1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Sự phát triển thiết giáp hạm từ năm 1914 đến nay

    [​IMG]
    Chiếc California, một trong hai chiếc thiết giáp hạm lớp Tennessee, đang chạy ở tốc độ cao vào năm 1921.
    Sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất đã làm các cuộc chạy đua thiết giáp hạm lớp Dreadnought phải ngừng lại vì các quỹ và các nguồn lực kỹ thuật phải chuyển hướng đến các lĩnh vực được ưu tiên cấp bách hơn. Việc đúc súng để chế tạo thiết giáp hạm được khoanh lại thay vì để sản xuất pháo binh trên bộ, và xưởng đóng tàu bị quá tải với các đơn đặt hàng cho các tàu nhỏ. Các cường quốc hải quân yếu hơn (so với Anh ?" Đức) tham gia vào Chiến tranh như Pháp, Áo-Hungary, Italy và Nga phải đình chỉ hoàn toàn chương trình thiết giáp hạm của họ. Anh và Đức tiếp tục chế tạo thiết giáp hạm và tuần dương hạm nhưng với một tốc độ chậm hơn nhiều.
    Tại Anh, chính phủ tạm dừng việc chế tạo các thiết giáp hạm và trả Jackie Fisher về Bộ Hải quân vào năm 1914, việc này có nghĩa để tập trung cải tiến các thiết giáp hạm. Các con tầu cuối cùng là các lớp Revenge và Queen Elizabeth được hoàn thành, mặc dù hai thiết giáp hạm mới nhất của lớp Revenge được thiết kế lại như Renown, nhưng Fisher lại cực kỳ ủng hộ lớp Courageous, đây là loại tầu rất tốc độ và có vũ trang tối đa, nhưng lại được bọc giáp ở mức tối thiểu, chỉ 3-inch (76 mm), được gọi là ?otàu tuần dương lớn hạng nhẹ " để tập hợp các thành viên nội các cầm quyền chống lại việc đóng các tầu chủ lực mới. Cơn cuồng của Fisher về tốc độ lên đến đỉnh điểm trong đề nghị của mình về chiếc HMS Incomparable, một thiết giáp hạm giống như một con voi ma mút với giáp nhẹ.
    Tại Đức, hai chiếc lớp Bayern, những chiếc được bắt đầu trước thế chiến, đã dần dần được hoàn thành, nhưng hai chiếc còn lại vẫn chưa được hoàn thành vào cuối cuộc chiến tranh. Chiếc Hindenburg cũng được đặt khung sườn trước khi bắt đầu cuộc chiến và được hoàn thành vào năm 1917. Các tầu tuần dương hạm lớp Mackensen được thiết kế 1914-1915, đã được bắt đầu nhưng không bao giờ được kết thúc.
    Mặc dù có sự tạm lắng trong việc chế tạo thiết giáp hạm trong Chiến tranh Thế giới I, từ năm 1919-1922 người ta lại thấy sự đe dọa của một cuộc chạy đua hải quân mới giữa Anh, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Trận Jutland có một ảnh hưởng rất lớn trong thiết kế tầu chiến trong giai đoạn này. Con tàu đầu tiên phù hợp với với bối cảnh này là chiếc tuần dương hạm lớp Admiral, được thiết kế vào năm 1916. Trận Jutland cuối cùng đã thuyết phục Bộ Hải quân rằng tuần dương hạm có giáp nhẹ quá dễ bị tổn thương, và do đó thiết kế cuối cùng của lớp Admiral đã tăng lớp giáp làm trọng tải con tầu lên đến 42.000 tấn. Tuy nhiên, để nắm thế chủ động trong cuộc chạy đua vũ trang mới với người Nhật và hải quân Hoa Kỳ. Đạo luật Hải quân Hoa kỳ năm 1916 ủy quyền đóng mới 156 tàu, bao gồm cả thiết giáp hạm và mười sáu tuần dương hạm. Lần đầu tiên, Hải quân Hoa Kỳ đã đe dọa sức mạnh toàn cầu của Anh. Chương trình này được bắt đầu từ từ (một phần là do một ham muốn để tìm hiểu bài học từ Jutland), và không bao giờ được hoàn thành một cách hoàn toàn. Tuy nhiên, những tàu mới của người Mỹ ( các thiết giáp hạm lớp Colorado và Lexington), đã tiến một bước dài về chất lượng vượt qua lớp Queen Elizabeth và lớp Admiral của Anh vì có lắp súng 16-inch (406 mm).
    Đồng thời, Hải quân Đế quốc Nhật Bản cuối cùng đã có được sự ủy quyền cho mình (từ chính phủ) về ?o Hạm đội thiết giáp hạm 8-8? (tám tầu thiết giáp hạm tám tuần dương hạm chủ lực). Các chiếc lớp Nagato, được ủy quyền năm 1916, được lắp tám súng 16-inch như các đối thủ Mỹ của chúng. Dự luật hải quân năm tiếp theo ủy quyền đóng hai thiết giáp hạm và hai tuần dương hạm hơn nhiều. Các thiết giáp hạm thuộc lớp Kaga được lắp mười khẩu súng 16-inch. Các thiết giáp hạm lớp Amagi được lắp mười súng 16-inch và được thiết kế với vận tốc 30 hải lý / h, có khả năng đánh bại cả lớp Admiral của Hải quân Anh lẫn lớp thiết giáp hạm Lexington của Hoa kỳ.
    Cuộc chạy đua vũ trang càng trở nên tồi tệ hơn vào năm 1919 khi Woodrow Wilson đề xuất mở rộng hơn nữa Hải quân Hoa Kỳ, yêu cầu tạo quỹ cho một thiết giáp hạm và mười sáu tuần dương hạm bổ xung thêm vào chương trình năm 1916 (các tầu lớp South Dakota chưa được bắt đầu). Để đáp lại the Diet of Japan cuối cùng đã đồng ý hoàn thành ?oHạm đội thiết giáp hạm 8-8? , thậm chí còn tăng thêm một nhóm bốn thiết giáp hạm. Những con tàu này là lớp Kii với trọng tải 43.000 tấn, các thiết kế tiếp theo, lớp tầu số 13, được lắp súng 18-inch (457 mm). Nhiều quan chức trong Hải quân Nhật Bản vẫn không hài lòng và kêu gọi một "hạm đội 8-8" với 24 thiết giáp hạm và tuần dương hạm hiện đại.
    [​IMG]
    Phác thảo lớp tầu số 13 của Nhật Bản, lớp thiết giáp hạm có súng chính với cỡ nòng 18-inch (457 mm)
    Người Anh, bị mất mát quá nhiều trong Thế chiến I, phải đối mặt với viễn cảnh tụt lại phía sau Mỹ và Nhật Bản. Họ không có tàu được đóng mới kể từ lớp Admiral, và trong những năm tháng đó chỉ có chiếc HMS Hood (nạn nhân tội nghiệp của chiếc Bismark) được hoàn thành. Tại tháng sáu 1919 Bộ Hải quân lên kế hoạch về một hạm đội sau chiến tranh với 33 thiết giáp hạm và tám tuần dương hạm, với chi phí đóng tàu và bảo trì lên đến 171 triệu bảng Anh một năm (khoảng 583 bảng Anh ngày nay), nhưng họ chỉ có ngân quỹ là 84 triệu bảng. Bộ Hải quân sau đó yêu cầu, như là một tối thiểu tuyệt đối, một lô tám thiết giáp hạm nữa. Đây là các tuần dương hạm của thiết kế ?o G3?, với súng 16-inch và có tốc độ cao, và thiết giáp hạm ?oN3? với súng 18-inch (457 mm). Đức không tham gia cuộc chạy đua cạnh tranh vũ trang hải quân này vì hầu hết các tầu Dreadnought của Đức bị đánh đắm tại Scapa Flow bởi các thủy thủ đoàn của chúng vào năm 1919; phần còn lại được bàn giao là phần thưởng của chiến tranh.
    Thay vì mở rộng chương trình chạy đua vũ trang tốn kém các cường quốc hải quân lớn trên thế giới ký kết Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922. Hiệp ước đặt ra một danh sách các tàu, bao gồm hầu hết các tàu Dreadnought cũ hơn và gần như tất cả các tàu mới được chế tạo phải bị tháo dỡ hoặc chuyển sang sử dụng với mục đích dân sự. Có thể hiểu xa hơn nữa đây là tuyên bố " một kỳ nghỉ ngơi " trong thời gian này không có thiết giáp hạm hay tuần dương hạm được chế tạo mới. Các tàu sống sót qua hiệp ước, bao gồm các siêu tàu Dreadnought hiện đại nhất của cả ba lực lượng hải quân, hình thành phần chính của các đội tầu chủ lực qua các thập niên 1920 và 1930 và một số được hiện đại hoá vào Chiến tranh thế giới II. Các tàu được đóng theo các điều khoản của Hiệp ước để thay thế các tàu đã lỗi thời được gọi là thiết giáp hạm hiệp ước.
    Thuật ngữ ?othiết giáp hạm lớp Dreadnought? ngày càng trở nên ít được sử dụng một cách rộng rãi. Hầu hết các thiết giáp hạm tiền Dreadnought bị loại bỏ hoặc chuyển mục đích sử dụng sau Chiến tranh Thế giới I, do đó thuật ngữ ?othiết giáp hạm lớp Dreadnought? ngày càng trở nên ít cần thiết. Tuy nhiên, các thiết giáp hạm của Thế chiến II đôi khi vẫn được gọi là tàu Dreadnought.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:56 ngày 25/04/2010
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Giới thiệu về các dòng tầu chiến nhỏ hơn thiết giáp hạm tại thời kỳ cuối thế kỷ 19 tới chiến tranh thế giới lần thứ I
    Tóm tắt các loại tầu chiến sẽ được giới thiệu
    Tầu tuần dương hạm - Cruiser
    Tuần dương hạm có bảo vệ ( Protected Cruiser )
    Tuần dương hạm bọc thép ( Armored Cruiser )
    Tuần dương hạm hạng nhẹ ( Light Cruiser )
    Tuần dương hạm hạng nặng (Heavy Cruiser )
    Tuần dương hạm chủ lực ( Battle Cruiser )
    Tầu khu trục hạm - Destroyer
    Tầu phóng ngư lôi - Torpedo Boat
    Các thuật ngữ tiếng Anh là thuật ngữ tiêu chuẩn còn thuật ngữ Vịt Ngan là do em tự dịch, các bác thấy không hợp lý cứ góp ý em xin cám ơn nhiều.
    Tầu tuần dương hạm - Cruiser
    Tuần dương hạm là một loại tàu chiến lớn, thời gian của nó kéo dài từ cuối thế kỷ 19 đến cuối Chiến tranh lạnh. Các tuần dương hạm đầu tiên được dùng cho nhiệm vụ tán công đơn lẻ và bảo vệ các đại dương. Trong những năm qua, bản chất và vai trò của tuần dương hạm đã thay đổi đáng kể, và ngày nay phần lớn là tàu tuần dương đã được thay thế bằng tàu khu trục trong vai trò của nó.
    Trong lịch sử, một chiếc "tàu tuần dương ''''không phải là một loại tàu thường mà nó là một trong các loại tàu chiến. Tàu tuần dương được tiến hóa từ các tầu frigate, các tầu này nhỏ hơn các tàu chiến chủ lực ( ship of the line) và thường được giao một vai trò độc lập với phần lớn hạm đội, theo nghĩa là chúng co hành trình độc lập. Thông thường, ý tưởng này có thể liên quan đến các nhiệm vụ như đánh phá tầu buôn của đối phương. Trong cuối thế kỷ 19, thuật ngữ ?otàu tuần dương? có nghĩa là tàu được thiết kế để thực hiện một nhiệm vụ độc lập, và từ thập niên 1890 đến thập niên 1950 một ?otàu tuần dương? thường là một tàu chiến lớn hơn một tàu khu trục nhưng nhỏ hơn một tàu thiết giáp.
    Đối với phần lớn thế kỷ 19 và nửa đầu của thế kỷ 20, tàu tuần dương là vũ khí chiến đấu tầm xa của hải quân thế giới, trong khi các tàu tầu thiết giáp thường chiến đấu ở gần nhà. Vai trò chính của chúng là tấn công các tầu buôn của đối phương. Đến mức độ mà nhiệm vụ này đã được gọi là cuộc chiến tàu tuần dương. Các vai trò khác của chúng bao gồm cả nhiệm vụ trinh sát, và tàu tuần dương thường trực thuộc hạm đội chiến đấu. Về cuối thế kỷ 20, sự thoái trào của thiết giáp hạm đã làm cho tàu tuần dương trở thành tầu chiến đấu bề mặt lớn nhất và mạnh nhất của hải quân.
    Tuy nhiên ngày nay vai trò của tuần dương hạm, cũng ngày càng xuy thoái và phần lớn chỉ còn có nhiệm vụ đảm bảo phòng không cho một hạm đội, hơn là tàu tuần dương chiến đấu độc lập. Vào đầu thế kỷ 21, tàu tuần dương vẫn là những tầu chiến đấu bề mặt lớn nhất và mạnh nhất, nhưng chỉ còn năm quốc gia (Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Italy, và Peru) sử dụng chúng. Sau khi Hải quân Italy ngừng hoạt động chiếc Vittorio Veneto(550) vào năm 2003, hiện chỉ còn bốn quốc gia đang sở hữu các tuần dương hạm đang làm nhiệm vụ.
    Tuần dương hạm có bảo vệ ?" Protected Cruiser
    Tuần dương hạm có bảo vệ là một loại tàu tuần dương hải quân ở cuối thế kỷ 19, được gọi như vậy vì nó có một chiếc boong được thiết giáp để cung cấp bảo vệ cho những phần quan trọng như động cơ khỏi các mảnh đạn của đối phương. Tàu tuần dương có bảo vệ được bọc thép ít hơn so với loại tuần dương hạm bọc thép, loại này có thêm một vành đai giáp dọc theo hai bên sườn.
    Trong khi tàu tuần dương bọc thép phát triển thành tuần dương hạm chủ lực (và thiết giáp hạm tiền Dreadnought được thay thế bằng tàu Dreadnought), các tàu tuần dương có bảo vệ được coi là tiền thân của các loại tuần dương hạm hạng nhẹ và tuần dương hạm hạng nặng.


    [​IMG]
    Một phần sơ đồ minh họa của một tàu tuần dương có bảo vệ. Đường đỏ là sàn bọc thép và lá chắn súng và các vùng màu xám là các kho nhiên liệu than đươc dùng làm bảo vệ. Lưu ý tầng dày trên dốc, hầm than trên được chia theo chiều dọc để cho phép các lớp than phía ngoài được duy trì trong khi hầm trong được xúc rỗng, và đáy đôi kín nước phía dưới.

    Các tính năng thiết kế
    Sau khi đạn nổ được đưa vào sử dụng người ta thấy cần thiết thiết phải tăng cường bảo vệ tầu chiến, và tàu tuần dương có bảo vệ được chế tạo vào khoảng năm 1880. Trong một tuần dương hạm được bảo vệ, các lớp giáp được sắp xếp trên sàn bên trong con tầu, để bảo vệ nồi hơi và động cơ hơi nước. Thông thường tàu tuần dương có bảo vệ có trọng tải từ 2.500 đến 7.000 tấn, và được trang bị lên đến hàng chục khẩu súng đơn có cỡ nòng từ 3,9 và 6 inch (100-152 mm). Chúng có tốc độ 18-23 hải lý / giờ.
    Tuần dương hạm có bảo vệ đầu tiên là tàu Esmeralda của Chi lê, được chế tạo bởi nhà máy đóng tàu Elswick, thuộc sở hữu của Armstrong nước Anh, nó được lấy cảm hứng từ một nhóm các tàu tuần dương có bảo vệ được chế tạo trong cùng một xưởng đóng tầu và được gọi là tuần dương hạm Elswick. Phần trước , phần sau và các boong tàu bằng gỗ của con tầu đã bị gỡ bỏ và được thay thế bằng một boong bọc thép. Vũ khí của Esmeralda bao gồm các súng 10-inch (25,4 cm) ở mũi tầu và đuôi tầu và súng 6-inch (15,2 cm) ở các vị trí ở phần giữa con tầu. Nó có thể đạt tốc độ 18 knots (33 km / h), và chuyển động bằng chỉ động cơ hơi nước. Trọng tải của nó là dưới 3.000 tấn. Trong hai thập kỷ sau, loại tàu tuần dương này được kết hợp từ súng hạng nặng, tốc độ cao và có trọng tải nhỏ. (Có một điều đáng ngạc nhiên là bản thân Hải quân Hoàng gia không sở hữu bất kỳ tàu tuần dương Elswick nào, có thể là họ ưa thích hoặc là loại tầu rất lớn và vũ khí mạnh như tàu tuần dương "hạng nhất", hoặc vũ trang nhẹ như tàu tuần dương "hạng hai" hoặc "hạng ba" được thiết kế cho nhiệm vụ bảo vệ tầu thương mại.)
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm có bảo vệ đầu tiên, chiếc Esmeralda, sau này được bán cho Nhật Bản và đổi tên thành chiếc IJN Izumi ( đã được giới thiệu trong chiến tranh Trung - Nhật )
    Khoảng năm 1910, các tấm giáp bắt đầu được tăng chất lượng và động cơ tua bin hơi nước, nhẹ hơn và mạnh hơn động cơ piston trước đó được đưa vào sử dụng. Các tàu tuần dương có bảo vệ trở thành lỗi thời vì chúng trở nên chậm hơn và ít được bảo vệ hơn các tàu loại mới. Nồi hơi được đưa vào sử dụng, làm nhiên liệu than đá trở nên không cần thiết, và việc bảo vệ của kho nhiên liệu than bị mất đi, tàu tuần dương có bảo vệ được thay thế bằng "tuần dương hạm bọc thép hạng nhẹ" loại này có một mặt giáp vành đai và sàn bọc thép thay vì chỉ có sàn duy nhất được bọc thép, sau đó chúng tiếp tục được phát triển thành tàu tuần dương hạng nặng.
    Tàu tuần dương có bảo vệ trong Hải quân Hoa Kỳ


    [​IMG]
    Chiếc USS Atlanta - tuần dương hạm có bảo vệ với trọng tải 3240 tấn có tốc độ 16 hải lý/ giờ với các vũ khí chính là hai súng 8 in và sáu súng 6 in
    [​IMG]
    Súng 6 in (khoảng 155 mm) của chiếc USS Atlanta
    Tàu tuần dương có bảo vệ đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ là chiếc USS Atlanta, hạ thủy vào tháng 10 năm 1884, ngay sau đó là chiếc Boston trong tháng mười hai, và chiếc Chicago một năm sau đó. Một loạt các tàu tuần dương được đánh số bắt đầu từ chiếc Newark (Tuần dương hạm số 1), mặc dù chiếc Charleston (Tuần dương hạm số 2) là chiếc đầu tiên được hạ thủy trong tháng 7 năm 1888, và kết thúc với một chiếc Charleston, Tuần dương hạm số 22, được hạ thủy vào năm 1904. Chiếc tầu sống sót cuối cùng của loạt bài này là chiếc USS Olympia (C-6), được bảo tồn như là một tàu bảo tàng tại Philadelphia.
    Việc phân loại lại ngày 17 tháng Bảy năm 1920 chấm dứt việc sử dụng các tàu tuần dương có bảo vệ của Hoa kỳ, các con tàu được đánh đồng hạng là "tàu tuần dương" với những con số mới (vì vậy mà các tàu tuần dương bọc thép có thể giữ lại mà không phải thay đổi số của chúng).
    [​IMG]
    Chiếc USS Boston - tuần dương hạm có bảo vệ với trọng tải 3240 tấn có tốc độ 13 hải lý/ giờ với các vũ khí chính là hai súng 8 in và sáu súng 6 in
    [​IMG]
    Chiếc USS Olympia, tuần dương hạm có bảo vệ, nó có trọng tải 5,586 tấn, tốc độ 20 hải lý/ giờ, giáp sàn dày 4,75 in (127 mm) vũ khí chính là 4 súng 8 in, 10 súng 5in và 1 ống phóng ngư lôi
    Tàu tuần dương có bảo vệ của Hải quân Hoàng gia
    Hải quân Hoàng gia Anh có phân hạng các tàu tuần dương là hạng nhất, hạng hai và hạng ba vào giữa cuối thập niên 1880 và 1905, và đóng một số lượng lớn các con tầu này vì yêu cầu bảo vệ thương mại. Trong hầu hết thời gian này, các tàu tuần dương được chế tạo với một lớp giáp "bảo vệ" chứ không phải là bọc giáp bảo vệ cho toàn thân con tầu. Những tuần dương hạm hạng nhất thì lớn tương tự như là tuần dương hạm bọc thép, và được đóng để thay thế cho các lớp tàu tuần dương bọc thép đầu tiên từ những năm 1880 cho đến cuối năm 1898. Tuần dương hạm có lớp bảo vệ hạng hai nhỏ hơn, có trọng tải khoảng 3,000-5,500 tấn và có giá trị cả trong nhiệm vụ bảo vệ thương mại và hướng đạo cho hạm đội. Tuần dương hạm có lớp bảo vệ hạng ba nhỏ hơn nữa và không có một đáy đôi kín nước, và được dự định chủ yếu cho nhiệm vụ bảo vệ thương mại, mặc dù một vài tuần dương hạm nhỏ được chế tạo với vai trò trinh sát của hạm đội hoặc là tàu tuần dương phóng ngư lôi.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:01 ngày 27/04/2010
  3. 0anh89

    0anh89 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2010
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Trận hải chiến quan trọng nhất lịch sử thế giới hiện đại
    Ngày 4/6/1942, trên đảo Midway, lúc 2h30 sáng, những đội bay bắt đầu thức giấc. Chỉ 15 phút sau, những đồng nghiệp bên kia chiếc tuyến của họ cũng đã sẵn sàng. Những phi công và nhân viên không lực thuộc Hạm đội hàng không số 1 bắt đầu tập trung trên boong tàu, chuẩn bị cho đợt không kích Midway.
    4h30, những máy bay đầu tiên cất cánh khỏi sàn tàu sân bay, 108 chiếc từ 4 tàu sân bay cỡ lớn: Akagi (kỳ hạm), Kaga, Soryo, và Hiryu. Trước đó nửa giờ, các máy bay trinh sát của Nhật cũng được phóng đi, nhưng số lượng rất ít.
    Gần 6h, tín hiệu về các máy bay Nhật bắt đầu hiện lên trên màn hình radar. Midway phóng đi tất cả các máy bay hiện có. Gồm 27 tiêm kích cơ do thiếu tá Floyd Parks chỉ huy, 6 máy bay phóng lôi, 4 máy bay ném bom hạng trung, 11 máy bay ném bom bổ nhào, 19 chiếc B-17, cùng 48 máy bay khác.
    Phi đội của Thiếu tá Parks không thể ngăn chặn tốp ném bom của Nhật vì gặp những chiếc Zero đi hộ tống. 15 tiêm kích cơ Mỹ bị bắn hạ, và họ không thể bảo vệ Midway khỏi cuộc oanh tạc, nhiệm vụ đó giờ đây trông cậy vào các lực lượng phòng không mặt đất. Tổng số thiệt hại của phía Nhật trên vùng trời Midway là 15 chiếc, cùng khoảng 32 chiếc nữa bị hư hại. Phía Nhật đã ném bom phá huỷ nhiều cơ sở hạ tầng trên đảo, nhưng không thể ném bom bất cứ phi cơ nào vì người Mỹ đã kịp cho cất cánh toàn bộ.
    Thậm chí ngay trước khi Midway bị tấn công, đô đốc Nagumo cũng đã gặp bất lợi khi vị trí của họ bị máy bay Mỹ phát hiện. Vào khoảng 5h53, thông tin này đã đến được với tàu Enterprise, Yorktown và Trân Châu Cảng.
    Lúc 7h sáng, đợt tấn công của phía Mỹ vào các tàu sân bay Nhật bắt đầu. Tham gia lực lượng này chủ yếu là các máy bay cất cánh từ Midway và một số máy bay phóng lôi từ tàu sân bay Hornet. Họ bị những chiếc Zero của Nhật bao vây, bị hoả lực phòng không từ hạm đội Nhật bủa vây. Nhiều chiếc bị bắn rơi và hạm đội của Nagumo hầu như vô sự.
    Nagumo quan sát cuộc tấn công đầu tiên của quân Mỹ từ đài chỉ huy mà không mấy ấn tượng. dù vậy, nó cũng khiến ông tin rằng cần phải ném bom Midway thêm một lần nữa. Nhưng cùng lúc đó, đô đốc Spruance, sau khi nhận được tin tức từ máy bay trinh sát, đã cho hạm đội của mình tiến về phía kẻ thù để giảm khoảng cách. Vào lúc khoảng 7h, khi mà các máy bay Nhật bắt đầu rời khỏi vùng trời Midway thì phía Mỹ tính toán nhanh rằng nếu họ phóng các máy bay của mình ngay bây giờ, họ có thể tấn công tàu sân bay Nhật khi mà những máy bay đang được lắp vũ khí trên boong, một tình thế rất hiểm nghèo cho phía Nhật. Vì vậy, cả Enterprise và Yorktown bắt đầu phóng đi các máy bay của mình, từ khoảng 7h đến 7h55. Chuẩn đô đốc Mitscher sẽ chỉ huy chiếc Hornet tác chiến độc lập.
    Trong khi đó, Nagumo lại tiếp tục bị tấn công dồn dập. Mặc dù không bị hư hại gì, nhưng chúng càng khiến cho Nagumo tin chắc rằng, cần có thêm một cuộc không kích thứ hai nhằm vào Midway. Lúc 7h15, Nagumo ra lệnh vũ trang cho những máy bay của mình bằng bom thay vì ngư lôi. Lúc 7h30, máy bay trinh sát báo cho Nagumo biết rằng có khoảng 10 tàu chiến đang ở khu vực gần đó. Mặc dù khá lo lắng về sự hiện diện này, Nagumo vẫn tin rằng không lực từ đảo Midway vẫn là mối đe dọa lớn nhất, vì vậy, việc lắp bom vẫn được tiếp tục.
    Sự yếu kém của trinh sát đã làm hại Nagumo khi mà phải mất 1 tiếng sau, họ mới xác định được những tàu chiến đó là tàu sân bay. Lúc đó là 8h20, Nagumo lo lắng thật sự, ông không còn nhiều thời gian. Vì vậy, lệnh mới được ban ra, người ta gỡ bom khỏi máy bay và thay thế nó bằng ngư lôi. Chính dưới áp lực thời gian và sự thay đổi liên tục như vậy, bom sau khi được gỡ ra đã không được chuyển vào khoang chứa mà vẫn để trên boong. Và đó là một sai lầm chết người của phía Nhật, những tàu sân bay của họ đang dần trở thành một thùng thuốc súng nổi.
    9h17, Nagumo chuyển hướng sang những tàu sân bay Mỹ. Nhưng chỉ 1 phút sau, ông thấy mình đang đối mặt với một tốp máy bay phóng lôi của đối phương. Đó là những máy bay thuộc liên đội VT-8 từ chiếc Hornet, tuy vậy những máy bay cũ kĩ và nặng nề này không phải là đối thủ của Zero. Chỉ có 1 phi công trong đội máy bay đó sống sót, thiếu úy George Gay. (Ngày 31/8/1995, một phi đội máy bay đã rải một phần tro hài cốt của Gay xuống nơi mà những bạn đồng chí của ông đã hy sinh).
    Ngay sau đó là VT-6 từ Enterprise. Họ đến ngay trước mặt tàu sân bay Nhật và chiếc Kaga được chọn là mục tiêu. Pháo phòng không trên tàu cùng những chiếc Zero kháng cự dữ dội. 10 chiếc máy bay phóng lôi Mỹ bị hạ, bao gồm cả chiếc của sĩ quan chỉ huy Lindsey. Chỉ hơn một phút sau, chiếc Akagi thấy một tốp máy bay nữa tới, liên đội VT-3 từ Yorktown, đơn vị duy nhất có tiêm kích cơ đi theo hộ tống. Một lần nữa, họ không thể chống chọi lại những chiếc Zero. Máy bay Mỹ cố tập trung tấn công chiếc Hiryu, nhưng không thành công. Chỉ có 2 chiếc máy bay phóng lôi có thể trở về tàu mẹ.
    Dù vậy, những cuộc tấn công vô vọng của những máy bay phóng ngư lôi cũng có tác dụng làm chậm quá trình chuẩn bị của người Nhật và làm xáo trộn đội hình tiêm kích cơ bảo vệ hạm đội. Mọi chuyện thay đổi vào khoảng 10h25, 3 liên đội máy bay ném bom bổ nhào SBD từ tàu Enterprise và Yorktown xuất hiện. Chúng do thiếu tá Cluskey chỉ huy. Khi bay đến vị trí mà hạm đội Nhật được báo cáo lần cuối, Cluskey không nhìn thấy gì cả. Trong lúc nhiên liệu đã gần cạn thì ông bỗng nhìn thấy vệt sóng dài từ một khu trục hạm Nhật, chiếc Arashii, đang có nhiệm vụ rải mìn chống tàu ngầm. Phi đoàn máy bay Mỹ quyết định bám theo chiếc Arashii, và chẳng mấy chốc, Hạm đội hàng không số 1 đã trong tầm mắt. Những biện pháp vận động để né tránh trong những đợt tấn công trước đã khiến đội hình hạm đội Nhật xáo trộn, và làm giảm sự hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng. Cluskey chia đội của mình làm hai. VB-6 sẽ tấn công chiếc Akagi, còn VS-6 tấn công Kaga. Người Nhật không có ấn tượng mạnh về những chiếc máy bay ném bom này, những đợt tấn công thất bại của người Mỹ trước đó khiến họ chủ quan. Nhưng người Nhật quên rằng những con tàu khổng lồ của họ đang là những thùng thuốc nổ, với những quả bom nằm la liệt trên boong, những chiếc máy bay gắn đầy đạn dược và đang được tiếp xăng đậu đầy chật trên sàn tàu.
    Mỗi Cluskey kéo mũi máy bay xuống, tạo một góc 70 độ, hướng thẳng vào chiếc Kaga. Mặc dù quả bom của ông đã trận mục tiêu, nhưng một đồng đội phía sau đã thả bom trúng ngay vào một chiếc máy bay đang đậu ở phần đuôi đường băng, khiến sàn tàu bốc cháy. Ngay sau đó, một quả bom khác xuyên qua thang nâng ở phía trước, phát nổ ngay giữa những chiếc máy bay đang được tiếp xăng và vũ trang trong khoang chứa máy bay. Sức nổ của nó làm vỡ tung những cửa sổ trên đài chỉ huy. Quả bom thứ ba kích nổ một chiếc xe bồn đậu ngay trước đài chỉ huy. Vụ nổ tiếp sau đó giết chết thuyền trưởng cùng các sĩ quan chỉ huy. Con tàu hoàn toàn mất điều khiển. Ngọn lửa bùng lên không thể kiểm soát nổi. Đến 17h, lệnh bỏ tàu được ban ra.
    Chiếc akagi cũng trong tình cảnh tương tự. Quả bom đầu tiên đánh trúng thang nâng giữa, kích nổ số đạn dược chưa được cất. Quả thứ hai đánh vào những máy bay đang được vũ trang, kích nổ toàn bộ số đạn dược gắn trên chúng. Boong tàu Akagi chìm trong một loạt vụ nổ liên hoàn. Động cơ tàu ngừng hoạt động lúc 10h40. Đô đốc Nagumo rời chỉ huy sở đang bốc cháy của mình lúc 10h46, lệnh bỏ tàu được ban bố. Thuyền trưởng Aoki là người cuối cùng rời tàu, lúc 3h sáng ngày 5/6.
    Chiếc Soryu bị trúng 3 quả bom, rải đều từ mũi tàu đến đuôi tàu, phá huỷ hầu như toàn bộ thang nâng, máy bay, bom đạn. Ngọn lửa dữ dội đến mức cánh cửa thép ở khoang chứa phải tan chảy. Con tàu ngừng hoạt động lúc 10h40. Thuyền trưởng Yanagimoto tự vẫn. Khoảng 19h20, con tàu chìm hoàn toàn.
    Lúc này, phía Nhật chỉ còn duy nhất một tàu sân bay có thể hoạt động, là chiếc Hiryu. Vào khoảng 11h, Hiryu phái đi 18 chiếc máy bay ném bom, hộ tống bởi 6 tiêm kích cơ, để trả thù. Vào khoảng giữa trưa, những máy bay này tiến sát chiếc Yorktown, lúc này cũng đã phát hiện người Nhật qua radar (một kỹ thuật mới mà Nhật chưa có). Do đó, đội phi cơ tiêm kích của Mỹ kịp bay lên và chặn đánh, bắn rơi hầu hết máy bay ném bom Nhật. Nhưng vẫn có 7 chiếc thoát qua được. Và chiếc Yorktown bị trúng 3 quả bom, 5 lò hơi ngừng hoạt động, và vận tốc con tàu cũng giảm xuống mức chỉ khoảng 6 hải lý/h. Nhưng thủy thủ đoàn của Yorktown cũng đã kịp sửa chữa và phục hồi vận tốc con tàu ở mức 20 hải lý/h. Máy bay có thể hạ cánh, và tốp tiêm kích cơ thứ hai kịp xuất phát. Nhưng chiếc Hiryu cũng phái đi một đội thứ hai, gồm 10 máy bay phóng lôi và 6 tiêm kích cơ. Thuyền trưởng chiếc Yorktown, Buskmaster đã từng tránh thành công tất cả các ngư lôi trong trận chiến biển San Hô, nhưng lần này, chiếc Yorktown bị trúng 2 quả ngư lôi. Con tàu càng ngày càng bị nghiêng, buộc Buckmaster phải ra lệnh bỏ tàu, vào khoảng 15h.
    Nhưng người Mỹ mới là những người có tiếng nói cuối cùng trong ngày này. Từ trên chiếc Enterprise, 24 máy bay ném bom, nhiều chiếc được chuyển từ Yorktown sang, cất cánh tấn công chiếc Hiryu. Lúc 14h50, Hiryu bị máy bay trinh sát phát hiện. 13 máy bay ném bom tấn công Hiryu khi những phi công của nó đang ăn, 11 chiếc khác tấn công những thiết giáp hạm hộ tống. Hiryu bị trúng liên tiếp 4 quả bom. Boong tàu hoàn toàn bị phá huỷ, khoang chứa máy bay chìm trong biển lửa. Nhưng phần dưới con tàu vẫn chưa bị ảnh hưởng, và nó vẫn có thể lao đi với vận tốc 30 hải lý/h. Tuy vậy, ngọn lửa cũng nhanh chóng ln xuống dưới, khiến động cơ ngừng hoạt động. Thủy thủ đoàn rời tàu vào khoảng 3h15 sáng hôm sau, 5/6.
    Trong khi cả 4 chiếc tàu sân bay của Nhật hoàn toàn bị đánh chìm, thì chiếc Yorktown dường như vẫn còn có thể được cứu. Đô đốc Fletcher phái một đội tàu cứu hộ đến kéo Yorktown về Trân Châu Cảng, thuyền trưởng Buckmaster cùng một thủy thủ nhỏ cũng đã quay trở lại tàu. Nhưng một chiếc tàu ngầm Nhật, chiếc I-168 đã lọt qua được vành đai bảo vệ gồm 4 khu trục hạm để đánh đắm chiếc Yorktown cùng một tàu hộ tống, chiếc Hammann vào chiều ngày 6/5.
    Đô đốc Yamamoto, trong một nỗ lực cuối cùng để tìm kiếm một điều gì đó, đã ra lệnh pháo kích Midway. Nhiệm vụ này được giao cho đô đốc Kurita, chỉ huy hải đội tuần dương hạm mới nhất và nhanh nhất Nhật Bản. Nhưng vào lúc 0h sáng ngày 5/6, Yamamoto rút lại lệnh của mình. Khi đang trên đường quay về, Kurita phát hiện một tàu ngầm Mỹ, ông ra lệnh tất cả các tàu rẽ ngoặt một góc 45 độ để tránh. Trong quá trình vận động, 2 tuần dương hạm hạng nặng Mogami và Mikuma va chạm với nhau, khiến chúng không thể đi nhanh được.
    Sang ngày 6, máy bay từ Enterprise và Hornet phát hiện ra 2 chiếc này và tấn công dồn dập. Chiếc Mikuma bị đánh chìm, còn Mogami bị hỏng nặng.
    Kết quả
    Trận chiến Midway đã kết thúc, thiệt hại cho phía Nhật hết sức nặng nề. 4 tàu sân bay hạng nặng, 1 tuần dương hạm, 272 máy bay, 100 phi công, 3400 thủy thủ, 3 thuyền trưởng hàng không mẫu hạm đầy kinh nghiệm cùng một đô đốc, bí mật của loại máy bay Zero. Tổn thất của phía Mỹ gồm 1 tàu sân bay và 1 khu trục hạm cùng khoảng 150 máy bay. Giờ đây cán cân lực lượng lại chuyển sang phía người Mỹ, ngay sau trận chiến, Nhật chỉ còn 2 tàu sân bay hạng nặng, còn của Mỹ là 4. Số phi công Nhật thiệt mạng tương đương với số mà nước Nhật có thể đào tạo trong 1 năm. Việc khám phá ra bí mật của chiếc Zero cho phép người Mỹ chế tạo thành công chiếc F6F Hellcat, mà chỉ 1 năm sau đã bắt đầu chấm dứt sự thống trị trên không của người Nhật. Quan trọng hơn, trận chiến Midway đã làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, quyền chủ động tấn công giờ đây đã thuộc về người Mỹ.
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Việc ứng dụng giáp Krupp với độ dày 6 inch làm cho việc bảo vệ các tầu tuần dương hiệu quả hơn đặc biệt là các tàu tuần dương hạng nhất, và các tầu tuần dương lớn không có lớp bảo vệ được đóng sau năm 1898. Các tuần dương hạm hạng nhỏ hơn không thể mang nổi trọng lượng của vành đai thiết giáp "bảo vệ" cho đến năm 1905, khi những chiếc cuối cùng của lớp Challenger và Highflyer được hoàn thành. Có một sự gián đoạn nói chung trong việc chế tạo tàu tuần dương của Anh sau thời gian này, ngoài một vài lớp tầu nhỏ, những tàu tuần dương chạy nhanh làm nhiệm vụ trinh sát cho hạm đội. Khi Hải quân Hoàng gia bắt đầu đóng những tàu tuần dương lớn hơn (> 4.000 tấn) một lần nữa khoảng năm 1910, họ đã sử dụng một kết hợp của sàn bọc thép và hoặc đai bọc thép để bảo vệ tùy thuộc vào từng lớp tầu. Những tuần dương hạm hiện đại được trang bị động cơ tuốc bin được phân loại là tuần dương hạm hạng nhẹ.
    Các tuần dương hạm có bảo vệ còn lại
    Một vài tàu tuần dương có bảo vệ còn sống sót như tàu bảo tàng:
    ? Tầu Avrora - Rạng đông- tại St Petersburg
    ? Tầu HNLMS Bonaire-Delfzijl tại Hà Lan
    ? Tầu USS Olympia- tại Philadelphia
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:31 ngày 27/04/2010
    Tuần dương hạm bọc thép - Armoured Cruiser


    Tuần dương hạm bọc thép là một loại tàu tuần dương, một loại tàu chiến hải quân. Các tàu tuần dương bọc thép được thêm vào một vành đai giáp, ngoài chiếc sàn được bọc thép để bảo vệ khoang động cơ, nhiên liệu than như đã được xác định ở tàu tuần dương có bảo vệ. Tuần dương hạm bọc thép là các tầu chiến hải quân chủ lực được sử dụng trong hai trận hải chiến, trận Ulsan trong Chiến tranh Nga-Nhật, và trận Coronel trong Chiến tranh thế giới I và chúng đóng vai trò quan trọng hỗ trợ trong các trận chiến khác của thời kỳ này.
    [​IMG]
    Phần lược đồ mặt cắt của một tàu tuần dương bọc thép điển hình với một tầng trên và vành đai bọc thép (màu đỏ), hai bên được bảo vệ bằng kho nhiên liệu than đá (màu xám) và một đáy đôi dưới cùng được ngăn kín nước. Khu máy móc được bố trí trong cùng để được bảo vệ tốt nhất.
    Sự phát triển của đạn nổ vào giữa những năm 1800 làm cho việc bọc thép cho các tàu tuần dương là không thể tránh khỏi mặc dù chúng làm đội chi phí và trọng lượng của con tầu. Tuần dương hạm bọc thép bắt đầu xuất hiện trong các lực lượng hải quân lớn của phương Tây ở khoảng năm 1873 và tiếp tục được chế tạo cho đến năm 1908. Khoảng thời gian này chúng đã nhanh chóng bị đánh bại bởi các tầu chiến lớp Dreadnought mới với ?otất cả các khẩu súng lớn? đáng chú ý là tầu tuần dương chủ lực (Battle Cruiser ?" sát thủ của các tuần dương hạm kiểu cũ) mà so sánh về mọi mặt thì loại tầu này đều vượt trội so với tàu tuần dương bọc thép.
    Thiết kế và tiến hóa
    Các loại ban đầu
    Tuần dương hạm bọc thép lớn đầu tiên là chiếc tàu của người Nga chiếc General Admiral (1873) và của người Anh chiếc Shannon (1875), mặc dù ban đầu được biết đến như là một tầu frigate bọc thép hạng nhì
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm bọc thép kiểu frigate General Admiral của Nga, nó có trọng tải 4600 tấn, đai giáp dày 6 in, tốc độ 13 hải lý/ giờ, vũ khí chính gồm 6 súng 8 in, 1 súng 6 in và hai ống phóng ngư lôi.
    Tuần dương hạm bọc thép hiện đại


    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm bọc thép Dupuy de Lome của Hải quân Pháp, nó có trọng tải 6.700 tấn, tốc độ 19,7 hải lý/ giờ, giáp vành đai dày 3,9 in, giáp sàn dày 0,79 in, vũ khí chính bao gồm 2 súng xấp xỉ 8 in và 6 súng xấp xỉ 6 in cùng hai ống phóng ngư lội
    Chiếc tàu tuần dương bọc thép thật sự đầu tiên là chiếc Dupuy de Lome của Hải quân Pháp được hạ thủy vào năm 1887. Cùng năm đó người Nga đưa chiếc Ryurik vào hoạt động. Chiếc tàu đầu tiên được chấp nhận như là mô hình cho các tàu tuần dương bọc thép là chiếc Chiyoda được đóng bởi Clyde của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Những tiến bộ của kỹ thuật của chiếc Chiyoda việc ứng dụng động cơ pistong trục dọc ba lần mở rộng. Không giống như loại ba lần mở rộng theo chiều ngang (TE), vì loại này chiếm chiều rộng của con tàu, động cơ trục dọc TE có thể được giữ gần trục trung tâm của con tàu và kho nhiên liệu được bao quanh bởi một vành đai giáp và sàn tàu cũng được bọc giáp. Kiểu này tạo ra một không gian rộng lớn được bảo vệ bên trong con tàu, trong đó máy móc được bảo vệ khỏi đạn nổ, chúng duy trì tính toàn vẹn và kín nước. Chiếc Chiyoda là quá nhỏ để được coi là một tàu tuần dương bọc thép đúng nghĩa, nhưng nó tạo nên một khuôn mẫu để được hoc tập bởi các tàu tiếp sau.
    Các tuần dương hạm bọc thép cuối cùng được đóng ở khoảng năm 1910. Tại thời điểm này chúng đã nhanh chóng bị đánh bại bởi sự phát triển công nghệ mới như lớp tầu Dreadnought với súng lớn được hỗ trợ bởi động cơ tua bin hơi nước và sử dụng nhiên liệu dầu hỏa có nghĩa là con tầu đóng mới không còn có thể dựa vào sự bảo vệ của nhiên liệu than đá. Tuần dương hạm bọc thép được trực tiếp thay thế trong các hạm đội bởi các tầu tuần dương chủ lực lớn hơn, nhanh hơn và tốt hơn. Các tuần dương hạm bọc thép lớn đã bị lạc hậu và do đó chỉ tuần dương hạm hạng nhẹ được đóng tại thời điểm đó. Các tuần dương hạm bọc thép được sử dụng trong vai trò tuần tra và trinh sát cho đến cuối Chiến tranh thế giới II.
    Cần lưu ý rằng Hải quân Hoàng gia Anh phân loại cả hai tàu tuần dương bọc thép và tàu tuần dương có bảo vệ có kích thước và trang bị vũ khí tương đương là ?otàu tuần dương hạng nhất?. Do đó các tàu tuần dương hạng nhất được đóng giữa lớp Orlando (1886) và lớp Cressy (1897) là loại tàu tuần dương có bảo vệ vì chúng thiếu một vành đai bọc thép.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm bọc thép Orlando của Hải quân Anh, nó có trọng tải 5.600 tấn, tốc độ 18 hải lý/ giờ, giáp vành đai dày 10 in, vũ khí chính bao gồm 2 súng 9,2 in và 10 súng 6 in cùng 6 ống phóng ngư lôi
    Các ví dụ


    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm bọc thép SMS Blücher của Đức (1908) với tải trọng tối đa 17.500 tấm, nó có tốc độ tối đa 25,4 hải lý/ giờ, giáp đai dày 60?"180 mm (2½?"7 in), vũ khí chính gồm 12 súng 8,2 in và 4 ống phóng ngư lôi
    Tuần dương hạm bọc thép ban đầu nói chung có trọng tải từ 6,000-12,000 tấn với tốc độ 18-20knots (33-37 km / h). Loại này đạt tới đỉnh cao của nó trong các năm 1906-1908 với trọng tải lên tới 14,000-16,000 tấn và tốc độ 22-23 hải lý / h (41-43 km / h). Vũ khí tiêu biểu là hai hoặc bốn khẩu súng cỡ nòng lớn ở cuối của con tàu, thường là từ 7,5-10 inch (190-254 mm), và một vài tá súng cỡ 6 in (152 mm) hoặc tương tự ở dọc theo hai bên mạn tầu.
    Ví dụ, chiếc tuần dương hạm bọc thép đầu tiên của Nga, chiếc Rurik (1892) có bốn súng 8-in (203 mm) súng, mười sáu súng 6 in (152 mm) và sáu súng 4,7-in (120 mm), chiếc Victor Hugo của pháp (1904) có bốn súng 7,6-in (194 mm) và mười sáu 6,4 in (164 mm). Các tầu lớp Monmouth (1901) là một ngoại lệ, thiết kế của các tàu chú trọng đến vai trò của lớp tầu có nhiệm vụ bảo vệ tầu buôn, với một vũ khí đồng hạng gồm mười bốn súng 6-in (152 mm). Sau đó tàu tuần dương bọc thép đã tăng cường vũ khí, ví dụ chiếc HMS Warrior (1905) có sáu súng 9,2-in (234 mm) và bốn súng 7,5-in (190 mm), chiếc SMS Blücher của Đức (1909) có mười hai súng 210 mm (8,2 in) và tám súng 150-mm (5,9 in), và chiếc Rurik thứ hai của Nga (Năm 1906, được đóng bởi Vickers) có bốn súng 10-in (254 mm), tám súng 8 in (203 mm), và hai mươi súng 4,7 in (120 mm).


    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm của Argentina ARA Garibaldi thuộc lớp Giuseppe Garibaldi do Italia chế tạo, nó có trọng tải 7.700 tấn, tốc độ 20 hải lý/ giờ, giáp đai dày 70?"150 mm (2.8?"5.9 in), boong dày 25?"38 mm (0.98?"1.5 in), vũ khí chính gồm súng 8 inch (203 mm), 14 súng 6 inch (152 mm) và bốn ống phóng ngư lôi
    Năm 1893, Ý đã thiết kế và đóng lớp tầu Giuseppe Garibaldi, trong đó bao gồm 10 tàu: 3 chiếc phục vụ trong hạm đội Regia Marina và phần còn lại được xuất khẩu:
    ? 1 đến Hải quân Tây Ban Nha: Cristobal Colón,
    ? 2 đến Hải quân Đế quốc Nhật Bản: Kasuga và Nishin,
    ? 4 đến Hải quân Argentina: Garibaldi, San Martín, Belgrano và Pueyrredón.
    Tuần dương hạm bọc thép trong Hải quân Hoa Kỳ

    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm bọc thép USS Brooklyn (1898) có trọng tải 9.215 tấn, tốc độ 20 hải lý/ giờ, giáp đai dày 3 in, 8 súng 8 in (200 mm), 12 súng 5 in (130 mm) và 5 ống phóng ngư lôi
    Tuần dương hạm bọc thép đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ là chiếc USS Maine, nó bị nổ tung năm 1898 mở đầu Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Được hạ thủy vào năm 1889, nó có lớp giáp dày 7 -> 12 inch (178-305 mm) hai bên xung quanh (giáp vành đai) và 1-4 inches (25-102 mm) ở sàn tầu. Nó được đặt lại tên như là một ?otàu tuần dương hạng hai? trong năm 1894, một thỏa hiệp phản ánh sự đi thụt lùi so với các loại tuần dương hạm khác, và yếu hơn so với các thiết giáp hạm ở tuyến 1 cùng thời gian. Chiếc New York, hạ thủy vào năm 1895, được bảo vệ kém hơn chiếc Maine, với giáp vành đai dày 3 inch (76 mm) và giáp sàn tàu dày 3-6 inches (76-152 mm). Chiếc Brooklyn là một phiên bản cải tiến của thiết kế của chiếc New York và Olympia.
    Ngay sau Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, Hải quân Hoa kỳ đóng sáu tuần dương hạm bọc thép lớp Pennsylvania, gần như ngay lập tức theo sau chúng là bốn chiếc trong lớp Tennessee, mười con tầu này được gọi là lớp 10.
    Trận Tsushima

    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm bọc thép Nisshin (1905)) có trọng tải 7.698 tấn, tốc độ 20 hải lý/ giờ, giáp đai dày 70?"150 mm (2.8?"5.9 in) giáp boong dày 25?"38 mm (0.98?"1.5 in), 4 súng 203 mm (8 in) 14 súng 152 mm (6 in) và 4 ống phóng ngư lôi
    Tàu tuần dương bọc thép được sử dụng thành công trong trận chiến của Nhật Bản tại Tsushima năm 1905. Trong trận đánh các thiệt hại từ phía Nhật Bản, chiếc tàu tuần dương bọc thép Nisshin bị trúng đạn nhiều thứ hai sau chiếc thiết giáp hạm Mikasa. Chiếc Nisshin bị đánh trúng đạn 13 lần, trong đó có một phát đạn 9-inch (230 mm) và sáu phát 12-inch (300 mm). Chiếc Nisshin cố gắng ở lại trong đội hình chiến đấu suốt trận đánh, điều này xác nhận những hy vọng của các nhà thiết kế: một tàu tuần dương có thể đứng trong dòng của trận chiến. Hiệu suất của các tàu tuần dương bọc thép Nhật Bản trong Trận chiến Tsushima, và đặc biệt là của chiếc Nisshin , có khả năng dẫn đến một sự bùng nổ trong việc chế tạo tàu tuần dương bọc thép trong lực lượng hải quân của thế giới.
    Lỗi thời


    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm bọc thép O?Higgins (1898) là chiếc kỳ hạm của Chile cho đến năm 1931.


    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm bọc thép Vasco da Gama của Hải quân Bồ Đào Nha (1901).
    Tàu tuần dương bọc thép bị coi là lỗi thời vào năm 1907, khi Hải quân Hoàng gia hạ thủy lớp tàu tuần dương chủ lực Invincible. Các năm trước người Anh đã tiến hành cuộc cách mạng ?otất cả các khẩu súng lớn? trên chiếc HMS Dreadnought. Các tầu lớp Invincibles cũng có một khẩu đội súng chính có cỡ nòng lớn thống nhất và tốc độ cao hơn với chi phí của áo giáp giảm, dù sao chúng có lợi thế so sánh về hỏa lực, tốc độ, và bảo vệ so với tàu tuần dương bọc thép.
    Chiếc tuần dương hạm cuối cùng của Đức được đóng là chiếc SMS Blücher. Mặc dù nó có lẽ là tốt nhất của loại tàu này nhưng nó vẫn trở nên lỗi thời một cách nhanh chóng, một phần vì người Anh đã tung tin lòe bịp người Đức về các thông số kỹ thuật của chiếc Invincibles (đối thủ của chiếc SMS Blücher).
    Chiến tranh thế giới I
    Khi tàu tuần dương bọc thép gặp các tàu chiến chủ lực hiện đại trong Thế chiến I, các thiếu sót của loại lạc hậu hơn đã liên tục bị bộc lộ, các chiếc SMS Scharnhorst và Gneisenau bị đánh chìm do tàu chiến HMS HMS Invincible và Inflexible tại trận chiến Quần đảo Falkland. Phó Đô đốc Maximilian von Spee cho rằng chiếc kỳ hạm HMAS Australia của Hải quân Hoàng gia Australia vượt trội so với các tàu tuần dương bọc thép và tuần dương hạm hạng nhẹ của mình. Tại quần đảo Falkland trong khi tác xạ các pháo thủ Đức đã bắn rất chính xác song họ không gây thiệt được hại nghiêm trọng cho các tàu chiến Anh, trong khi đó trận chiến đã thay đổi ngay khi đạn của tầu Anh bắt đầu trúng các tàu của von Spee.
    Tại trận Coronel vốn xảy ra ngay trước sự kiện của trận Falkland, là một trong những trận chiến mà các tuần dương hạm bọc thép đời cũ là các đối thủ chính, tất cả các trận tiếp theo các thiết giáp hạm và tuần dương hạm thời Dreadnought đều chiếm ưu thế.
    Trong khoảng thời gian của trận Dogger Bank, chiếc SMS Blücher đã bị tê liệt bởi một phát đạn bắn từ một tàu chiến Anh, làm giảm tốc độ của nó xuống còn 17 hải lý. Tình huống này buộc Đô đốc Hipper phải đưa ra quyết định hy sinh các tàu tuần dương bọc thép của mình (bị đánh chìm với tổn thất lớn về nhân mạng) để cứu thoát con tầu hiện đại hơn và có giá trị hơn của ông.
    Các chiếc HMS Warrior, Defence và Black Prince đã bị tiêu diệt tại trận Jutland khi chúng vô tình đi vào tầm nhìn và phạm vi tác xạ của trận tuyến của Hải quân Đức, trong đó bao gồm một số thiết giáp hạm và tuần dương hạm Dreadnought.
    Kết cục của tuần dương hạm bọc thép
    Ngày 17 Tháng Bảy 1920, khi các tiêu chuẩn đánh số thân tàu hải quân được thông qua, tất cả tuần dương hạm bọc thép hiện hữu của Mỹ được sáp nhập với tàu tuần dương có bảo vệ trong một loại duy nhất ?otàu tuần dương? với biểu tượng phân loại thân tầu ?oCA?, đưa đến một kết thúc của việc sử dụng thuật ngữ ?otàu tuần dương bọc thép? ở Mỹ. Hiệp ước Hải quân London năm 1930 cơ bản xóa bỏ thuật ngữ ?otàu tuần dương bọc thép? và thông qua các điều khoản ?o Tàu tuần dương hạng nặng và Tàu tuần dương hạng nhẹ?. Sau này, ?obiểu tượng CA ?o được sử dụng để chỉ ?otàu tuần dương hạng nặng?.
    Một tàu tuần dương bọc thép ở thiết kế cuối vẫn còn tồn tại: chiếc Georgios Averof, được đóng năm 1909-1911, được bảo tồn như là một bảo tàng ở Hy Lạp.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm bọc thép Georgios Averof của Hy lạp, chiếc này có trọng tải 10.200 tấn, tốc độ 17,5 hải lý/ giờ, giáp dày 200 mm (7.9 in) ở phần giữa tầu, 80 mm (3.15 in) ở phần cuối tầu, boong trên dày 40 mm (1.6 in), vũ khí chính bao gồm 4 súng 234mm (9.2in) 8 súng 190mm (7.5in) 3 ống phóng ngư lôi và súng phòng không. Con tầu này nay đã trở thành tầu bảo tàng
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:27 ngày 27/04/2010
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Sự khác nhau giữa tuần dương hạm bọc thép và tuần dương hạm hạng nặng
    Các tàu tuần dương bọc thép không phải là tổ tiên gần của tàu tuần dương hạng nặng, Mặc dù đôi khi thấy tên này. Bởi 1.905 tàu tuần dương bọc thép đã tăng lên về kích thước và sức mạnh để được rất gần trước giáp hạm Dreadnought của ngày, với một di dời khoảng 15.000 tấn: đáng kể lớn hơn so với 10.000 tấn của tàu tuần dương hạng nặng. Xu hướng này dẫn đến sự tàu chiến, Mà ban đầu được hình thành như là một tàu tuần dương bọc thép trên quy mô tương tự như va?i len lông quăn giáp hạm. Bởi năm 1915, cả hai chiến hạm và tàu chiến đã phát triển rõ rệt; HMS Mui xe, Ví dụ, thiết kế vào khoảng thời gian đó, dời 45.000 tấn. Trong thời kỳ giữa hai cuộc, khoảng cách lớn giữa các tàu tuần dương hạng nặng và tàu chiến của các thế hệ cùng có nghĩa là, không giống như các tuần dương hạm bọc thép, tàu tuần dương hạng nặng có thể không được dự kiến sẽ phục vụ như là một thiết giáp hạm học cơ sở.
    Cũng có sự khác biệt quan trọng kỹ thuật giữa các tàu tuần dương hạng nặng và các tàu tuần dương bọc thép, một số trong đó phản ánh khoảng cách thế hệ giữa chúng. tàu tuần dương hạng nặng, giống như tất cả các tàu hiện đại, được thường được hỗ trợ bởi dầu đốt tua bin hơi nước động cơ và có tốc độ nhanh hơn đến nay đã có tuần dương hạm bọc thép bao giờ bị (đẩy bằng than qua lại động cơ hơi nước của thời đại của họ). Cũng giống như của họ bảo vệ tàu tuần dương người tiền nhiệm và đương đại tuần dương hạm hạng nhẹ, Tàu tuần dương hạng nặng thiếu một mặt giáp vành đai, tiết kiệm trọng lượng để đạt được tốc độ cao. Trang bị vũ khí chính của một tàu tuần dương hạng nặng tại một tối đa 203 mm (8 inch) đã được nhỏ hơn 233 mm điển hình (9,2-inch) súng của tàu tuần dương bọc thép sau này. Tuy nhiên, tàu tuần dương hạng nặng thường có một số lượng lớn súng chính (một số tàu tuần dương bọc thép đã có một hỗn hợp thay vì thống nhất bổ sung của súng chính), loại bỏ các khẩu súng gắn kết của chính casemates trong lợi của đường trung tâm superfiring tháp pháo (lưu trọng tải và kích hoạt tàu hỏa tất cả các súng vào một kẹt), và hưởng lợi từ việc giới thiệu điều khiển hỏa lực vào những năm 1920 và độ tuổi 30, nghĩa là tàu tuần dương hạng nặng đáng kể mạnh hơn.
    Tàu tuần dương hạng nhẹ - Light Cruiser
    Một tàu tuần dương hạng nhẹ là một tàu chiến. Thuật ngữ này là một rút ngắn của cụm từ " tuần dương hạm bọc thép hạng nhẹ", nó mô tả một con tàu nhỏ mang giáp theo cùng một cách như một chiếc tàu tuần dương bọc thép: một vành đai bảo vệ và boong. Tiền thân của loại tuần dương hạm này là loại tàu tuần dương có bảo vệ chỉ có sàn bọc thép.

    Lịch sư?
    [​IMG]
    Chiếc HMS Mercury, chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ đầu tiên trên thế giới của Hải quân Hoàng gia Anh
    Chiếc tuần dương hạm nhỏ động cơ hơi nước đầu tiên được đóng cho Hải quân Hoàng gia Anh là chiếc HMS Mercury được hạ thủy vào năm 1878. Loại này bao gồm cả các tuần dương hạm có lớp bảo vệ hạng II và hạng III được phát triển lên, chúng dần dần trở nên nhanh hơn, được vũ trang và bảo vệ tốt hơn. Đức đã dẫn đầu trong việc thiết kế các tàu tuần dương nhỏ trong những năm 1890, họ chế tạo một loạt các tàu tuần dương chạy nhanh sao chép từ các quốc gia khác. Các tàu này được cung cấp năng lượng bởi nồi hơi đốt than và động cơ piston hơi nước và dựa một phần vào sự sắp xếp của nhiên liệu than đá để làm lớp bảo vệ. Việc áp dụng nồi hơi ống nước dầu đốt và tua bin hơi nước có nghĩa là tàu tuần dương nhỏ kiểu cũ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Hơn nữa, những con tầu được đóng mới không thể dựa vào sự bảo vệ của kho nhiên liệu than và do đó phải áp dụng một số phương pháp bọc giáp bên sườn tầu. Nhóm tầu Bristol thuộc lớp tầu tuần dương Town của Anh (năm 1909) đã khởi đầu từ các thiết kế trước đó, với động cơ đẩy tua bin, than đá trộn và đốt dầu và một vành đai giáp bảo vệ dày 2 inch cũng như các boong. Như vậy, theo định nghĩa, chúng phải nằm trong loại tuần dương hạm bọc thép, bất chấp trọng tải chỉ là 4.800 tấn, các tàu tuần dương bọc thép hạng nhẹ đã xuất hiện. Các tuần dương hạm hạng nhẹ đầu tiên thực sự hiện đại là lớp Arethusa (1911) đã hoàn toàn dùng động cơ đốt dầu và sử dụng máy móc của tàu khu trục hạng nhẹ để đạt đến tốc độ 29 knot (54 km / h).
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ HMS Arethusa, lớp đầu tiên chạy động cơ đốt dầu, nó có trọng tải 3.500 tấn, vận tốc lên tới 28,5 hải lý/ giờ, giáp dày 3 inch ở phần giữa tầu, dày 1 inch ở boong giữa, 1 inch ở boong trên bánh lái, vũ khí chính của nó là 2 súng 6-inch (152,4 mm) Sáu súng 4 inch (101,6 mm) 4 ống ngư lôi 21 in
    Vào khoảng thời gian Chiến tranh thế giới I, Tuần dương hạm hạng nhẹ của Anh thường có hai súng 6 inch (152 mm) và có lẽ tám súng 4 inch (100 mm), hay các súng cùng cỡ 6 inch (152 mm) trên một con tàu khoảng 5.000 tấn, trong khi tuần dương hạm của Đức tiến triển trong cuộc chiến tranh từ súng 4,1 inch (105 mm) đến súng 5,9 inch (150 mm).
    Thuật ngữ tàu tuần dương hạng nhẹ được định nghĩa bởi Hiệp ước Hải quân London trong năm 1930. Tàu tuần dương hạng nhẹ được định nghĩa là tuần dương hạm có súng 6,1 inch (155 mm) hoặc nhỏ hơn, còn tàu tuần dương hạng nặng được định nghĩa là tuần dương hạm có súng lên đến 8 inch (203 mm). Trong cả hai trường hợp, các con tàu không thể có trọng tải lớn hơn 10.000 tấn.
    Trong thời kỳ chiến tranh thế giới II , tàu tuần dương hạng nhẹ có các cỡ súng khác nhau, từ 5 inch (127 mm), như được thấy trong Chiếc Atlanta lớp tàu tuần dương phòng không, tới 6,1 inch, mặc dù kích thước thông thường nhất cho đến nay vẫn là súng 6 inch. Tàu tuần dương hạng nặng thường có khẩu đội súng 8 inch (203 mm). Trong những năm dẫn đến chiến tranh thế giới II, Hiệp ước Hải quân London làm cho không thể tạo ra một thiết kế tàu tuần dương hạng nặng trong giới hạn trọng tải, Điều này dẫn đến việc đóng một số lượng lớn tuần dương hạm hạng nhẹ trọng tải10.000 tấn với 12-15 súng 6-inch (152 mm) mà không trùng lặp với tàu tuần dương hạng nặng.
    Việc chế tạo tàu tuần dương hạng nặng bị loại bỏ ở Anh, Pháp và Ý trong thời gian giữa thập niên 1930. Tuy nhiên, sự bùng nổ của Thế Chiến II cho phép các quốc gia tránh né Hiệp ước London và vượt quá giới hạn 10.000 tấn. Đến cuối chiến tranh, theo phân loại của Hải quân Mỹ "tàu tuần dương lớn" đã có trọng tải gần 30.000 tấn ( Tàu tuần dương lớp Alaska), trong khi tuần dương hạm hạng nhẹ lại ở trong phạm vi 10.000 tấn (mặc dù đôi khi có thể lên đến 12.000 hoặc 13.000 tấn).


    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ HMS Belfast ngày hôm nay đã thành bảo tàng. Nó có trọng tải 11.553 tấn, tốc độ 32 hải lý/ giờ, giáp vành đai dày 4.5 inches (114 mm) giáp boong dày 3 inch (76 mm), vũ khí chính 12 súng 6 inch, 12 súng 4-inch và 4 ống ngư lội 21 in
    Hầu hết các tàu tuần dương hiện đại trang bị tên lửa có điều khiển đều có trọng tải tương tự (10.000 tấn cho lớp Ticonderoga, 12.000 cho lớp Slava, 28.000 cho lớp Kirov).
    Bốn tàu tuần dương hạng nhẹ vẫn còn tồn tại như tàu bảo tàng, và một vẫn được sử dụng phục vụ hoạt động của hải quân chiếc BAP Almirante Grau của Hải quân Peru. Bốn tàu làm tàu bảo tàng là: HMS Belfast (1938) ở London, HMS Caroline (1914) ở Belfast, USS Little Rock ở Buffalo, New York, và chiếc Colbert hiện đại hơn ở Bordeaux. Các tàu tương tự bao gồm các tàu tuần dương có bảo vệ Aurora - Rạng đông (St Petersburg) và Olympia (Philadelphia, Pennsylvania), và mũi của chiếc Puglia (ở Italy).
    Phân loại của Hải quân Hoa Kỳ
    Trong Hải quân Hoa Kỳ, Tàu tuần dương hạng nhẹ có biểu tượng phân loại thân tầu là CL. Cả hai loại tàu tuần dương hạng nặng và tuần dương hạm hạng nhẹ đã được phân loại theo một trình tự thông thường CL và CA / sau năm 1931, do đó có một số con số thân tầu mất tích, xem Danh sách các tàu tuần dương hạng nhẹ của Hoa Kỳ. Sau khi có sự phát triển của tên lửa hải quân có dẫn đường vào những năm 1950, tất cả các tuần dương hạm chỉ được vũ trang duy nhất với súng, bất kể cấp hạng như thế nào được đổi tên là "Tuần dương hạm có súng" (ký hiệu phân loại thân tầu CA), Với các tuần dương hạm có tên lửa điều khiển (cũng thường mang theo một số vũ khí là súng) có được biểu tượng phân loại mới là CG. Do sự sắp xếp lại đội năm 1975, tất cả tàu tuần dương có súng đều bị loại ra khỏi biên chế hạm đội.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:46 ngày 27/04/2010
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tàu tuần dương hạng nặng - Heavy Cruiser
    Tàu tuần dương hạng nặng là một loại tàu tuần dương, một tàu chiến hải quân được thiết kế để hoạt động tầm xa, tốc độ cao và trang bị súng hải quân có cỡ nòng khoảng 8 in (203mm ). Các tàu tuần dương hạng nặng có thể được xem như là một tồn tại của các thiết kế tàu chiến từ năm 1915 cho đến năm 1945, mặc dù thuật ngữ ?o tàu tuần dương hạng nặng ?o chỉ được đưa vào sử dụng chính thức vào năm 1930. Các tàu tuần dương hạng nặng ngay lập tức là tiền thân của các thiết kế Tàu tuần dương hạng nhẹ của những năm 1900 và thập niên 1910, chứ không phải là tiền thân của thiết kế của tuần dương hạm bọc thép trước năm 1905.

    Định nghĩa và tiến hóa
    Vào cuối thế kỷ 19, tàu tuần dương được phân loại như là Hạng I, hạng II hoặc hạng III tùy thuộc vào khả năng của chúng. Tuần dương hạm hạng I thường tuần dương hạm bọc thép, với vành đai giáp rất khó phân biệt chúng với một thiết giáp hạm tiền Dreadnought loại nhỏ. Các tàu tuần dương hạng II và III nhẹ hơn, rẻ hơn và nhanh hơn có xu hướng chỉ có một sàn bọc thép và dùng nhiên liệu than đá làm giáp bảo vệ, chứ không phải là có vỏ bọc thép, và do đó được gọi là tàu tuần dương có bảo vệ.
    Trong thập kỷ đầu của thế kỷ 20, tuần dương hạm bọc thép hạng I tiến hóa thành tuần dương hạm chủ lực, và tăng đáng kể kích thước cùng chi phí. Đồng thời, các Tuần dương hạm hạng III bắt đầu mang áo giáp thép mỏng phía bên ngoài vỏ của nó và được gọi là Tàu tuần dương hạng nhẹ. Khoảng cách giữa các tàu tuần dương chủ lực (battle cruiser) có trọng tải đến 20.000 tấn và súng có cỡ nòng 305 mm (12 inch) và các tuần dương hạm nhỏ hạng nhẹ chỉ khoảng 5.000 tấn và súng có cỡ nòng 100 mm (4-in) hoặc 155 mm (6-inch) tự nhiên lại tạo khoảng không cho một loại tầu trung gian.
    Thiết kế đầu tiên đó là tàu tuần dương Atlantic của Anh, nó được yêu cầu vào năm 1912, trong đó đề xuất một tuần dương hạm tầm xa có trọng tải khoảng 8.000 tấn với súng 190 mm (7,5-inch). Đây là một phản ứng với tin đồn là tuần dương hạm Đức được đóng để tấn công các tàu buôn ở Đại Tây Dương với súng cỡ 170mm. Các tầu tấn công của Đức đã được chứng minh là hư cấu và ?otàu tuần dương Atlantic? không bao giờ được chế tạo. Tuy nhiên, trong năm 1915 yêu cầu về tuần dương tầm xa bảo vệ thương mại lại nổi lên và kết quả là lớp Hawkins ra đời, nó có một khẩu đội súng 190 mm (7,5-inch) và có một trọng tải dưới 10.000 tấn.
    Tuần dương hạm bọc thép cũ không phải là tổ tiên gần gũi của các mô hình tàu tuần dương hạng nặng, mặc dù đôi khi cái tên làm ta nghĩ vậy. Vào năm 1905 tàu tuần dương bọc thép đã tăng lên về kích thước và sức mạnh và trở nên rất gần với thiết giáp hạm tiền Dreadnought lúc đó, tàu tuần dương bọc thép có trọng tải khoảng 15.000 tấn: lớn hơn đáng kể so với trọng tải 10.000 tấn của tàu tuần dương hạng nặng. Xu hướng này dẫn đến sự ra đời của tuần dương hạm chủ lực (Battle Cruiser), mà ban đầu được hình thành như là một tàu tuần dương bọc thép trên quy mô tương tự như thiết giáp hạm lớp Dreadnought Vào năm 1915, cả hai thiết giáp hạm và tuần dương hạm đều đã phát triển rõ rệt, ví dụ chiếc HMS Hood, được thiết kế vào khoảng thời gian đó, có trọng tải lên đến 45.000 tấn. Khoảng cách lớn giữa các tàu tuần dương hạng nặng và tàu chiến chủ lực cùng một thế hệ có nghĩa là, không giống như tuần dương hạm bọc thép, tàu tuần dương hạng nặng không được dự kiến phục vụ chiến đấu như là một thiết giáp hạm cỡ nhỏ.
    Cũng có sự khác biệt quan trọng về mặt kỹ thuật giữa các tàu tuần dương hạng nặng và các tàu tuần dương bọc thép, một số trong đó phản ánh khoảng cách thế hệ giữa chúng. tàu tuần dương hạng nặng, giống như tất cả các tàu hiện đại, được thường được hỗ trợ bởi động cơ tua bin hơi nước đốt dầu và có tốc độ cao hơn tuần dương hạm bọc thép (động cơ hơi nước đốt than). Cũng giống như tàu tuần dương có bảo vệ tiền nhiệm và tuần dương hạm hạng nhẹ đương đại của chúng, tàu tuần dương hạng nặng thiếu một giáp vành đai, nhằm tiết kiệm trọng lượng để đạt được tốc độ cao. Trang bị vũ khí chính của một tàu tuần dương hạng nặng ở mức tối đa là súng 203 mm (8 inch) nhỏ hơn so với vuc khí điển hình là súng 233 mm (9,2-inch) của tàu tuần dương bọc thép sau này. Tuy nhiên, tàu tuần dương hạng nặng thường có một số lượng lớn súng chính (một số tàu tuần dương bọc thép có một hỗn hợp súng thay vì một loại súng chính thống nhất), chúng loại bỏ các súng chính gắn trong các ổ súng cùng đường trung tâm tháp pháo cao (nhằm mục đích giảm trọng tải và có thể phát hỏa tất cả các khẩu súng ở cùng một mạn tầu), và hưởng lợi từ việc ứng dụng điều khiển hỏa lực vào những năm 1920 và có độ tuổi 30, nghĩa là tàu tuần dương hạng nặng mạnh hơn đáng kể.
    Hiệp ước Washington
    [​IMG]
    Tuần dương hạm hạng nặng HMAS Canberra, một tuần dương hạm Hiệp ước. nó có trọng tải 9.850 tấn, vận tốc 31,5 hải lý/ giờ, giáp đai dày nhất lên tới 4.5 in, giáp boong 1,38 in, vũ khí chính gồm 8 súng 8-inch (200 mm), 4 súng 4-inch hai nhóm 4 ống phóng ngư lôi 24 in và một số súng phòng không đơn
    Hiệp ước Hải quân Washington năm 1921 đưa ra các giới hạn rất nghiêm ngặt về việc chế tạo các thiết giáp hạm và tuần dương hạm, nó xác định rằng tàu chiến có trọng tải tiêu chuẩn lớn hơn 10.000 tấn hoặc mới được trang bị vũ khí súng có cỡ nòng lớn hơn tám inch (203 mm). Theo giới hạn này những hạn chế còn nghiêm ngặt hơn nữa đã được áp dụng. Các tầu có mức trọng tải 10.000 tấn và súng cỡ 155 mm (6-inch) được chế tạo với sự tham khảo lớp tầu Hawkins của Anh, nhưng cả Nhật Bản và Hoa Kỳ cũng đã xem xét các thiết kế từ những mẫu khác nhưng có đặc điểm kỹ thuật tương tự. Mẫu của Hải quân Nhật Bản là lớp Furutaka.
    [​IMG]
    Phác họa thiết kế của chiếc tuần dương hạm hạng nặng Hawkins, một thiết kế đã thành khuân mẫu cho nhiều tầu tuần dương hạng nặng trên thế giới
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm hạng nặng HMS Frobisher, chiếc được thiết kế theo lớp Hawkins. Nó có trọng tải 12.190 tấn, tốc độ 31 hải lý/ giờ, giáp đai chính từ 1½ ?"> 3 in, giáp boong chính 1-1½ in, vũ khí chính gồm 7 súng 7.5 inch, 3 súng 4 inch, 4 súng 3 inch, và 4 ống phóng ngư lôi.
    [​IMG]
    Tuần dương hạm hạng nặng Furutaka - khuôn mẫu của tuần dương hạm hạng nặng Nhật Bản, nó có trọng tải 9.150 tấn, tốc độ 34,5 hải lý/ giờ, giáp đai dày 76 mm, giáp boong dày 36 mm, vũ khí chính gồm 6 súng 20 cm, 4 súng 4.7in (120mm), tám ống phóng ngư lôi 24 in.
    [​IMG]
    Kiểu dáng thiết kế của chiếc Furutaka

    Sự nổi lên của các tầu chiến mới, lớp tàu tuần dương mạnh mẽ đã gây ra một cái gì đó có thể gọi là một cuộc đua vũ trang tàu tuần dương. Hải quân Nhật Bản đã xây dựng một học thuyết là luôn có các tàu mạnh hơn so với đối thủ của nó trong cùng một lớp tầu tương đương, dẫn đến sự phát triển của một số các lớp tàu tuần dương hạng nặng rất ấn tượng. Anh và Hoa kỳ chế tạo những con tầu trong khi phải chịu ảnh hưởng của những mong muốn để có thể bắt kịp với tàu tuần dương hạm Nhật Bản trong khi vẫn phải đảm bảo đủ cho những nhiệm vụ khác trên toàn cầu của họ. Với thiết giáp hạm thì loại tầu này bị kiểm soát chặt chẽ bởi quy định của Hiệp ước Washington, và các tàu sân bay thì chưa được phát triển, các vấn đề của tàu tuần dương đã trở thành công việc trọng tâm của hải quân của các quốc gia (Anh, Mỹ và Nhật Bản). Người Anh với một nền kinh tế căng thẳng và các cam kết toàn cầu, ủng hộ không giới hạn tổng trọng tải của tàu tuần dương, nhưng lại muốn giới hạn nghiêm ngặt về trọng tải cá nhân từng con tầu. Người Mỹ ủng hộ điều ngược lại: đó là một số lượng giới hạn các tàu tuần dương mạnh mẽ. Bất đồng giữa người Anh và người Mỹ đã làm thất bại hội nghị năm 1927 về việc hải quân.
    Ngay cả trong những năm 1920, mức trọng tải giới hạn 10.000 tấn đã không được tuân thủ một cách nghiêm túc. Các nhà thiết kế người Anh, Pháp và Mỹ nói chung đã làm việc trong giới hạn một cách chính xác. Tuy nhiên lớp tầu Myoko của người Nhật Bản, trong quá trình chế tạo của nó thì tổng tham mưu trưởng hải quân đã thuyết phục được các nhà thiết kế để tăng kích cỡ của vũ khí. Cũng như là một sự vi phạm Hiệp ước, đây là một quyết định sai lầm trên quan điểm của các nhà thiết kế và các con tàu phải được đóng lại vào những năm 1930 để giảm bớt trọng tải. Lớp tầu Deutschland của Đức, được đóng về mặt kỹ thuật như một tàu bọc thép phòng thủ bờ biển theo các điều khoản của Hiệp ước Versailles, nhưng thực tế được đóng thành một tuần dương hạm hạng nặng và được nâng cấp khẩu đội súng 11-inch để đánh đổi lấy tốc độ chậm hơn, con tầu này được công bố là có trọng tải 10.000 tấn nhưng trong thực tế nó lớn hơn đáng kể.
    Hiệp ước London
    Vào năm 1930 Hiệp ước Hải quân Washington được mở rộng bởi Hiệp ước Hải quân London, nó cuối cùng giải quyết các tranh cãi về tuần dương hạm đã diễn ra ác liệt trong những năm 1920. Hiệp ước quy định các giới hạn trên cho cả hai tàu loại tuần dương hạng nặng - Những tầu có súng lớn hơn 155 mm (6,1 inch) - và tuần dương hạm hạng nhẹ - Những tầu có cỡ nòng súng nhỏ hơn 6,1 in. Các giới hạn về trọng tải 10.000 tấn vẫn được áp dụng cho cả hai loại tầu. Đây là điểm mà tại đó người ta có thể phân loại giữa tàu tuần dương hạng nặng và hạng nhẹ, và cuối cùng chúng đã trở thành tiêu chuẩn chính thức và được phổ biến rộng rãi.
    Hiệp ước làm hài lòng Anh và Mỹ. Tuy nhiên, nó gây ra sự bực bội cho Nhật Bản, vì điều này hạn chế số lượng tàu tuần dương hạng nặng mà Hải quân Nhật có thể có, vì họ coi tàu tuần dương hạng nặng như là tàu chiến chủ chốt trong một trận chiến với đội hình tuyến chiến đấu của họ với súng 8-inch và trang bị ngư lôi hạng nặng. Hải quân Nhật đặt ít ưu tiên hơn về mục đích chế tạo tàu tuần dương hạng nhẹ, hầu hết chúng là các mẫu tầu hiện có của họ kể từ những năm 1920 (vào những năm Thế chiến II tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Nhật ít khi được vũ trang tốt hơn so với tuần dương hạm hạng nhẹ của hải quân Mỹ và Anh), mà phần lớn hải đội này bị xuống hạng để làm chỉ huy các tàu khu trục. Các giải pháp mà Nhật Bản áp dụng là chế tạo lớp tầu Mogami, chúng được công bố như là một tàu tuần dương hạng nhẹ trọng tải 10.000 tấn với mười lăm súng 6,1-inch. Trong thực tế chúng có trọng tải hơn 12.000 tấn, và người Nhật luôn luôn dự định thay thế tháp pháo của chúng để tạo ra một vũ khí cuối cùng là mười súng 203 mm (8 in), loại tầu này trở thành vô nghĩa trong việc xác định phân loại tuần dương hạm hạng nhẹ và hạng nặng.
    [​IMG]
    Hải quân Đức cũng vi phạm các hạn chế của hiệp ước với Lớp Đô đốc Hipper có trọng tải lên tới 14.000 tấn, tốc độ 32,5 hải lý/ giờ, vũ khí chính gồm 8 súng 203 mm (8 in), 12 súng 105 mm (4.1 in), 12 ống phóng ngư lôi 21 in.
    Trong giữa thập niên 1930, Anh, Pháp và Ý đã ngừng đóng các tàu tuần dương hạng nặng. Người ta cho rằng trong một tuần dương hạm có khả năng chiến đấu tốt hơn với một số lượng lớn hơn súng 155 mm (6-inch) chứ không phải với một số nhỏ súng lớn hơn 203 mm (8-inch). Phát bắn từ súng 203 mm chỉ có được thêm một chút lợi thế, vì hầu hết các tàu đều cấu tạo để có thể chịu được những phát đạn 6-inch và như vậy thì chúng cũng được bảo vệ để chống lại các phát đạn 8 inch. Ý tưởng này dẫn đến việc đóng một loạt các tàu tuần dương có trọng tải giới hạn 10.000 tấn, và có từ 12-15 súng 155 mm (6 in). Trong khi thiết kế các tàu tuần dương hạm trôi dần về phía hạng nhẹ vì nhờ tầm cỡ của vũ khí chính của chúng, chúng lại được thiết kế để chống lại một tàu tuần dương hạng nặng trong các điều kiện như nhau, một lần nữa lại trở thành một cái gì đó vô nghĩa trong việc phân loại.
    Hiệp ước Hải quân London năm 1936, chủ yếu là đàm phán giữa Anh và Hoa Kỳ nhưng hiệp ước này không bao giờ phê chuẩn, nó bãi bỏ hoàn toàn các tàu tuần dương hạng nặng bằng cách hạn chế các tầu đóng mới ở trọng tải 8.000 tấn và súng 155 mm (6,1-inch). Các điều khoản này rất phù hợp với mong muốn của Anh, nhưng nói chung hiệp ước này là vô nghĩa. Hoa Kỳ tiếp tục chế tạo những tàu tuần dương hạng nặng mà đỉnh cao là các lớp New Orleans và USS Wichita.
    Trong thế chiến thứ hai


    Tàu tuần dương hạng nặng vẫn được chế tạo, và chúng có thể được thiết kế một cách đầy cân nhắc khi các quốc gia quyết định đối phó với các hạn chế của Hiệp ước Hải quân London. Người Đức đóng tàu tuần dương hạng nặng lớp Hipper của họ với trọng tải lên tới 14.000 tấn, mặc dù Hiệp ước Hải quân Anh-Đức được cho là để giới hạn trọng lượng tàu của họ. Người Mỹ đóng lớp tuần dương hạm hạng nặng Baltimore trong chiến tranh. Trong khi trước đó tàu tuần dương hạng nặng được ghi nhận là trang bị ngư lôi mạnh (đặc biệt là tàu tuần dương hạng nặng của Nhật Bản), sau đó những tàu được đóng bởi USN tập trung chủ yếu vào việc trang bị vũ khí phòng không bởi vai trò chính của chúng là hộ tống các tàu sân bay thay vì tham gia vào các hoạt động quân sự trên bề mặt. Thật hài hước, hầu hết các tàu tuần dương hạng nặng của Nhật Bản bị đánh chìm bởi máy bay hoặc tàu ngầm chứ không phải các trận tầu đối tầu.

    Các tàu tuần dương hạng nặng mới nhất của Hoa kỳ được hoàn thành ngay sau khi chiến tranh thế giới II bùng nổ. Các tầu lớp Baltimore bao gồm mười bảy tàu, luôn cả sáu chiếc hơi khác nhau của lớp Oregon City. Các tầu lớp Des Moines là các tàu tuần dương hạng nặng được chế tạo cuối cùng, mặc dù dựa trên lớp Baltimores nhưng chúng lại trở nên nặng hơn đáng kể do loại súng 203 mm (8-inch) mới bắn nhanh của chúng. Ngoài ra, hai tàu sân bay được chế tạo trên các thân tầu có nguồn gốc từ lớp Baltimore, các chiếc lớp Saipan.
    Các tàu tuần dương hạng nặng lớn nhất của Hoa kỳ là lớp Alaska . Mặc dù nhìn chung chúng trông giống như tuần dương hạm chủ lực hoặc thiết giáp hạm hiện đại, chúng cũng có vũ khí chính tương tự và trọng tải ngang bằng thậm chí còn lớn hơn các tầu chủ lực của Thế chiến thứ nhất, nhưng chúng chưa thực sự vượt ra khỏi loại tàu tuần dương hạng nặng. Ví dụ lớp Alaskas, thiếu vành đai bọc thép và hệ thống ngư lôi phòng thủ của các tàu chủ lực thực sự. Chúng có tỷ lệ của trọng lượng giáp là 16% trên trọng tải, tương tự như tuần dương hạm hạng nặng, thua xa với tàu chủ lực của Anh HMS Hood với 30%, cũng như chiếc Scharnhorst của Đức và North Carolina của Hoa kỳ 40%. Bố trí máy móc của Alaskas, nó sở hữu của một bánh lái duy nhất đây là thiết kế dựa trên tàu tuần dương chứ không phải là của tàu chiến chủ lực.


    Tàu tuần dương hạng nặng dần không còn được sử dụng sau Thế chiến thứ hai. Một số tàu tuần dương hạng nặng hiện tại Mỹ kéo dài thời gian phục vụ cho đến những năm 1970, đôi khi được chuyển đổi để thành tuần dương hạm tên lửa có điều khiển (biểu tượng CG).
    Tàu tuần dương hạng nặng tồn tại lâu nhất (kể từ năm 2006) Là USS Salem, Bây giờ là một bảo tàng tàu.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:05 ngày 27/04/2010
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm hạng nặng Haguro thuộc lớp Myōkō của Hải quân Nhật Bản, thiết kế của lớp tầu này bị ảnh hưởng quá nhiều từ các ý kiến của Hải quân nên phải thiết kế lại
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm hạng nặng Admiral Scheer thuộc lớp Deutschland của Hải quân Đức, chiếc này là một con tầu vi phạm hiệp ước hải quân, nó có trọng tải tối đa 16.200 tấn, tốc độ tối đa 28,5 hải lý/ giờ, giáp đai 80 mm, boong 40 mm, vũ khí chính gồm: 6 súng 280 mm (11 inch), 8 súng 150 mm (5.9 inch), 6 súng 105 mm (4.1 inch) và 8 ống phóng ngư lôi 21 inch.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm hạng nặng Maya thuộc lớp Takao của Hải quân Nhật Bản, chiếc này được đóng với những quan niệm mới về hải quân nên được trang bị tới 117 khẩu súng phòng không 25 mm
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:31 ngày 27/04/2010
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tuần dương hạm chủ lực ?" Battle Cruiser ( hay còn được gọi là Tuần dương - thiết giáp hạm hoặc Tuần dương hạm lớp Dreadnought)
    Tuần dương hạm chủ lực hoặc tuần dương ?" thiết giáp hạm là những tàu chiến lớn trong nửa đầu của thế kỷ 20 chúng được đưa vào phục vụ chiến đấu đầu tiên bởi Hải quân Hoàng gia Anh. Tàu tuần dương chủ lực được phát triển như là sự kế thừa của loại tuần dương hạm bọc thép, nhưng sự tiến hóa của chúng có mối liên kết chặt chẽ với các thiết giáp hạm lớp Dreadnought. Chiếc tàu đầu tiên của loại này là chiếc Invincible, ban đầu được thiết kế như một "tàu tuần dương Dreadnought ".
    Tuần dương hạm - thiết giáp hạm thường rất lớn và đắt đỏ như thiết giáp hạm cùng thế hệ, chúng thường sử dụng các vũ khí có cỡ nòng lớn làm súng chính, nhưng chúng thường được đánh đổi độ giày của giáp hoặc hỏa lực lấy tốc độ cao hơn (có lẽ đây chính là sự khác biệt giữa Tuần dương hạm - thiết giáp hạm và thiết giáp hạm lớp Dreadnought). Các Tuần dương hạm - thiết giáp hạm đầu tiên mang các lớp giáp mỏng hơn đáng kể so với thiết giáp hạm tương đương, có nghĩa là chúng không thể chịu nổi chính cỡ súng mà chúng được lắp trên con tầu. Vì vậy, đây là loại tàu có thể tạo ra sự trừng phạt nhiều hơn đòn chúng có thể chịu đựng.
    Sự phân biệt rạch ròi giữa Tuần dương hạm - thiết giáp hạm và thiết giáp hạm lớp Dreadnought không bao giờ là hoàn toàn rõ ràng. Các phát minh của thiết giáp hạm trong Hải quân Hoàng gia Anh được điều hành bởi Đô đốc Jackie Fisher, Người dự kiến chúng như là một kiểu tuần dương hạm bọc thép mới mang tính cách mạng mà chúng có thể thay thế các thiết giáp hạm trở thành vũ khí chủ yếu của Anh Quốc trên biển. Ý tưởng của Fisher là tập trung vào sử dụng Tuần dương hạm - thiết giáp hạm để bảo vệ đế quốc, chúng được điều khiển bằng một mạng lưới thông tin tình báo toàn cầu và các trung tâm phân tích ?" sử lý thông tin của Bộ Hải quân (tại những năm đầu TK 20 lãnh thổ của nước Anh vẫn trải khắp thế giới) để tiêu diệt những tàu chiến yếu hơn mà con mồi cũng có thể là những chiếc tàu buôn trong vùng biển quốc tế, bằng cách tấn công ở khoảng xa hơn, bắn chính xác hơn và sức công phá cao hơn. ( Như vậy Fisher muốn Tuần dương hạm - thiết giáp hạm của ông ta là những tầu chiến đa năng: Một là vẫn vào đội hình chiến đấu hải đối hải được như thiết giáp hạm Dreadnought, có lẽ kém loại này một chút về giáp và hỏa lực nhưng về tốc độ lại hơn hẳn. Hai là vẫn làm được nhiệm vụ tuần dương hộ tống và tấn công các đoàn công voa, thiết giáp hạm Dreadnought có sức đối kháng cao nhưng khó làm được nhiệm vụ này vì có tốc độ thấp và đối phương sẽ vù mất)
    [​IMG]
    Chiếc HMS Hood, Tuần dương hạm - thiết giáp hạm lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn bất kỳ thiết giáp hạm nào của Anh cho đến khi có sự phục vụ của chiếc thiết giáp hạm HMS Vanguard vào năm 1946. Nó là chiếc tàu chiến lớn nhất trước khi có sự xuất hiện của chiếc Bismarck, trong chiến đấu chiếc Hood đã bị phá hủy với tất cả những người trên tầu chỉ trừ có ba trong số thủy thủ đoàn được cứu sống trong trận eo biển Đan Mạch. Nó có trọng tải nạp đầy lên đến 47.000 tấn, tốc độ 29 -> 31 hải lý/ giờ, giáp đai từ 12?"> 6 in (305?"152 mm), giáp boong từ 0.75?"3 in (19?"76 mm) ổ pháo 12?"> 5 in (305?"127 mm) tháp pháo 15?"> 11 in (381?"279 mm), vũ khí chính gồm 8 súng 15 inch (381 mm), 14 súng 4 inch (102 mm) và 4 ống phóng ngư lôi 21 inch.
    Tuy nhiên, thiết giáp hạm vẫn tiếp tục thống trị cuộc chiến trên bề mặt xuyên xuốt thời gian của Thế chiến thứ nhất, và về cơ bản thì thiết giáp hạm vẫn đóng một vai trò khó mà thay thế được trong một hạm đội tại thời kỳ này. Thiết giáp hạm tạo thành phần trụ cột của hải quân các nước Anh, Đức và Nhật Bản trong Thế chiến I và chúng có tham gia một số trận đánh như Trận Jutland.
    Trong nhiệm vụ tấn công đoàn tầu công voa như dự kiến của Fisher, tàu tuần dương hạm được thay thế bởi tàu ngầm và máy bay. Đức quyết định tham gia vào cuộc chiến tàu ngầm không hạn chế vào năm 1917, một quyết định về tương tự về mặt chiến thuật cũng được áp dụng tại Chiến tranh thế giới II đã tạo ra những suy nghĩ phía hậu trường rằng những tàu tuần dương chủ lực đã lỗi thời.
    Đến cuối Thế chiến thứ nhất, có rất ít sự khác biệt giữa thiết kế của tàu tuần dương chủ lực và thiết giáp hạm tốc độ cao. Anh, Nhật Bản và Hoa Kỳ tất cả các quốc gia này đều thiết kế tàu Tuần dương hạm - thiết giáp hạm sau khi kết thúc Thế chiến thứ nhất, chúng được coi là vũ khí mạnh ngang một chiếc thiết giáp hạm, mặc dù chúng nhanh hơn và không được bọc thép quá nặng nề. Hiệp ước Hải quân Washington, trong đó giới hạn việc chế tại tầu chiến chủ lực từ năm 1922 trở đi, nên Tuần dương hạm - thiết giáp hạm và thiết giáp hạm được sử lý giống nhau. Các tầu tuần dương thế hệ mới đã bị tháo dỡ theo các điều khoản của hiệp ước này.
    Từ những năm 1930, chỉ có Hải quân Hoàng gia Anh tiếp tục sử dụng Tuần dương hạm - thiết giáp hạm như là một loại trong các loại tàu chiến. Tuy nhiên, một cách nhanh chóng, tàu chiến chủ lực hạng nhẹ được phát triển bởi Đức và Pháp, đó là các lớp Scharnhorst và Dunkerque và chúng cũng thường được gọi là tàu tuần dương chủ lực. Những con tàu này cũng được bọc thép dày như các tầu Tuần dương hạm - thiết giáp hạm nhưng chúng mang vũ khí có cỡ nòng nhỏ hơn.
    Tại Chiến tranh thế giới II người ta lại thấy Tuần dương hạm - thiết giáp hạm tham chiến một lần nữa và họ lại quan tâm trở lại với loại tầu chiến mang biệt danh? kẻ sát thủ của các tuần dương hạm?o này. Tuy nhiên, tiền để đóng tàu lại bị cắt giảm để cung cấp nguồn lực cho việc đóng thêm các tầu hộ tống công voa, máy bay và tàu sân bay, quá ít các tàu tuần dương đã được hoàn thành. Từ cuối Chiến tranh Thế giới II không có tàu tuần dương chủ lực nào được hoàn thành, mặc dù một số tàu - chẳng hạn như tầu lớp Kirov - đã được mô tả như là tầu tuần dương chủ lực.
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tàu tuần dương chủ lực đầu tiên
    ( người viết bài dùng thuật Tuần dương hạm chủ lực - Battle Cruiser thay thế cho thuật ngữ Tuần dương - thiết giáp hạm để tránh nhầm lẫn với loại tầu thiết giáp hạm)
    Các tàu tuần dương chủ lực là một sự tiến hóa mạnh mẽ của các thiết kế của tuần dương hạm bọc thép và thiết giáp hạm hạng II của những năm 1890, chủ yếu do Anh Đô đốc Jackie Fisher đề xướng. Vào đầu thế kỷ 20, tàu tuần dương bọc thép hiện đại là một tầu chiến chạy nhanh và mạnh mẽ có khả năng đe dọa con đường thương mại trên toàn thế giới, hoặc có vai trò lớn trong một hạm đội tàu chiến. Hải quân Hoàng gia Anh nói chung và Fisher nói riêng, đã quan tâm đến những mối nguy hiểm của tàu tuần dương bọc thép (đặc biệt là những chiếc của Hải quân Pháp) có thể gây ra trên toàn thương mại toàn cầu của Anh trong trường hợp có chiến tranh. Fisher dự kiến tàu tuần dương bọc thép của Anh phải nhanh hơn và phải có vũ khí mạnh để đối phó với mối đe dọa này. Ông cũng rất muốn nâng cấp chiếc thiết giáp hạm hạng hai HMS Renown, thành một chiếc thiết giáp hạm nhẹ hơn và nhanh hơn. Đầu năm 1901, có sự nhầm lẫn về các văn bản của Fisher về việc liệu ông lấy thiết giáp hạm hoặc tuần dương hạm như là mô hình cho sự phát triển của loại tầu chiến trong tương lai.
    Trong giai đoạn 1902-1904 tư duy chính thống của hải quân Anh là rõ ràng hướng về lợi thế của thiết giáp hạm chứ không phải là tàu cao tốc mà Fisher ưa chuộng. Tuy nhiên, một sự thay đổi xuất phát từ vũ khí có cỡ nòng hỗn hợp của tầu tiền Dreadnought trong những năm 1890 đến một thiết kế tất cả các súng lớn đã và đang được xem xét. Thiết kế ban đầu chuẩn hóa các thiết giáp hạm với tất cả súng 12-inch hoặc 10-inch và tàu tuần dương bọc thép với tất cả các súng 9,2-inch.
    Trong mùa hè năm 1904, sau khi Fisher được bổ nhiệm là First Sea Lord, ông đã quyết định đưa vào sử dụng súng 12-inch cho thiết giáp hạm các thế hệ kế tiếp vì loại này có hiệu suất cao ở tầm xa. Vũ khí của tàu tuần dương bọc thép tiếp theo đã gây ra nhiều tranh cãi. Kích thước và chi phí của các thế hệ kế tiếp của tuần dương hạm bọc thép có nghĩa là người ta đã rất mong muốn rằng chúng có thể đóng một vị trí trong các hoạt động của thiết giáp hạm, và điều này có nghĩa là chúng cũng có súng 12-inch. Đây là cùng một logic được dẫn đầu tuần dương hạm Nhật Bản khi họ trang bị cho lớp tuần dương mới nhất của mình với bốn khẩu súng 12-inch làm vũ khí chính của chúng. Tuy nhiên, điều này cũng rất có thể là Fisher muốn cho tàu tuần dương được trang bị vũ khí tương tự như tàu chiến, vì ông có hy vọng rằng việc thiết kế tàu tuần dương sẽ là sự thay thế cho các tàu thiết giáp. Quyết định trang bị cho thế hệ kế tiếp của tuần dương hạm bọc thép một khẩu đội với ?otất cả các súng lớn ?o là thời điểm rất quan trọng trong việc phát triển của loại tàu chiến này. Nếu các con tàu chỉ được trang bị súng 10-inch hoặc 9,2-inch, chúng chỉ đơn thuần là sẽ tốt hơn loại tàu tuần dương bọc thép.
    Các thay đổi cấp tiến trong chính sách đóng tàu mà Fisher đã làm nghĩa là ông bổ nhiệm một Ủy ban về Thiết kế trong tháng 12 năm 1904. Mục đích ban đầu của Uỷ ban là điều tra và báo cáo về các yêu cầu của các con tàu trong tương lai, các quyết định quan trọng đã được thực hiện bởi Fisher và các cộng sự. Ủy ban này đã hướng vào một tàu thiết giáp hạm có khả năng di chuyển với tốc độ tối đa 21 hải lý với súng 12-inch và không có súng cỡ nòng trung gian, có khả năng hoạt động từ các bến cảng hiện có, và một loại tuần dương hạm có tốc độ 25,5 hải lý /h, với khẩu súng 12-inch làm vũ khí chính và không có trung gian, có giáp giống như chiếc HMS Minotaur, chiếc tuần dương hạm bọc thép được hạ thủy gần nhất, và cũng có khả năng hoạt động từ các bến cảng hiện có. Các chiến hạm này đã trở thành con tầu thiết giáp hạm mang tính cách mạng HMS Dreadnought, và các tàu tuần dương đã trở thành ba con tàu của lớp Invincibles.
    Ba chiếc lớp Invincible là các chiếc Inflexible, Invincible and Indomitable. Việc chế tạo chúng được bắt đầu vào năm 1906 và hoàn thành vào năm 1908, tiến độ đóng tầu chậm có lẽ để cho phép thiết kế của chúng có thể học hỏi từ mọi vấn đề xảy ra với lớp Dreadnought. Các tàu đã hoàn thành các yêu cầu thiết kế khá chặt chẽ. Các tầu lớp Invincible có trọng tải tương tự như của lớp Dreadnought nhưng có tốc độ lên đến 25 knot (46 km / h). Chúng có tám súng 12-inch (305 mm) so với mười khẩu trên lớp Dreadnought. Và có giáp 6 hoặc 7 inch (150-180 mm) dày dọc theo bên của thân tàu và trên các ụ súng, trong khi giáp của lớp Dreadnought là 11 inch (280-300 mm) tại chỗ dày nhất. Lớp tầu này có một sự gia tăng rất đáng kể tốc độ, trọng tải và hỏa lực so với tuần dương hạm bọc thép gần đó nhất nhưng không có thêm giáp.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm chủ lực Invincible của Anh, một trong ba chiếc tầu chiến lớp Invincible, nó có trọng tải 20.750 tấn nạp đầy, tốc độ 25,5 hải lý/ giờ, giáp đai dày 4?"6 in (102?"152 mm) giáp boong dày 1.5?"2.5 in (38?"64 mm), vũ khí chính gồm 8 súng 12 inch (304.8 mm) 16 súng 4 in (102mm) và 5 ống phóng ngư lôi 18 inch (450-mm).

    Các tầu lớp Invincible có vai trò giống như của loại tuần dương hạm bọc thép họ mà chúng đã thành công, nhưng các tàu mới được dự kiến có hiệu quả hơn trên nhiều mặt. Cụ thể vai trò của chúng là:
    ? Trinh sát hạng nặng. Bằng sức mạnh của mình, lớp tầu Invincible có thể quét sạch các tuần dương hạm của đối phương để đi lại gần và quan sát một hạm đội của đối phương, trước khi sử dụng tốc độ vượt trội của mình để rút lui.
    ? Hỗ trợ trặt trẽ cho hạm đội của mình. Chúng có thể được được định vị ở cuối dòng tàu thiết giáp để ngăn chặn tầu tuần dương của kẻ thù quấy rối các tàu thiết giáp hạm, và để quấy rối tàu thiết giáp của đối phương nếu chúng đang bận rộn trong trận đối đầu giữa các thiết giáp hạm. Ngoài ra, các tầu lớp Invincible có thể hoạt động như một lực lượng phản ứng nhanh của hạm đội và được sử dụng để loại bỏ kẻ thù một cách bất ngờ.
    ? Truy đuổi. Nếu hạm đội đối phương bỏ chạy, sau đó các tầu lớp Invincible sẽ sử dụng tốc độ của mình để theo đuổi chúng, và súng của mình để gây thiệt hại hoặc tiêu diệt các tàu chạy chậm của đối phương.
    ? Bảo vệ và tấn công các đoàn công voa tầu buôn. Các tàu mới sẽ nhấn chìm các tàu tuần dương của đối phương và tấn công các đoàn công voa tầu buôn của chúng.
    Nhầm lẫn về làm thế nào để phân hạng các hạm tuần dương hạm bọc thép cỡ lớn kiểu mới đã xảy ra gần như ngay lập tức. Ngay từ vào cuối năm 1905, trước khi công việc xếp hạng được bắt đầu với lớp Invincibles, Một biên bản ghi nhớ của Hải quân Hoàng gia Anh đã đề cập đến "tàu bọc thép lớn" có nghĩa là cả hai loại thiết giáp hạm và Tuần dương hạm - thiết giáp hạm. Trong tháng 10 năm 1906, Bộ Hải quân đã bắt đầu phân loại tất cả các tàu tiền Dreadnought và tàu tuần dương bọc thép là "tầu chủ lực", Trong khi Fisher sử dụng thuật ngữ" Dreadnought "để tham khảo hoặc để gọi các thiết giáp hạm mới của mình hoặc bao gồm luôn các thiết giáp hạm và tuần dương hạm bọc thép với nhau. Đồng thời, các tầu lớp Invincible được gọi là "tàu tuần dương-thiết giáp hạm", "tuần dương hạm Dreadnought", các "thuật ngữ" của tàu chiến lần đầu tiên được sử dụng bởi Fisher năm 1908. Cuối cùng, ngày 24 tháng 11 năm 1911, Công lệnh cuối tuần của Bộ Hải quân số 351 ra quyết định rằng "Tất cả tàu tuần dương của lớp Invincible và những lớp sau đó, sẽ được mô tả và phân loại như là tàu thiết giáp để phân biệt với các tuần dương hạm bọc thép thuộc loại cũ hơn.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:29 ngày 28/04/2010
  10. 0anh89

    0anh89 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2010
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Những chiến hạm vượt thời gian :
    Chiếc tàu hải quân lâu đời nhất thế giới vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay là chiếc VMS Kommuna của hải quân Nga, trong vai trò là tàu dịch vụ, hỗ trợ cho hoạt động của các tàu ngầm loại nhỏ. Con tàu 2 thân nặng 2500 tấn này được đóng tại Hà lan và chính thức tham gia biên chế trong hải quân của Sa hoàng từ 1915, nghĩa là nó đã trải quan gần 1 thế kỷ thăng trầm của nước Nga, với 3 chế độ chính trị khác nhau.
    [​IMG]
    Trên danh nghĩa thì chiếc tàu cổ nhất vẫn còn trong biên chế hải quân là chiếc USS Constitution của hải quân Mỹ. Nó là 1 chiếc tàu buồm và đã thuộc hải quân Mỹ từ 1797 cho tới nay. Hiện nay nó vẫn được coi là 1 chiến hạm chính thức thuộc biên chế, với 1 thủy thủ đoàn cũng thuộc lực lượng thường trực của hải quân Mỹ. Sở dĩ con tàu hơn 200 tuổi này được giữ lại là do danh tiếng của nó trong lịch sử, đặc biệt là trong Chiến tranh 1812 với hải quân Anh. Khi đó nó đã chiếm được rất nhiều tàu hàng của Anh và đã đánh bại 5 chiến hạm khác nhau của hải quân Hoàng gia Anh. Nổi tiếng nhất là trận chiến với chiến hạm HMS Guerriere. Khi đó những phát đạn đại bác từ tàu Anh bắn vào thân tàu Constitution đều bị nảy ra. Một thủy thủ khi đó đã thốt lên rằng thân tàu của nó giống như được làm bằng thép vậy.
    [​IMG]
    Hải quân Anh cũng có 1 chiếc tàu buồm vẫn còn trong biên chế, đó là chiếc HMS Victory. Đây là chiếc kỳ hạm mà đô đốc Horatio Nelson đã dùng trong trận chiến Trafalgar năm 1805. Đây là trận hải chiến quan trọng nhất trong lịch sử thế giới cận đại, và là 1 trong những trận quan trọng nhất trong lịch sử loài người. Trong trận chiến đó, hạm đội của Nelson dù có số lượng ít hơn đã đánh bại hoàn toàn hạm đội của Napoleon, tiếp tục khẳng định sự thống trị tuyệt đối của hải quân Anh trước hải quân của Hoàng đế Pháp, do đó bảo vệ được nước Anh trước tham vọng của thiên tài quân sự này. Đô đốc Nelson hy sinh trong quá trình diễn ra trận chiến và được tàu Victory chở về Anh, nơi ông được tôn vinh là người anh hùng vĩ đại nhất của Anh cho tới ngày nay. Bản thân chiếc Victory đã nằm trong biên chế từ 1778, nghĩa là còn lâu đời hơn chiếc USS Constitution, tuy nhiên nó mất danh hiệu chiếc tàu chiến cổ nhất trong biên chế chính thức vì nó chủ yếu được giữ trên cạn, trong khi chiếc Constitution vẫn còn có thể di chuyển được. Tuy vậy nếu tính đến yếu tố vẫn còn được sử dụng cho nhiệm vụ thật sự thì chiếc VMS Kommuna là chiếc lâu đời nhất.
    [​IMG]

Chia sẻ trang này