1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đôi nét về quá trình tiến hóa của các chiến hạm từ cuối Kỷ tầu buồm đến Kỷ hơi nước
    Đỉnh cao của Kỷ tầu buồm là vào khoảng thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, đây là thời kỳ giao tranh liên tục giữa hai cường quốc biển cả đó là nước Anh và nước Pháp mà phần thắng cuối cùng đã nghiêng về phía người Anh với các trận đánh như Trận sông Nile. trận Trafalga... Cả hai quốc gia Anh và Pháp đều tiêu chuẩn hóa chiến hạm của mình thành 4 hạng từ khoảng 60 -> 120 súng/ 1 tầu chiến, và hạng tầu chính được sử dụng trong các trận đánh giữa hai quốc gia này là hạng II - khoảng trên dưới 70 súng/ 1 tầu chiến (những chiến hạm có nhiều súng hơn thì phải đánh đổi lấy độ cơ động). Những chiến hạm trong 4 hạng này được gọi là tầu tiền tuyến - the ship of the line, đây là những tầu chiến chính của một trận hải chiến, còn những con tầu nhỏ hơn với từ 30 -> trên 40 súng được gọi là tầu Frigate, loại tầu này chức năng chính không phải là để chiến đấu mà là để tuần tra trinh sát.
    Đến giữa thế kỷ 19 cùng với sự phát chiến của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự ra đời của động cơ hơi nước - đây có thể coi là thời đầu của kỷ hơi nước với sự kết hợp của cả hai động cơ chạy buồm và hơi nước trên một con tầu - người ta bắt đầu có một khái niệm mới về tầu chiến, đó phái là những con tầu có động cơ bằng hơi nước, nó phải được bọc thép và có ít súng chính nhưng có cõ nòng rất lớn, hay người ta còn gọi chúng là chiến hạm bọc thép (ironclass) sự ra đời của loại chiến hạm này đã làm cho các tầu chiến chạy buồm chở thành lỗi thời, ví dụ điển hình là trong giai đoạn đầu của trận hải chiến Hampton Road của nội chiến Hoa kỳ, chiếc tầu bọc thép CSA Virginia của Hợp bang miền Nam đã đánh tơi bời hạm đội tầu gỗ truyền thống của Liên Bang miền Bắc. Sau cuộc đối đầu đỉnh cao giữa hai quái vật bọc thép, chiếc USS Monitor của miền Bắc với chiếc CSA của miền Nam, thì các cường quốc hải quân trên thế giới bắt đầu đổ xô đi đóng tầu bọc thép với cảm hứng là từ chiếc USS Monitor. Nhưng do sự hạn chế của trình độ khoa học kỹ thuật ở thời này mà các tầu lớp chiến hạm bọc thép chỉ dừng lại ở các công sự nổi có động cơ hơi nước và được bọc giáp mà thôi.
    Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 khi thế giới phải trải qua 2 cuộc chiến, chiến tranh Trung - Nhật lần I năm 1894/5 và chiến tranh Nga - Nhật 1904/05 thì người ta mới thấy các thiết giáp hạm đúng nghĩa của nó (battleship) mới thật sự ra đời chứ không còn chỉ là các tầu bọc thép Ironclas nữa, và người ta gọi chúng là các thiết giáp hạm thời Tiền Dreadnought ( đọc phiên âm tiếng Ắnglê là Pri dredn:t)
    Vậy những thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought là gì và chúng tiến hóa như thế nào? mời các bác tiếp tục đón xem
    Thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought là thuật ngữ chung tất cả các loại Thiết giáp hạm đi biển được đóng trong những năm giữa thập niên 1890 và 1905. Các tàu lớp Tiền Dreadnought thay thế lớp tàu chiến bọc thép của thập niên 1870 và thập niên 1880. Được làm từ thép, và được bảo vệ bởi áo giáp thép cứng, thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought mang khẩu đội súng chính cấp một hạng nặng trong tháp pháo và chúng được hỗ trợ bởi một hoặc một vài khẩu đội súng cấp hai có kích cỡ nhỏ hơn. Con tầu vận động bằng ba động cơ hơi nước mở rộng nhiên liệu than đá.
    [​IMG]
    Ảnh chiếc USSTexas, Được đóng vào năm 1892, đây là chiếc thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ.
    Trái ngược với sự phát triển một cách hỗn loạn của dòng tàu chiến bọc thép trong những thập kỷ trước, Trong những năm 1890 lực lượng hải quân trên toàn thế giới bắt đầu đóng chiến hạm theo một thiết kế phổ thông, như việc hàng chục thiết giáp hạm trên toàn thế giới được đóng chủ yếu theo thiết kế của lớp Thiết giáp hạm Majestic của Anh. Sự giống nhau xuất hiện ở các Thiết giáp hạm trong những năm 1890 được nhấn mạnh bởi số lượng ngày càng tăng các con tầu được đóng. Các quyền lực hải quân mới như Đức, Nhật Bản và Hoa Kỳ bắt đầu thiết lập các hạm đội tàu Tiền Dreadnought, trong khi hải quân các nước Anh, Pháp và Nga bắt buộc phải mở rộng để đáp ứng các mối đe dọa mới. Cuộc đụng độ quyết định của hạm đội tiền Dreadnought chính là cuộc đối đầu giữa Nga và Nhật Bản trong Trận Tsushima ngày 27 tháng năm năm 1905.
    Nhưng hàng chục tàu chiến đã đột ngột trở nên lỗi thời bởi sự xuất hiện của chiếc HMS Dreadnought vào năm 1906. Chiếc Dreadnought theo xu hướng thiết kế thiết giáp hạm hạng nặng hơn, Tầm bắn của súng xa hơn và chỉ được trang bị một loại súng 12-inch (305 mm) súng; Chiếc động cơ tua bin hơi nước cải tiến cũng giúp nó có tốc độ cao hơn. Các tầu lớp được đóng trước chiếc Dreadnought ngay lập tức bị đánh bại; lớp thiết giáp hạm mới được từ đó được gọi là lớp tàu Dreadnought trong khi các tàu được đóng trước đó thường được gọi là tàu tiền Dreadnought. Mặc dù bị lỗi thời, các chiến hạm tiền Dreadnought vẫn đóng một vai trò quan trọng trong Chiến tranh thế giới I và thậm chí có thể được thấy phục vụ trong Chiến tranh thế giới II.

    Sự tiến triển của tầu thiết giáp hạm


    HMS Dreadnought cho thấy phần thân tàu thấp điển hình ở loại tầu bọc thép có tháp pháo. Con tàu này được hạ thủy năm 1875, không nên nhầm lẫn với kế thừa nổi tiếng của nó được hạ thủy vào năm 1906, đánh dấu sự kết thúc của kỷ nguyên Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought
    .
    Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought được phát triển từ lớp chiến hạm bọc thép. Các chiến hạm bọc thép đầu tiên lớp La Gloire and Warrior trông giống như các tầu frigate có buồm, với ba cột buồm cao và pháo mạn tàu khi chúng được đưa vào biên chế đầu những năm 1860. Chỉ tám năm sau đó xuất hiện chiếc HMVS Cerberus, con tầu đầu tiên được đóng theo thiết kế của Sir Edward Reed, và ba năm tiếp theo thì là chiếc HMS Devastation, Một con tàu mà trông còn giống Thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought hơn nữa và là con tầu vượt đại dương đầu tiên đóng theo thiết kế của tầu Monitor. Đều không có cột buồm, cả hai tàu mang bốn khẩu súng hạng nặng trong hai tháp phía trước và phía sau. Chiếc HMS Devastation là một tầu kiểu monitor được thiết kế để tấn công bờ biển và bến cảng của đối phương vì vậy nó có phần thân tàu rất phấp, nó thiếu khả năng đi biển cần thiết để chiến đấu trên đại dương; sàn của chiến hạm này sẽ được quét bởi vòi phun nước chính vì vậy nên chúng làm ảnh hưởng đến việc sử dụng súng của nó. Lúc này Hải quân trên toàn thế giới vẫn tiếp tục đóng loại thiết giáp hạm có buồm, không có tháp pháo trên phần thân tàu đầy đủ và đã đủ tốt, để vượt biển và chiến đấu trên các đại dương.
    Sự khác biệt giữa lớp thiết giáp hạm tấn công bờ biển và lớp thiết giáp hạm có khả năng hành trình trên đại dương trở nên mờ nhạt với việc xuất hiện lớp thiết giáp hạm Admiral, được đặt hàng vào năm 1880. Những con tàu ở lớp này phản ánh sự tiến hóa trong thiết kế của tầu bọc thép, chúng được bảo vệ bằng thép và giáp hợp kim hơn là từ sắt. Được trang bị súng có khóa nòng với các cỡ còng từ 12 inch -> 16 ¼ inch (305 mm và 413 mm), các tầu lớp Admiral tiếp tục xu hướng của tàu chiến bọc thép là phải có vũ khí khổng lồ. Các khẩu súng được gắn các bệ pháo có lá chắn nhằm giảm trọng lượng. Một số nhà sử học xem những con tàu này như là một bước tiến quan trọng hướng tới tàu Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought; những người khác xem chúng như là một thiết kế nhiều mắc mớ và không thành công.

    Tiếp sau đó là sự ra đời của lớp tầu Royal Sovereign năm 1889, chúng được thống nhất trang bị súng 13,5-inch (343 mm) với bệ súng có lá chắn; chúng cũng lớn hơn đáng kể (trọng tải khoảng 14.000 tấn) và nhanh hơn (do sử dụng động cơ hơi nước mở rộng ba lần) so với lớp Admiral. Một điều rât quan trọng, các tầu lớp Royal Sovereign đã có một phần thân tàu cao hơn, làm cho chúng rõ ràng có khả năng đi biển tốt, đây là vai trò quan trọng của thiết giáp hạm.
    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm HMS Ramillies là con tàu thứ tư chịu ảnh hưởng của lớp tầu Royal Sovereign.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 18:56 ngày 14/04/2010
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Việc thiết kế Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought đến đỉnh cao ở lớp thiết giáp hạm Majestic, mà con tàu đầu tiên tromg lớp này được hạ thủy vào năm 1895. Những con tàu này được đóng với phần thiết giáp hoàn toàn bằng thép, và súng của chúng được đặt ở các bệ được bao chắn đầy đủ và chắc chắn gọi là tháp pháo. Chúng cũng dùng súng 12-inch (305 mm) làm súng chính, do những tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công nghệ đúc súng và chế tạo đạn, các khẩu súng đã nhẹ hơn và mạnh mẽ hơn so với các khẩu súng có cỡ nòng lớn hơn trước đây. Các tầu lớp Majestc cung cấp mô hình để đóng các thiết giáp hạm của Hải quân Hoàng gia Anh cũng như của lực lượng hải quân của các quốc gia khác trong nhiều năm sau.
    Trang bị vũ khí


    Các tàu thiết giáp thời tiền Dreadnought mang những khẩu súng có những cỡ nòng khác nhau cho các vai trò khác nhau trong những trận chiến tàu đối tàu. Vũ khí trang bị chính là bốn khẩu súng hạng nặng, được gọi là các khẩu súng cấp một và đặt ở hai tháp pháo phía trước và phía sau. Rất ít khi tàu Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought có những sắp xếp khác với thiết kế này. Ban đầu những khẩu súng này có tốc độ bắn chậm, độ chính xác bị giới hạn, tuy nhiên chúng là những khẩu súng hạng nặng, đủ để xuyên qua lớp giáp dày bảo vệ động cơ, kho đạn, và súng chính của chiến hạm của đối phương.
    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm HMS Majestic, một thời từng là khuôn mẫu cho nhiều thiết giáp hạm cho nhiều cường quốc hải quân trên thế giới
    Loại cỡ phổ biến nhất của súng chính cấp I là loại có cỡ nòng 12 inch; thiết giáp hạm của Anh từ lớp Majestic trở đi đều sử dụng cỡ nòng này, cũng như các tàu Pháp kể từ lớp Charlemagne (được đặt hàng năm 1894). Người Nhật Bản, nhập khẩu và sử dụng súng 12-inch hầu hết các khẩu súng của họ từ nước Anh. Hoa Kỳ sử dụng cả hai loại cỡ nòng 12 - và 13-inch (330 mm) trong hầu hết các thập niên 1890 cho đến khi tầu lớp Maine được đặt hàng vào năm 1899, sau đó súng 12-inch (305 mm) đã được sử dụng phổ cập. Người Nga sử dụng cả hai loại cỡ nòng 12 và 10-inch (254 mm) làm vũ khí chính của họ; các tầu lớp Petropavlovsk, Retvizan, Tsesarevich, và lớp Borodino có các khẩu 12-inch (305 mm) trong khi các khẩu đội súng chính của lớp Peresviet lại sử dụng súng cỡ 10-inch (254 mm). Chiếc Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought đầu tiên của Đức sử dụng một súng trước 11-inch (279 mm) nhưng lại giảm xuống cỡ 9,4-inch (239 mm) ở hai súng sau nhưng người ta phải lại phải dùng tất cả súng 11 in ở cả súng trước lẫn súng sau với lớp tầu Braunschweig.

    [​IMG]
    Phác thảo của chiếc Mikasa, một điển hình của Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought ở nhiều khía cạnh; lưu ý vị trí của khẩu đội pháo chính cấp I và cấp II, và độ dày của lớp giáp trên tháp pháo.

    Trong khi kích cỡ của khẩu đội pháo chính vẫn khá ổn định, hiệu suất của các khẩu súng được cải thiện như việc sử dụng các nòng pháo dài. Việc ứng dụng thuốc súng cháy chậm như nitrocellulose và thuốc nô? không khói có nghĩa là một nòng súng dài hơn sẽ tạo ra một vận tốc đường đạn cao hơn và do đó phạm vi bắn cũng như khả năng xuyên phá của phát đạn sẽ cao hơn. Giữa lớp Majesticlớp và Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght của Anh quốc, độ dài của súng 12-inch tăng từ 35 đến 45 calibrevà tốc độ đường đạn tăng từ 2.417 feet / giây (737 m / s) đến 2725 feet / giây (s / 830 m).
    Thiết giáp hạm lớp tiền Dreadnounght cũng mang một khẩu đội pháo cấp hai. Chúng bao gồm các khẩu súng nhỏ hơn, điển hình là ở kích cỡ 6-inch (152 mm), mặc dù bất cứ kích cỡ nào từ 4 ->9,2 inch (100-230 mm) đều có thể được sử dụng. Hầu như tất cả các khẩu súng cấp hai đều là loại ?obắn nhanh?, đây là áp dụng một loạt các sáng kiến về kỹ thuật để tăng tốc độ của loạt bắn, như việc sử dụng các catut đồng để chứa liều phóng, và cả hai cơ chế khóa nòng cũng như giá súng đều được hoàn thiện với mục tiêu là bắn nhanh và nạp đạn nhanh.
    [​IMG]
    Chiếc HMS Agamemnon, Một ví dụ về áp dung thiết kế trung gian về các khẩu đội pháo của nó với tám súng 9,2-inch và bốn súng 12 inch trong sáu tháp pháo ơ? giữa con tầu.
    Vai trò của khẩu đội pháo cấp hai là để gây thiệt hại vào các phần kém được thiết giáp hơn của chiến hạm đối phương, khi không thể xuyên qua phần đai giáp chính, nó có thể gây thiệt hại ở các khu vực điểm được bọc thép mỏng như đài chỉ huy, hoặc bắt đầu cháy. Một điều quan trọng không kém là các khẩu đội pháo cấp hai được sử dụng để chống lại các tàu tuần dương, tàu khu trục, và thậm chí cả tàu phóng ngư lôi của kẻ thù. Một khẩu súng với cỡ nòng trung bình được cho là có thể xuyên qua các lớp giáp mỏng của các loại tàu nhỏ hơn, trong khi tốc độ bắn nhanh của khẩu đội pháo cấp hai quan trọng trong việc tiêu diệt các mục tiêu nhỏ nhưng cơ động,. Súng cấp hai được đặt trong nhiều vị trí khác nhau, đôi khi cũng được đặt trong tháp pháo, chúng thường được cố định trong các ổ súng bọc thép ở phía bên của thân tàu, hoặc ở các vị trí bọc giáp trên boong trên của con tầu.


    [​IMG]
    Thiết giáp hạm USS Indiana, một ví dụ về việc thiết kế khẩu đội pháo trung gian chuyển tiếp về các khẩu súng13-inch và tháp pháo 8-inch của nó.
    Một số thiết giáp hạm tiền Dreadnought có mang một khẩu đội pháo trung gian, thông thường là các loại từ 8-inch (203 mm) tới 10-inch. Khẩu đội pháo trung gian là một phương pháp để tăng cường hỏa lực cùng một chiếc tàu chiến, chủ yếu sử dụng để chống lại các thiết giáp hạm hoặc ở khoảng cách xa. Hải quân Hoa Kỳ đi tiên phong trong khái niệm khẩu đội pháo trung gian trong các lớp tầu thiết giáp Indiana, Iowa và Kearsarge, nhưng đây không phải là các thiết giáp hạm được hạ thủy giữa các năm 1897-1901. Ngay sau khi hải quân Hoa Kỳ chấp nhận sử dụng khẩu đội pháo trung gian, các lực lượng hải quân của các cường quốc Anh, Ý, Nga, Pháp và Nhật Bản cũng cho hạ thủy các thiết giáp hạm có các khẩu đội pháo trung gian. Thế hệ sau của lớp tàu có khẩu đội pháo trung gian gần như cũng không có ngoại lệ là chỉ sau khi lớp Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght xuất hiện chúng đã ngày lập tức lỗi thời trước khi được hoàn thành.
    Trong kỷ tầu bọc thép, phạm vi của các cuộc đụng độ liên tục ra tăng; trong Chiến tranh Trung-Nhật năm 1.894/5 khoảng cách của các trận là khoảng 1 dặm (2.000 m), trong khi đó tại Trận Hoàng Hải năm 1904, các hạm đội Nga và Nhật Bản đã nổ súng vào nhau ở khoảng cách hơn 8 dặm (13km) trước khi định vị ở khoảng cách 3 ->5 dặm Anh (6km và 8.5km). Trong quá khứ, sự ra tăng của khoảng cách giữa các đối thủ trong trận đánh chính là do sự ra tăng tầm bắn của ngư lôi, và một phần do trình độ tác xạ được cải thiện và kiểm soát phát bắn. Hậu quả là người ta lại phải có xu hướng thiết kế những khẩu đội súng cấp hai hạng nặng hơn, con tầu thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought lớp học, chiếc Lord Nelson của Hải quân Hoàng gia Anh là con tầu cuối cùng có các khẩu đội pháo cấp hai trung gian, với 10 khẩu súng 9,2in như là các khẩu đội pháo cấp hai của mình. Những con tầu thiết giáp hạm với cùng một loại các khẩu đội súng cấp hai hạng nặng thường được gọi là các thiết giáp hạm lớp " bán Dreadnought?.
    Vũ trang của lớp tầu tiền Dreadnought được hoàn tất bởi một khẩu đội pháo cấp ba hạng nhẹ và bắn nhanh. Các khẩu đội pháo cấp ba có bất kỳ cỡ nòng từ 3-inch (76 mm) xuống đến súng máy với vai trò của chúng là bảo vệ con tầu ở tầm ngắn để chống lại các tàu phóng ngư lôi, hoặc để bắn phá cấu trúc thượng tầng của một tàu chiến đối phương.
    Ngoài việc trang bị vũ khí như súng pháo các loại, nhiều thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought được trang bị ngư lôi, chúng được bắn từ các ống ngư lôi cố định ở vị trí trên hoặc dưới mực nước. Vào thời kỳ các tầu tiền Dreadnought ngư lôi thường có đường kính 18 inch (46 cm) và có một vài loạt có hiệu quả chiến đấu tới vài nghìn mét. Tuy nhiên tại thời này, người ta vẫn chưa thấy có trường hợp nào một con tầu bị đánh chìm chỉ với một phát một ngư lôi.
    Bảo vệ
    [​IMG]
    Lược đồ phần cắt ngang của một Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought điển hình với một boong trên và boong giữa được bọc thép bằng một đai thiết giáp màu đỏ, để bảo vệ khoang nhiên liệu than đá (màu xám) và một ngăn đôi ở dưới cùng được bảo vệ để chứa máy móc.
    Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought mang một trọng lượng đáng kể các giáp loại thép. Kinh nghiệm cho thấy việc bọc giáp toàn bộ con tầu theo một tỷ lệ nhất định sẽ không tốt bằng tập trung bọc giáp ở những nơi quan trọng. Phần trung tâm của thân con tầu là nơi đặt nồi hơi và động cơ, được bảo vệ bởi đai giáp chính, đai giáp này chạy từ ngay từ phần dưới mực nước cho một khoảng nào đó ở trên nó. Đây chính là ?othành trì trung tâm? dự định để bảo vệ các động cơ khỏi bị tổn thương từ ngay cả những phát đạn mạnh mẽ nhất. Các khẩu đội súng chính và các kho đạn đã bảo vệ bởi các lớp giáp dày từ đai giáp chính.
    Sự bắt đầu của thời kỳ tiền Dreadnought được đánh dấu bằng một chuyển hướng từ lắp các súng chính trong một bệ súng mở (chỉ có một tấm chắc bảo vệ ở phía trước ) đến một tháp pháo đầy đủ được gắn vào con tầu.
    [​IMG]
    Mặt cắt ngang ở phần giữa thân tầu của chiếc thiết giáp hạm USS Kearsarge
    Các tàu thiết giáp hạm của cuối thập niên 1880, ví dụ các chiếc lớp Royal Sovereign có lớp thiết giáp là hợp kim giữa sắt và thép. Loại giáp này nhanh chóng được thay thế bằng loại giáp thép Harvey cứng hơn, có hiệu quả hơn được phát triển tại Hoa Kỳ. Lần đầu tiên được thử nghiệm vào năm 1891, giáp Harvey đã được phổ biến trong các tàu thiết giáp đã được đóng trong các năm 1.893/5. Tuy nhiên, thời của nó cũng rất ngắn ngủi, trong năm 1895, chiếc thiết giáp hạm của Đức Kaiser Friedrich III đi tiên phong với thậm chí một loại giáp còn tốt hơn nhiều đó chính là giáp Krupp; chỉ trong vòng 5 năm Châu Âu đã cho thay thế toàn bộ bằng giáp Krupp, chỉ có Hoa Kỳ tiếp tục tồn tại sử dụng giáp thép Harvey thép đến tận thế kỷ 20. Việc nâng cao chất lượng của tấm giáp có nghĩa là tàu mới có thể bảo vệ tốt hơn từ một vành đai giáp mỏng hơn và nhẹ hơn. Một tấm giáp hợp kim dày 12 inch chỉ tạo độ an toàn tương đương với giáp dày 7,5 inch của Harvey hoặc 5,75 inch của Krupp.
    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm SMS_Kaiser_Friedrich_III của Đức, chiếc tầu đầu tiên sử dụng giáp Krupp
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 18:53 ngày 14/04/2010
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Nguyên lý hoạt động của động cơ của thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought

    [​IMG]
    Lò hơi ống nước là phương pháp hiệu quả nhất để tạo hơi nước áp suất cao cho động cơ Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought.
    Tất cả các tầu thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought chuyển động bằng động cơ pittông hơi nước. Phần lớn các con tầu có tốc độ từ 16 đến 18 hải lý / h (21 mph, 33 km / h). Các tàu lớp ironclads của những năm 1880 sử dụng động cơ phức hợp ( Compound engine), Nhưng vào cuối thập niên 1880 loại động cơ hiệu quả hơn đó là động cơ mở rộng gấp ba (triple expansion engine) được đưa vào sử dụng. Một số các hạm đội không phải là của Anh đã áp dụng động cơ hơi nước mở rộng gấp bốn lần.
    Những cải tiến chính trong động cơ của các tầu thiết giáp thời tiền Dreadnought đến từ việc thu được hơi nước có áp suất càng cao hơn từ lò hơi. Các lò nồi hơi ống nhiệt (fire-tube boiler) hình trụ ban đầu đã được thay thế bằng nồi hơi ống nước hiệu quả hơn (water-tube boiler), chúng cho phép hơi nước với áp suất cao được tạo ra với tiêu thụ nhiên liệu ít hơn. Nồi hơi ống nước cũng an toàn hơn, với ít rủi ro về các vụ nổ hơn, và linh hoạt hơn loại lò nồi hơi ống nhiệt. Các lò hơi ống nước Belleville-loại đã được sử dụng trong hạm đội Pháp vào đầu năm 1879, nhưng phải cho đến năm 1894 mới được Hải quân Hoàng gia cho áp dụng vào các tàu tuần dương bọc thép và tầu tiền Dreadnought; các loại lò hơi ống nước khác cũng được sử dụng trong hải quân của các quốc gia khác trên toàn thế giới.


    [​IMG]
    Nguyên lý làm việc của một động cơ hơi nước mở rộng ba lần là hơi nước có áp suất cao được sử dụng ba lần để tạo động lực.
    Những động cơ trên sẽ làm chuyển động hai hoặc ba chân vít cánh quạt. Các quốc gia Pháp và Đức ưa chuộng cách sử dụng ba chân vít cánh quạt, cho phép làm cho động cơ ngắn hơn và do đó dễ dàng được bảo vệ hơn, chúng cũng cơ động hơn và có sức đề kháng tốt hơn với những thiệt hại ngẫu nhiên. Tuy nhiên loại ba chân vít thường lớn hơn và nặng hơn so với loại hai chân vít, loại thường được ưa thích sử dụng bởi lực lượng hải quân các nước khác.
    Than là nhiên liệu gần như duy nhất trong thời thiết giáp hạm tiền-Dreadnought, mặc dù lực lượng hải quân thực hiện những thí nghiệm đầu tiên với động cơ đẩy dầu vào cuối thập niên 1890. Tăng tốc một, hai hải lý có thể thực hiện được bằng cách áp dụng biện pháp ?oforced draught? vào lò, nơi không khí được bơm vào lò, nhưng cách này làm nồi hơi chóng bị hỏng.
    Các hạm đội tiền Dreadnought và các trận đánh

    [​IMG]
    Chiếc Retvizan chìm trong Port Arthur.
    Các thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought ở thời kỳ hoàng kim của nó là cốt lõi của rất nhiều lực lượng hải quân trên thế giới. Nhiều tầu bọc thép lớp ironclad cũ vẫn còn được sử dụng. Cùng phục vụ trong quân ngũ với thiết giáp hạm là các tàu tuần dương được chia theo rất thứ hạng như tuần dương hạm bọc thép hiện đaih, về cơ bản đây là thiết giáp đã cắt giảm một số các lớp giáp, hoặc tàu tuần dương được gia cố hạng nhẹ hơn, và thậm chí cả tàu tuần dương không được thiết giáp cũ hơn, các tầu sloop và tàu khu trục bất kể rằng chúng được đóng từ thép, sắt hoặc gỗ. Các thiết giáp hạm thường bị đe dọa bởi tàu phóng ngư lôi; đó là thời kỳ của các tầu thiết giáp hạm tiền-Dreadnought mà người ta phải đóng những tàu khu trục với mục đích đầu tiên là để đối phó với mối đe dọa từ tàu phóng ngư lôi, và đồng thời trong thời gian này những chiếc tàu ngầm thực sự có hiệu quả đầu tiên cũng đang được chế tạo.
    Thời của các tầu thiết giáp hạm tiền Dreadnought chỉ ra sự khởi đầu vào cuối thế kỷ 19, sự cân bằng về sức mạnh hải quân thế giới, vào lúc đó Pháp và Nga cố gắng cạnh tranh chống lại Hải quân Hoàng gia Anh, và cho thấy các ?oquyền lực hải quân mới? của Đức, Nhật Bản và Hoa Kỳ bắt đầu nổi lên. Các con tàu mới của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và ở một mức độ thấp hơn Hải quân Hoa kỳ hỗ trợ mở rộng những quyền hạn của các thuộc địa.
    Trong khi thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought được sử dụng cho hải quân trên toàn thế giới, không có cuộc đụng độ nào giữa chúng cho đến cuối thời kỳ thống trị của chính các tầu này. Chiến tranh Trung-Nhật trong 1894-1895 là cuộc chiến có sự tham gia của Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought, nhưng thực chất đây là một cuộc đụng độ giữa thiết giáp hạm Trung Quốc và tàu tuần dương của Nhật Bản. Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ năm 1898 cũng là một trận chiến của các tầu không buồm, nhưng thực chất là thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought của hạm đội Mỹ tấn công tuần dương hạm Tây Ban Nha. Phải đến tận Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 thì các thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought mới tham chiến một cách bình đẳng. Các cuộc đọ sức này xảy ra trong ba trận hải chiến: đó là chiến thắng về mặt chiến thuật của người Nga trong trận Port Arthur ngày 8-9 tháng 2 1904, không có kẻ thắng người bại trong trận Hoàng Hải ngày 10 tháng 8 năm 1904, và chiến thắng quyết định của Nhật Bản tại trận Tsushima ngày 27 tháng 5 năm 1905.
    Chính sách Ngoại giao pháo hạm thường được thực hiện bởi các tàu tuần dương hoặc các tầu chiến nhỏ hơn thiết giáp hạm. Một hải đội của Anh gồm ba tuần dương hạm có gia cố và hai pháo hạm đã mang về sự đầu hàng của quốc gia Zanzibar trong năm 1896; và trong khi các thiết giáp hạm đã tham gia hạm đội kết hợp của các cường quốc phương Tây triển khai trong thời gian xảy ra cuộc nổi loạn Nghĩa Hòa Đoàn, thì thực chất phần hành động của hải quân (trấn áp khởi nghĩa của người Trung Quốc) lại được tiến hành bởi các pháo hạm, khu trục hạm và tầu sloop (một loại tầu chiến hạng nhẹ, có ít pháo trông giống du thuyền ngày nay rất được ưa dùng bởi các tay cướp biển người Pháp và Hà Lan).
    Sự phát triển của thiết giáp hạm tiềnDreadnought ở Châu Âu

    .
    Hải quân châu Âu vẫn thống trị trong thời đại Thiết giáp hạm tiền Dreadnought. Hải quân Hoàng gia Anh vẫn là hạm đội lớn nhất thế giới, mặc dù những đối thủ truyền thống của hải quân Anh (nước Pháp) lẫn các cường quốc mới nổi về hải quân ở Châu Âu (nước Nga và nước Đức) ngày càng tỏ rõ rằng họ muốn chống lại uy quyền của nó.


    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm HMS Dominion thuộc lớp tầu King Edward VII được hạ thủy vào cuối thời kỳ Thiết giáp hạm tiền Dreadnought năm 1903.
    Năm 1889, nước Anh chính thức thông qua một ?o Tiêu chuẩn hai sức mạnh - Two Power Standard? cam kết rằng nó sẽ đóng nhiều chiến hạm đến mức đủ để vượt quá hai lực lượng hải quân lớn nhất khác (ngoài Anh) kết hợp lại, vào thời điểm đó, đây có nghĩa là Pháp và Nga, những quốc gia đã chính thức trở thành đồng minh trong những năm đầu của thập kỷ 1890. Các con tầu lớp Royal Sovereign và Majesticlớp học được đóng bởi một chương trình thường xuyên với một tốc độ chế tạo nhanh hơn nhiều so với các năm trước đó. Các tầu lớp Canopus, Formidable, Duncan và King Edward VII đều xuất hiện một cách nhanh chóng từ các năm 1897-1905. Kể cả hai chiếc tàu thuộc sở hữu của Chile nhưng điều hành bởi người Anh thì Hải quân Hoàng gia (Anh) có 39 chiếc thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought đã được đóng xong hoặc còn đóng dở vào cuối năm 1904, bắt đầu tính từ chiếc Majestics. Hơn hai tá loại thiết giáp hạm cũ hơn vẫn đang phục vụ trong Hải quân. Chiếc tầu thời tiền Dreadnought cuối cùng của người Anh là chiếc lớp Lord Nelson, nó xuất hiện sau cả khi chiếc Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght ra đời (như vậy là lỗi thời kể từ khi chua được sinh ra).
    Nước Pháp, đối thủ truyền thống về hải quân của nước Anh, đã tạm dừng đóng các thiết giáp hạm của nó trong thập niên 1880 vì ảnh hưởng của học thuyết Jeune Ecole, (người Pháp) ủng hộ việc dùng tàu phóng ngư lôi để đối đầu với thiết giáp hạm. Sau khi ảnh hưởng của Jeune Ecole đã bị lu mờ, chiếc thiết giáp hạm đầu tiên của người Pháp đã được hạ thủy là chiếc Brennus trong năm 1889. Chiếc Brennus và các con tàu được đóng giống nó là những cá thể đối lập với các lớp tầu lớn của Anh, chúng một sự sắp xếp mang phong cách riêng của các khẩu súng hạng nặng, với chiếc Brennus thì nó mang ba khẩu 13,4-inch (340 mm) còn các con tàu đóng theo lớp của nó mang hai khẩu 12-inch và hai khẩu 10,8-inch trong một tháp pháo duy nhất. Các chiếc lớp Charlemagne, được hạ thủy năm 1894-1896, là những chiếc đầu tiên sử dụng 4 súng tiêu chuẩn 12-inch (305 mm) vũ khí chính. Học thuyết Jeune Ecole để lại một ảnh hưởng rất lớn về chiến lược trong hải quân Pháp, và đến cuối thế kỷ 19 Pháp đã từ bỏ cuộc cạnh tranh với Anh với số lượng thiết giáp hạm. Người Pháp phải chịu nhiều thiệt thòi nhất từ cuộc cách mạng của lớp tầu Dreadnought, với bốn tàu của lớp Liberté vẫn còn được đóng dở dang khi chiếc thiết giáp hạm lớp Dreadnounght được hạ thủy, và sáu chiếc của lớp Danton được đóng sau đó. ( như vậy Pháp có tổng số 10 chiếc thiết giáp hạm bị lỗi thời khi còn chưa được hoàn thành)


    [​IMG]
    Mặt cắt ngang của một chiếc Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought lớp Wittelsbach của Đức vào khoảng năm 1914.
    Nước Đức chỉ khởi đầu để xây dựng một lực lượng hải quân vào đầu những năm 1890 nhưng đến năm 1905 nước này hết sức hăng hái tham gia vào một cuộc chạy đua vũ trang với nước Anh mà cuối cùng (cuộc chạy đua này) là một trong những nguyên nhân gây ra Chiến tranh thế giới I. Những chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnought của người Đức là những chiếc lớp Brandenburg, chúng được hạ thủy vào năm 1890. Vào năm 1905, khoảng 19 thiết giáp hạm đã hoàn thành hoặc tiếp tục được chế tạo, nhờ vào việc cho phép việc gia tăng mạnh trong chi tiêu của hải quân ở các điều luật Hải quân năm 1898 và năm 1900. Sự gia tăng là do sự xác định của trưởng hải quân Đức Alfred von Tirpitz và ý tưởng này ngày càng tăng cùng với sự cạnh tranh về mặt đối thủ tầm cỡ quốc gia với Vương quốc Anh. Bên cạnh lớp Brandenburg, các thiết giáp hạm tiền Dreadnought của Đức còn bao gồm các tàu lớp Kaiser Friedrich III, Wittelsbach, Và Braunschweig mà đỉnh cao là lớp Deutschland, phần lớn các tầu của lớp này đã phục vụ trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới. Nhìn chung, các tàu của Đức được cho là yếu hơn các tầu tương đương của Anh nhưng chúng không kém phần tinh tế.


    [​IMG]
    Thiết giáp hạm lớp Radetzky, một lớp Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought của Hải quân Áo-Hung.
    Người Nga cũng tham gia vào một chương trình mở rộng hải quân trong những năm 1890; một trong những mục tiêu chính của Nga là để duy trì lợi ích của mình chống lại việc người Nhật Bản mở rộng ảnh hưởng ở vùng Viễn Đông. Các chiếc lớp Petropavlovsk được bắt đầu đóng vào năm 1892 sau khi người Anh đóng lớp Royal Sovereign; các con tàu được đóng về sau cho thấy ảnh hưởng nhiều hơn của các thiết kế của người Pháp, chẳng hạn như lớp Borodino. Sự yếu kém của ngành đóng tàu Nga được thể hiện ở chỗ rất nhiều tàu của nước Nga được chế tạo ở nước ngoài; các tàu tốt nhất, như lớp Retvizan, được đóng chủ yếu ở Mỹ. Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 là một thảm họa cho các thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought của Nga; trong số 15 thiết giáp hạm kể từ khi chiếc Petropavlovsk được hoàn thành, Mười một chiếc bị đánh chìm hoặc bị bắt trong chiến tranh. Một trong số đó, chiếc chiến hạm nổi tiếng Potemkin đã làm binh biến và bị đánh đắm, tuy nhiên nó đã được trục lên và lại tham gia vào quân ngũ. Sau chiến tranh Nga ?" Nhật, người Nga đã hoàn tất bốn chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnought nữa vào năm 1905.
    Giữa năm 1893 và 1904, Italy hạ thủy tám chiếc thiết giáp hạm, hai chiếc của lớp sau có tốc độ nhanh một cách đáng kể, mặc dù lớp Regina Margherita được bảo vệ kém và lớp Regina Elena được vũ trang yếu. Về một số khía cạnh những tàu này thể hiện khái niệm của các tuần dương hạm. Đế quốc Áo-Hung cũng cho thấy một sự phục hưng của hải quân trong những năm 1890, mặc dù trong chín trong số thiết giáp hạm tiền Dreadnought được đặt hàng thì chỉ có ba trong số chúng là ra đời trước chiếc Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght, những chiếc còn lại đã bị lạc hậu.
    Sự phát triển của thiết giáp hạm tiềnDreadnought ở Hoa kỳ và khu vực Thái Bình Dương

    [​IMG]
    Chiếc USS Massachusetts, một thiết giáp hạm tiền Dreadnought được ra mắt vào năm 1893.
    Hoa Kỳ bắt đầu đóng chiếc thiết giáp hạm đầu tiên của nó vào năm 1891. Những con tàu này là loại thiết giáp hạm tầm ngắn bảo vệ bờ biển tương tự như chiếc Hood của người Anh ngoại trừ sự cải tiến là việc sử dụng khẩu đội pháo trung gian có kích cỡ 8-inch. Hải quân Hoa Kỳ tiếp tục đóng tàu có tầm tương đối tầm ngắn và kém khả năng trong vùng biển dữ, cho đến khi lớp Virginia được hạ thủy trong những năm 1901-1902. Tuy nhiên, đó là những con tàu đầu tiên đảm bảo cho ưu thế của hải quân Mỹ chống lại hạm đội lạc hậu của người Tây Ban Nha cổ - (người TBN) không có tàu tiền Dreadnought trong hạm đội của họ - trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, đáng chú ý nhất là Trận Santiago de Cuba. Chiếc Virginia và hai chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnounght sau nó được hoàn thành sau sự ra đời của chiếc thiết giáp hạm lớp Dreadnounght và sau khi bắt đầu việc thiết kế các tàu lớp Dreadnought của USN. Hạm đội Great White của Hoa kỳ có 6 thiết giáp hạm Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought có khả năng đi vòng quanh thế giới kể từ 16 tháng 12 năm 1907, đến 22 tháng 2 năm 1909.


    Nhật Bản đã tham gia vào cả hai cuộc hải chiến hải lớn của thời đại Thiết giáp hạm tiền Dreadnought. Những chiếc thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought đầu tiên của người Nhật là các chiếc lớp Fujic, vẫn còn đang được đóng tại các ụ tầu khi xảy ra Chiến tranh Trung-Nhật năm 1894-1895, người Nhật Bản chỉ dùng các tuần dương hạm bọc thép và tàu tuần dương có gia cố để đánh bại Hạm đội Bắc Dương của người Trung Quốc, gồm một hỗn hợp các tầu thiết giáp hạm và tàu tuần dương bọc thép kiểu cũ tại Trận sông Áp Lục. Sau chiến thắng này họ phải đối mặt với áp lực của Nga trong khu vực, người Nhật Bản phải đặt đóng thêm bốn tàu tiền Dreadnought; cùng với hai tầu thiết giáp hạm lớp Fuji, các thiết giáp hạm hình thành cốt lõi của 1 hạm đội đã hai lần tham chiến với hạm đội nhiều thiết giáp hạm hơn của người Nga tại trận Hoàng Hải và trận Tsushima. Sau khi thu giữ được tám thiết giáp hạm của Nga ở các lớp khác nhau, Nhật Bản đã đóng thêm một số thiết giáp hạm tiền Dreadnounght sau Chiến tranh Nga-Nhật.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 08:52 ngày 15/04/2010
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trở nên bị lỗi thời
    [​IMG]
    Chiếc Mikasa ngày hôm nay là chiếc Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought duy nhất còn lại ở bảo tàng.
    Năm 1906, sự ra đời của chiếc thiết giáp hạm lớp HMS Dreadnounght mang lại sự lỗi thời cho tất cả các thiết giáp hạm trước đó. Bởi vì Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght sử dụng toàn bộ pháo chính làm khẩu đội pháo cấp hai, nên nó có tới mười khẩu 12-inch (305 mm) thay cho bốn. Nó có thể bắn tám khẩu hạng nặng từ hai bên mạn tầu, thay vì bốn khẩu như các Thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought, và sáu khẩu súng ở phía trước và phía sau trong hai tháp pháo. Việc chuyển đến một thiết kế ?o tất cả đều là súng lớn? được triển khai từ một kết luận logic là trận hải chiến ngày càng ở một khoảng cách xa hơn và cần súng mạnh hơn khẩu đội pháo cấp hai của thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought cuối cùng, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã thiết kế những con tầu có cùng một chủng loại vũ khí chính trước khi Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght ra đời nhưng không thể hoàn thiện chúng trước con tàu của Anh. Nó đã cho thấy rằng chỉ có các khẩu súng lớn nhất là có hiệu quả trong chiến đấu, và bằng cách lắp thêm súng 12-inch Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght tăng được 2-3 lần hiệu quả so với một thiết giáp hạm thời tiền Dreadnounght.
    Vũ khí của loại tàu mới không chỉ lợi thế quan trọng duy nhất của chúng. Thiết giáp hạm lớp Dreadnounght sử dụng tua bin hơi nước làm động cơ đẩy, làm cho nó có một tốc độ tối đa 21 knot, so với tốc độ điển hình 18 knot của các thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought. Nó tạo ra khả năng mang thêm hai súng chính nữa cũng như linh hoạt hơn những tiền nhiệm của mình, thiết giáp hạm lớp Dreadnounght hoàn toàn đánh bại thiết kế thiết giáp hạm trước đó.
    Tuy nhiên, thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought vẫn tiếp tục phục vụ chiến đấu, và chúng cho thấy tầm quan trọng ngay cả khi bị lỗi thời. Tàu Dreadnought và tuần dương hạm hiện đại được cho là có ý nghĩa sống còn đối với các trận hải chiến quyết định tại thời điểm các quốc gia tham chiến lên kế hoach, do đó chúng được bảo vệ để chống lại nguy cơ thiệt hại từ thủy lôi, bị tàu ngầm tấn công, nên thường được giữ càng gần nhà càng càng tốt. Hậu quả là các thiết giáp hạm tiền Dreadnought lỗi thời bị triển khai ở nguy hiểm hơn và ở các khu vực xa hơn.
    Ngày nay chỉ còn chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnought được lưu giữ là soái hạm của Hải quân Nhật tại Trận Tsushima, chiếc Mikasa, bây giờ đang nằm ở thành phố Yokosuka, nơi nó đã trở thành một tàu bảo tàng từ năm 1925.
    Chiến tranh thế giới I
    [​IMG]
    Chiếc HMS Canopus nổ súng chính 12-inch của nó vào một khẩu đội pháo bờ biển của Thổ Nhĩ Kỳ.
    Trong khi Chiến tranh thế giới I, một số lượng lớn tầu thiết giáp thời tiền Dreadnought đã tham gia chiến đấu. Với sự tiến bộ của KHKT về động cơ và bị vũ khí có nghĩa là một tầu thiết giáp hạm tiền Dreadnought không có khả năng ngang bằng với ngay cả một tàu tuần dương bọc thép hiện đại, và hoàn toàn có thể bị đánh bại bởi một thiết giáp hạm hiện đại lớp Dreadnounght hoặc tuần dương hạm hạng nặng hiện đại. Tuy nhiên, thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought vẫn đóng một vai trò lớn trong chiến tranh.
    Minh họa đầu tiên là trong các cuộc xung đột giữa lực lượng hải quân Anh và Đức xung quanh Nam Mỹ vào cuối mùa thu năm 1914. Khi hai tàu tuần dương Đức đe dọa tầu hàng của Anh, Bộ Hải quân Anh nhấn mạnh rằng không có bất cứ thiết giáp hạm có thể được tung ra từ hạm đội chính để gửi đến phần khác trên thế giới để đối phó với chúng. Thay vào đó người Anh gửi đi một chiếc pre-Dreadnought điển hình của năm 1.896, chiếc HMS Canopus. Dự định củng cố lại các tàu tuần dương Anh trong khu vực, trong thực tế, tốc độ chậm của nó khiến cho nó thoát khỏi thảm họa trong trận Coronel. Chiếc Canopus đã tìm lại chính mình tại trận chiến quần đảo Falkland, chỉ khi nó hoạt động như một tàu bảo vệ cảng; nó bắn ở cự ly cực đại (13.500 mét) vào chiếc tầu tuần dương hạm Đức SMS Gneisenau, nó chỉ bắn có duy nhất một phát đạn đã được nạp từ đêm hôm trước (vì tốc độ nạp đạn của tầu này rất chậm), điều này chắc chắn đã ngăn cản không cho chiếc Gneisenau tiến hành một cuộc tấn công có khả năng gây thiệt hại vào một hải đội Anh mà vẫn đang ăn than đá (chiếc Gneisenau bị dọa rồ và bỏ chạy). Trận đánh tiếp theo được quyết định bởi hai chiếc thiết giáp hạm lớp Invincible đã được gửi tới sau trận Coronel. Dường như sự tấn công vào con tàu đối phương của chiếc pre-Dreadnought Anh chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần.
    Trên biển Đen năm chiếc tàu tiền Dreadnought đã tiến hành tấn công chống lại chiếc tuần dương hạm hạng nặng Yavuz của đế chế Ottoman trong suốt trận Cape Sarych trong tháng 11 năm 1914.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:41 ngày 15/04/2010
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Giới thiệu về Thiết giáp hạm lớp Dreadnought loại thiết giáp hạm chủ lực của Chiến tranh Thế giới I

    [​IMG]
    Chiếc USS Texas, chiếc thiết giáp hạm lớp Dreadnought đầu tiên của Hoa Kỳ được hạ thủy vào năm 1912 và bây giờ là một tàu bảo tàng.
    Những chiếc thiết giáp hạm lớp Dreadnought là loại tầu chiến chủ lực của thế kỷ 20. Chiếc đầu tiên thuộc loại này là chiếc Dreadnounght của Hải quân Hoàng gia Anh, nó có tác động đến Hải quân thế giới khi nó được ra mắt vào năm 1906 các thiết giáp hạm được đóng theo lớp của nó được gọi là ?otàu lớp Dreadnought?, và các lớp tàu thiết giáp hạm trước đó được gọi là tàu tiền Dreadnought. Thiết kế của nó có hai tính năng cách mạng: một "vũ khí trên tầu tất cả đều là súng lớn" và động cơ đẩy tua bin hơi nước. Sự xuất hiện của tàu thiết giáp lớp Dreadnought làm đổi mới chạy cuộc chạy đua vũ trang hải quân trên thế giới, chủ yếu là giữa Vương quốc Anh và nước Đức, lớp tàu thiết giáp mới đã trở thành một biểu tượng quan trọng của một cường quốc.
    Khái niệm về một con tàu thiết giáp hạm với toàn bộ súng lớn đã được phát triển vài năm trước khi chiếc Thiết giáp hạm Dreadnought được chế tạo. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã bắt đầu đóng một thiết giáp hạm có tất cả súng lớn vào năm 1904, nhưng lại hoàn thành con tàu như là một thiết giáp hạm lớp tiền Dreadnought; Hải quân Hoa Kỳ cũng bắt đầu đóng thiết giáp hạm với tất cả súng lớn. Sự phát triển của Khoa học Kỹ thuật nhanh chóng được ứng dụng vào thời kỳ của thiết giáp hạm Dreadnought. Các kiểu Thiết kế thành công làm tăng nhanh về kích thước của con tầu và người ta đã ứng dụng nhiều cải tiến trong vũ khí, giáp, và động cơ đẩy. Trong thời gian khoảng mười năm sau nữa, các thiết giáp hạm mới lại tiếp tục đánh bại chính bản thân Thiết giáp hạm lớp Dreadnought cũ hơn. Những tàu mới hơn, mạnh hơn được gọi là ?o lớp siêu Dreadnought?. Hầu hết các tàu lớp Dreadnought đã bị tháo dỡ sau khi kết thúc Thế chiến thứ nhất theo các điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington, nhưng rất nhiều các tầu lớp siêu Dreadnought mới tiếp tục phục vụ chiến đấu qua Thế chiến II.
    Trong khi việc chế tạo thiết giáp hạm lớp Dreadnought tiêu thụ một lượng rất lớn tài nguyên trong thế kỷ 20, thì chỉ có một trận chiến xảy ra giữa các hạm đội thiết giáp hạm lớp Dreadnought. Đó là Trận Jutland, các lực lượng hải quân Anh và Đức đã giao chiến và kết quả là không có kẻ thắng người thua. Thuật ngữ "thiết giáp hạm lớp Dreadnought ?odần dần ít được sử dụng sau Thế chiến I, đặc biệt là sau Hiệp ước Hải quân Washington, tất cả các thiết giáp hạm còn lại đều chia sẻ các đặc điểm của thiết giáp hạm lớp Dreadnought; thuật ngữ này cũng có thể được sử dụng để mô tả tầu tuần dương chiến đấu, một loại tàu khác ra đời từ cuộc cách mạng của chiếc thiết giáp hạm lớp Dreadnought.
    Đặc điểm về vũ khí - tất cả các súng lớn của lớp Dreadnought được phát triển trong những năm đầu của thế kỷ 20 khi hải quân tìm cách để tăng hỏa lực và phạm vi chiến đấu của thiết giáp hạm của họ. Đa số các thiết giáp hạm thời tiền Dreadnought có vũ khí chính là bốn khẩu súng hạng 12-inch (305 mm), với vũ khí cấp hai từ 6 -> 18 khẩu cỡ nòng 4,7 inch (119 mm) đến 7,5 inch (191 mm) bắn nhanh, cùng với các vũ khí nhỏ khác. Một số mẫu thiết kế đã có một khẩu đội súng trung gian với cỡ nòng 8-inch (203 mm) súng. Tuy nhiên, vào năm 1903 các đề xuất nghiêm túc cho việc trang bị tất cả các súng lớn đã được lưu hành ở một số nước.
    Thiết kế tất cả các súng lớn được bắt gần như đồng thời trong ba lực lượng hải quân. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã ủy quyền việc đóng chiếc Satsuma, nó thiết kế với mười hai súng 12-inch (305 mm) vào năm 1904, nó được đặt lườn tháng 5 năm 1905. Hải quân Hoàng gia Anh bắt đầu thiết kế chiếc thiết giáp hạm HMS Dreadnought trong tháng 1 năm 1905; nó được hạ thủy trong tháng mười của năm đó. Hải quân Hoa kỳ đã đạt được ủy quyền cho chiếc USS Michigan, mang theo tám súng 12-inch tháng 3 năm 1905, nó đã được hạ thủy trong tháng 12 năm 1906.
    Việc chuyển sang để thiết kế tất cả các súng lớn đã hoàn thành bởi một loại vũ khí hạng nặng đồng nhất đã tạo những thuận lợi trong cả việc tạo hỏa lực mạnh và kiểm soát bắn. Súng 12-inch (305 mm) mới có hỏa lực tầm xa hơn so với một khẩu súng cỡ nòng 10-inch (254 mm) hoặc 9,2-inch (234 mm).
    Khả năng tác xạ tầm xa
    Trong những trận hải chiến của những năm 1890 vũ khí quyết định có kích cỡ trung bình, thông thường là từ 6-inch (152 mm), súng có khả năng bắn nhanh và cự ly tương đối ngắn; tác xạ của hải quân rất không chính xác vào mục tiêu ở khoảng cách dài hơn. Ở trong tầm bắn các dãy súng hạng nhẹ có độ chính xác cao và tốc độ bắn nhanh của chúng đã bắn một khối lượng đạn nhiều hơn vào mục tiêu. Tại Trận sông Áp Lục năm 1894, người Nhật đã không nổ súng cho đến khi áp gần tới 3.900 mét (4.300 yd), nhưng hầu hết các cuộc giao tranh xảy ra ở độ xa 2.000 mét (2.200 yd)[8].
    Đến đầu năm 1900 các Đô đốc hải quân Anh và Mỹ dự kiến rằng trong tương lai các thiết giáp hạm sẽ tham chiến ở những khoảng cách xa hơn, bởi phạm vi của ngư lôi tăng lên. Năm 1903, Hải quân Mỹ đã đặt hàng một thiết kế ngư lôi có hiệu quả trong vòng 4.000-yard (3.700 m). Các hai đô đốc Anh và Mỹ đều kết luận rằng rất cần thiết để tham chiến với đối phương ở khoảng cách xa hơn. Năm 1900, vị Đô đốc Sir John "Jackie" Fisher, Chỉ huy Hạm đội Hải quân Hoàng gia Anh ở Địa Trung Hải, đã ra lệnh thực tập tác xạ với khẩu súng 6-inch tại khoảng cách 6.000-yard (5.500 m). Vào năm 1904, Trường Cao đẳng Hải quân Hoa Kỳ ( Naval War College) đã xem xét ngư lôi có những ảnh hưởng như thế nào vào các chiến thuật của thiết giáp hạm ở các khoảng cách 7.000-yard (6.400 m) đến 8.000-yard (7.300 m).
    Phạm vi tác xạ của các cỡ nòng nhỏ và vừa rất hạn chế, và độ chính xác là không cao ở những khoảng cách xa. Ở khoảng cách xa hơn lợi thế của tốc độ bắn nhanh cũng giảm; độ chính xác của phát bắn phụ thuộc vào sức giật của phát bắn trong loạt bắn trước đó, mà điều này bị hạn chế khi tốc độ bắn là tối ưu.( Nguyên văn - accurate shooting depended on spotting the shell-splashes of the previous salvo, which limited the optimum rate of fire)
    Trong những năm đầu của thế kỷ 20 phạm vi hiệu lực của khẩu súng hạng nặng tăng lên. Điều này được cho thấy trong các bài tập tác xạ của năm 1904, và được khẳng định trong chiến đấu trong taị trận hải chiến Tsushima năm 1905.
    Thiết giáp hạm có tất cả các cỡ nòng lớn hỗn hợp

    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm HMS Agamemnon có hỗn hợp tất cả các cỡ nòng súng to của lớp Lord Nelson. Nó mang bốn khẩu cỡ nòng 12-inch (300 mm) và mười khẩu 9,2-inch (230 mm).
    Một cách tiếp cận để làm cho thiết giáp hạm trở nên mạnh hơn là giảm các khẩu đội súng thứ cấp, bổ sung và thay thế chúng bằng súng hạng nặng: thường là 9,2-inch (234 mm) hoặc 10-inch (254 mm). Những con tàu này, được mô tả là ?otất cả các cỡ nòng súng lớn hỗn hợp? hoặc sau này được gọi là ?o bán thiết giáp hạm lớp Dreadnought?, bao gồm các lớp thiết giáp hạm của Anh King Edward VII và Lord Nelson , lớp Danton của Pháp, và thiết giáp hạm của Nhật Bản chiếc Satsuma. Quá trình thiết kế cho các con tàu thường bao gồm các cuộc thảo luận về một ?o tất cả súng lớn có cùng cỡ nòng? thay thế.
    Trong tạp chí xuất bản trong Tháng Sáu 1902 của Viện Hải quân Mỹ có ý kiến của chuyên gia tác xạ hàng đầu của Hải quân Mỹ Giáo sư PR Alger đề xuất một khẩu đội súng chính gồm tám khẩu 12-inch (305 mm) trong tháp súng đôi. Tháng 5 năm 1902, Ủy ban Đóng và Sửa chữa thiết giáp hạm gửi một thiết kế thiết giáp hạm với mười hai khẩu súng 10-inch tại tháp đôi, hai ở cuối và bốn trong mạn tầu. Trung tá. H. C. Poundstone gửi một lá thư tới Tổng thống Roosevelt vào tháng 12 năm 1902 về các tranh cãi cho trường hợp các thiết giáp hạm lớn hơn. Trong phụ lục thư của mình, Poundstone đề xuất một số lượng lớn hơn các súng 11-inch (279 mm) và 9-inch (229 mm) nên được ưu tiên cho một số ít hơn súng 12-inch và 9 inch. Trường cao đẳng Hải quân Hoa kỳ và Cục Đóng và sửa chữa tầu đã phát triển những ý tưởng này trong các nghiên cứu từ năm 1903 đến năm 1905. Các nghiên cứu Wargame bắt đầu vào tháng 7 năm 1903 "cho thấy một thiết giáp hạm trang bị mười hai súng 11-inch hoặc 12-inch được bố trí lục lăng sẽ ngang bằng với ba hoặc nhiều hơn các loại thiết giáp hạm kiểu cũ"
    Trong Hải quân Hoàng gia Anh, xu hướng tương tự cũng phát sinh. Một thiết kế cũng được lưu hành trong các năm từ 1902-1903 bởi "một vũ khí mạnh mẽ cho tất cả súng lớn" của hai cỡ nòng, tức bốn khẩu 12-inch và mười hai khẩu 9,2-inch.. " Tuy nhiên, Bộ Hải quân quyết định đóng thêm ba chiếc lớp King Edwards (Với một hỗn hợp của súng 12-inch, 9,2 inch và 6-inch (152 mm)) trong chương trình đóng tầu hải quân thay thế năm 1903-1904. Khái niệm này đã hồi sinh chương trình 1904-1905, các thiết giáp hạm lớp Lord Nelson . Các hạn chế về chiều dài và chiều rộng phần giữa của con tầu làm người ta phải chế tạo một tháp đơn 9,2-inch thay vì tháp pháo đôi, vì thế một tổ hợp vũ khí cho một con tầu bao gồm bốn súng 12-inch, mười súng 9,2-inch và không có súng 6-inch. Người tạo ra thiết kế này, J.H. Narbeth, gửi một bản vẽ hiển thị một hệ thống vũ khí gồm mười hai khẩu súng 12-inch, nhưng Hải quân Anh đã không được chuẩn bị để chấp nhận điều này. Một phần của lý do cho quyết định giữ lại các khẩu súng cỡ nòng hỗn hợp, đây là sự cần thiết để bắt đầu việc đóng tàu nhanh chóng vì tình hình căng thẳng do cuộc chiến tranh Nga-Nhật. ( Anh lúc này đang pro Nhật để chống Nga, trong trường hợp Nhật thua Anh sẵn sàng thế chỗ để chiến tiếp)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:22 ngày 21/04/2010
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chuyển sang thiết kế tất cả các súng đều lớn
    Việc thay đổi súng cỡ nòng 6-inch (152 mm) hoặc 8-inch (203 mm) sang các loại súng có cỡ nòng 9,2-inch (234 mm) hoặc 10-inch (254 mm) đã cải thiện sức mạnh nổi bật của một thiết giáp hạm, đặc biệt tại phạm vi tác xạ xa hơn. Tuy nhiên, việc thống nhất trang bị các súng hạng nặng cũng mang lại nhiều lợi ích khác. Một lợi thế có được là hậu cần đơn giản. Khi Hoa Kỳ xem xét liệu có nên bố trí cỡ nòng hỗn hợp làm vũ khí chính cho lớp South Carolina, ví dụ, Các nhà thiết kế William Sims và Homer Poundstone nhấn mạnh những ưu điểm của tính đồng nhất trong việc cung cấp đạn dược và chuyển đổi các pháo thủ từ các các khẩu súng không sử dụng để thay thế các pháo thủ bị thương.
    Một khẩu súng cỡ nòng thống nhất có nghĩa là việc điều khiển hỏa lực sẽ được tinh gọn. Các nhà thiết kế Thiết giáp hạm lớp Dreadnought ưa thích một thiết kế có tất cả các súng lớn vì có nghĩa là chỉ có một tập hợp các tính toán về điều chỉnh phạm vi tác xạ của súng. Một số nhà sử học ngày nay cho rằng một tầm cỡ thống nhất là đặc biệt quan trọng vì nguy cơ gây nhầm lẫn giữa splashes của đạn 12-inch (305 mm) và súng nhỏ hơn được thực hiện chính xác khác nhau, và điều này gây ra khó khăn. Tuy nhiên, quan điểm này gây tranh cãi, việc kiểm soát bắn vào năm 1905 đã không đủ tiên tiến để sử dụng các kỹ thuật bắn salvo và chúng tạo ra sự nhầm lẫn quan trọng, và sự nhầm lẫn của đạn splashes dường như không trở thành mối quan tâm của những người làm việc thiết kế súng lớn. Tuy nhiên, khả năng đụng độ ở khoảng xa là điều rất quan trọng trong việc quyết định rằng khẩu súng nặng nhất có thể phải trở thành tiêu chuẩn, vì thế súng 12-inch (305 mm) chứ không phải súng 10-inch (254 mm) đã được lựa chọn.
    Hơn nữa, các thiết kế mới hơn của súng 12-inch có tốc độ bắn tăng lên đáng kể, và chúng loại bỏ các lợi thế trước đây mà súng có cỡ nòng nhỏ hơn có được. Năm 1895, một khẩu súng 12-inch có thể bắn một phát đạn trong mỗi bốn phút, vào năm 1902, hai phát đạn trong mỗi phút được coi là bình thường. Trong tháng 10 năm 1903, kiến trúc sư hải quân Vittorio Cuniberti xuất bản một bài báo trong tạp chí tầu chiến Jane " Một chiến hạm lý tưởng cho Hải quân Anh" là một tàu thiết giáp hạm có trọng tải 17.000 tấn mang vũ khí chính là mười hai khẩu súng 12-inch, được bảo vệ bởi lớp giáp dày 12 inch, và có một tốc độ 24 knots (28 mph/44 km / h). Ý tưởng của Cuniberti mà ông đã đề nghị cho lực lượng hải quân của nước mình, chiếc thiết giáp hạm Regia Marina là sử dụng súng 12-inch mới có tốc độ bắn cao để tạo ra một sự tàn phá nhanh chóng bắn từ các khẩu súng hạng nặng để thay thế ?o cơn mưa đạn ?o từ vũ khí nhẹ. Một ý tưởng tương tự phát sinh ở phía Nhật Bản về việc phải mang những súng hạng nặng hơn; tại Tsushima, đạn của người Nhật Bản có một tỷ lệ thuốc nổ cao hơn bình thường, và đã kích phát nổ khi tiếp xúc tới tầu địch hơn là bắn đạn xuyên giáp. Tốc độ tăng của phát bắn đặt nền móng cho những tiến bộ tương lai trong việc điều khiển hỏa lực.
    Chế tạo chiếc thiết giáp hạm lớp Dreadnought đầu tiên

    [​IMG]
    Chiếc HMS Dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh, chiếc Thiết giáp hạm lớp Dreadnought đầu tiên của thế giới
    Tại Nhật Bản, hai thiết giáp hạm của Chương trình 1903-1904 những chiếc đầu tiên trên thế giới được đặt với tất cả các súnglớn, với tám khẩu 12-inch (305 mm). Tuy nhiên, giáp của các thiết kế này được coi là quá mỏng, điều này đòi hỏi một sự sửa chữa thiết kế đáng kể. Các áp lực tài chính của Chiến tranh Nga-Nhật và nguồn cung cấp súng 12-inch mà người Nhật phải được nhập khẩu từ Anh-có nghĩa là các tàu được hoàn thành theo một hỗn hợp của súng 12-inch và 10-inch (254 mm). Việc thiết kế 1903-1904 cũng giữ lại động cơ hơi nước truyền thống ba lần mở rộng, không giống như Thiết giáp hạm lớp Dreadnought.
    Bước đột phá của thiết giáp hạm lớp Dreadnought xảy ra ở Anh trong tháng 10 năm 1905. các con tầu mới First Sea Lord, Jackie Fisher từ lâu đã là một lời biện hộ của công nghệ mới trong Hải quân Hoàng gia và gần đây đã thuyết phục được ý tưởng về một thiết giáp hạm với tất cả các súng lớn. Fisher thường được ghi nhận là tác giả của thiết giáp hạm lớp Dreadnought và là cha của hạm đội vĩ đại gồm các thiết giáp hạm lớp Dreadnought của Anh quốc, một ấn tượng làm nổi bật bản thân ông rất nhiều. Tuy nhiên, quan tâm chính của Fisher lại ở trong việc phát triển tuần dương hạm chiến đấu (battle cruiser) chứ không phải là thiết giáp hạm.
    Ngay sau khi nhậm chức, Fisher thiết lập một Uỷ ban về thiết kế để xem xét về tương lai của thiết giáp hạm và tàu tuần dương hạm bọc thép. Nhiệm vụ đầu tiên của Ủy ban là xem xét một thiết giáp hạm mới. Các đặc điểm kỹ thuật cho các tàu chiến mới là một hệ thống pháo đối hạm chính 12-inch và không có các cỡ nòng trung gian, và có tốc độ 21 knot (39 km / h) nhanh hơn hai hoặc ba hải lý / h so với thiết giáp hạm hiện có. Các mẫu thiết kế ban đầu dự định đặt mười hai khẩu súng 12-inch, mặc dù có khó khăn trong việc định vị các khẩu súng làm cho viên kỹ sư trưởng đã có một giai đoạn muốn quay trở lại với cấu trúc gồm bốn khẩu súng 12-inch với mười sáu hay mười tám khẩu 9,2-inch (234 mm). Sau một đánh giá đầy đủ các báo cáo của trận hải chiến Tsushima được viết bởi một người quan sát chính thức, Thuyền trưởng William Christopher Pakenham, Ủy ban chọn giải pháp chính gồm mười súng 12-inch, cùng với 22 khẩu 12 pounder như vũ khí thứ cấp của con tầu. Ủy ban cũng đã chấp nhận ý tưởng phiêu lưu cho chiếc Thiết giáp hạm lớp Dreadnought khi sử dụng động cơ đẩy tua bin hơi nước. Đây là điều chưa từng dược ứng dụng trong một thiết giáp hạm lớn. Hiệu quả lớn hơn của các tua bin có nghĩa là tốc độ 21-knot (24 mph/39 km / h) được thiết kế cho một con tàu sẽ làm nó nhỏ hơn và rẻ hơn nếu động cơ piston động cơ được sử dụng. Công việc đóng tầu được diễn ra trong một tốc độ nhanh đáng kể; lườn tàu của nó đã được đặt vào ngày 02 Tháng 10 Năm 1905, nó đã được hạ thủy ngày 10 Tháng 2 năm 1906, và được hoàn tất vào ngày 03 Tháng 10 năm 1906 và thể hiện một cách ấn tượng trình độ của nền công nghiệp của Anh.
    Thiết giáp hạm lớp Dreadnought đầu tiên của Hoa kỳ là hai tầu lớp South Carolina. Kế hoạch chi tiết để chúng đi vào hoạt động trong Tháng Bảy-Tháng 11 năm 1905, và được chuẩn y bởi Hội đồng Đóng và Sửa chữa tầu ngày 23 tháng 11 1905. Tuy nhiên, tốc độ đóng tầu rất chậm; chi tiết kỹ thuật được chuyển giao cho các nhà thầu vào ngày 21 tháng ba năm 1906, các hợp đồng được ký ngày 21 tháng 7 1906 và hai tàu đã được hạ thủy trong tháng 12 năm 1906, sau khi Thiết giáp hạm lớp Dreadnought được hoàn tất.
    Thiết kế
    Các nhà thiết kế của tàu Dreadnought tìm cách tăng các lớp giáp bảo vệ, tốc độ, và hỏa lực mạnh nhất có thể trong một con tàu có kích thước thực tế và chi phí giới hạn. Các dấu hiệu của thiết giáp hạm Dreadnought là hệ thống vũ khí tất cả đều là súng lớn, nhưng chúng cũng có giáp nặng tập trung chủ yếu trong một vành đai dày trên mực nước và có một hoặc nhiều sàn bọc thép. Ngoài ra, hệ thống kiểm soát vũ khí, kiểm soát bắn, thiết bị chỉ huy, bảo vệ chống ngư lôi đều được chứa ở trong vào thân tàu.
    Hệ quả tất yếu của nhu cầu cho tốc độ lớn hơn nữa, sức mạnh nổi bật, và sức chịu đựng có nghĩa là phải chế tạo tầu có trọng tải lớn hơn nữa với chi phí cho các tàu lớp Dreadnought có xu hướng ngày càng tăng. Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 đặt ra một giới hạn 35.000 tấn cho một chiếc thiết giáp hạm. Trong những năm tiếp theo một số thiết giáp hạm theo hiệp ước đã được thiết kế và đóng theo hạn chế này. Nhật Bản quyết định rút khỏi Hiệp ước trong những năm 1930, và đến Thế chiến thứ hai làm cho giới hạn này bị vô hiệu.
    Trang bị vũ khí


    [​IMG]
    Một thiết kế của Bellerophon hiển thị phân phối vũ khí trang bị của tàu Dreadnought đầu của Anh. Các khẩu súng chính được đặt ở trong các tháp đôi, với hai trên các cánh; pin ánh sáng thứ hai là tập trung quanh các cấu trúc thượng tầng.


    [​IMG]
    Thiết giáp hạm lớp Tegetthoff (SMS Szent István (1914)) với hai tầng "ba tháp súng"Với bố trí này con tàu có thể duy trì toàn bộ hỏa lực chính của mình vào một tàu của đối phương.
    Tàu Dreadnought được gắn một loạt các khẩu súng có cùng cỡ nòng, kích thước, và sắp xếp khác nhau giữa thiết kế. Thiết giáp hạm lớp Dreadnought mang mười súng 12-inch (305 mm). Súng 12-inch đã được tiêu chuẩn cho hầu hết các lực lượng hải quân trong thời tiền Dreadnought và điều này tiếp tục trong thế hệ đầu tiên của thiết giáp hạm Dreadnought. Hải quân Đế quốc Đức là một ngoại lệ, họ tiếp tục sử dụng súng 280-mm (11,0 in) trong lớp tàu Dreadnought đầu tiên, các tầu lớp Nassau.
    Tàu Dreadnought cũng mang vũ khí nhẹ. Nhiều tàu Dreadnought đầu mang một vũ khí thứ cấp là loại súng rất nhẹ được thiết kế để chống đỡ các kẻ thù là tàu phóng ngư lôi. Tuy nhiên, tầm cỡ và trọng lượng của vũ khí thứ cấp có xu hướng tăng vì tầm xa của ngư lôi và sức mạnh của tàu khu trục dự kiến cũng sẽ tăng lên. Từ khi kết thúc Thế chiến thứ nhất trở đi, thiết giáp hạm cũng đã được trang bị vũ khí chống máy bay, điển hình là một số lượng lớn súng nhẹ.
    Tàu Dreadnought cũng rất thường xuyên tiến hành ống phóng ngư lôi bản thân mình. Về lý thuyết, một dòng thiết giáp hạm được trang bị để có thể mở ra một volley tàn phá của quả ngư lôi trên một dòng kẻ thù hấp một khóa học song song. Trong thực tế, quả ngư lôi bắn từ thiết giáp hạm bắn trúng rất ít, trong khi có một nguy cơ là một ngư lôi được lưu trữ sẽ gây ra một vụ nổ nguy hiểm nếu trúng hỏa lực đối phương.[38]
    Vị trí của vũ khí chính
    Hiệu quả của súng phụ thuộc một phần vào cách bố trí của tháp pháo. Thiết giáp hạm lớp Dreadnought và các con tàu của Anh ngay sau đó nó có năm tháp pháo: hai phía trước và một phía sau trên trục dọc của con tàu, và hai trong bên cạnh của các cấu trúc thượng tầng. Điều này cho phép ba tháp pháo có thể bắn về phía trước và bốn chiếc có thể bắn từ bên mạn. Các chiếc lớp Nassau và Helgoland tức là lớp tàu Dreadnought Đức đã sử dụng một hệ thống bố trí hình lục giác, với một tháp pháo phía trước và phía sau, và mỗi tháp ở bốn cánh, điều này có nghĩa là nhiều súng hơn nữa có thể bắn cùng lúc, nhưng cùng chỉ cùng một số súng có thể bắn về phía trước hoặc bên cạnh như với Thiết giáp hạm lớp Dreadnough.
    Lớp Dreadnought được thử nghiệm với thiết kế bố trí khác nhau. Tầu lớp Sao Hải Vương có các tháp canh so le, do đó tất cả mười khẩu súng có thể bắn về một cạnh, một tính năng cũng được sử dụng bởi tầu lớp Kaiser của người Đức. Điều này tuy nhiên lại làm cho các phát bắn gây thiệt hại đến các bộ phận của con tàu và tạo áp lực một cách khủng khiếp vào khung của con tàu.
    Nếu tất cả các tháp pháo được trên trục dọc của con tàu, thì sau đó áp lực vào khung của con tàu sẽ là tương đối thấp. Bố trí này cũng có nghĩa rằng toàn bộ các khẩu súng chính có thể bắn mạn tầu, điều đó cũng có nghĩa là thân tàu sẽ bền hơn, điều đó đặt ra một số thách thức cho các nhà thiết kế; một thân tầu dài hơn cần nhiều giáp hơn để có được bảo vệ tương đương, và giáp cho các kho đạn dự trữ cho mỗi tháp pháo cùng với sự phân bố của nồi hơi và động cơ. Chính vì những lý do này mà chiếc HMSAgincourt,tTrong đó có một kỷ lục là có tới mười bốn khẩu súng 12-inch trong bảy tháp pháo theo trục dọc đã không được coi là một thiết kế thành công.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:44 ngày 21/04/2010
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Một bố trí súng được coi là hiệu quả nhất cuối cùng đã được chấp nhận như là tiêu chuẩn. Bố trí này bao gồm việc để một hoặc hai tháp pháo ở trên cao để có thể bắn qua một tháp pháo khác ngay lập tức về phía trước hoặc ơ? phía sau chúng. Hải quân Hoa Kỳ đã ứng dụng tính năng này vào các tàu lớp Dreadnought đầu tiên của họ vào năm 1906, nhưng những nước khác chậm hơn để ứng dụng bố trí này. Cũng như các bố trí khác cách bố trí này cũng có nhược điểm. Ban đầu, người ta quan tâm về tác động của phát nổ của các khẩu súng chính lên trên chiếc tháp pháo thấp hơn. Nâng tháp pháo lên cao cũng làm nâng cao trung tâm trọng lực của con tàu, và nó có thể làm giảm sự ổn định của tàu. Tuy nhiên, cách bố trí này làm con tầu sử dụng một cách tốt nhất các hỏa lực có sẵn từ một số pháp pháo cố định, và cuối cùng đã được phần lớn các quốc gia trên thế giới chấp nhận. Hải quân Hoa Kỳ ứng dụng superfiring vào các tầu lớp South Carolina, và cách bố trí cũng đã được sử dụng ở Hải quân Hoàng gia với lớp tầu Orion tại năm 1910, vì vậy tại thế chiến II superfiring hoàn toàn là tiêu chuẩn.
    Ban đầu, tất cả các tàu lớp Dreadnought có hai khẩu súng cho một tháp pháo. Tuy nhiên, một trong những giải pháp cho vấn đề bố trí tháp pháo là đặt ba hoặc thậm chí bốn khẩu súng trong mỗi tháp pháo. Ít tháp pháo hơn có nghĩa là con tàu có thể ngắn hơn, hoặc có thể dành nhiều không gian hơn cho máy móc. Mặt khác, bố trí này còn có ý nghĩa là trong trường hợp khi kẻ thù phá hủy một tháp pháo, một số lượng lớn hơn súng chính sẽ bị loại khỏi chiến đấu. Nguy cơ những chấn động từ một phát bắn của khẩu súng nàycó thể làm ảnh hưởng và giảm tốc độ bắn của những khẩu khác trong cùng một tháp pháo. Các quốc gia đầu tiên ứng dụng tháp pháo ba súng là Italy, với lớp tầu Dante Alighieri, Ngay sau đó là Nga với lớp tầu Gangut, Áo-Hung với lớp tầu Tegetthoff, và Hoa Kỳ với lớp Nevada. Hải quân Hoàng gia Anh đã không ứng dụng các thiết giáp hạm với tháp pháo ba súng cho đến sau Thế chiến thứ nhất với lớp tầu Nelson. Một số mẫu thiết kế sau đó được sử dụng để lắp những tháp pháo có tới bốn súng, bao gồm lớp King George V của Anh và lớp Richelieu của Pháp.
    [​IMG]
    Thiết giáp hạm lớp Gangut của Nga với tháp pháo ba súng chính
    [​IMG]
    Chiếc Thiết giáp hạm USS Nevada của Hoa kỳ với tháp pháo ba súng chính
    [​IMG]
    Chiếc Thiết giáp hạm HMS King Geoge của Anh với tháp pháo bốn súng chính
    [​IMG]
    Chiếc Thiết giáp hạm Richelieu của Pháp với tháp pháo bốn súng chính
    Sức công phá của súng chính và cỡ nòng
    Thay vì cố gắng để đặt nhiều khẩu súng hơn nữa lên tàu, người ta có thể dùng cách tăng sức công phá của mỗi súng. Giải pháp này có thể thực hiện bằng cách tăng cỡ nòng hoặc là tăng trọng lượng của viên đạn và do đó trọng lượng của vỏ, hoặc bằng cách kéo dài nòng súng để tăng vận tốc đầu nòng. Hoặc ra các cơ hội để tăng phạm vi tác xạ và khả năng xuyên giáp của viên đạn.
    [​IMG]
    Cơ chế hoạt động của vũ khí chính của thiết giáp hạm lớp Dreadnought, dựa trên Anh súng 15-inch được sử dụng trên siêu tàu Dreadnought
    Cả hai phương pháp trên đều tạo ra những lợi thế và bất lợi, đương nhiên là khi tốc độ đầu nòng lớn hơn thì nói chung là nòng súng sẽ phải chịu nhiều lực hơn. Khi nổ súng, nòng súng sẽ bị mài mòn và mất đi độ chính xác và cuối cùng người ta phải thay thế chúng. Đôi khi đây lại là cả một vấn đề khi Hải quân Mỹ xem xét một cách nghiêm túc để chấm dứt thực hành bắn súng hạng nặng vào năm 1910 vì những mài mòn của nòng súng. Các nhược điểm của súng nặng hơn gồm hai phần: đầu tiên, các tháp pháo và các khẩu súng được yêu cầu trở nên nặng hơn nữa; và thứ hai là đạn trở lên nặng hơn và tốc độ chậm và phải bắn ở một góc độ cao hơn cho cùng một phạm vi tác xạ, và chính góc bắn cao hơn này có thể làm ảnh hưởng đến thiết kế của tháp pháo. Tuy nhiên, lợi thế lớn của việc tăng cỡ nòng là phát đạn nặng hơn sẽ làm giảm bớt sức cản của không khí, và do đó tạo ra được sức xuyên phá lớn hơn ở tầm xa.
    Lực lượng hải quân của các quốc gia khác nhau tiếp cận cách nâng cỡ nòng súng một cách khác nhau. Hải quân Đức thường sử dụng một cỡ nòng nhẹ hơn so với các thiết giáp hạm có trọng tải tương đương như của Anh, ví dụ: người Đức sử dụng cỡ nòng tiêu chuẩn là 12-inch (305 mm) trong khi cỡ nòng tiêu chuẩn của người Anh lại là 13,5-inch (343 mm). Tuy nhiên, do công nghệ luyện kim luyện kim của Đức tốt hơn nên súng 12-inch Đức của người Đức được cho là tốt hơn súng 12-inch của Anh về trọng lượng của viên đạn và vận tốc đầu nòng; và vì súng của Đức nhẹ hơn súng 13,5-inch của Ang nên tàu của Đứ có khả năng mang được nhiều giáp hơn.
    [​IMG]
    Một súng hải quân cỡ nòng 14-inch được trang bị cho các thiết giáp hạm theo hiệp ước lớp King George V của Anh.
    Tuy nhên nói chung cỡ của súng chính có xu hướng tăng. Trong Hải quân Hoàng gia Anh lớp tầu Orion ra mắt năm 1910 sử dụng mười súng 13,5-inch, tất cả theo trục trung tâm của tầu; lớp Queen Elizabeth ra mắt năm 1913, sử dụng tám súng 15-inch (381 mm). Trong tất cả các lực lượng hải quân, cỡ nòng súng có xu hướng tăng lên và số lượng súng có xu hướng giảm đi để bù đắp trọng lượng bị tăng. Các khẩu súng trở nên ít hơn có nghĩa là việc bố trí chúng trở nên đơn giản hơn, và giải pháp định vị tháp pháo ở trục trung tâm hoàn toàn trở thành là tiêu chuẩn.
    Một bước thay đổi xa hơn được lên kế hoạch cho việc thiết kế thiết giáp hạm được đặt ra vào cuối Thế chiến I, lớp thiết giáp hạm Nagato năm 1917 sử dụng súng 16-inch (406 mm), sau đó cỡ nòng này đã nhanh chóng xuất hiện ở Hải quân Mỹ với lớp tầu Colorado. Cả Anh và Nhật Bản đã lập kế hoạch để chế tạo thiết giáp hạm trang bị súng có cỡ nòng 18-inch (457 mm), trường hợp của người Anh là lớp tầu N3. Tuy nhiên với Hiệp ước Hải quân Washington thì có nghĩa là những khẩu súng khổng lồ trong kế hoạch này của họ không bao giờ ra khỏi bản vẽ.
    [​IMG]
    Chiêc thiết giáp hạm Nagato của Nhật Bản với các súng chính có cỡ nòng lên tới 16 in
    [​IMG]
    Chiêc thiết giáp hạm Colorado của Hoa kỳ với các súng chính có cỡ nòng lên tới 16 in
    [​IMG]
    Chiêc thiết giáp hạm Queen Elizabet của Anh Quốc với các súng chính có cỡ nòng lên tới 15 in

    [​IMG]
    Chiêc thiết giáp hạm Vanguard, chiếc dùng những nòng dự bị của chiếc Queen Elizabet làm nòng súng chính của mình.
    [​IMG]
    Chiếc Đại chiến hạm Yamato của Nhật Bản, chiếc thiết giáp hạm có súng chính với cỡ nòng khủng nhất thế giới, vào khoảng
    18 in (460 mm)
    [​IMG]
    Tranh vẽ lớp Super Yamato của Nhật Ban với súng chính lên tới 20 in (510 mm), dự án này chỉ tồn tại trên bản vẽ
    Hiệp ước Hải quân Washington hạn chế súng của thiết giáp hạm có cỡ nòng tối đa là 16-inch (410 mm). Sau đó hiệp ước quốc tế duy trì giới hạn này, mặc dù có những quốc gia cũng đã đề xuất các phương án giảm cỡ nòng súng chính tối đa xuống còn 11, 12, hoặc 14 inch đã. Chiếc thiết giáp hạm duy nhất phá bỏ các giới hạn của Hiệp ước Hải quân là thiết giáp hạm Yamato của người Nhật, được khởi công vào năm 1937 (sau khi hiệp ước hết hạn), trong đó có súng chính cỡ 460 mm (18,1 in). Vào giữa thế chiến II, Anh đã làm sử dụng súng 15-inch được giữ như là dự trữ cuả lớp tàu Queen Elizabet để làm vũ khí cho chiếc thiết giáp hạm cuối cùng cùa Anh, chiếc Vanguard
    Một số thiết kế trong thời kỳ chiến tranh thế giới II được soạn thảo với đề xuất chuyển theo hướng trang bị những vũ khí khổng lồ, dự án thiết kế H-43 và H-44 của người Đức đề xuất súng 508-mm (20 in), và có bằng chứng Hitler muốn có súng có cỡ nòng lên tới 609-mm (24 in); Mẫu thiết kế ?oSuper Yamato" của Nhật bản cũng đề xuất súng có cỡ nòng lên tới 508 mm. Không dự án nào trong số những đề nghị đó đi được xa hơn công việc thiết kế rất sơ bộ.
    Súng phụ
    Các tàu Dreadnought đầu tiên có xu hướng trang bị một vũ khí rất nhẹ trung nhằm bảo vệ chúng khỏi tàu phóng ngư lôi. Thiết giáp hạm lớp Dreadnought mang súng 12-pounder; mỗi khẩu trong số 22 khẩu 12-pounder của nó có thể bắn ít nhất 15 phát một phút vào bất kỳ tàu phóng ngư lôi nào đang tiến hành cuộc tấn công. Chiếc thiết giáp hạm South Carolinas và những tàu lớp Dreadnought đầu tiên của Mỹ được trang bị tương tự. Ở giai đoạn này, tàu phóng ngư lôi được dự kiến sẽ hoạt động một cách riêng rẽ với bất cứ hạm đội nào. Vì vậy, không có cần phải bọc giáp cho súng phụ, hoặc để bảo vệ thủy thủ đoàn từ hiệu ứng nổ của những phát băn của súng chính. Trong bối cảnh đó, các khẩu súng hạng nhẹ có xu hướng được đặt ở vị trí cao không bọc giáp ở trên tàu để giảm thiểu trọng lượng và tối đa hóa tầm xạ kích.


    [​IMG]
    Súng chống tầu phóng ngư lôi cỡ nòng 12-pounder được gắn trên nóc tháp pháo của một chiếc Thiết giáp hạm lớp Dreadnought
    Trong vòng một vài năm sau, mối đe dọa chủ yếu lại đến từ tàu khu trục, chúng lớn hơn, nhiều vũ khí mạnh, và khó tiêu diệt hơn tàu phóng ngư lôi. Kể từ lúc này mối nguy hiểm từ tàu khu trục là rất nghiêm trọng, người ta phải tính làm sao để một phát bắn từ vũ khí thứ cấp của một chiếc thiết giáp hạm cũng đủ để đánh chìm (thay vì chỉ đơn thuần là gây thiệt hại) cho bất cứ tầu khu trục nào đang tấn công. Tàu khu trục, khác với tàu phóng ngư lôi, được dự kiến để tấn công như một phần của cùng tham chiến với hạm đội, do đó, người ta lại thấy cần thiết cho việc bọc giáp cho các khẩu đội súng phụ để bảo vệ chúng chống lại các mảnh văng từ đạn súng hạng nặng, và ảnh hưởng từ tiếng nổ của súng chính. Ý tưởng bọc giáp cho vũ khí thứ cấp được phát triển bởi lực lượng hải quân Đức từ những chiếc đầu tiên, ví dụ chiếc Nassau, có mười hai súng 150-mm (5,9 in) và mười sáu súng 88-mm (3,45 in), và các lớp thiết giáp hạm lớp Dreadnought sau đó cũng có số vũ khí phụ tương tự. Những khẩu súng nặng hơn có xu hướng được đặt trong các ổ súng bọc théo trên boong chính. Hải quân Hoàng cũng phải tăng cường trang bị vũ khí thứ cấp như đầu tiên là súng 12 pounder tương đương với súng 4-inch (100 mm) và sau đó là súng 6-inch (150 mm), được bắt đầu tiêu chuẩn tại đầu của Thế chiến I; Hoa Kỳ tiêu chuẩn hóa súng 5-inch (130 mm) cho chiến tranh nhưng lên kế hoạch lắp súng 6-in cho những tàu chỉ được thiết kế sau đó.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 18:21 ngày 22/04/2010
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Thiết giáp hạm lớp Dreadnought (tiếp)
    Các khẩu đội súng thứ cấp cũng phục vụ một số nhiệm vụ khác. Người ta hy vọng rằng một quả đạn cỡ nòng trung bình có thể bắn trúng vào một điểm nhạy cảm trên hệ thống điều khiển bắn của một thiết giáp hạm lớp Dreadnought của đối phương. Ngoài ra, người ta cảm thấy rằng các vũ khí thứ cấp có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc nổ súng từ một tàu tuần dương để tấn công một thiết giáp hạm đã bị thương của đối phương.
    Thiết giáp


    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm HMS Bellerophon cho thấy một chương trình bảo vệ điển hình của thiết giáp hạm lớp Dreadnought, với các lớp giáp rất dày bảo vệ tháp pháo, kho đạn và các khoảng không gian cho động cơ nhỏ đi, cũng nên lưu ý các khoang được chia dưới mực nước để giảm nguy cơ tầu chìm.
    Phần lớn tải trọng của một chiếc thiết giáp hạm lớp Dreadnought chính là các lớp giáp của nó. Các nhà thiết kế đã dành nhiều thời gian và nỗ lực để tạo ra sự bảo vệ tốt nhất có thể cho tàu của họ để chống lại các loại vũ khí khác nhau mà chúng sẽ phải đối mặt. Tuy nhiên trọng lượng bao giờ cũng chỉ được dành cho việc bảo vệ mà không làm ảnh hưởng đến tốc độ, hỏa lực hoặc seakeeping.[
    Phần trung tâm được bọc giáp
    Phần lớn giáp của tầu lớp Dreadnought tập trung xung quanh thành tầu, đây có thể coi là một khối hộp với bốn bức tường bọc thép và một chiếc mái bọc thép bao xung quanh các bộ phận quan trọng nhất của con tàu. Các cạnh của chiếc hộp thép này " là vành đai thiết giáp? của con tầu, chúng bắt đầu ở phần thân tàu ở phía trước của tháp pháo trước và chạy tới tận phía sau của tháp pháo sau. Đến cuối chúng tạo thành hai vách ngăn bọc thép từ mũi đến phía đuôi và kéo dài giữa các phần cuối của vành đai giáp. Phần mái của hộp là một sàn bọc thép. Khoảng không gian trong chiếc hộp bọc thép này chính là khu vực để nồi hơi, động cơ, và các kho đạn dành cho các súng chính. Một phát đạn bắn vào bất kỳ điểm nào của các hệ thống này có thể làm tê liệt hoặc phá hủy tàu. Sàn của chiếc hộp bọc thép này chính là phần thân phía dưới của con tàu, và không được bọc thép.
    Các tàu lớp Dreadnought đầu tiên được thiết kế để gia nhập một trận chiến đối hạm chống lại các thiết giáp hạm khác ở phạm vi lên đến 10.000 yd (9.100 m). Trong cuộc chiến kiểu này, đạn sẽ bay trên một quỹ đạo tương đối thẳng, và đầu đạn sẽ đập vào xung quanh phần trên mực nước và có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho con tàu. Vì lý do này, các tàu lớp Dreadnought đầu tiên có lớp giáp được tập trung thành một vành đai dày xung quanh đường mực nước; đai giáp này có độ dày vào khoảng 11 inch (280 mm). Phía sau vành đai này người ta thường bố trí kho nhiên liệu - than của con tàu với mục đích tiếp tục bảo vệ khoàng không kỹ thuật cùa nó (phần động cơ ?" hầm máy). Kiểu tấn công như thế này tạo ra ít thiệt hại gián tiếp đến những phần quan trọng của tàu. Một phát đạn chạm đúng vào vành đai giáp và phát nổ có thể làm các mảnh đạn bay theo mọi hướng. Những mảnh vỡ này là rất nguy hiểm nhưng có thể bị chặn lại bởi lớp giáp mỏng hơn những lớp giáp cần thiết để chặn một phát đạn xuyên giáp chưa nổ. Để bảo vệ phần phía trong của con tàu từ các mảnh vỡ của được viên đạn phát nổ trên các cấu trúc thượng tầng, người ta dùng giáp thép mỏng hơn nhiều lần so với lớp giáp ở sàn tàu.
    Trong khi lớp giáp dày nhất được dành riêng cho phần hộp trung tâm tại tất cả các thiết giáp hạm, một số lực lượng hải quân trên thế giới cũng sử dụng một vành đai mỏng bọc thép và sàn bọc thép kéo dài để che phần đầu của con tàu, hoặc mở rộng vành đai bọc thép mỏng lên bên ngoài của thân tàu. Thiết kế giáp mỏng dần được sử dụng bởi hải quân của các nước cường quốc Châu Âu như Anh, Đức và Pháp. Sự sắp xếp này đã tạo ra một lớp giáp cho một phần lớn hơn nữa cho con tàu; cho các tàu lớp Dreadnought đầu tiên, khi đạn có sức công phá lớn vẫn được coi là một mối đe dọa lớn, đây là một điều hữu ích. Tuy nhiên, sau đó người ta lại có xu hướng tạo một vành đai chính là rất ngắn, chỉ bảo vệ một dải mỏng phía trên đường nước, một số lực lượng hải quân thấy rằng khi tàu Dreadnought của họ đã trở nên quá tải, vành đai giáp bị hoàn toàn ngập nước. Đề án lựa chọn thay thế là "Bảo vệ tất cả hoặc không có gì bảo vệ - all or nothing protection scheme?, được phát triển bởi Hải quân Hoa kỳ. Vành đai giáp được chế tạo cao và dày, nhưng không phải được chạy dài tới tận các phần cuối của con tàu hoặc bọc giáp cả các sàn trên. Tầng thiết giáp cũng dày lên. Dự án ?oBảo vệ tất cả hoặc không có gì bảo vệ? tạo ra một sự bảo vệ hiệu quả hơn để chống lại các cuộc đụng độ ở tầm xa ở tầu thiết giáp hạm lớp Dreadnought và đã được ứng dụng ở cả bên ngoài Hải quân Mỹ sau Thế chiến I.
    Trong quá trình tiến hóa của thiết giáp hạm lớp Dreadnought này, đề án đổi áo giáp đã phản ánh nguy cơ lớn hơn từ những phát bắn ở tầm xa, và mối đe dọa ngày càng tăng từ bom xuyên giáp được thả từ máy bay. Những thiết kế sau này có độ dày của lớp giáp thép lớn hơn ở phần boong trên của con tàu; chiếc Yamato có một vành đai giáp chính dày 16-inch (410 mm), nhưng đồng thời cũng có một boong bọc thép dày 9 inch (230 mm).
    Bảo vệ phần dưới mực nước và phần đáy
    Yếu tố cuối cùng của đề án bảo vệ các tàu Dreadnought đầu tiên là các phân đáy tàu phần ở dưới mực nước thành nhiều các khoang kín nước. Nếu thân tàu bị xuyên qua bởi đạn nổ, thủy lôi, ngư lôi, hoặc va chạm, về mặt lý thuyết, chỉ có một khu vực bị ngập nước và tàu chiến có thể sống sót. Để thực hiện giải pháp này thậm chí để phòng ngừa có hiệu quả hơn, nhiều tàu Dreadnought không có hầm thông giữa các phần khác nhau ở dưới mực nước, vì vậy mà ngay cả một lỗ thủng bất ngờ dưới mực nước cũng không thể đánh chìm con tàu. Tuy nhiên vẫn còn một số trường hợp nước ngập lan nhanh giữa các khoang dưới nước.
    Sự tiến hóa lớn nhất trong việc bảo vệ thiết giáp hạm lớp Dreadnought đi kèm với sự phát triển của thiết bị chống ngư lôi đáy tầu và ngư lôi thành tầu, cả hai đều nỗ lực để bảo vệ chống lại những vũ khí dưới mực nước như thủy lôi và ngư lôi. Mục đích của sự bảo vệ dưới nước được hấp thu sức nổ phát ra từ một quả thủy lôi hoặc ngư lôi ra xa khỏi thân tàu. Phương án này có nghĩa là tạo một vách ngăn bên trong cùng với các bên của thân tàu, được bọc thép mỏng để chặn các mảnh văng, ngăn cách với thân tầu bên ngoài bởi một hoặc nhiều khoang. Các ngăn ở giữa được để trống rỗng, hoặc đầy than, nước hay dầu nhiên liệu.
    Động cơ


    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm Paris đang vào tốc độ thử nghiệm
    Tàu Dreadnought được đẩy đi bởi hai hoặc bốn chân vít cánh quạt. Bản thân chiếc Thiết giáp hạm Dreadnought, và tất cả các tàu lớp Dreadnought của Anh được đẩy bằng trục chân vít chạy bằng động cơ tua bin hơi nước. Tuy nhiên, một số tàu lớp Dreadnought thế hệ đầu tiên của các quốc gia khác vẫn sử dụng Động cơ chạy bă?ng hơi mở rộng ba lần, mà đây lại là động cơ tiêu chuẩn của tàu thời Dreadnought.
    Động cơ tua bin cung cấp nhiều hơn năng lượng hơn so với động cơ piston trên cùng một trọng lượng máy móc. Điều này được đảm bảo bởi nhà phát minh, Charles Parsons, ông đã thuyết phục được Hải quân Hoàng gia Anh sử dụng động cơ tuabin ở Thiết giáp hạm lớp Dreadnought. Người ta thường nói rằng tua bin có những lợi thế như sạch hơn và đáng tin cậy hơn so với động cơ piston. Tuy nhiên vào năm 1905 vẫn có những mẫu thiết kế mới của động cơ piston sạch hơn và đáng tin cậy hơn so với các đời trước đó.
    Động cơ tua bin không phải là không có nhược điểm. Ở tốc độ đi đường trường nó chậm hơn nhiều so với tốc độ tối đa, tua bin có hiệu quả về nhiên liệu thấp hơn một cách rõ rệt so với động cơ piston. Điều này đặc biệt quan trọng đối với lực lượng hải quân có yêu cầu phải có một chuyến đi dài ở vận tốc hành trình, đó chính là trường hợp của Hải quân Mỹ vốn được quy hoạch cho trường hợp có chiến tranh phải đi vượt Thái Bình Dương để tham chiến với Nhật Bản ở Philippines. Đây là lý do đằng sau quyết định của người Mỹ từ bỏ động cơ tua bin sau khi lắp đặt chúng vào chiếc North Dakota (được đặt khung sườn năm 1907, hạ thủy năm 1908); phải cho đến tận chiếc Nevada (Đặt khung sườn năm 1911, hạ thủy năm 1914) thì động cơ tua bin mới được phục hồi tàu chiến lớp Dreadnought Hoa kỳ.
    Các nhược điểm của động cơ tuốc bin cuối cùng đã được khắc phục. Giải pháp cuối cùng được ứng dụng một cách rộng rãi là Geared tuabin, đó là dùng hộp số làm giảm tốc độ quay của cánh quạt và do đó làm hiệu quả tăng lên. Tuy nhiên, giải pháp này yêu cầu có độ chính xác về kỹ thuật trong các bánh răng và do đó rất khó chế tạo.
    [​IMG]
    Ảnh minh họa một đông cơ tuabin hơi nước năm 1905
    Một giải pháp thay thế là dùng động cơ turbo-điện ( turbo-electric drive ), đây là giải pháp mà các tuabin hơi tạo ra điện năng mà sau đó dùng để vận hành các các cánh quạt chân vít. Giải pháp này được đặc biệt ưa chuộng bởi Hải quân Hoa Kỳ, khi họ sử dụng nó với tất cả các tàu lớp Dreadnought từ cuối 1915-> 1922. Những lợi thế của phương pháp này là chi phí thấp, và hiệu suất ơ? phần đuôi là rất tốt. Những bất lợi của giải pháp này là máy móc nặng và dễ bị tổn thương trong chiến đấu, đặc biệt là khi các phần của động cơ điện bị ngập nước.
    Động cơ tua bin chưa bao giờ được thay thế trong thiết kế của tầu thiết giáp hạm. Động cơ Diesel cuối cùng đã được xem xét trên một số mặt, vì chúng có sức chịu đựng rất tốt và chiến một khoảng không kỹ thuật nhỏ về chiều dài của con tàu. Tuy nhiên, chúng cũng nặng hơn, và chiếm một không gian lớn hơn về chiều dọc, đồng thời cũng cung cấp ít năng lượng hơn, và được coi là không đáng tin cậy.
    Nhiên liệu
    Thế hệ đầu tiên của tàu Dreadnought sử dụng than để đốt nồi hơi và tạo hơi nước cho các tua bin. Than được sử dụng từ các thiết giáp hạm hơi nước đầu tiên, nhưng chúng có nhiều bất lợi. Người ta phải sử dụng nhiều lao động để chất than vào kho nhiên liệu của con tàu và sau đó xúc chúng vào nồi hơi. Các nồi hơi trở nên dễ bị tắc với tro. Khói than cũng rất đen dày để làm lộ vị trí của một hạm đội. Ngoài ra, than đá cồng kềnh và có nhiệt năng tương đối thấp, tuy nhiên than được coi là khá trơ và có thể được sử dụng như là một phần của đề án bảo vệ của con tàu.
    Động cơ đẩy đốt dầu tạo nhiều thuận lợi cho các kiến trúc sư và các sĩ quan hải quân trên biển. Nó giảm khói làm cho tàu ít lộ vị trí. Nó có thể được đưa vào nồi hơi một cách tự động hơn là cần phải xúc bằng tay. Dầu có nhiệt năng gần gấp đôi than. Điều này có nghĩa là các nồi hơi có thể được thu lại nhỏ hơn; và với cùng một lượng nhiên liệu, một con tàu chạy dầu sẽ có phạm vi hoạt động lớn hơn nhiều.
    Những lợi ích này có nghĩa rằng, chỉ vào đầu năm 1901, Fisher (John Fisher Đô đốc hạm đội Anh năm 1914 -> 1915 ) đã tìm cách nhấn mạnh vào lợi thế của nhiên liệu dầu. Có những vấn đề kỹ thuật với động cơ đốt dầu, liên quan đến sự cung cấp khác nhau về trọng lượng của nhiên liệu dầu so với than đá, và các vấn đề của máy bơm dầu. Tuy nhiên, vấn đề chính của việc sử dụng dầu cho hạm đội thiết giáp hạm lại là, đây lại là ngoại lệ với Hoa Kỳ, tất cả các lực lượng hải quân lớn trên thế giới đều phải nhập khẩu dầu mỏ. Điều này tại hậu quả là một số lực lượng hải quân đã phải sử dụng nồi hơi lưỡng tính, tức là có thể sử dụng than phun dầu; các tàu của Anh bao gồm cả tàu lớp Dreadnought, thậm chí có thể sử dụng chỉ một loại nhiên liệu dầu cho đến 60% điện năng.
    Mỹ là một quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn, và Hải quân Hoa Kỳ là người đầu tiên tuyệt đối áp dụng động cơ chạy dầu, quyết định quyết định này được thông qua vào năm 1910 và họ lắp lò hơi đốt dầu cho thiết giáp hạm lớp Nevada vào năm 1911. Nước Anh cũng không phải là quá chậm chễ vào năm 1912 cũng quyết định sử dụng động cơ dầu trên lớp tầu riêng của họ, lớp Queen Elizabet; người Anh rút ngắn thời gian thiết kế và chế tạo và điều này có nghĩa là lớp Queen Elizabeth được đưa vào hoạt động trước lớp Nevada. Người Anh dự định quay trở lại phương pháp đốt trộn với lớp tầu Revenge tiếp theo, phương pháp này có đôi chút lợi thế về tốc độ nhưng khi Fisher quay trở lại văn phòng vào năm 1914, ông đã nhấn mạnh rằng tất cả các lò hơi đều phải là đốt dầu. Hải quân các cường quốc lớn khác vẫn giữ động cơ hỗn hợp than và dầu cho đến kết thúc Thế chiến I.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:19 ngày 25/04/2010
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chế tạo tầu Dreadnought
    Tàu lớp Dreadnought được phát triển như là một bước tiến trong cuộc chạy đua vũ trang quốc tế về thiết giáp hạm đã bắt đầu trong thập niên 1890. Hải quân Hoàng gia Anh đã là nước dẫn đầu về số lượng các thiết giáp hạm tiền-Dreadnought, nhưng cũng chỉ là một trong các quốc gia dẫn đầu về thiết giáp hạm lớp Dreadnought. Điều này dẫn đến những lời chỉ trích rằng người Anh, bằng cách tung ra Thiết giáp hạm HMS Dreadnought đã ném đi lợi thế chiến lược của mình. Tuy nhiên, hầu hết các đối thủ về hải quân Anh đã tự mình thiết kế hoặc thậm chí tự chế tạo thiết giáp hạm chỉ có một loại súng hạng chính. Cả hai Hải quân Nhật Bản và Hải quân Hoa Kỳ đều đã đặt hàng tầu với "tất cả các súng lớn" vào năm1904-1905, với các lớp Satsuma và South Carolina tương ứng. Đức Hoàng Wilhelm II đã ủng hộ một thiết giáp hạm được vũ trang một cách nhanh chóng chỉ với một loại vũ khí hạng nặng kể từ những năm 1890. Bằng cách đảm bảo một sự khởi đầu trong chế tạo thiết giáp hạm lớp Dreadnought, nước Anh vẫn đảm bảo rằng sự thống trị của họ tại các vùng biển tiếp tục.

    Cuộc chạy đua thiết giáp hạm lại sớm tăng tốc một lần nữa, đặt một gánh nặng lớn về tài chính cho các chính phủ tham gia vào nó. Các tàu Dreadnought đầu tiên không đắt hơn nhiều so với tàu cuối của thời tiền Dreadnought, nhưng chi phí cho mỗi con tàu tiếp tục tăng lên sau đó. Thiết giáp hạm hiện đại là những yếu tố quan trọng của lực lượng hải quân thế giới mặc dù giá của chúng rất cau. Mỗi một chiếc thiết giáp hạm lại thể hiện quyền lực và uy tín quốc gia theo cách thức tương tự như vũ khí hạt nhân của ngày hôm nay. Đức, Pháp, Nga, Ý, Nhật Bản và Áo tất cả các quốc gia này đều bắt đầu chương trình thiết giáp hạm lớp Dreadnought, và các quốc gia là cường quốc hạng nhì bao gồm cả đế chế Ottoman, Argentina, Brazil, Chile đều chạy đua đóng tàu lớp Dreadnought ở các xưởng đóng tầu của Anh và Mỹ.
    Anh-Đức chạy đua vũ trang
    Việc đóng Thiết giáp hạm lớp Dreadnought trùng hợp với sự căng thẳng gia tăng giữa Anh và Đức. Đức đã bắt đầu đóng một hạm đội thiết giáp hạm lớn trong những năm 1890, như một phần của một chính sách cố ý để thách thức ưu thế hải quân của Anh. Với Entente sự xích lại gần giữa Anh và Pháp trong tháng 4 năm 1904, điều này trở thành ngày càng rõ ràng rằng hải quân Anh sẽ là kẻ thù chính của Đức, người Đức lúc này đã đóng một hạm đội lớn, hiện đại theo luật ?oTirpitz?. Việc này đã dẫn đến sự đối đầu của hai đội tàu Dreadnought lớn nhất của thời kỳ trước chiến tranh.
    Những phản ứng đầu tiên của Đức với chiếc Thiết giáp hạm lớp Dreadnought đến từ lớp Nassau, nó được đặt thân sườn trong năm 1907, và sau đó là lớp Helgoland vào năm 1909. Cùng với hai chiến tuần dương hạm dã chiến, một ?" một kiểu mà người Đức ít học hỏi từ Fisher, nhưng có thể được đóng theo các uỷ quyền cho các tàu tuần dương bọc thép hơn là tàu chủ lực, các lớp tầu này làm cho Đức có tổng cộng mười chiến hạm hiện đại đã hoàn thành hoặc đang được chế tạo vào năm 1909. Trong khi các tàu Anh cho dù có chút ít nhanh hơn và mạnh hơn các tầu tương đương của người Đức, nhưng họ lại tụt xuống một tỷ lệ 12:10 và ngày càng rơi xa tỷ lệ 02:01 mà Hải quân Hoàng gia muốn duy trì.
    Năm 1909, Quốc hội Anh ủy quyền đóng thêm bốn tàu chủ lực đang nắm giữ ra hy vọng Đức sẽ sẵn sàng để thương lượng một hiệp ước về số thiết giáp hạm. Nếu không có giải pháp như vậy có thể được ký kết, một loạt bốn tàu bổ sung sẽ được hạ thủy vào năm 1910. Ngay cả giải pháp thỏa hiệp này có nghĩa là (khi được áp dụng cùng với một số cải cách xã hội) tăng thuế, đủ để tạo ra một cuộc khủng hoảng hiến pháp ở Anh trong 1909-1910. Năm 1910, tám tàu Anh được lên kế hoạch để chế tạo đã hoàn thành trước, bao gồm bốn chiếc lớp Orion, lớp siêu tàu Dreadnought, và được tăng cường bởi thiết giáp hạm mua của Australia và New Zealand. Trong cùng thời gian này, Đức chỉ hạ thủy có ba tàu, làm cho Anh một ưu thế 22:13. Cách giải quyết của Anh thể hiện bởi chương trình đóng tầu của họ đã làm cho người Đức phải tìm kiếm một đàn phán kết thúc cuộc chạy đua vũ trang. Trong khi mục tiêu mới của Bộ Hải quân là vượt qua đến 60% số tầu chiến so với người Đức cũng gần với mục tiêu của Tirpitz là chỉ để cho người Anh chiếm ưu thế đến 50% thôi, cuộc đàm phán đặt ra câu hỏi về việc liệu các tuần dương hạm dã chiến trong Khối thịnh vượng chung của Anh có được tính vào không?, cũng như những vấn đề không liên quan đến hải quân các yêu cầu của Đức về việc đòi công nhận quyền sở hữu của của họ về vùng Alsace-Lorraine.
    Cuộc chạy đua thiết giáp hạm lớp Dreadnought lại tăng tốc vào năm 1910 và 1911, khi người Đức hạ thủy bốn thiết giáp hạm còn nước Anh hạ thủy năm chiếc vào mỗi năm. Căng thẳng đến điểm đỉnh sau khi Luật Hải quân Đức năm 1912 được ban bố. Luật này cho phép Đức thành lập một hạm đội gồm 33 chiếc thiết giáp hạm và tuần dương hạm dã chiến, vượt qua số lượng tầu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh trong vùng biển của họ. Để làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn đối với người Anh, Hải quân Đế quốc Áo-Hung cũng đóng bốn chiếc tàu lớp Dreadnought, trong khi người Ý cũng có bốn chiếc và đang đóng thêm hai. Để chống lại các mối đe dọa như vậy, Hải quân Hoàng gia Anh không còn đủ sức mạnh để đảm bảo quyền lợi sống còn của nước Anh. Anh phải đối mặt với một sự lựa chọn là đóng mới thêm thiết giáp hạm, rút khỏi Địa Trung Hải, hoặc tìm kiếm một liên minh với nước Pháp. Hơn nữa việc tăng cường hải quân là quá đắt tiền trong khi các quỹ phúc lợi xã hội luôn yêu cầu được phân bổ thêm ngân sách. Rút lui khỏi Địa Trung Hải là một mất mát rất lớn có nhiều ảnh hưởng, làm suy yếu quan hệ ngoại giao của Anh tại Địa Trung Hải và làm mất sự ổn định của Đế quốc Anh. Sự lựa chọn có thể chấp nhận, và một trong những đề nghị của First Lord của bộ Hải quân Anh Winston Churchill, là thay đổi các chính sách trong quá khứ và tiến hành một thỏa thuận với Pháp. Người Pháp sẽ chịu trách nhiệm kiềm chế người Ý và Áo-Hung tại Địa Trung Hải, trong khi người Anh sẽ bảo vệ bờ biển phía bắc của nước Pháp. Mặc dù có một số phản đối từ các chính trị gia người Anh, Hải quân Hoàng gia tổ chức chính nó trên cơ sở chính sách này vào năm 1912.
    Mặc dù để lại những hậu quả chiến lược quan trọng, Luật Hải quân năm 1912 tạo ra rất ít các thay đổi trong tỷ lệ của lực lượng thiết giáp hạm. Người Anh phản ứng bằng cách hạ thủy mười siêu tàu Dreadnought mới vào năm tài khóa 1912 và 1913, đó là các tàu lớp Queen Elizabeth và lớp Revenge, và cho thấy một bước thay đổi xa hơn trong vũ khí, tốc độ và giáp bảo vệ trong khi đó Đức chỉ hạ thủy có năm chiếc và tập trung nguồn lực vào phát triển lục quân.
    Hoa Kỳ

    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm USS New York đang chạy với tốc độ cao nhất trong năm 1915.
    Các tầu thiết giáp hạm lớp South Carolina của Hoa kỳ là các thiết giáp hạm có tất cả các súng lớn đầu tiên được hoàn thành bởi một trong những đối thủ của Anh. Việc thiết kế cho lớp tầu này đã được bắt đầu từ trước khi chiếc Thiết giáp hạm HMS Dreadnought được hạ thủy. Trong khi có ở mức độ nghiên cứu một số thiết kế của Hải quân Mỹ chịu ảnh hưởng của Hải quân Hoàng gia Anh thì tàu Mỹ lại rất khác.
    Quốc hội Hoa kỳ ủy quyền cho Hải quân có thẩm quyền để đóng hai thiết giáp hạm, nhưng chỉ cho phép có tầu có trọng tải 16.000 tấn hoặc thấp hơn. Kết quả là, các tầu lớp South Carolina được đóng bị giới hạn chặt chẽ hơn nhiều so với các Thiết giáp hạm lớp Dreadnought. Để sử dụng tốt nhất trang bị vũ khí với trọng lượng có sẵn, tất cả tám súng 12-inch (305 mm) được gắn dọc theo trục trung tâm, trong cặp tháp pháo superfiring ở mũi và đuôi tầu. Sự sắp xếp này đã tạo ra một hỏa lực pháo mạn ngang bằng với Thiết giáp hạm lớp Dreadnought với ít súng hơn, đây là kết quả của việc bố trí vũ khí có hiệu quả nhất và là một tiền đề cho tiêu chuẩn ứng dụng của các thế hệ thiết giáp hạm trong tương lai. Ý nghĩa kinh tế của lớp tầu này so với Thiết giáp hạm lớp Dreadnought còn được thể hiện ở động cơ đẩy; chiếc South Carolina giữ lại động cơ hơi nước ba lần mở rộng, và chỉ có tốc độ 18,5 knot (34,3 km / h) so với 22,5 knot (41,7 km / h) của Thiết giáp hạm lớp Dreadnought. Vì lý do này mà sau này lớp tầu Delaware mới được mô tả như là lớp tàu Dreadnought đầu tiên của Hải quân Mỹ; chỉ một vài năm sau khi đi vào vận hành, lớp South Carolina không thể hoạt động chiến thuật với các tàu lớp Dreadnought mới hơn do chúng có tốc độ thấp hơn, và buộc phải hoạt động cùng với các tàu thời tiền Dreadnought cũ hơn trước đó.
    Hai chiếc tàu lớp Delaware là những thiết giáp hạm đầu tiên của Hoa kỳ theo kịp với tốc độ của tàu Dreadnought của Anh. Quyết định sử dụng tầu lớp này với mười súng trọng tải 20.500 tấn so với một tầu 12 súng trọng tải 24.000 tấn đã bị chỉ trích, bởi vì các khẩu đội súng thứ cấp đã bị ?oướt? (vì bị nước bắn tóe lên) và mũi tầu thấp so với mực nước. Thiết kế thay thế 12 súng cũng có nhiều bất lợi; thêm hai khẩu súng và một ổ đặt súng ở vị trí thấp đã ?o làm tăng chi phí?- các tháp tháp pháo ở hai bên mạn tầu sẽ làm suy yếu tầng boong trên, và chúng gần như không được bảo vệ đầy đủ để chống lại một cuộc tấn công từ dưới nước, và kho đạn được đặt quá gần phía mũi của con tàu.
    Hải quân Hoa Kỳ tiếp tục mở rộng hạm đội thiết giáp hạm của họ, trung bình họ hạ thủy hai tàu mỗi năm trong hầu hết những năm tiếp theo cho đến năm 1920. Mỹ tiếp tục sử dụng động cơ piston như là một thay thế cho động cơ tua bin cho đến lớp tầu Nevada, được hạ thủy trong năm 1912. Giai đoạn này phản ánh cách tiếp cận thận trọng của người Mỹ trong việc chế tạo thiết giáp hạm, và họ thường ưu tiên cho độ bền hơn tốc độ tối đa của động cơ.
    Nhật Bản


    [​IMG]
    Chiếc Settsu thiết giáp hạm của Nhật Bản
    Sau chiến thắng của họ trong Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905, người Nhật trở nên quan ngại về khả năng xung đột với Mỹ. Nhà lý luận Sato Tetsutaro phát triển học thuyết rằng Nhật Bản cần phải có một hạm đội thiết giáp hạm ít nhất tương đương với 70% kích thước hạm đội của Hoa Kỳ. Điều này sẽ cho phép hải quân Nhật Bản giành chiến thắng trong hai trận đánh quyết định, Trận đầu ở những năm đầu tiên của cuộc chiến chống lại Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, và trận thứ hai chống Hạm đội Đại Tây Dương Hoa kỳ chắc chắn sẽ được cử đi tiếp viện.
    Ưu tiên đầu tiên của người Nhật Bản là sửa chữa các tàu tiền Dreadnought bị bắt giữ của người Nga và hoàn tất các chiếc Satsuma và Aki. Chiếc Satsumas được thiết kế trước khi Thiết giáp hạm lớp Dreadnought xuất hiện, Nhưng sự thiếu hụt tài chính do cuộc chiến tranh Nga-Nhật đã làm chậm quá trình hoàn tất con tầu này và kết quả là nó phải mang một vũ khí hỗn hợp, vì vậy nó được biết đến như một ?obán thiết giáp hạm lớp Dreadnought?. Sau đó là sự xuất hiện của hai con tầu lớp Aki có nâng cấp, các chiếc Kawachi và Settsu. Hai tàu này được hạ thủy vào năm 1909 và hoàn thành vào năm 1912. Chúng được trang bị mười hai súng 12-inch (305 mm), nhưng chúng có hai cấu hình khác nhau với độ dài nòng súng khác nhau, có nghĩa là chúng sẽ phải gặp khó khăn trong việc kiểm soát bắn ở khoảng dài.
    Ở các nước khác

    [​IMG]
    Chiếc Provence, một thiết giáp hạm lớp Bretagne của Pháp
    So với các cường quốc về hải quân khác, Pháp chậm hơn trong việc bắt đầu đóng tàu Dreadnought, vì họ tiếp tục hoàn thành kế hoạch đóng các tầu lớp Danton thuộc tầu thời tiền Dreadnought và hạ thủy chúng vào năm 1907 và 1908. Mãi cho đến tháng 9 năm 1910 người ta mới thấy các con tầu đầu tiên của lớp Dreadnought, các tàu lớp Courbet được hạ thủy, làm cho nước Pháp quốc gia thứ mười một gia nhập cuộc đua thiết giáp hạm lớp Dreadnought. Theo tờ Phân tích Hải quân năm 1911, Paul Bénazet khẳng định rằng trong giai đoạn 1896-1911, Pháp đã thụt hạng từ lực lượng hải quân tầm cỡ thứ nhì thế giới xuống hạng tư, ông này là do thói quen cho các vấn đề trong bảo trì và bỏ bê việc phát triển tầu lớn. Tuy nhiên, liên minh gần gũi hơn với Anh làm người Pháp không phải quá nỗ lực để phát triển Hải quân.
    Hải quân Ý đã nhận được đề nghị chế tạo một thiết giáp hạm với tất cả các súng lớn từ Cuniberti trước khi Thiết giáp hạm lớp Dreadnought được hạ thủy, nhưng phải đến năm 1909 Italy mới cho đặt thân lườn một phần của con tầu. Việc đóng chiếc Dante Alighieri được thúc đẩy bởi những tin đồn về thiết giáp hạm lớp Dreadnought của đế quốc Áo-Hung. Một năm sau đó các tàu Dreadnought là các lớp Cavour và lớp Andrea Doria được hạ thủy với mục đích của Italy là tìm cách duy trì ưu thế của mình đối với Đế quốc Áo-Hungary. Những con tàu này vẫn là cốt lõi của sức mạnh hải quân Ý cho đến Thế chiến II. Việc hạ thủy lớp Caracciolo tiếp theo bị hủy bỏ bởi sự bùng nổ của Thế chiến I.
    Trong tháng một năm 1909, Bộ hải quân Đế quốc Áo-Hung lưu hành một văn bản kêu gọi việc đóng một hạm đội gồm bốn tàu Dreadnought. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng hiến pháp năm 1909-1910 xảy ra nghĩa là việc đóng tầu không được chấp nhận. Mặc dù vậy, hai tàu Dreadnought được hạ thủy, và sau đó hai chiếc kia cũng được phê duyệt. các con tầu này đều là lớp Tegetthoff sẽ được đi kèm với bốn tàu nữa nhưng những con tầu sau đó đã bị hủy bỏ bởi sự bùng nổ của Thế chiến I.
    Trong tháng sáu năm 1909, Hải quân Đế quốc Nga bắt đầu đóng bốn tầu Dreadnought lớp Gangut cho Hạm đội Baltic, và trong tháng 10 năm 1911, thêm ba tầu Dreadnought lớp Imperatritsa Mariya cho hạm đội Biển Đen được hạ thủy. Trong số bảy tàu, chỉ có một chiếc được hoàn thành trong vòng kế hoạch bốn năm được đặt ra, và các tầu lớp Gangut được cho là "nho? và dễ bị đánh bại" khi chiến đấu. Các bài học từ thất bại ở Tsushima, và ảnh hưởng của Cuniberti, làm họ đã chọn phương án thiết kế tầu gần với lớp tuần dương hạm dã chiến của Fisher hơn là Thiết giáp hạm lớp Dreadnought, và những con tầu này đã chứng tỏ là yếu hơn do súng nhỏ hơn và giáp mỏng hơn khi so sánh với các tàu lớp Dreadnought đương đại.
    Tây Ban Nha hạ thủy ba tàu lớp España với chiếc đầu tiên vào năm 1909. Ba con tàu này là những tàu Dreadnought nhỏ nhất từng được chế tạo. Mặc dù được đóng ở Tây Ban Nha, chúng lại cần sự hỗ trợ kỹ thuật của Anh ví dụ khi con tàu thứ ba, chiếc Jaime I, phải mất chín năm từ ngày đặt thân lườn đến khi hoàn thành vì không có sự giao hàng của các nguyên vật liệu quan trọng, đặc biệt là vũ khí trang bị, từ Anh quốc.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:28 ngày 25/04/2010
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [​IMG]
    thiết giáp hạm của Brazil Minas Geraes trên biển vào đầu năm 1910
    Brazil là nước thứ ba bắt đầu đóng một thiết giáp hạm lớp Dreadnought. Mặc dù ba chiếc tiền Dreadnought đã được đặt hàng từ Anh, quá trình chế tạo phải tạm dừng để cải thiện nhiều trong thiết kế. Thiết kế mới yêu cầu một tầu lớp Dreadnought gắn một khẩu đội súng chính nặng hơn bất kỳ thiết giáp hạm khác tại thời này (mười hai súng 12 in (30 cm) / 45 calibre). Chiếc Minas Geraes được đặt hàng tại xưởng đóng tầu Armstrong (Elswick) vào ngày 17 tháng 4 năm1907, và chiếc chị em, São Paulo, được đặt hàng mười ba ngày sau đó tại Vickers (Barrow) và cả hai tàu được đưa vào biên chế Hải quân Brazil vào năm 1910; Mỹ đưa vào hoạt động chiếc đầu tiên của lớp South Carolina, chiếc Michigan, vào ngày 04 Tháng 1, chỉ một ngày trước trước chiếc Minas Geraes. Các tàu Dreadnought của Brazil gây ra một cuộc chạy đua vũ quy mô nhỏ ở Nam Mỹ, như việc Argentina và Chile đã đặt hàng đóng hai tàu Dreadnought từ Mỹ và Anh, Argentina đóng hai chiếc Rivadavia và Moreno có trang bị vũ khí chính tương tự như chiếc thiết giáp hạm của Brazil. Tuy nhiên, cả hai thiết giáp hạm của Chile được lại mua bởi người Anh bởi sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất. Chiếc Almirante Latorre sau đó được bàn giao cho chính phủ Chile.
    Hà Lan dự định thay thế hạm đội thiết giáp hạm tiền Dreadnought bằng một hạm đội hiện đại bao gồm ít nhất năm tàu Dreadnought vào năm 1912. Những thay đổi không dứt về thiết kế và các quyết định chính trị làm chậm dự án và có nghĩa là tàu đã được đặt hàng cho đến mùa hè năm 1914, khi sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới I đã chấm dứt các kế hoạch đầy tham vọng của hạm đội Hà Lan.
    Thổ Nhĩ Kỳ đặt hàng hai tàu Dreadnought từ các xưởng đóng tầu của Anh, nhưng chúng bị bắt giữ bởi người Anh khi có sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất để củng cố Hải quân Hoàng gia Anh và ngăn chặn các tàu trên rơi vào tay kẻ thù. Các con tàu Reshadiye và Sultan Osman I trở thành các chiếc HMS Erin và Agincourt tương ứng. Việc thu giữ 2 con tàu đã trở nên phản tác dụng khi món quà của Đức đến Thổ Nhĩ Kỳ, đó là hai chiếc thiết giáp hạm Goeben và tàu tuần dương Breslau. Điều này là một yếu tố quan trọng trong quyết định của Đế quốc Ottoman để tham gia Liên minh Trung tâm.
    Hy Lạp đã đặt hàng chế tạo một tầu Dreadnought từ Đức, nhưng công việc bị dừng lại do sự lan rộng của chiến tranh thế giới. Vũ khí chính của tàu Hy Lạp được đặt hàng tại Hoa Kỳ, và do đó các khẩu súng được trang bị cho một chiếc thiết giáp hạm của Anh, chiếc Mornitor. Vào năm 1914 Hy Lạp mua hai tàu tiền Dreadnought từ Hải quân Hoa Kỳ, đổi tên chúng thành Kilkis và Limnos trong biên chế của Hải quân Hoàng gia Hy Lạp.
    Tàu Siêu Dreadnought

    [​IMG]
    Các thiết giáp hạm lớp Orion trong đội hình
    Sau khoảng thời gian 5 năm hoạt động của Thiết giáp hạm lớp Dreadnought, một thế hệ thiết giáp hạm mới mạnh mẽ hơn lớp "siêu tàu Dreadnought" đã được chế tạo. Sự xuất hiện của siêu thiết giáp hạm lớp Dreadnought mà người ta thường biết đến là lớp Orion của Anh. Những gì làm cho chúng trở thành ?osiêu? là sự tăng lên của trọng tải khoảng 2.000, và việc sử dụng súng hạng nặng hơn tới 13,5-inch (343 mm), và vị trí của tất cả các khẩu súng chính đều được đặt ở trung tâm trục dọc. Trong vòng bốn năm giữa các chiếc Thiết giáp hạm Dreadnought và Orion, trọng tải con tầu đã tăng lên 25%, và cỡ nòng của pháo mạn đã tăng gấp đôi.
    Kiểu siêu tàu Dreadnought của Anh cũng được các quốc gia khác đóng theo, như lớp New York của Hải quân Hoa kỳ được đặt thân sườn vào năm 1911, được lắp súng 14-inch (356 mm) để trả lời việc người Anh lắp súng to hơn và cỡ nòng này đã trở thành tiêu chuẩn. Tại Nhật Bản, hai chiếc lớp Fuso siêu tàu Dreadnought được đặt thân sườn vào năm 1912, tiếp theo là hai chiếc lớp Ise năm 1914, với tất cả súng chính là mười hai khẩu 14-inch (356 mm). Năm 1917, lớp Nagato được đặt hàng, đây là tàu Dreadnought đầu tiên được gắn súng chính lên đến 16-inch (406 mm), làm cho chúng trở thành chiếc thiết giáp hạm mạnh nhất trên thế giới. Tất cả các chi tiết ?" linh kiện được sản xuất ngày càng nhiều tại Nhật Bản chứ không phải chỉ nhập khẩu. Tại Pháp, tầu lớp Courbets được theo sau bởi ba siêu tàu Dreadnought lớp Bretagne, mang súng 340 mm (13,4 in); một loạt năm chiếc lớp Normandy bị hủy bỏ vì sự bùng nổ của Thế chiến I.
    Sau đó các siêu tàu Dreadnought của, chủ yếu là lớp Queen Elizabeth, có một tháp pháo trước chỉ có một súng, vì vậy có thể lắp các nồi hơi đốt dầu có trọng lượng và khối lượng lớn hơn. Các súng mới với cỡ nòng 15-inch (381-mm) làm cho hỏa lực trở nên mạnh hơn mặc dù mất một tháp pháo, và có một vành đai giáp dày hơn và sự bảo vệ dưới mực nước được cải thiện. Các con tầu có tốc độ thiết kế 25-knot (46 km / h), và chúng được coi là các thiết giáp hạm chạy nhanh đầu tiên.


    [​IMG]
    Phần đuôi của chiếc siêu thiết giáp hạm lớp Dreadnought đầu tiên của Hoa kỳ - chiếc Nevada - trong Thế chiến I
    Điểm yếu về thiết kế của siêu tàu Dreadnought, để phân biệt chúng với các tầu được thiết kế sau Thế chiến thứ nhất là việc bố trí giáp. Thiết kế của chúng nhấn mạnh việc bảo vệ theo chiều dọc của con tầu, điều cần thiết trong trận đánh tầm ngắn. Những con tàu này có thể tấn công vào đối phương ở tầm 20.000 yd (18.000 m), nhưng dễ bị tổn thương vì đạn bắn ở góc cao cũng ở khoảng đó (đạn bắn cầu vồng). Các thiết kế thường sau chiến tranh thường có lớp giáp sàn tàu dày 5-6 inch (130-150 mm) để bảo vệ chống lại kiểu bắn này. Khái niệm (vùng miễn trừ - zone of immunity) đã trở thành một phần quan trọng trong suy nghĩ đằng sau các thiết kế của thiết giáp hạm. Thiếu sự bảo vệ ở dưới mực nước cũng là một điểm yếu của những thiết kế trước Thế chiến thứ nhất làm cho mối nguy hiểm từ ngư lôi đã trở thành thực tế.
    Loại thiết giáp hạm tiêu chuẩn của Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu bằng lớp Nevadal được thiết kế với ý tưởng để chiến đấu ở tầm xa và hạ đối phương bằng súng; chiếc đầu tiên trong số này được đặt khung sườn vào năm 1912, bốn năm trước khi trận Jutland mở mắt cho hải quân các nước châu Âu về sự nguy hiểm của đạn pháo tầm xa. Tính năng quan trọng của thiết giáp hạm là tiêu chuẩn ?oCó tất cả hoặc không có bảo vệ ?o của thiết giáp và nguyên lý chế tạo?phao?, một lý luận mà theo đó chỉ có những phần quan trọng nhất của con tầu mới được bảo vệ bằng những lớp giáp dày nhất có thể và đảm bảo chiếc "phao bọc thép " này nổi được để giữ toàn bộ con tàu nổi lên được, kể cả khi những phần không được bọc thép ở mũi và đuôi tầu bị thủng và ngập nước. Thiết kế này đã được chứng minh trong trong trận Hải chiến Guadalcanal, khi chiếc South Dakota đã phải lãnh đủ 26 phát súng hạng nặng của quân Nhật, nhưng chiếc phao bọc thép của nó vẫn không bị thủng làm nó vẫn nổi và tham chiến đến hết trận đánh.
    Trong chiến đấu


    [​IMG]
    Chiếc HMS Audacious bị chìm sau khi đâm vào thủy lôi, tháng 10 năm 1914.
    Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là thời gian thoái trào cho các đội tàu Dreadnought lớn. Không có cuộc đụng độ quyết định nào của các hạm đội thiết giáp hạm hiện đại để so sánh với trận Tsushima. Vai trò của các thiết giáp hạm chỉ được thể hiện ít nhiều trong cuộc đối đầu của chúng tại Trận hải chiến Đại Tây Dương lần I.
    Vì có những lợi thế về địa lý mà Hải quân Hoàng gia Anh có thể cầm chân hạm đội High Seas Fleet của Đức ở Biển Bắc một cách tương đối dễ dàng, nhưng tại phía bên kia họ đã không thể phá vỡ ưu thế của người Đức tại Biển Baltic. Cả hai bên đều nhận thấy rằng vì người Anh có số lượng tàu Dreadnought lớn hơn, một hạm đội đầy đủ quân số tham chiến sẽ dẫn đến một chiến thắng cho người Anh. Vì thế chiến lược của người Đức là cố gắng kích động một một trận chiến mà họ có các điều kiện thuận lợi: hoặc chỉ lôi kéo một phần của Hạm đội Vĩ đại (Hạm đội thiết giáp hạm) vào trận chiến, hoặc buộc người Anh phải chiến đấu ở gần bờ biển của Đức nơi có nhiều bãi thủy lôi, và tàu phóng ngư lôi, tàu ngầm Đức có thể đảo ngược được kết quả trận đánh.
    Hai năm đầu của thế chiến I người ta chỉ thấy thấy những trận đánh rất giới hạn ở Biển Bắc như các Trận Heligoland Bight và Trận Dogger Bank, và những trận đột kích vào bờ biển Anh. Vào mùa hè năm 1916, người Đức có cố gắng hơn nữa để thu hút tàu Anh vào một trận chiến mà họ có các điều kiện thuận lợi dẫn đến một cuộc đụng độ của các hạm đội thiết giáp hạm tại Jutland, đây là một trận chiến không có người thắng kẻ bại rõ ràng (về mặt chiến thuật của trận đánh thì rõ ràng người Đức đã chiến thắng)
    Trong các chiến trường hải quân khác, không có trận hải chiến quyết định nào nổ ra. Tại Hắc ha?i, Thiết giáp hạm của Nga và Thổ Nhĩ Kỳ có đánh qua đánh lại, nhưng không có gì nhiều hơn nữa. Tại Biê?n Baltic các hoạt động của Hải quân chủ yếu được giới hạn trong việc đánh phá đoàn tầu công voa và thả các bãi thủy lôi phòng thủ. Tại biển Adriatic tình huống xảy ra tương tự như ở Biển Bắc: các thiết giáp hạm lớp Dreadnought của hạm đội của Đế quốc Áo Hung vẫn phong tỏa bởi các hạm đội của Anh và Pháp.Tại Địa Trung Hải công dụng quan trọng nhất của các thiết giáp hạm là hỗ trợ cho cuộc tấn công đổ bộ tại Gallipoli.
    Các giai đoạn của cuộc chiến thế giới I cũng cho thấy những thương vong của các thiết giáp hạm bởi các vũ khí rẻ tiền hơn. Trong tháng 9 năm 1914, mối đe dọa từ đội tầu ngầm U-boat đến các tầu chiến chủ lực đã được chứng minh bởi các cuộc tấn công thành công vào các tuần dương hạm của Anh, gồm cả trận đánh chìm ba tuần dương bọc thép cũ của người Anh của chiếc tàu ngầm U-9 Đức chỉ trong vòng chưa đầy một giờ. Thủy lôi tiếp tục chứng minh là một mối đe dọa thường trực khi chỉ một tháng sau đó, chiếc siêu thiết giáp hạm lớp Dreadnought Audacious của Anh đã húc vào một quả thủy lôi và chìm lỉm. Đến cuối tháng 19, chiến lược và chiến thuật của Anh ở Biển Bắc phải thay đổi để làm giảm sự lộng hành của tầu U-boat. Trong khi tại Jutland là cuộc đụng độ lớn duy nhất của các hạm đội thiết giáp hạm trong lịch sử, kế hoạch của Đức trong trận chiến là dựa vào đội tầu U-boat để tung ra các cuộc tấn công vào hạm đội Anh, và việc hạm đội thiết giáp hạm Đức thoát khỏi hỏa lực mạnh mẽ hơn của tầu Anh là bởi các tàu tuần dương và tàu khu trục của Đức có thể áp vào gần các thiết giáp hạm của Anh, làm chúng (các thiết giáp hạm của Anh) phải di chuyển để tránh sự đe dọa của các cuộc tấn công bằng ngư lôi. Hơn nữa những thiếu sót để cho các tầu ngầm tấn công các tuần dương hạm làm cho các tầu tuần dương bị thương vong lớn đã dẫn đến những hoang tưởng ngày càng tăng trong Hải quân Hoàng gia Anh về chỗ yếu của thiết giáp hạm.
    Đối với người Đức, Hạm đội High Seas Fleet của Đức đã xác định là không tấn công người Anh mà không có sự trợ giúp của tàu ngầm, và kể từ khi tàu ngầm trở nên cần thiết hơn cho việc đánh phá các đội tầu thương mại, hạm đội này đã đóng ở trong cảng trong phần còn lại của cuộc chiến. Các chiến trường khác cũng cho thấy vai trò của các vũ khí nhỏ trong việc gây hư hại hoặc phá hủy các tàu Dreadnought. Hai tàu Dreadnought của Áo bị phá hủy trong năm 1918 bị gây ra bởi tàu phóng ngư lôi và người nhái.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:41 ngày 25/04/2010

Chia sẻ trang này