hai. Một ủy ban thời chiến được tổ chức trên chiếc Kỳ hạm của ông ta, chiếc Bucentaure vào ngày 8 tháng 10 năm 1805. Trong khi một số các thuyền trưởng Pháp muốn tuân theo mệnh lệnh của Napoléon, các thuyền trưởng Tây Ban Nha và các quan chức Pháp khác, bao gồm cả Villeneuve, nghĩ rằng tốt nhất là nên ở lại Cadiz. Villeneuve đổi ý của mình nhưng lại ngay vào ngày 18 Tháng Mười 1805 ông ta lại ra cho lệnh Hạm đội liên hợp căng buồm ra khơi ngay lập tức ngay cả khi chỉ có gió rất nhẹ.
    Sự thay đổi đột ngột đã được nhắc nhở bằng một lá thư Villeneuve nhận được vào ngày 18 Tháng Mười 1805, thông báo cho ông ta rằng Phó Đô đốc François Rosily đã đến Madrid với mệnh lệnh của Hoàng Đế là nắm lấy quyền Tư lệnh Hạm đội liên hợp. Cảm thấy bị xúc phạm do viễn cảnh bị giáng chức trước hạm đội, Villeneuve chọn phương án đi ra biển trước khi người kế nhiệm ông có thể có thể đến được Cadiz. Đồng thời, ông đã nhận được tin tình báo rằng một đội sáu tàu Anh ( Hải đội của Đô đốc Louis) đã cập cảng tại Gibraltar, điều này có thể làm suy yếu hạm đội Anh (đang rập rình ở ngoài khơi). Việc này được sử dụng như là để giải thích lý do cho sự thay đổi đột ngột.
    Thời tiết, tuy nhiên bất ngờ trở nên yên ả sau một tuần có gió to. Việc này làm chậm tiến độ của hạm đội khi rời cảng, đưa ra các cảnh báo cho người Anh. Villeneuve đã soạn thảo kế hoạch thành lập một lực lượng gồm bốn hải đội, mỗi hải đội có cả tầu Pháp và Tây Ban Nha. Vì theo kết quả của cuộc bỏ phiếu trước đó của họ vào ngày 8 tháng 10 1805 hạm đội sẽ ở lại, nên một số thuyền trưởng miễn cưỡng rời Cádiz và kết quả là họ không thể làm theo mệnh lệnh của Villeneuve một cách chặt chẽ. Kết quả là, hạm đội ra khỏi bến cảng một cách lộn xôn mà không có một đội hình cụ thể.
    Phải đến tận ngày 20 tháng 10 Villeneuve mới có thể tổ chức lại được hạm đội của mình, và họ chia thành ba tiến từ phía eo biển Gibraltar đến phía đông nam. Đó là buổi tối cùng, khi tàu Achille phát hiện thấy một lực lượng của 18 tàu tiền tuyến của Anh đang đuổi theo. Hạm đội bắt đầu huẩn bị cho trận chiến và trong đêm họ đã được yêu cầu để tạo ra đội hình một dòng đơn. Ngày hôm sau hạm đội của Nelson gồm 27 tàu tiền tuyến và bốn tàu khu trục đã được phát hiện từ phía tây bắc với thổi gió phía sau nó. Villeneuve một lần nữa ra lệnh cho hạm đội của mình chia thành ba cột, nhưng sau đó lại nhanh chóng đổi ý và ra lệnh tạo đội hình một dòng đơn. Kết quả là tạo nên một đội hình không đồng đều.
    Hạm đội Anh đã căng buồm và họ đã sẵn sàng chiến đấu sau 72 tín hiệu được phát đi trên kỳ hạm của Nelson. Lúc 05:40, người Anh ở khoảng 21 dặm (34 km) về phía bắc-tây của Cape Trafalgar, với hạm đội Pháp-Tây Ban Nha giữa Anh và mũi đất. Vào lúc 6:00 sáng Nelson đã ra lệnh chuẩn bị cho trận đánh.
    Lúc 08:00, Villeneuve ra lệnh cho hạm đội quay trở lại Cádiz. Việc này làm đảo ngược thứ tự của đội hình tuyến của Đồng Minh và làm cho các bộ phận phía sau dưới sự chỉ huy của Chuẩn đô đốc Pierre Dumanoir le Pelley trở thành các tầu tiên phong. Gió đã trở thành trái chiều vào thời điểm này và thường chuyển hướng. Gió rất nhẹ làm cho việc xoay chuyển tầu hầu như là không thể đối với tất cả, nhưng đối với những tầu có các đội thủy thủ chuyên nghiệp nhất thì họ vẫn làm được. Các thủy thủ đoàn thiếu kinh nghiệm đã gặp khó khăn với các điều kiện thời tiết thay đổi, và phải mất gần một giờ rưỡi để trật tự của Villeneuve được hoàn tất. Hạm đội Pháp và Tây Ban Nha bây giờ hình thành một đội hình lưỡi liềm, góc cạnh không đồng đều, với các tàu nói chung đi chậm dưới gió và gần với bờ biển.
    Vào lúc 11:00 hạm đội toàn bộ của Nelson bị bộc lộ cho Villeneuve nhìn thấy, với việc được chia thành hai cột song song. Hai hạm đội sẽ vào phạm vi tầm bắn của nhau trong vòng một giờ. Villeneuve đã được lưu ý đến điểm này trong việc tạo đội hình thành một tuyến, cũng như tàu của ông đã không ở trong một khoảng cách đều nhau và đội hình bất thường. Hạm đội Pháp-Tây Ban Nha đã được lệnh rút gần lại khoảng năm dặm (8 km) trong khi hạm đội của Nelson đang tiếp cận.
    Khi người Anh tiến lại gần hơn, họ có thể thấy rằng đối phương không đi biển theo một thứ tự chặt chẽ, mà đúng hơn là thành các nhóm không đều. Nelson có thể không ngay lập tức nhận ra các kỳ hạm của Pháp vì các kỳ hạm của Pháp và Tây Ban Nha đã không có các cờ hiệu lệnh.
    Sáu chiếc tàu Anh được cử đi Gibraltar đã không kịp trở lại, do đó, Nelson sẽ phải chiến đấu mà không có chúng. Ông có ít hơn cả về người là súng, phía Pháp có gần 30.000 người và 2.568 súng so với 17.000 người và 2.148 súng của Nelson.Hạm đội Pháp-Tây Ban Nha cũng có nhiều hơn sáu chiếc tàu tiền tuyến trong đội hình này, và do đó có thể dễ dàng kết hợp hỏa lực của họ. Không có cách nào đối với một số tàu của Nelson để tránh bị tấn công với hỏa lực mạnh "gấp đôi " hoặc thậm chí còn "gấp ba" lần.
    Trận đánh bắt đầu
    Trận đánh tiến triển chủ yếu theo đúng kế hoạch của Nelson ngoại trừ một thực tế về cái chết của ông. Lúc 11:45, Nelson gửi một tín hiệu cờ nổi tiếng, " Nước Anh hy vọng rằng mọi người sẽ làm tròn bổn phận của mình"Ông đã chỉ đạo cho sĩ quan tín hiệu của mình, trung úy John Pasco, để báo hiệu cho các đội tàu thông điệp " Nước Anh tin tưởng rằng người sẽ làm tròn bổn phận của mình." Pasco gợi ý cho rằng Nelson rằng chữ hy vọng nên được thay thế cho chữ tin tưởng, Vì khi đó từ hy vọng đã ở trong sách tín hiệu, trong khi từ tin tưởng phải được đánh vần ra theo từng chữ cái (letter-by- letter). Nelson đã đồng ý để thay đổi.
    " Các hạ (ý chỉ Nelson) đến gặp tôi ở phần đuôi tầu, và sau khi ra lệnh tín hiệu nhất định phải được thực hiện, khoảng gần đến giữa trưa, ông nói: "Mr. Pasco, tôi muốn nói với đội tàu, nước Anh tin tưởng rằng MỌI NGƯỜI SẼ LÀM TRÒN BỔN PHẬN CỦA MÌNH" và ông nói thêm " Cậu phải nhanh chóng cho tôi có một gợi ý hay hơn để tạ được một thông điệp sao cho sát với hành động." Tôi trả lời: "Nếu Các hạ cho phép tôi sẽ thay thế tín hiệu tin tưởng bằng tín hiệu hy vọng và thông điệp sẽ sớm được hoàn thành, bởi vì từ đó vốn có trong vốn từ vựng, trong khi chữ tin tưởng phải được đánh vần" Câu trả lời của Các hạ trong sự vội vàng, và hài lòng " Được đó Pasco, trực tiếp làm nó đi"
    Thuật ngữ England được sử dụng rộng rãi tại thời điểm để nói về Vương quốc Anh, Mặc dù hạm đội Anh bao gồm nhiều đội thủy thủ đáng kể đến từ các nước Ai-len, Scotland và xứ Wales cũng như từ nước Anh. Không giống như hình ảnh mô tả, tín hiệu này được hiển thị chỉ trên cột buồm chính và đòi hỏi phải có 12 loại cờ hiệu.
    Khi trận bắt đầu nổ ra, người Pháp và Tây Ban Nha đang ở trong một đội hình đường cong hướng về phía bắc. Theo kế hoạch, hạm đội Anh sẽ tiếp cận hạm đội Pháp-Tây Ban Nha theo hai cột. Dẫn đầu cột ở đầu gió phía bắc là chiếc kỳ hạm 100 súng Victoria của Nelson, trong khi Collingwood trong chiếc kỳ hạm 100 súng Royal Sovereign dẫn đầu cột thứ hai, ở dưới gió. Khi hai cột tầu Anh tiếp cận từ hướng phía tây ở một góc gần bên phải. Nelson dẫn đầu cột tầu của ông đánh một đòn nhử về phía tiền quân của hạm đội Pháp-Tây Ban Nha và sau đó đột ngột chuyển hướng đến điểm thực tế của cuộc tấn công. Collingwood cũng thay đổi lịch trình cột tầu của mình một chút để hai cột tầu hội tụ và tấn công vào đội hình tầu của đối phương.
    Chỉ khi cột tầu của mình sắp nổ súng với các tầu của lực lượng liên hợp, Collingwood nói với sỹ quan của ông, "Bây giờ, thưa các quý ngài, chúng ta hãy làm điều gì đó trong ngày hôm nay để thế giới có chuyện để nói vào những ngày về sau". Vì gió rất nhẹ trong trận đánh, tất cả các tàu đều di chuyển rất chậm, và các tàu của Anh đã phải chịu đựng hỏa lực hạng nặng từ nhiều tàu địch tới gần một giờ trước khi súng của họ có thể trả lời (Trời đất điều này chứng tỏ pháo thủ Pháp bắn quá kém).
    Vào lúc giữa trưa, Villeneuve đã gửi tín hiệu "Tấn công vào kẻ thù" và chiếc kỳ hạm Fougueux bắn thử phát đầu tiên của mình vào chiếc Royal Sovereign. Chiếc kỳ hạm Royal Sovereign căng tất cả các buồm ra và vượt lên trên phần còn lại của hạm đội Anh. Khi nó tiếp cận các tầu của hạm đội liên hợp, nó phải chịu hỏa lực từ các chiếc Fougueux, Indomptable, San Justo và San Leandro, trước khi tách dòng ơ? phía sau của chiếc kỳ hạm Santa Ana của Đô đốc Álava, vào lúc đó nó đã bắn thia lia một loạt đạn kép từ các khẩu pháo mạn vào con tầu này (chiếc kỳ hạm Santa Ana).
    Con tàu thứ hai trong cột tầu khuất gió của Anh, chiếc Belleisle, đã bị tấn công bởi các chiếc LAigle, Achille, Neptune và Fougueux; nó đã sớm hoàn toàn bị gãy hết cột buồm, không thể vận động uyển chuyển và phần lớn thời gian không thể tham chiến, vì buồm của nó đổ xuống làm che tầm nhìn các khẩu đội pháo của nó, nhưng vẫn giữ cờ của nó tung bay trong vòng 45 phút cho đến khi tầu Anh ở phía sau đến cứu nó.
    Trong vòng 40 phút, chiếc Victoria phải chịu hỏa lực từ các chiếc Héros, Santísima Trinidad, Redoutable và Neptune, Mặc dù nhiều phát đạn đã bắn trượt những phát khác vẫn làm chết và bị thương một số thủy thủ đoàn và bắn đi chiếc bánh lái của nó, vì vậy mà nó đã có được điều khiển từ bánh lái của boong dưới. chiếc Victoria vẫn chưa thể bắn trả. Vào lúc 12:45, nó cắt dòng của kẻ thù ở giữa chiếc kỳ hạm Bucentaure của Villeneuve và chiếc Redoutable. Chiếc Victoria đến gần chiếc Bucentaure, bắn một loạt đạn dữ dội bằng các pháo mạn vào sườn phải của nó (chiếc Bucentaure) làm chết và bị thương nhiều người trên boong súng của nó. Villeneuve nghĩ rằng đột kích qua mạn tàu sẽ xảy ra, và với các lực lượng ông ta có trong tay, và nói với người của mình: "Tôi sẽ ném tung họ sang tàu địch và tôi sẽ đưa mang họ trở lại đây" Tuy nhiên, chiếc Victoria của Đô đốc Nelson chỉ tấn công bằng súng chiếc tầu 74 súng Redoutable. Chiếc Kỳ hạm Bucentaure được bỏ qua để bị xử lý bởi ba tàu tiếp theo của cột đầu gió của Anh, các chiếc Temeraire, Conqueror và Neptune (như vậy cả hai bên đều có tầu được đặt tên là Neptune).
    Một trận đại hỗn chiến ( Melee) xảy ra sau đó, trong quá trình của trận đánh, chiếc Victoria đã khóa cột buồm với chiếc Redoutable của Pháp. Các thủy thủ đoàn của chiếc Redoutable, trong đó bao gồm một đội bộ binh mạnh (với 3 đại úy và 4 trung úy), tập hợp cho một cố gắng nhằm bắt sống chiếc Victoria. Một phát súng hỏa mai bắn từ buồm chính của chiếc Redoutable trúng vào vai trái Nelson và xuyên qua cột sống của ông ta tại các đốt sống ngực thứ sáu và thứ bảy nằm ở khoảng hai inch dưới xương vai phải trong các cơ bắp của ông ta. Nelson kêu lên, " Cuối cùng họ đã thành công và tôi đã bị giết" Ông được khiên xuống sàn dưới của con tầu.
    ( còn tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 10:44 ngày 27/11/2009
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Trafalgar - tiếp theo và hết
    Chiếc Victoria ngừng bắn, các pháo thủ được gọi là trên boong để chống lại quân Pháp đột kích nhưng họ đã bị đẩy lùi xuống sàn dưới bởi các quả thủ pháo của Pháp. Khi người Pháp chuẩn bị đổ bộ lên chiếc Victoria thì chiếc Temeraire, tàu thứ hai trong cột xuôi gió của Anh, tiếp cận từ mũi mạn phải của chiếc Redoutable và bắn vào thủy thủ đoàn Pháp một loạt đạn carronade, gây nhiều thương vong.
    Lúc 13:55, Thuyền trưởng Lucas, của chiếc Redoutable, cùng với 99 người trên tổng số 643 bị thương nặng nề và phải đầu hàng. Chiếc tầu Pháp Bucentaure bị cô lập bởi các chiếc Victoria và Temeraire, sau đó các chiếc Neptune, Leviathan và Conqueror cũng tham gia tấn công nó. Tương tự như vậy, chiếc Santísima Trinidad bị cô lập và bị choáng ngợp, phải đầu hàng và giao nộp tầu sau ba giờ.
    Khi có nhiều tàu Anh bước vào trận chiến, các tàu của hạm đội liên hợp ở đội trung tâm và phía sau đã dần dần bị lấn át. Các tiên phong của hạm đội liên hợp, sau một khoảng thời gian dài không có hành động gì, đã thực hiện một cuộc thao diễn vô ích và sau đó bỏ đi. Người Anh đã tiêu diệt và bắt sống 22 tàu của hạm đội Pháp-Tây Ban Nha mà không bị mất một tầu nào. Danh sách các tàu Pháp bị tiêu diệt và bắt sống là các chiếc LAigle, Algésiras, Berwick, Bucentaure, Fougueux, Intrépide, Redoutable, Và Swiftsure. Người Tây Ban Nha bị mất các chiếc Argonauta, Bahama, Monarca, Neptuno, San Agustín, San Ildefonso, San Juan Nepomuceno, Santísima Trinidad, và Santa Ana. Trong số này, chiếc Redoutable bị chìm, chiếc Santísima Trinidad và Argonauta buộc cáp và kéo đi bởi người Anh và sau đó cũng chìm, chiếc Achille phát nổ, chiếc Intrépide và San Augustin bị đốt cháy, và các chiếc LAigle, Berwick, Fougueux, và Monarca bị đắm trong một trận bão lớn sau trận đánh.
    Lúc Nelson sắp chết, ông đã ra lệnh cho hạm đội bỏ neo để đối phó với một cơn bão đã được dự đoán. Tuy nhiên, khi cơn bão thổi lên làm nhiều trong số các tàu bị hỏng nặng chìm hoặc bị mắc cạn trên bãi cát ngầm. Một vài chiếc trong số chúng đã bị tái chiếm bởi các tù nhân Pháp và Tây Ban Nha sau khi khống chế đội áp giải nhỏ bé hoặc bằng tàu phá vây từ Cádiz. Bác sĩ phẫu thuật William Beatty nghe Nelson nói rên rỉ rằng "Cảm ơn Chúa tôi đã làm xong bổn phận của tôi", khi đó ông thấy giọng nói của Nelson đã yếu dần và mạch đập của ông rất yếu. Ông ta nhìn lên khi Beatty đang cố xem mạch cho ông, sau đó nhắm mắt lại. Cha cố của Nelson, linh mục Scott Alexander, người ở lại cạnh Nelson khi ông qua đời, ghi lại những lời cuối cùng của ông là "Chúa và đất nước tôi." Nelson qua đời ở khoảng bốn giờ rưỡi, ba giờ sau khi bị trúng đạn.
    Sau trận đánh
    Chỉ mười một tàu là chạy về được tới Cádiz, và trong số chúng chỉ có năm chiếc được coi là còn đi biển được. Dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Julien Cosmao, Họ căng buồm trong hai ngày sau đó và cố gắng để tái chiếm một số các tầu chiến lợi phẩm của Anh; họ đã thành công trong việc tái chiếm hai chiếc tàu, và buộc Collingwood phải bỏ một số tầu chiến lợi phẩm của mình. Bốn tàu tiên phong đó chạy thoát với Dumanoir lại bị bắt vào ngày 04 Tháng 11 bởi Sir Richard Strachan trong trận Cape Ortegal.
    Khi Rosily (Đô đốc mới của Hạm đội Pháp - Tây Ban Nha) đến Cádiz, ông thấy chỉ có năm tàu Pháp chứ không phải là 18 như ông mong muốn. Các tàu còn sống sót vẫn bị phong tỏa tại Cádiz cho đến năm 1808, khi Napoleon xâm lược Tây Ban Nha. Các tàu Pháp sau đó đã thu giữ bởi các lực lượng Tây Ban Nha và được đưa vào các hoạt động chống lại người Pháp.
    HMS Victoria đi đến Gibraltar để sửa chữa, mang theo xác của Nelson. Nó đã đi vào vịnh Rosia - Gibraltar và sau khi được sửa chữa khẩn cấp, nó trở lại Anh. Nhiều người trong thủy thủ đoàn bị thương đã được đưa lên bờ tại Gibraltar và điều trị tại Bệnh viện Hải quân. Những người sau đó đã chết vì vết thương ở trận đánh được chôn cất tại hoặc gần Nghĩa trang Trafalgar, ở cuối phía nam của Main Street, Gibraltar.
    Một sỹ quan Hải quân Hoàng gia bị giết trên tàu HMS Victory, thuyền trưởng Charles Adair. Một sỹ quan Hải quân Hoàng gia khác Lewis Buckle Reeve bị thương nặng trong trận đánh, và được đặt nằm bên cạnh Nelson.
    Trận đánh diễn ra vào ngày hôm sau của trận Ulm (quân Pháp bắt sống toàn bộ hàng chục nghìn quân Áo đang phòng thủ tại Ulm), và Napoléon đã không nghe được về tin này cho tới vài tuần ?" Đại quân Pháp ( Grande Armée) đã rời Boulogne để tiến đánh các đồng minh của Anh Quốc trước khi họ có thể kết hợp thành một lực lượng rất lớn. Ông đã kiểm soát chặt chẽ trên các phương tiện truyền thông Paris và thất bại tại Trafalgar là một bí mật được kiểm soát canh gác chặt chẽ. Trong một động thái tuyên truyền, trận chiến được tuyên bố là chiến thắng "ngoạn mục" của người Pháp và Tây Ban Nha.
    Phó Đô đốc Villeneuve đã bị bắt làm tù binh trên chiếc kỳ hạm của mình và được đưa trở lại Anh. Sau khi ông được phóng thích vào năm 1806 và trở về Pháp, Villeneuve đã được tìm thấy trong phòng của mình tại một quán trọ dừng chân trên đường đến Paris và bị đâm sáu phát vào ngực với một con dao ăn. Người ta đã ghi nhận rằng ông đã tự sát.
    Gần hai tháng sau đó, cuộc chiến tranh của Liên minh thứ ba đã kết thúc với một chiến thắng quyết định của Pháp đánh bại Nga và Áo, các đồng minh của Anh Quốc, tại trận Austerlitz. Phổ quyết định không gia nhập Liên minh Châu Âu và lại một lần nữa hòa bình được lập lại một cách tạm thời. Pháp không còn có thể thách thức Anh quốc trên mặt biển. Thay vì cố gắng làm việc này Napoléon đã thiết lập Continental System trong một nỗ lực để nhằm ngăn chặn thương mại của nước Anh vào châu lục này.
    Hậu quả của trận đánh
    Sau trận đánh, Hải quân Hoàng gia Anh không bao giờ một lần nữa bị thách thức một cách nghiêm trọng bởi hạm đội Pháp trong một chiến dịch quy mô lớn. Napoléon đã hủy bỏ kế hoạch của ông về cuộc xâm lược nước Anh trước trận đánh và kế hoạch này không bao giờ được hồi sinh, và thời mà hải quân Pháp còn có thể thách thức đối với nước Anh đã qua rồi. Đầu tiên, sự kiểm soát của Pháp trên lục địa mở rộng, nước Anh phải có những hành động tích cực bước vào năm 1807 và 1808 để ngăn chặn các tàu của hải quân của các Quốc gia nhỏ ở châu Âu rơi vào tay người Pháp. Nỗ lực này phần lớn thành công, nhưng đã không chấm dứt các mối đe dọa của người Pháp đặc biệt là Napoléon cho tiến hành một chương trình đóng tàu quy mô lớn tạo ra một đội 80 tàu tiền tuyến lớn vào thời điểm ông ta mất đi quyền lực của mình vào năm 1814, và một số tầu lớn hơn nữa đang được đóng dở dang, so với 99 tàu tiền tuyến Anh đang hoạt động trong năm 1814. Cho tới thêm một vài năm sau, người Pháp có các kế hoạch của họ để đóng 150 tàu tiền tuyến và một lần nữa thách thức Hải quân Hoàng gia Anh, người Pháp cố gắng bù đắp cho những yếu kém của thủy thủ đoàn của họ bằng con số tuyệt đối (ý nói dùng số lượng bù chất lượng). Gần 10 năm sau trận Trafalgar, Hải quân Hoàng gia duy trì phong tỏa chặt chẽ của các căn cứ của Pháp và lo lắng quan sát thấy sự tăng trưởng của hạm đội Pháp. Cuối cùng, đế chế của Napoléon đã bị phá hủy trước khi sự tích tụ đầy tham vọng có thể được hoàn thành.
    Nelson đã trở thành - và vẫn là ?" người anh hùng vĩ đại nhất của hải quân Anh Quốc trong chiến tranh, và là một nguồn cảm hứng cho Hải quân Hoàng gia, nhưng chiến thuật không chính thống của ông không được các thế hệ sau sử dụng một cách thường xuyên. Tượng đài đầu tiên ở Anh để kỷ niệm Nelson đã được dựng lên tại Glasgow Green năm 1806, có thể được dựng sau tượng đài Taynuilt, tại Oban năm 1805, cả hai cũng để kỷ niệm rằng nhiều thủy thủ đoàn và thuyền trưởng của Nelson là người Scotland...
    Sự chênh lệch về thiệt hại của đội bên được cho là do đánh giá của một số nhà sử học, từ chiến thuật táo bạo của Nelson, hơn là với sự khác biệt trong khả năng chiến đấu của hai đội. Hạm đội của Nelson đã được tạo ra từ các tàu tiền tuyến vốn đã có một khoảng thời gian đi biển đáng kể trong những tháng phong tỏa Hải cảng Pháp, trong khi hạm đội Pháp nói chung là chỉ được neo tại cảng. Tuy nhiên, đội tàu của Villeneuve đã chỉ có hai chuyến đi biển dài hàng tháng tại vùng biển Đại Tây Dương, việc này hỗ trợ các đề xuất rằng sự khác biệt chính trong hiệu quả chiến đấu của hai hạm đội là ở tinh thần của các Tư lệnh Hạm đội. Các chiến thuật táo bạo của Nelson đã thành công để đảm bảo một chiến thắng quyết định có ý nghĩa chiến lược.
    Hải quân Hoàng gia Anh mở rộng sự thống trị trên các vùng biển trong những năm còn lại của kỷ tầu buồm. Mặc dù chiến thắng tại Trafalgar thường được lý giải khác nhau tại mỗi thời điểm, nhà phân tích sử học hiện đại Paul Kennedy cho thấy rằng sức mạnh kinh tế là một hệ quả quan trọng tiềm ẩn trong việc bá chủ biển cả của hải quân Anh.
    Một giai thoại hệ quả liên quan đến trận Trafalgar, là sỹ quan Hải quân Pháp chưa bao giờ được gọi với từ "sir", đây được cho là xuất phát từ sự khinh bỉ của Napoléon khi biết Hạm đội lớn của mình bị đánh bại một cách toàn diện.
    Một số tranh ảnh minh họa trận Trafalgar
    [​IMG]
    Tín hiệu cờ nổi tiếng của Nelson " Nước Anh hy vọng mọi người làm tròn bổn phận của mình"
    .
    [​IMG]
    Tín hiệu cờ nổi tiếng của Nelson được thể hiện lại trên cột buồm của chiếc Victoria
    [​IMG]
    Sơ đồ trận đánh Trafalgar
    [​IMG]
    Tranh vẽ trận Trafalgar lúc 13h - các cột tầu Anh đang lao vào đội hình tầu Pháp
    [​IMG]
    Tranh vẽ khoảnh khắc Đô đốc Nelson trúng đạn và gục xuống sàn chiếc kỳ hạm Victoria
    [​IMG]
    Tranh vẽ chiếc kỳ hạm Pháp Bucentaure bị bắn hạ bởi chiếc Temeraire
    [​IMG]
    Biểu đồ về thương vong của người Pháp - Tây Ban Nha trong trận Trafalgar
    Cột mầu đỏ: thương vong của người Tây Ban Nha
    Cột mầu xanh: thương vong của người Pháp
    Qua các cột này ta thấy thương vong của ba chiếc tầu Pháp (chiếc Redoutable, Fougueux, Achile) lên đến gần 90%
    [​IMG]
    Biểu đồ về thương vong của người Anh trong trận Trafalgar
    Cột mầu vàng: thương vong của chiếc Africa
    Cột mầu xanh lá cây: thương vong của Hải đội do Nelson dẫn đầu
    Cột mầu xanh ghi: thương vong của hải đội do Collingwood dẫn đầu
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 10:53 ngày 27/11/2009
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận hải chiến nổi tiếng thời cận đại - Châu Mỹ thế kỷ 19
    Trận hải chiến Hamptom Roads
    Ngày 08 -- > 09 tháng 3 năm 1862
    Vị trí Ngoài khơi Sewell Point, Gần cửa sông Hampton Roads, bang Virginia
    Kết quả Không có chiến thắng quyết định, cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng
    Các bên tham chiến
    Liên bang Hoa Kỳ USS (Miền Bắc)
    Chỉ huy
    Louis M. Goldsborough (không xuất hiện)
    John Marston (sĩ quan cao cấp nhất lúc đó)
    Sức mạnh
    1 tầu thiết giáp - ironclad
    5 tàu khu trục gỗ
    Thương vong và thiệt hại
    261 thiệt mạng
    108 người bị thương
    1 tàu khu trục nhỏ chìm
    1 thông báo hạm chìm
    1 tàu khu trục nhỏ bị hư hỏng
    Hợp bang ly khai CSA (Miền Nam)
    Chỉ huy
    Franklin Buchanan
    Catesby ap Roger Jones
    Sức mạnh
    1 tầu thiết giáp - ironclad
    2 tàu chiến gỗ
    1 pháo hạm
    2 tầu vận tải
    Thương vong và thiệt hại
    7 bị giết
    17 bị thương
    1 tầu ironclad bị hư hỏng
    Khái quát về bối cảnh lịch sử của cuộc nội chiến Hoa Kỳ năm 1861 ?" > 1865
    Năm 1861 Abraham Lincoln đắc cử tổng thống và muốn thay đổi dự luật để xóa bỏ thể chế nô lệ. Trước ngày ông nhậm chức, bảy tiểu bang miền nam Hoa Kỳ phản đối chính sách cởi mở này và tuyên bố ly khai chính phủ liên bang, thành lập chính phủ riêng do Jefferson Davis làm tổng thống. Chính quyền Abraham Lincoln không công nhận chính phủ Hợp bang miền Nam này. Khi quân miền Nam tấn công đồn Sumter, Nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ và thêm 4 tiểu bang khác gia nhập phe miền nam chống lại lực lượng Liên bang miền Bắc.
    Cuộc phân tranh Nam-Bắc kéo dài 4 năm và chấm dứt khi quân miền Nam đầu hàng năm 1865.
    Trong năm đầu của cuộc chiến, quân Liên bang miền Bắc chiếm đóng và kiểm soát dọc biên giới các tiểu bang, đồng thời phong tỏa mặt biển. Hai bên thi nhau tăng cường quân lực. Những cuộc đụng độ đẫm máu bắt đầu từ năm 1862. Sau trận đánh tại Antietam vào tháng 9 năm 1862, Lincoln đọc bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, coi việc trả tự do cho nô lệ là mục tiêu chính yếu. Mặc dù lúc đó có nhiều phe phái bên trong chính phủ vẫn còn ủng hộ thể chế nô lệ, họ phải đồng ý với tuyên cáo này vì an ninh của chính phủ liên bang. Bản Tuyên ngôn đã làm cho Anh và Pháp khó lấy cớ ủng hộ quân miền Nam. Cũng nhờ tuyên cáo giải phóng nô lệ mà quân miền Bắc chiêu mộ được một lực lượng khá đông đảo là binh lính Mỹ gốc Phi. Trong khi đó miền Nam không muốn quân đội của họ có sắc dân gốc Phi.
    Trong các trận đánh dọc sông Potomac, tướng miền Nam Robert Edward Lee đạt nhiều thắng lợi ở Mặt trận miền Đông. Viên tướng giỏi của ông là Stonewall Jackson bị thiệt mạng trong trận Chancellorsville vào tháng 5 năm 1863. Lee tiến quân lên miền Bắc nhưng bị đánh bại trong trận chiến trứ danh tại Gettysburg - suýt chút nữa Lee bị bắt nhưng may mắn lắm mới chạy thoát về Virginia.
    Về Tây, quân miền Bắc chiếm được cảng New Orleans năm 1862. Tướng miền Bắc là Ulysses S. Grant đem quân chiếm Vicksburg, khống chế sông Mississippi vào tháng 7 năm 1863 - cắt đôi lực lượng miền Nam.
    Đến năm 1864, quân miền Bắc với nhiều lợi thế về địa hình, quân lực, kỹ nghệ, tài chánh, kế hoạch chính trị và tiếp vận bắt đầu chiếm ưu thế đối với quân miền Nam. Hai tướng Grant và Lee đánh nhau nhiều trận khốc liệt tại vùng Virginia trong mùa hè 1864. Tuy chiến thắng về mặt chiến thuật, Tướng Lee lại thua về mặt chiến lược vì quá hao binh tổn khí - do đó phải rút về Richmond đóng giữ trong các tuyến chiến hào. Trong lúc đó, tướng miền Bắc William Tecumseh Sherman chiếm được Atlanta thuộc tiểu bang Georgia và tiến thẳng ra bờ biển, phá vỡ vòng đai cố thủ của Georgia.
    Năm 1865, Tướng Lee ký văn kiện đầu hàng tại tòa án địa phương của Appomattox, Virginia- đây là thời điểm chấm dứt cuộc chiến tương tàn giữa hai miền Nam Bắc nước Mỹ và cũng là thời điểm khởi đầu công cuộc giải phóng nô lệ tại đất nước này.
    Thời kỳ hậu chiến là những năm hồi phục khó khăn. Hậu quả của cuộc phân tranh là 970.000 người chết, trong đó 620.000 là binh lính, gần hai phần ba do bệnh tật. Cho đến nay nhiều người Mỹ vẫn còn tiếp tục tranh cãi về những khía cạnh của cuộc chiến tàn khốc này.
    Bối cảnh chung của trận đánh Hampton Roads
    Trận Hampton Roads, còn được gọi là Trận Monitor hoặc Merrimack, là trận hải chiến đáng chú ý nhất và quan trọng nhất trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ theo quan điểm về sự phát triển của hải quân. Trận đánh diễn ra trong hai ngày, Ngày 08-09 Tháng Ba, 1862, tại Hampton Roads, một vũng sông tại Virginia, nơi các con sông Elizabeth và Nansemond gặp con sông James ngay trước khi nó đổ vào Vịnh Chesapeake. Trận đánh là một phần của nỗ lực của lực lượng Hợp bang Miền Nam nhằm để phá bỏ phong tỏa của Liên Bang Miền Bắc, mà cuộc phong tỏa này vốn đã cô lập các thành phố lớn nhất của bang Virginia, như Norfolk và Richmond, với thương mại quốc tế.
    Ý nghĩa chính của trận đánh là trận đụng độ đầu tiên của các tàu chiến lớp ironclad. Hạm đội của Hợp bang gồm tầu lớp ironclad CSS Virginia (Merrimack) có trang bị Ram, và một số tàu hỗ trợ. Vào ngày đầu tiên của trận đánh, họ đã bị tấn công bởi một số tàu vỏ gỗ quy ước (loại được sử dụng bởi lực lượng chính quy) của Hải quân Liên bang. Vào ngày này, Virginia đã phá hủy hai tàu của Hạm đội Liên bang và đe dọa chiếc thứ ba, làm chiếc USS Minnesota phải bỏ chạy và bị mắc cạn. Cuộc tấn công này bị tạm dừng bởi bóng tối và thủy triều xuống, do đó, chiếc Virginia đã quay về nghỉ để chăm sóc những người bị thương của nó bao gồm cả viên thuyền trưởng, Sỹ quan Franklin Buchanan và sửa chữa hư hỏng tối thiểu của nó trong trận đánh.
    Quyết định để hoàn tất việc tiêu diệt chiếc Minnesota, Catesby ap Roger Jones, với vai trò thay thế thuyền trưởng vắng mặt Buchanan, đã cho con tàu quay trở lại vào sáng hôm sau, 09 tháng 3. Tuy nhiên, trong buổi đêm hôm đó chiếc ironclad USS Mornitor đã đến và chiếm một vị trí để bảo vệ chiếc USS Minnesota. Khi chiếc Virginia tiếp cận, chiếc Monitor ra chặn nó lại. Hai chiếc tầu lớp ironclad chiến đấu với nhau trong khoảng ba giờ đồng hồ mà không thể gây được thiệt hại đáng kể nào khác cả. Trận đánh đã kết thúc mà không có thắng lợi quyết định thuộc về bên nào, chiếc CSS Virginia quay về căn cứ của mình ở ụ tầu Hải quân Gosport Yard để sửa chữa và tăng cường, và chiếc USS Monitor cũng quay về để bảo vệ chiếc Minnesota. Cả hai chiếc tàu đã không tấn công nhau thêm một lần nào nữa, và cuộc phong tỏa vẫn tiếp diễn.
    Trận đánh đã nhận được sự quan tâm của toàn thế giới, và nó có tác dụng ngay lập tức đến lực lượng hải quân của tất cả các quốc gia. Các cường quốc về hải quân như Anh và Pháp ngừng ngay việc đóng thêm các tàu vỏ gỗ, và họ lại bị bắt chiếc bởi tất cả những nước khác. Họ sản xuất một loại tàu chiến mới, chiếc Monitor, Dựa trên thiết kế của bản gốc. Việc sử dụng ít súng nhưng súng phải cực lớn, có khung giá súng và có thể nổ súng về tất cả các hướng, lần đầu tiên đã chứng minh bởi chiếc Monitor, sớm trở thành chuẩn của tất cả các loại tàu chiến. Các công ty đóng tàu cũng kết hợp cả Ram vào trong thiết kế của vỏ tàu chiến ở phần còn lại của thế kỷ này ( cuối TK19).
    Chuẩn bị phong tỏa Norfolk
    Ngày 19 tháng 4 năm 1861, ngay sau khi các hành động thù địch nổ ra tại Charleston Harbor, tổng thống Abraham Lincoln tuyên bố tién hành một cuộc phong tỏa nhắm tới tất cả các cảng của các bang ly khai. Ngày 27 tháng 4, sau khi Virginia và Bắc Carolina cũng đã thông qua pháp lệnh ly khai, phong tỏa được mở rộng để bao vây các cảng của họ. Ngay cả trước khi có sự mở rộng của cuộc phong tỏa, quân địa phương (quân Hợp bang li khai) đã chiếm Norfolk và đe dọa Công xưởng Hải quân Gosport Yard. Chi? huy trươ?ng đó, Thuyền trưởng Charles S. McCauley, Mặc dù trung thành với Liên bang, đã không thể nhúc nhích được bởi ông nhận được lời khuyên từ nhân viên cấp dưới của mình, mà hầu hết trong số họ có cảm tình với phe ly khai. Mặc dù ông nhận được mệnh lệnh từ Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles (phe Liên Bang) là phải di chuyển số tàu của ông đến cảng phía Bắc, ông đã từ chối để làm việc này cho đến ngày 20 tháng 4, khi ông lệnh đánh đắm các tàu trong Công xưởng và phá hủy các cơ sở của nó. Chín tàu bị đốt cháy, trong đó có chiếc frigate USS Merrimack. Một chiếc ( trong số các tàu khu trục nhỏ, chiếc Cumberland) được kéo đi thành công. Chiếc Merrimack bị đốt chỉ đến mực nước, tuy nhiên động cơ của nó còn ít nhiều còn nguyên vẹn. Việc tiêu hủy Công xưởng hải quân chủ yếu là không có hiệu quả, đặc biệt là ụ tầu lớn trên cạn tương đối không bị hư hại gì cả và sớm có thể được phục hồi. Không cần phải bắn một súng, phe chủ trương ly khai đã thu được một công xưởng hải quân lớn nhất cho họ, cũng như các thân tàu và động cơ và những gì sẽ tạo ra được chiếc tàu chiến nổi tiếng nhất trong thời gian này. Họ cũng đã bắt giữ hơn một nghìn khẩu súng hạng nặng, cộng thêm các toa chở súng và một lượng lớn thuốc súng.
    Với Norfolk và Công xưởng hải quân của mình, Hợp bang kiểm soát phía nam của Hampton Roads. Để ngăn chặn đoàn tàu chiến của Liên bang tấn công vào công xưởng, họ thiết lập các khẩu đội pháo tại cứ điểm Sewell và đảo Craney, điểm nối của sông Elizabeth với sông James. (Xem bản đồ.) Liên bang duy trì sở hữu pháo đài Fort Monroe, ở cứ điểm Old Point Comfort trên bán đảo Virginia. Họ cũng đã xây một hòn đảo nhân tạo nhỏ được gọi là Raps Rip, về cạnh phía xa của kênh đối diện với pháo đài Fort Monroe, và trên hòn đảo này họ xây dựng một pháo đài, được đặt tên là Fort Wool. Với pháo đài Fort Monroe phe Liên bang đã đi kiểm soát phần thấp của bán đảo cũng như vùng Newport News.
    [​IMG]
    Bản đồ vùng Hampton Roads
    Pháo đài Monroe và Fort Wool tạo cho Liên bang sức mạnh để kiểm soát lối vào Hampton Roads. Việc phong tỏa này bắt đầu ngày 30 Tháng Tư 1861, cô lập Norfolk và Richmond gần như hoàn toàn. Để phong tỏa chặt chẽ hơn nữa, Hải đoàn đồn trú có một số tàu chiến mạnh nhất của nó trong các vũng sông. Ở đó, chúng đậu sát bờ dựa vào sự bảo vệ từ súng của pháp đài Fort Monroe và các khẩu đội pháo ở Hampton và Newport News và ở ngoài phạm vi của các khẩu đội súng tại điểm Sewell và đảo Craney. Hầu hết những năm đầu tiên của cuộc chiến, Hợp bang không thể làm được gì nhiều để chống lại chúng (Hạm đội của Liên Bang).
    Sự khai sinh của tầu bọc thép lớp ironclads
    Khi hơi nước đẩy bắt đầu được áp dụng cho tàu chiến, nhà thầu hải quân mới quan tâm của họ trong áo giáp cho tàu của họ. Thí nghiệm đã được thử với thiết giáp trong chiến tranh Crimean, ngay trước khi Nội chiến Hoa Kỳ nổ ra, và các hải quân Anh và Pháp đã từng chế tạo tàu bọc thép và đã được quy hoạch để đóng ở những nước khác. Năm 1860, Chiếc tầu Hải quân Pháp La Gloire, chiếc tàu chiến lớp ironclad có khả năng vượt Đại dương đầu tiên trên thế giới ra đời. Tại Anh một năm sau đó cho ra đời HMSWarrior. Việc sử dụng thiết giáp vẫn gây nhiều tranh cãi, tuy nhiên Hải quân Hoa Kỳ nói chung miễn cưỡng chào đón công nghệ mới.
    CSS Virginia
    Khi nội chiến nổ ra, Liên minh miền Nam Bộ trưởng Hải quân Stephen R. Mallory là một người sớm có đam mê cho những lợi thế của tầu bọc thép (thiết giáp hạm). Vì ông ta thấy rằng Hợp bang không thể tranh đua với các Bang công nghiệp ở miền Bắc về số lượng tàu thuyền trên biển, do đó, họ phải cạnh tranh bằng cách đóng các tầu mà những chiếc tầu này phải có ưu thế áp đảo về tính năng cá nhân so với tầu của Liên Bang. Các thành tầu sẽ được bao bọc bởi các lớp giáp. Mallory thu thập về phía mình một nhóm những người có thể nhìn thẳng vào thực tế, trong số đó có John M. Brooke, John L. Porter, và William P. Williamson.
    Khi người của Mallory tìm kiếm khắp phía Nam để tìm các nhà máy có thể đóng được các công cụ để lái tàu lớn mà ông muốn, họ không tìm thấy nơi để làm điều đó ngay lập tức. Tại cơ sở tốt nhất, Tredegar Iron Works ở Richmond, việc đóng các động cơ từ A -- > Z sẽ phải tốn ít nhất một năm. Sau khi biết việc này, Williamson đề nghị lấy các động cơ từ thân của chiếc Merrimack, dựng nó ( chiếc động cơ) lên từ giường của nó, tức là con sông Elizabeth. Đồng nghiệp của ông nhanh chóng chấp nhận đề nghị này và mở rộng nó, đề xuất rằng thiết kế của dự án ironclad của họ phải có điều chỉnh ở phần thân. Porter làm một dự án thiết kế sửa đổi khác, và dự án đó đã được gửi lên cho Mallory phê duyệt. Ngày 11 Tháng 7 Năm 1861, thiết kế mới đã được chấp nhận, và công việc bắt đầu gần như ngay lập tức. Phần thân tàu bị đốt cháy (của chiếc Merrimack) được kéo vào trong ụ tầu ở trên cạn mà Hải quân Liên Bang đã không phá hủy. Trong quá trình chuyển đổi tiếp theo, các kế hoạch đã được sửa đổi để kết hợp thêm một ram sắt trang bị cho phần mũi của con ta?u này. Khả năng tấn công của nó ngoài chiếc ram (mũi nhọn bằng kim loại để húc, đâm thủng thành tầu đối phương) còn bao gồm 10 súng: sáu súng nòng trơn Dahlgrens 9in (230mm), và hai súng 6,4in (160mm) và hai súng Brooke 7in (180mm). Các thiết giáp mạ, ban đầu dày 1in (25mm), sau được thay thế bằng tấm kép, mỗi tấm dày 2in (51mm), giáp phía sau dày 2.4in (61mm) bằng sắt và gỗ thông. Phần thân giáp được tạo 14 cửa súng, bốn chiếc ở mỗi bên mạn tầu, ba chiếc ở phía trước, và ba ở phía sau. Công việc sửa chữa cùng với những vấn đề liên đến hệ thống giao thông của miền Nam, dẫn đến sự chậm trễ đã đẩy lùi ngày hạ thủy con tầu đến tận ngày 03 tháng hai năm 1862, và nó đã không được đưa vào hoạt động cho đến ngày 17 tháng 2, và được mang tên CSS Virginia.
    USS Monitor
    Bộ trưởng Hải quân của Liên Bang (Miền Bắc) Gideon Welle chờ đợi câu trả lời của Quốc hội cho đến khi ông yêu cầu họ cho phép xem xét việc đóng tàu bọc thép; Quốc hội đã thông qua sự cho phép mà ông đòi hỏi vào ngày 03 tháng 8 năm 1861. Welles bổ nhiệm một ủy ban mà họ được biết đến như là Ủy ban thiết giáp hạm ( ironclad Board), Ba sĩ quan hải quân cấp cao lựa chọn một vài trong số các mẫu thiết kế được đệ trình để xem xét. Ba người đó là các thuyền trưởng Joseph Smith, Hiram Paulding, và chỉ huy Charles Henry Davis. Ủy ban xem 17 mẫu thiết kế thiết giáp hạm, và đã chọn ra ba. Thiết kế xuất sắc nhất trong ba mẫu đã được chọn, mặc dù nó là mẫu thiết kế cấp tiến nhất trong các thiết kế của nhà phát minh kiêm kỹ sư người Thụy Điển John Ericsson, chiếc USS Monitor.
    Chiếc Monitor của Ericsson, được đóng tại xưởng Ericsson trên sông Đông thuộc Greenpoint, Brooklyn, kết hợp nhiều tính năng thiết kế mới và nổi bật, quan trọng nhất trong số đó là thiết giáp và trang bị vũ khí của nó. Thay vì phải mang một số lượng lớn súng cỡ nòng nhỏ của các lớp tàu chiến đặc trưng trong quá khứ, Ericsson chỉ sử dụng hai khẩu súng có cỡ nòng lớn; ông muốn sử dụng loại súng 12in (300mm), nhưng đã phải chấp nhận loại súng 11in (280 mm) vì kích thước lớn hơn thì không sẵn có. Chúng được đặt trong một tháp hình trụ có đường kính 20 ft (6,1 m), cao ft 9 (2,7 m), được che phủ bằng sắt dày 8in ( 200mm) dày. Toàn bộ con tầu vận chuyển trên một trục trung tâm, và cơ động bằng một động cơ hơi nước mà nó có thể được điều khiển bởi chỉ một người. Một lỗ hổng nghiêm trọng trong thiết kế là chỗ của hoa tiêu mà từ đó con tàu sẽ được điều khiển, là một khoang nhỏ ở phía trước của tháp pháo trên sàn chính. Sự hiện diện của nó có nghĩa rằng là những khẩu súng không thể bắn trực tiếp phía trước, và nó bị cô lập với các hoạt động khác trên ở tàu. Mặc dù bắt đầu muộn và hoàn toàn đóng mới, chiếc Monitor đã thực sự được hoàn thành một vài ngày trước đối thủ của nó, chiếc Virginia, nhưng chiếc Virginia đã tham chiến trước tiên.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 10:37 ngày 28/11/2009
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận đánh
    Chỉ huy
    Các chuỗi mệnh lệnh của phía Hợp bang là bất thường. Trung úy Catesby ap Roger Jones đã bỏ nhiều công sức trong việc chuyển đổi chiếc Merrimack thành chiếc Virginia, và ông ta đã rất thất vọng khi ông không được trở thành thuyền trưởng của nó. Jones vẫn được giữ lại trên chiếc tàu Virginia, Nhưng chỉ như là một sỹ quan quản trị nó. Thường thì con tàu sẽ được chỉ huy bởi một thuyền trưởng của Hải quân Hợp bang, được xác định qua hệ thống thâm niên cứng nhắc. Bộ trưởng Mallory muốn bổ nhiệm thuyền trưởng Franklin Buchanan, con người đầy nhiệt huyết, nhưng ít nhất có hai thuyền trưởng khác có thâm niên hơn và được cử vào vị trí này. Mallory cứ lờ họ đi và tiếp tục bổ nhiệm Franklin, người đứng đầu của Office of Orders & Detail (Chúa biết được đây là gì), sỹ quan phụ trách việc phòng thủ Norfolk và sông James. Như vậy, ông có thể kiểm soát các hoạt động của chiếc Virginia. Về mặt kỹ thuật mà nói do đó con tàu đã đi vào cuộc chiến mà không có một thuyền trưởng (thực thụ).
    Về phía Liên Bang, quyền chỉ huy của Hải đội phong tỏa Bắc Đại Tây Dương được nắm giữ bởi sỹ quan Louis M. Goldsborough. Ông đã nghĩ ra một kế hoạch cho các tàu khu trục của mình để bẫy chiếc Virginia, Hy vọng cài bẫy nó vào hỏa lực bắn chéo cánh sẻ CrossFire của họ. Trong thực tế, kế hoạch của ông bị đổ vỡ hoàn toàn khi bốn trong số các tàu đang hoạt động bị mắc cạn (một trong số chúng là do cố ý) trong vùng nước cạn của vũng sông. Ngày xảy ra trận đánh, Goldsborough đã vắng mặt với các tàu tham gia vào trận đánh Burnside ở Bắc Carolina. Vì sự vắng mặt của ông, quyền chỉ huy rơi vào tay viên thuyền trưởng thứ hai, John Marston của chiếc USSRoanoke. Nhưng chiếc Roanoke lại là một trong những chiếc tàu chạy bị mắc cạn, Marston đã không thể có nhiều ảnh hưởng vào trận chiến, và sự chỉ huy của ông thường không được tuân phục. Hầu hết các tài liệu đều nhấn mạnh đến sự đóng góp của thuyền trưởng của chiếc Monitor, John L. Worden, mà bỏ bê những người khác.
    Ngày 08 tháng 3: chiếc Virginia trút giận lên những chiếc tàu chiến gỗ của Liên bang
    Trận đánh bắt đầu khi chiếc CSS Virginia to lớn và cồng kềnh bơi vào Hampton Roads trong buổi sáng ngày 08 Tháng Ba năm 1862. Thuyền trưởng Buchanan đã cố gắng để chỉ huy tất cả mọi người nhưng một số ít tin rằng đây chỉ là một sự thử nghiệm đơn thuần , nhưng hầu hết các thủy thủ đoàn nhận thức được rằng ông dự định tấn công nếu có cơ hội. Chiếc Virginia được hộ tống bởi chiếc Raleigh và Beaufort trên sông Elizabeth, và cùng tham gia vào Hampton Roads bởi Hải đội sông James gồm các chiếc Patrick Henry, Jamestown, và Teaser. Khi họ đi qua các khẩu đội pháo của Liên Bang tại Newport News, chiếc Patrick Henry đã tạm thời bị vô hiệu hoá bởi một loạt súng bắn vào nồi hơi của nó và đã giết chết bốn người trong thuỷ thủ đoàn của nó. Sau khi sửa chữa, nó quay trở lại và tái gia nhập những chiếc khác.
    Vào thời gian này, Hải quân Liên Bang có năm tàu chiến trong vũng sông (xem bản đồ), ngoài một số tàu hỗ trợ. Chiếc thông báo hạm USS Cumberland và tàu khu trục nhỏ Congress được neo tại chiếc kênh gần Newport News. Chiếc Frigate St Lawrence và tàu khu trục hơi nước Roanoke và Minnesota neo gần Fort Monroe. Ba chiếc sau cùng đã theo ngay vào khi họ thấy chiếc Virginia tiến đến gần, nhưng cả ba sớm bị mắc cạn. Các chiếc St Lawrence và Roanoke đã không thể đóng góp thêm được một phần quan trọng nào cho trận đánh.
    Chiếc Virginia hướng trực tiếp về phía đội tàu của Liên Bang. Trận đánh mở màn khi chiếc tàu kéo Zouave bắn vào đối phương đang tiến lên, và Beaufort trả lời. Các phát súng lẻ tẻ này không gây được nhiều thiệt hại. Chiếc Virginia không nổ súng cho đến khi nó đến được phạm vi tầm bắn hiệu quả để diệt chiếc Cumberland. Những phát đạn bắn trả từ chiếc Cumberland và Congress nảy vào các mảng giáp sắt mà không thể xuyên qua được. Chiếc Virginia đâm vào chiếc Cumberland ở dưới mực nước và nó (chiếc Cumberland) nhanh chóng bị chìm, " Họ vẫn dũng cảm chiến đấu miễn là họ vẫn ở trên mực nước," Buchanan nói (về chiếc Cumberland). Nó (vẫn chiếc Cumberland ) đã chìm xuống kéo theo 121 thuỷ thủ cùng với nó, những người bị thương trong sự kiện trên đưa tổng số nạn nhân lên gần 150 người.
    Đâm chìm chiếc Cumberland kết quả cũng làm cho chiếc Virginia chìm theo. Chiếc mũi nhọn ( ram) trên mũi của nó đã bị mắc kẹt trong thân tàu của đối phương, và khi chiếc Cumberland tê liệt và bắt đầu chìm xuống, nó gần như kéo cả chiếc Virginia xuống với nó. Chiếc Virginia tự bị gãy (phần Ram để đâm đối phương), tuy nhiên, khi chiếc ram bị gãy ra thì nó lấy lại thăng bằng.
    Buchanan chuyển mục tiêu của chiếc Virginia sang chiếc USS Congress. Thấy những gì đã xảy ra với chiếc Cumberland, trung úy Joseph B. Smith, thuyền trưởng của chiếc USS Congress, ra lệnh cho tàu của ông chạy vào chỗ nước nông. vào thời điếm này, Hải đội Sông James, dưới sự chỉ huy của John Randolph Tucker, đã đến và tham gia cùng với chiếc Virginia trong cuộc tấn công chiếc USS Congress. Sau một giờ chiến đấu không cân sức, bị hư hỏng nặng chiếc USS Congress đầu hàng. Trong khi những người còn sống sót của thủy thủ đoàn của chiếc Congress đã xuống các xuồng cứu sinh và rời khỏi con tàu, một khẩu đội pháo của Liên Bang trên bờ biển phía bắc nổ súng vào chiếc Virginia. Để trả đũa, Buchanan ra lệnh tiếp tục bắn vào chiếc Congress bằng đạn lửa. Chiếc Congress bốc cháy và bị đốt cháy trong suốt phần còn lại trong ngày. Gần nửa đêm, ngọn lửa đã bén vào kho đạn của nó và nó đã đã phát nổ rồi chìm. Thiệt hại về nhân mạng bao gồm 110 người chết hoặc mất tích và coi là chết đuối. 26 người khác bị thương, 10 trong đó đã chết trong vòng vài ngày.
    Mặc dù nó đã không phải chịu bất cứ thiệt hại gì giống như nó đã gây ra cho các chiếc tầu của Liên Bang, chiếc Virginia đã không còn hoàn toàn nguyên vẹn. Các phát đạn từ chiếc Cumberland, Congress, và pháo của quân Liên Bang trên bờ làm thủng ống khói của nó, nó đã phải giảm tốc độ xuống thấp. Hai trong số súng của nó đã bị vô hiệu hoá và một số tấm giáp đã bị nới lỏng. Hai trong số thuỷ đoàn của nó đã bị giết hại, và nhiều người khác bị thương. Một trong những người bị thương là thuyền trưởng Buchanan, đùi trái của ông bị xuyên thủng bởi một phát đạn súng trường.
    Trong khi đó, Hải đội sông James đã chuyển sự chú ý của họ đến chiếc USS Minnesota, chiếc này đã rời cánh trái Fort Monroe để tham gia trận đánh sau đó nó đã bỏ chạy và bị mắc cạn. Sau khi chiếc Virginia đã xử lý xong chiếc Congress đã đầu hàng, nó đã gia nhập vào Hải đội Sông James (để tiếp tục thịt nốt chiếc USS Minnesota) bất chấp những thiệt hại của nó. Bởi vì được thiết kế một cách to lớn và thủy triều lại xuống cho nên chiếc Virginia không thể vào đủ gần để có thể tấn công một cách có hiệu quả, và bóng tối ngăn cản phần còn lại của Hải đội trong việc nhằm súng của họ một cách chính xác. Cuộc tấn công này được do đó bị trì hoãn tạm thời. Chiếc Virginia bỏ đi với kỳ vọng ngày hôm sau nó sẽ trở lại và hoàn thành nốt nhiệm vụ. Nó rút lui vào vùng biển an toàn do Hợp Bang kiểm soát ở ngoài khơi cứ điểm Sewell Point vào ban đêm.
    Ngày 9 tháng 3: Monitor tấn công Virginia
    Cả hai bên đều sử dụng thời gian nghỉ ngơi để chuẩn bị cho ngày hôm sau. Chiếc Virginia đưa thân thể bị thương của nó lên bờ và trải qua 1 cuộc sửa chữa tạm thời. Thuyền trưởng Buchanan là một trong những người chỉ huy bị thương và như vậy, vào ngày thứ hai quyền chỉ huy rơi vào tay sỹ quan quản trị của nó, trung úy Catesby ap Roger Jones. Jones được chứng minh là ít hung hăng hơn người ông ta thay thế. Trong khi chiếc Virginia được chuẩn bị cho phần việc mới của trận đánh, và trong khi chiếc Congress vẫn đang bốc cháy, chiếc USS Monitor, chỉ huy bởi trung úy John L. Worden đã đến Hampton Roads. Tầu bọc thép lớp ironclad đã lao đến Hampton Roads với hy vọng bảo vệ hạm đội của Liên Bang và ngăn ngừa chiếc Virginia đe dọa các thành phố của Liên Bang. Thuyền trưởng Worden đã được thông báo nhiệm vụ chính của ông là phải bảo vệ chiếc Minnesota, như vậy chiếc Monitor tiến đến một vị trí gần nơi chiếc Minnesota bị mắc cạn và chờ đợi.
    Sáng hôm sau, vào lúc bình minh ngày 09 Tháng ba năm 1862, chiếc Virginia rời nơi neo đậu của nó tại cứ điểm Sewell Point và di chuyển để tấn công chiếc Minnesota lúc này vẫn còn bị mắc cạn. Nó đã được hộ tống bởi ba tàu của Hải đội sông James. Họ thấy chuyến đi của họ bị phong toả, tuy nhiên, do chiếc Monitor mới đến. Lúc đầu, Jones tin rằng đối thủ lạ là một tầu hơi nước được điều đến để kéo chiếc Minnesota, Ông không nhận ra ngay thực chất của đối thủ của mìmh. Tuy nhiên ngay sau đó, ông đã hiểu rõ ràng rằng không còn sự lựa chọn ngoài cách nổ súng chiến đấu với nó.
    Sau khi chiến đấu khoảng 1 giờ, chủ yếu là ở cự ly gần, chiếc này không thể thắng nổi chiếc kia. Các lớp thiết giáp của cả hai tàu đã chứng minh đầy đủ. Một phần, bởi vì mỗi chiếc được chế tạo theo một cách tấn công riêng của nó. Buchanan, trong chiếc Virginia, Có thể sẽ không ngờ rằng mình sẽ phải đánh nhau với một tàu bọc thép, do đó, súng của ông chỉ được cung cấp đạn thường hơn là loại đạn xuyên giáp. Súng chiếc Monitor đã được sử dụng với đạn tiêu chuẩn chỉ có 15pound (6,8 kg) bột thuốc súng, mà không tạo đủ đà phóng để xuyên qua giáp của đối thủ của mình. Tiến hành các thí nghiệm sau trận đánh cho thấy súng Dahlgren có thể hoạt động một cách an toàn và hiệu quả với lượng thuốc súng tăng lên nhiều đến 30 pound (13,6 kg).
    Trận chiến cuối cùng đã ngừng lại khi một phát đạn bắn từ chiếc Virginia trúng vào khoang hoa tiêu của chiếc Monitor và phát nổ, các mảnh vỡ lọt qua khe quan sát nhìn vào mắt Worden và tạm thời làm ông ta bị mù . Vì không ai khác có thể nhìn thấy để lái con tàu, chiếc Monitor đã bị buộc phải rút lui ra xa. Sỹ quan quản trị, trung úy Samuel Dana Greene đã thay thế viên hoa tiêu và chiếc Monitor quay trở lại để tiếp tục trận chiến . Trong giai đoạn này có sự nhầm lẫn về mệnh lệnh, tuy nhiên các thành viên thuỷ thủ đoàn của chiếc Virginia tin rằng đối thủ của họ đã tháo chạy . Mặc dù chiếc Minnesota vẫn còn bị mắc cạn, thuỷ triều xuống có nghĩa là nó (chiếc Minnesota) ở ngoài tầm với. Hơn nữa, chiếc Virginia đã phải chịu một số thiệt hại mà có thể n ó sẽ yêu cầu sửa chữa lớn . Tin tưởng rằng tàu của ông đã thắng trong trận này , Jones đã ra lệnh cho nó (chiếc Virginia) trở lại Norfolk. Vào thời gian này chiếc Monitor đã quay trở lại, chỉ để phát hiện ra rằng đối thủ của nó dường như đã từ bỏ cuộc chiến. Tin tưởng rằng chiếc Virginia đã bỏ đi và với mệnh lệnh là phải bảo vệ chiếc Minnesota và không muốn tạo nguy hiểm cho tàu của mình một cách không cần thiết, Greene đã không đuổi theo. Như vậy, mỗi bên hiểu sai sự di chuyển của bên kia, và như vậy kết quả là cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng.
    Mùa xuân 1862 - một trạng thái cân bằng tại Hampton Roads
    Chiếc Virginia vẫn ở trong ụ tầu trên cạn tới gần một tháng, để sửa chữa các thiệt hại trong trận chiến cũng như một số thay đổi nhỏ để cải thiện hiệu suất chiến đấu của mình. Ngày 04 tháng 4, nó đã có thể rời khỏi ụ tầu trên cạn. Buchanan, vẫn còn đang phải phục hồi từ vết thương của mình,mọi người đã hy vọng rằng Catesby Jones sẽ được chọn để thay thế ông ta, và hầu hết các nhà quan sát đều tin rằng những hành động của Jones trong trận chiến là xuất sắc. Hệ thống thâm niên cho sự thăng tiến tại Hải quân đã làm mất cơ hội của ông ta, tuy nhiên, người thực sự trở thành thuyền trưởng lại là Commodore Josiah Tattnall 67 tuổi. Chiếc Monitor không bị hỏng nặng vẫn làm nhiệm vụ. Giống như Jones đối thủ của ông, Greene được coi là quá nhỏ bé để được giữ chức như là một thuyền trưởng, do đó ông đã bị thay thế. Ngày hôm sau trận đánh, ông được thuyên chuyển và thay thế bởi trung úy Thomas O. Selfridge; Hai ngày sau đó, Selfridge lại lần lượt bị thuyên chuyển và thay thế bởi trung úy William Nicholson Jeffers.
    Mỗi bên tự cho là có cách tốt nhất để loại trừ các mối đe dọa bởi đối thủ của nó, và sau khi chiếc Virginia quay trở lại mỗi bên đã cố gắng để kích thích để đối phương phải tấn công trong những hoàn cảnh bất lợi. Cả hai thuyền trưởng đã từ chối những cơ hội phải tấn công trong những vùng nước không phải do họ lựa chọn, Jeffers đặc biệt nhận được mệnh lệnh là không để mạo hiểm xảy ra với tàu của ông. Do đó, mỗi tàu tốn cả tháng trời tiếp theo để rình rập lẫn nhau. Không chỉ là hai chiếc tàu không thể tấn công lẫn nhau, mà không bao giờ chúng còn có thể quay trở lại để chiến đấu với nhau sau ngày đó.
    Kết thúc xảy ra đầu tiên tới chiếc Virginia. Vì phong tỏa không bị phá vỡ, Norfolk đã trở nên ít được sử dụng trong chiến lược của Hợp Bang, và kế hoạch sơ bộ đã được đặt để di chuyển các con tầu ngược lên sông James đến vùng lân cận của Richmond. Trước khi sự chuẩn bị đầy đủ có thể được tiến hành, quân đội miền Nam do Thiếu tướng Benjamin Huger chỉ huy đã rời bỏ thành phố vào ngày 09 tháng 5, mà không tư vấn bất cứ ai từ Hải quân. Thiết kế của chiếc Virginia là quá lớn để cho phép nó đi ngược lên để vượt qua con sông, trong đó có độ sâu chỉ 18 feet (5,5 m), và không ở trong những hoàn cảnh thuận lợi. Nó đã bị mắc kẹt và chỉ có thể bị bắt hoặc đánh chìm bởi Hải quân Liên Bang. Thay vì chọn một trong hai, Tatnall quyết định dốt bỏ chiếc tàu của riêng mình. Ông ra lệnh kéo nó xuống đến đảo Craney, nơi thuỷ thủ đoàn của nó được đưa lên bờ, và sau đó nó bị đốt cháy. Nó bốc cháy trong suốt phần còn lại trong ngày và hầu hết đêm hôm sau, ngay trước khi bình minh, ngọn lửa đã bén tới kho thuốc, và nổ tung lên.
    Chiếc Monitor cũng như vậy, không tồn tại nổi qua năm. Nó được lệnh phải đi Beaufort, North Carolina trong ngày Giáng sinh, để tham gia các cuộc phong tỏa ở đó. Trong khi được kéo xuống bờ biển (dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng thứ tư của mình, chỉ huy John P. Bankhead), vùng biển bắt đầu có nước lên và nó đã ngập nước. Nước biển lọt vào tầu làm ngập máy bơm một cách nhanh chóng, và sau đó làm tắt động cơ của nó (đây là động cơ hơi nước đốt bằng lò than - củi). Mệnh lệnh được đưa ra là phải rời bỏ con tàu; hầu hết các thuỷ thủ được cứu bởi chiếc USSRhode Island, Nhưng mười sáu thuỷ thủ đã chìm theo nó khi con tàu bị chìm trong những giờ đầu của ngày 31 Tháng 12 năm 1862.
    Một số bức ảnh về trận hải chiến Hampton Roads
    [​IMG]
    Một bức ảnh chụp chiếc Thiết giáp hạm CSS Virginia
    [​IMG]
    Một bức ảnh khác cũng chụp chiếc Thiết giáp hạm CSS Virginia
    [​IMG]
    Một bức tranh vẽ chiếc Thiết giáp hạm USS Monitor
    [​IMG]
    Một bức ảnh chụp phần boong của chiếc Thiết giáp hạm USS Monitor
    [​IMG]
    Một bức tranh vẽ cuộc cảnh chiếc Monitor hạ gục chiếc USS Cumberland
    [​IMG]
    Một bức tranh vẽ cuộc chiến giữa hai chiếc Thiết giáp hạm
    [​IMG]
    Thêm bức tranh vẽ cuộc chiến giữa hai quái vật của biển cả
    [​IMG]
    USS Monitor đấu với CSS Virginia, ai sẽ thắng
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:21 ngày 28/11/2009

Chia sẻ trang này