1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tầu tuần dương chủ lực trong cuộc chạy đua vũ trang lớp tầu Dreadnought

    Chiếc Invincibles chỉ ra đời trước sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất một thời gian ngắn, các lớp tàu thiết giáp hạm đóng vai trò cơ bản trong cuộc chạy đua phát triển tầu Dreadnought. Tàu tuần dương chủ lực không bao giờ được chấp nhận như là vũ khí chủ chốt trong quốc phòng của Hoàng gia Anh, như Fisher có lẽ đã mong muốn.
    Hoàn cảnh chiến lược của nước Anh đã thay đổi rõ rệt giữa quan niệm của tàu tuần dương chủ lực và những chiếc tàu đầu tiên được đưa vào sử dụng. Trong khi những đối thủ truyền thống trước đây của Anh như liên minh Pháp-Nga với nhiều tuần dương hạm bọc thép, thì bây giờ đối thủ lại rõ ràng là Đức. Về phương diện ngoại giao, Anh đã gia nhập vào Entente vào năm 1904 và Đồng minh Entente Anh-Nga. Xa hơn nữa chẳng phải Pháp cũng chẳng phải Nga sẽ là mối đe dọa cụ thể về hải quân, hải quân Nga đã phần lớn bị đánh chìm hoặc bị bắt trong Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904->5, trong khi người Pháp đã không vội vàng để áp dụng công nghệ đóng thiết giáp hạm lớp Dreadnought mới. Anh cũng khoe khoang mối quan hệ rất thân mật với hai trong số những cường quốc hải quân mới và quan trọng, Nhật Bản (ủng hộ của Liên minh Anh-Nhật, đã ký kết năm 1902 và gia hạn vào năm 1905), và Hoa Kỳ.
    Những thay đổi về hoàn cảnh chiến lược, và sự thành công lớn của tầu thiết giáp lớp Dreadnought đảm bảo rằng nó sẽ thay thế tầu lớp Invincibles để trở thành mô hình mới cho tàu chiến chủ lực. Tuy nhiên, việc chế tạo tàu tuần dương chủ lực cũng đóng một phần quan trọng trong cuộc chạy đua vũ trang hải quân mới bắt nguồn từ lớp tầu Dreadnought.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm chủ lực Queen Mary, chiếc thứ 3 trong lớp Lion của Anh, chiếc này toi mạnh trong trận Jut.land. Nó có trọng tải 27.200 tấn nạp đầy, tốc độ 28 hải lý/ giờ, Giáp đai dày 9<?"4 inches (229?"102 mm) giáp boong dày 2.5 inches (64 mm), vũ khí chính gồm 8 súng 13.5-inch (343 mm), 16 súng 4-inch (102 mm) 2 ống phóng ngư lội 21 in (530 mm)

    [​IMG]
    Bàn vẽ phác thảo của lớp Lion mà chiếc Queen Mary là 1 trong lớp này
    Trong những năm đầu tiên sau khi hoàn thành, cáctầu lớp Invincible có thể hoàn toàn thực hiện tầm nhìn của Fisher vì chúng có thể đánh chìm bất kỳ tàu chiến nào đủ nhanh để bắt kịp họ, và chạy thoát khỏi bất kỳ con tàu có khả năng đánh chìm chúng. Một tầu chiến lớp Invincible có thể hoàn thành nhiều nhiệm vụ đa năng, nó có thể đánh chìm một thiết giáp hạm tiền Dreadnought của đối phương. Các tầu lớp Invincibles đến lúc đó được cho bất khả chiến bại trước bất kỳ tàu tuần dương bọc thép nào của đối thủ, Điều này dẫn đến một sự khó khăn để biện minh cho việc đóng nhiều tàu tuần dương hơn hoặc lớn hơn. Việc dẫn đầu này được mở rộng ra bởi việc chế tạo cả hai lớp tầu Dreadnought và Invincible, điều này nhắc nhở lực lượng hải quân các nước khác trì hoãn các chương trình đóng tầu trong khi đó họ tăng cường hoàn chỉnh thiết kế của họ. Điều này đặc biệt đúng đối với tàu tuần dương, bởi vì các chi tiết của tầu lớp Invincibles được giữ bí mật lâu hơn, điều này có nghĩa là chiếc tàu tuần dương bọc thép sau đó của Đức, chiếc Blücher chỉ được trang bị súng 8,2-inch, và đã lỗi thời ngay cả trước khi nó chưa được hạ thuỷ.
    Việc chiếm ưu thế hàng đầu của Hải quân Hoàng gia Anh về tàu chiến đã dẫn đến việc hủy bỏ một thiết kế của năm 1905-> 6 mà về cơ bản nó đã có thể hợp nhất các khái niêm tàu tuần dương chủ lực và thiết giáp hạm vào làm một. Thiết kế ?o4X? kết hợp đầy đủ giáp và vũ khí cho lớp Dreadnought với tốc độ 25-knot của tầu lớp Invincible. Tuy nhiên, chi phí tăng thêm làm người Anh phải xuy nghĩ và nhu cầu về tài chính cho nền kinh tế của chính phủ ở Anh đã làm cho họ chon thiết kế Bellerophon chậm hơn và rẻ hơn, một bản sao tương đối gần với Dreadnought đã được thông qua để thay thế.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm chủ lực Bellerophon, một mẫu thiết kế tiết kiệm chi phí và không thành công của Anh. Nó có trọng tải 18.600 tấn, tốc độ 20,75 hải lý/ giờ, vũ khí chính gồm 10 súng 12-inch (304.8 mm) 16 súng 4-inch (101.6 mm) 3 ống phóng ngư lôi 18 in (45 cm)
    Tuy nhiên, năm 1911 Đức đã chế tạo được nhiều tầu tuần dương chủ lực của riêng mình, và ưu thế của các con tàu của Anh không còn có thể được đảm bảo. Chiếc Von der Tann, được bắt đầu vào năm 1908 và hoàn thành vào năm 1910, mang tám súng 11,1-inch nhưng với lớp áo giáp bảo vệ dày 11,1-inch (280 mm) tốt hơn nhiều so với lớp Invincible. Hai chiếc lớp Moltkes khá tương tự nhau nhưng mang mười súng 11,1-inch của một thiết kế đã được cải tiến. Hải quân Đức đã không chia sẻ quan điểm của Fisher về những gì mà một tàu tuần dương chủ lực phải có, tuy nhiên, nó vẫn chế tạo những tàu tuần dương bọc thép theo các điều khoản của Luật Hải quân, và được sử dụng quyền này để làm chúng ngang bằng hoặc tốt hơn các tàu chiến Anh.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm chủ lực SMS Von der Tann, câu trả lời của người Đức, nó có trọng tải 23.500 tấn nạp đầy, tốc độ 24,8 hải lý/ giờ, giáp đai dày 80 mm (3.1 in)?"> 250 mm (9.8 in) tháp pháo dày 230 mm (9.1 in) tháp điều khiển dày 250 mm (9.8 in), vũ khí chính gồm 8 súng 28 cm (11 in) 10 súng 15 cm (5.9 in) 16 súng 8.8 cm (3.5 in) và 4 - 45 cm (18 in) ống phóng ngư lôi.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm chủ lực lớp Moltk của Đức, trọng tải 25.400 tấn, tốc độ 28.4 hải lý/ giờ, giáp đai dày 280?"76.2 mm (11?"3 inches) ổ pháo dày 230 millimetres (9.1 in) tháp pháo dày 230 millimetres (9.1 in) giáp boong dày 76.2?"25.4 mm (3?"1 inches), vũ khí chính gồm 8 súng 28 cm (11 in) 12 súng 15 cm (5.9 in) 12 súng 8.8 cm (3.5 in)
    Các tàu tuần dương chủ lực tiếp theo của Anh là ba chiếc thuộc lớp Indefatigable. Những con tàu này đã được cải tiến đôi chút so với các tầu lớp Invincible, trong đó có sửa chữa một số sai sót của lớp tàu trước đó nhưng về cơ bản là giống nhau. Người Anh đã bị hăm dọa bởi những bí mật xung quanh công cuộc chế tạo tàu tuần dương của Đức và đặc biệt về lớp giáp dầy của Von der Tann. Áp lực chính trị để giảm chi phí cũng đóng một vai trò lớn trong việc lựa chọn thiết kế của lớp Indefatigable, và lớp này được nhiều người coi là một sai lầm.
    Các thế hệ tiếp theo của tàu tuần dương chủ lực Anh đã mạnh hơn rõ rệt. Vào các năm 1909-1910 không khí chính trị đã thay đổi, những mong muốn cắt giảm chi phí bây giờ bị đẩy lùi bởi một cảm giác trong cuộc khủng hoảng quốc gia về sự đối đầu với với Đức. Cuộc khủng hoảng chính trị và hoảng sợ một sự thua sút về hải quân dẫn đến sự chấp thuận trong việc đóng thêm tổng cộng tám tàu chủ lực trong những năm 1909-1910. Fisher muốn tất cả bọn chúng đều là tàu tuần dương chủ lực, nhưng đã không thể thực hiện được mong muốn của mình, và phải chấp nhận giải pháp đóng sáu tàu thiết giáp cùng với hai tầu tuần dương chủ lực lớp Lion. Lớp này mang tám súng 13,5-inch, vũ khí tiêu chuẩn của một "tầu thiết giáp siêu Dreadnought của Anh" cùng thời kỳ này mười súng 13,5-inch. Tốc độ tăng lên đến 27 hải lý/ giờ. Lớp Lion cũng mang giáp tốt hơn so với trước đó với các lớp trước của người Anh, với 9 inch trên vành đai giáp và hầm pháo, tuy nhiên, bảo vệ không được tốt như trong thiết kế của Đức. Hai chiếc lớp Lion được theo sau bởi lớp Queen Mary giống y hệt
    Trái ngược với việc tập trung vào tăng tốc độ và hỏa lực của tầu Anh, Đức tiếp tục cải thiện lớp giáp và giữ nguyên sức mạnh ở các lớp tàu tuần dương chủ lực tiếp theo của họ, lớp Seydlitz, được thiết kế vào năm 1909 và hoàn thành vào năm 1913, là một cải tiến của lớp Moltke, Tốc độ tăng thêm một hải lý để đạt đến 26,5 hải lý/ giờ, trong khi giáp của được nâng lên dày 12 in, tương đương với lớp tầu thiết giáp Helgoland của chỉ một hoặc hai năm trước đó. Chiếc Seydlitz là tàu tuần dương chủ lực mới nhất của Đức được hoàn tất trước Thế chiến I.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm chủ lực SMS Seydlitz của Hải quân Đức, chiếc tầu tuần dương thiết thiáp cuối cùng của Đức trước thế chiến I, nó có trọng tải 28.550 tấn nạp đầy , tốc độ tối đa 26,5 hải lý/ giờ, trang bị vũ khí chính 10 súng 280 mm (11.2 in) 12 súng 150 mm (5.9 in) 12 súng 88 mm (3.45 in)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:46 ngày 29/04/2010
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Bước tiếp theo trong việc thiết kế tàu tuần dương đến từ Nhật Bản. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã quy hoạch lớp tầu Kongō từ năm 1909. Hải quân Nhật Bản xác định rằng, vì nền kinh tế Nhật Bản chỉ có thể tài trợ cho một số lượng tàu tương đối ít, mỗi con tàu sẽ phải có khả năng mạnh hơn tầu tương đương của đối thủ của nó. Ban đầu lớp được chon làm tiêu chuẩn là lớp Invincible. Tuy nhiên, Hải quân Anh có kế hoạch cho lớp Lion, và khả năng Hải quân Hoa kỳ cho hạ thủy tàu chiến mới loại sẽ được trang bị súng 14-inch, người Nhật quyết định thay đổi và nhanh chóng rà soát lại kế hoạch của họ và tìm một giải pháp tốt hơn. Một kế hoạch mới đã được soạn thảo, tầu của họ sẽ tám súng 14-inch, và có khả năng đạt đến tốc độ 27,5 hải lý/ giờ, vì vậy chúng có chút ít lợi thế hơn so với lớp Lion của người Anh về tốc độ và hỏa lực. Các khẩu súng hạng nặng cũng đã được định vị tốt hơn, được superfiring cả hai phía trước và phía sau, không có pháp súng ơ? giư?a con tầu. Đề án giáp cũng được cải tiến tốt hơn so với lớn Lion của Anh với giáp dày 9 inch ở tháp pháo và 8 inch ổ pháo. Chiếc tàu tuần dương chủ lực đầu tiên của Nhật Bản trong lớp này được chế tạo ở Anh, và một lô ba chiếc nữa được đóng tại Nhật Bản. Người Nhật Bản cũng phân loại lại những tuần dương hạm bọc thép mạnh mẽ của họ như các lớp Tsukuba và Ibuki các lớp học, chúng mang khẩu súng 12-inch, như tàu tuần dương chủ lực, nhưng dù sao chúng vẫn được trang bị yếu hơn và chậm hơn (so với tầu tuần dương chủ lực).
    [​IMG]
    Tuần dương - thiết giáp hạm lớp Kongô của Hải quân đế quốc Nhật Bản, nó có tải trọng 36.600, tốc độ tối đa 30 hải lý/ giờ, giáp đai dày 203 mm (8 in); phía đuôi tầu 76 ;> 102 mm (3 to 4 in) boong 69.85 mm (2.75 in) ổ súng 254 mm (10 in) tháp pháo 228.6 mm (9 in) tháp điều khiển 254 mm (10 in), vũ khí chính là 8 súng 356 mm (14 in) 16 súng 152 mm (6 in) 8 súng 127 mm (5 in) có tới 118 súng AA 25 mm (1 in) 4 ống phóng ngư lôi dưới mực nước 533 mm (21 in).
    Tiếp theo là chiếc tàu tuần dương của Anh, chiếc Tiger, nó không những thừa kế rất nhiều từ lớp Lion mà còn chịu ảnh hưởng của thiết kế của các tàu Nhật Bản.Nó giữ lại tám súng 13,5-inch của người tiền nhiệm của nó, mặc dù chúng được định vị lại tốt hơn để khai hỏa. Nó cũng nhanh hơn (tốc độ thử nghiệm 29 hải lý), và mang một vũ khí thứ cấp nặng hơn. Nói chung thì chiếc Tiger cũng được bọc thép nặng hơn, trong khi độ dày tối đa giáp là 9 inch, chiều cao của vành đai giáp chính được tăng lên.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Tuần dương hạm chủ lực lớp Tiger của Anh và phác thảo thiết kế của nó, nó có trọng tải ,36.000btấn nạp đầy, tốc độ thử nghiệm tối đa 30 hải lý/ giờ, giáp đai dày 3 -> 9 in, giáp boong dày từ 1 -> 3 in, vũ khí chính là 8 súng 13.5 in (340 mm) 12 súng 6 in (150 mm) và 4 ống phóng ngư lôi dưới mực nước 21 in (530 mm).
    Năm 1912 người Anh lại phải chứng kiến sự hạ thủy ba tàu chiến nữa của Đức thuộc lớp Derfflinger, các tàu chiến Đức đầu tiên lắp súng 12-inch. Đây là những con tàu tuyệt vời, giống như các lớp Tiger và Kongō, Súng của chúng được bố trí trong các tháp pháo cao để tăng hiệu quả cao hơn, giáp và tốc độ của chúng tương tự như lớp Seydlitz trước đây.
    Tuần dương hạm chủ lực lớp Derfflinger của Hải quân Đức, lớp có súng chính loại 12 in, nó có trọng tải 31.200 tấn, tốc độ 26.5 hải lý/ giờ, giáp đai dày 100?"300 mm (3.9?"11.8 in) tháp pháo dày 270 mm (11 in) tháp điều khiển 300 mm (12 in), vũ khí chính là 8 súng 30.5 cm SK L/50 (12?/50 cal) 2 súng 15 cm SK L/45 (5.9?/45 cal) 12 súng 8.8 cm (3.5?/45 cal) và 4 ống phóng ngư lôi 50 cm (17,9 in)
    [​IMG]
    Phác họa thiết kế của tầu lớp Derfflinger (lưu ý là thép của Đức đặc biệt là thép của hãng Krrup tốt hơn thép của các nước khác và chất lượng súng của Đức tốt hơn súng của nước khác trên cùng một cỡ nòng)
    Năm 1913, Đế quốc Nga cũng bắt đầu chế tạo bốn tàu tuần dương lớp Borodino, Được thiết kế để chiến đấu ở Biê?n Baltic. Những con tàu này được thiết kế để mang mười hai súng 14-inch, với giáp dày lên đến 12 inch, và tốc độ đạt tới 26,6 knots. Lớp giáp nặng và tầu có tốc độ tương đối chậm và gần với các thiết kế tầu của Đức hơn là tàu của Anh, tuy nhiên, việc đóng các tầu Borodino đã phải ngưng lại do Thế chiến thứ nhất và tất cả đã bị loại bỏ trong quá trình Cách mạng Nga.
    [​IMG]
    Tầu tuần dương chủ lực của lớp Borodino của Nga, cả 4 chiếc kể cả chiếc Izmail đã hạ thủy đều phải dừng lại và không bao giờ được hoàn thành. Theo thiết kế lớp này có trọng tải 37.234 tấn nạp đầy, tốc độ 26,5 hải lý/ giờ, giáp đai dày 125?"237.5 mm (4.9?"9.35 in) ổ pháo dày 147.5?"247.5 mm (5.81?"9.74 in) tháp điều khiển 300?"400 mm (11.8?"15.7 in) tháp pháo 300 mm (11.8 in) Boong 37.5?"75 mm (1.48?"3.0 in), vũ khí chính gồm 12 súng 14-inch (355.6 mm) 24 súng 130mm(5.1 in) 6 ống phóng ngư lôi 17.7-inch (449.6 mm).
    Vào năm 1914, chỉ có Anh, Đức và Nhật Bản có tầu tuần dương chủ lực, còn Nga đang đóng dở một số. Nhiều lần, người ta thấy rằng các khái niệm về tàu thiết giáp và tàu tuần dương chủ lực có thể được nhìn thấy như cùng một loại tàu. Điều này đúng với thiết kế ?oX4? năm 1906 và lớp tầu Borodino và trong toàn bộ chương trình tàu thiết giáp của Đức, thậm chí còn đúng hơn nữa trong thiết kế tàu tuần dương chủ lực gần đó nhất của Anh. Các thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth được thiết kế để chạy với tốc độ 25 knots, nhanh như chiếc tuần dương đầu tiên có thề làm được, trong khi mang tám súng 15-inch và giáp dầy lên đến 15 inch dày. Các con tầu lớp Queen Elizabeth là thiết giáp hạm tốc độ cao thực sự đầu tiên, và đã mang lại sự kết thúc của quá trình phát triển của các tàu tuần dương chủ lực như một dòng độc lập. Nó bị ảnh hưởng chủ yếu bởi ý tưởng của Jacky Fisher rằng các tàu tuần dương vẫn phải được tiếp tục phát triển.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:49 ngày 29/04/2010
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến tranh thế giới I
    Ở chiến tranh thế giới lần thứ nhất người ta đã thấy tàu tuần dương chủ lực của Anh và Đức được sử dụng trong nhiều chiến trường. Tàu tuần dương chủ lực tạo thành một phần của những đội tàu Dreadnought mà họ đã phải đối mặt với nhau ở Biển Bắc, tham gia vào một số cuộc trận đánh như trận Jutland. Tuần dương hạm chủ lực đóng một vai trò quan trọng ở phần đầu của cuộc chiến như khi hạm đội Anh cố gắng săn lùng những con tầu của Đức chuyên tấn công các đoàn công voa, ví dụ như tại trận chiến quần đảo Falkland, và chúng cũng đã tham gia vào chiến dịch Địa Trung Hải.
    Những thay đổi trong việc chế tạo tầu chiến chủ lực trong thế chiến I
    Đối với hầu hết các quốc gia, công việc đóng mới các con tàu chủ lực là rất hạn chế trong thời gian chiến tranh. Đức hoàn thành lớp Derfflinger và bắt đầu triển khai lớp Mackensen. Các con tầu lớp Mackensens là một sự phát triển của lớp Derfflinger, với súng 13,8-inch và một chương trình giáp bảo vệ hạng nặng tương tự, chúng được thiết kế để chạy với vận tốc 28 hải lý mỗi giờ.
    [​IMG]
    Tầu tuần dương chủ lực lớp Mackensen của Đức, con ngáo ộp đối với người Anh - những tầu không bao giờ được hoàn thành, thông số chung của chúng là: trọng tải 34.700 tấn, tốc độ 28 hải lý/ giờ, giáp đai chính dày 300 - 100 mm (12-4 in) tháp pháo 20-110 mm (12.8 -4.3 in) vũ khí chính gồm 8 súng 35 cm (13.8 inch) 12 súng 150 mm (5.9 inch) 8 súng 88 mm (3.45 inch) 5 ống phóng ngư lôi 60 cm
    Tại Anh, khi Jackie Fisher quay trở lại First Sea Lord trong tháng mười năm 1914. sự nhiệt tình của ông với những con tàu lớn và nhanh là không hề suy giảm, và ông thiết lập đội ngũ nhân viên thiết kế để sản xuất một thiết kế cho một tàu chiến với súng chính 15-inch. Bởi vì Fisher dự kiến các tàu chiến tới Đức có vận tốc tối đa ở 28 knot, ông yêu cầu thiết kế mới của Anh phải có khả năng đạt đến tốc độ 32 knot. Ông lên kế hoạch để chuyển đổi hai thiết giáp hạm lớp Royal Sovereign, đang được chế tạo ở giai đoạn đầu và công việc hoàn thiện đã bị đình chỉ vì người ta cảm thấy rằng cuộc chiến sẽ kết thúc trước khi các con tàu này được hoàn tất. Dự án này của Fisher cuối cùng đã được chấp thuận vào ngày 28 tháng 12 năm 1914 và chúng đã trở thành lớp Renown, với sáu súng 15-inch súng nhưng giáp chỉ dày 6-inch, chúng là một bước chuyển tiếp từ lớp Tiger với hỏa lực và tốc độ mạnh hơn nhưng đồng thời cũng ít được bảo vệ hơn.
    [​IMG]
    Tầu tuần dương lớp Renown của Anh, loại được phân thành tàu tuần dương lớn - hạng nhẹ vì có súng lớn, tốc độ cao nhưng giáp mỏng
    Đồng thời, Fisher cũng cố gắng để thoái thác việc đóng ba tàu tuần dương bọc thép nhẹ cao tốc để có thể việc sử dụng một số linh kiện phụ tùng của tháp súng 15-inch còn lại khi đóng các thiết giáp hạm. Những con tàu này chủ yếu là những con tầu tuần dương ?" thiết giáp hạng nhẹ, và thỉnh thoảng có thể thấy Fisher đề cập đến chúng là như vậy, nhưng chúng đã được chính thức phân loại là "tàu tuần dương lớn hạng nhẹ". Điều khác thường này là bởi vì việc chế tạo các tàu chủ lực mới được tiến hành trên thân của những con tầu cũ, trong khi không có giới hạn về việc chế tạo tàu tuần dương hạng nhẹ. Chúng đã trở thành lớp Courageous, và đã có một sự mất cân bằng kỳ lạ giữa vũ khí chính của chúng là súng 15-inch (hoặc 18-inch trong lớp ?oFurious?) với lớp giáp của chúng vốn chỉ dày 3in, mà mức giáp dày 3 inch là độ dày được quy hoạch cho một tàu tuần dương hạng nhẹ. Thiết kế được thường coi là một thất bại kỳ quái (biệt danh của chúng trong Hạm đội là Spurious, Uproarious là Outrageous), mặc dù việc chuyển đổi sau này của chiếc tàu cuối thành một chiếc tàu sân bay đã rất thành công. Fisher cũng có ý tưởng về một tàu chiến mới được chế tạo cực lớn nhưng lại có tại trọng nhẹ (vì giáp mỏng) và sẽ mang súng khổng lồ 20-inch, mà ông gọi là chiếc HMS Incomparable, tuy nhiên, ý tưởng này không bao giờ vượt ra khỏi thiết kế.
    [​IMG]
    Bản vẽ phác thảo chiếc HMS Incomparable của Anh, đây là một thiết kế kỳ quoái với súng chính cực lớn ( 20 in) nhưng tầu lại có tải trọng nhẹ so với súng (46.000 tấn)
    Người ta thường cho rằng lớp Renown và Courageous được thiết kế cho kế hoạch của Fisher đổ quân (có thể là lên vùng lãnh thổ của Nga) trên bờ biển Baltic của Đức. Cụ thể, chúng đã được thiết kế với một dự thảo trên cạn, mà có thể là rất quan trọng trong vùng biển nông của biển Baltic. Tuy nhiên, đây không phải là bằng chứng rõ ràng rằng các tàu này được thiết kế riêng cho vùng Baltic: nó đã được coi là lớp tàu có quá nhiều dự thảo và phần thân tàu không đủ chắc chắn để hoạt động trong điều kiện chiến đấu. Các quan chức hàng đầu Hải quân Hoàng gia lại cho rằng tập trung vào vùng biển Baltic có lẽ là không cần thiết tại thời điểm con tàu được thiết kế, nhưng nhu cầu về loại tàu này đã tăng sau khi xảy ra thảm họa chiến dịch Dardanelles.
    Các tàu tuần dương chủ lực của Anh được thiết kế cuối cùng trong cuộc chiến là lớp Admiral, Được đóng từ một yêu cầu cho một phiên bản cải tiến của thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth. Dự án bắt đầu vào cuối năm 1915, sau chuyến ra đi cuối cùng của Fisher tại Bộ Hải quân. Trong khi dự kiến ban đầu nó là một tàu tuần dương chủ lực, các sĩ quan cao cấp của hải quân đã cảm thấy rằng nước Anh đã đủi thiết giáp hạm, nhưng đó là tàu tuần dương mới được đóng theo yêu cầu để khắc chế con tàu của Đức lúc đó đang được đóng dở dang (người Anh đã đánh giá quá cao sự tiến bộ của Đức ở lớp Mackensen cũng như khả năng thực sự của chúng). Một thiết kế tàu tuần dương chủ lực của Anh với tám súng 15-inch, giáp dày 8 inch và có khả năng đạt tới tốc độ 32 hải lý/ giờ đã được lựa chọn. Tuy nhiên, kinh nghiệm của tàu tuần dương chủ lực tại Trận Jutland có nghĩa là thiết kế được nhanh chóng sửa đổi và chuyển đổi lại thành một khái niệm gần với thiết giáp hạm cao tốc với lớp giáp dày lên đến 12 inch nhưng vẫn có khả năng đạt đến tốc độ 31,5 hải lý/ giờ. Chiếc tàu đầu tiên trong lớp này, chiếc HMS Hood, đã đi tiên phong theo thiết kế này. Kế hoạch cho ba chị em gái của nó, mà quá trình chế tạo được chiển khai rất ít ỏi, đã được sửa lại một lần trong năm 1916 và vào năm 1917 để cải thiện lớp giáp bảo vệ.
    Các tầu lớp Admiral có thể đã là những tàu chiến của Anh có khả năng khắc chế lớp Mackensen của Đực, tuy nhiên, quá trình đóng tàu của Đức đã bị chậm lại đáng kể do chiến tranh, và trong số hai chiếc của lớp Mackensens được hạ thủy, không có chiếc nào được hoàn thành. Sự kiện trên làm ba con tầu lớp Admiral bổ sung đã bị đình chỉ trong tháng 3 năm 1917 để cho phép đóng thêm các tàu hộ tống và tàu buôn để đối phó với mối đe dọa mới từ đội tầu U Boat. Chúng (ba con tầu lớp Admiral) cuối cùng bị hủy bỏ vào tháng 2 năm 1919.
    Hoạt động quân sự
    Chiếc tàu tuần dương chủ lực của Đức Goeben có lẽ là con tàu có ảnh hưởng sớm nhất trong chiến tranh. Đồn trú tại Địa Trung Hải, nó và tàu tuần dương hộ tống nó phải lẩn trốn sự truy đuổi của Anh và Pháp khi có sự bùng nổ của chiến tranh, và nó chạy thẳng tới Constantinople khi hai tàu chiến của Anh theo đuổi sát sạt phía sau. Chiếc Goeben đã được bàn giao cho Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ, và điều này đã cụ thể hóa bằng việc đưa Thổ Nhĩ Kỳ vào cuộc chiến tranh ở bên phía người Đức. Chiếc Goeben bản thân nó được đổi tên thành Yavuz Sultan Selim, đã tham gia đụng độ với Hải quân Nga tại Biển Đen và chống lại người Anh trong trận Aegean.
    Mục tiêu ban đầu của tàu tuần dương đã tỏ ra thành công trong tháng 12 năm 1914 trong trận quần đảo Falkland. Các tàu tuần dương chủ lực của Anh Inflexible và Invincible đã hoàn thành chính xác công việc họ được dự định phải làm khi họ đuổi theo và tiêu diệt một hải đội tầu tuần dương Đức với hạt nhân là các tàu tuần dương bọc thép Scharnhorst và Gneisenau, cùng với ba tàu tuần dương hạng nhẹ dưới sự chỉ huy của Đô đốc Maximilian Graf Von Spee ở Nam Đại Tây Dương. Trước khi trận đánh diễn ra tàu tuần dương chủ lực của Úc chiếc HMAS Australia đã không thành công trong việc tìm kiếm cho những tàu của Đức tại Thái Bình Dương.
    Một số trận đánh trong thế chiến I có sự tham gia của Tuần dương hạm chủ lực ( các trận này sẽ được giới thiệu chi tiết ở phần tới)
    Trận Heligoand Bight
    Trận chiến Falklands
    Trận Dogger Bank
    Trận Jutland
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 12:02 ngày 30/04/2010
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Sự tiến hóa của các tầu chiến nhỏ hơn loại thiết giáp hạm từ giữa thế kỷ 19 đến giai đoạn cận kề thế chiến I ( tiếp theo)
    Tàu khu trục hoặc khu trục hạm - Destroyer
    Trong thuật ngữ hải quân, một tàu khu trục là một tầu chiến tốc độ cao và cơ động nhưng chưa có khả năng hoạt động dài ngày nhằm hộ tống các tàu lớn hơn trong một hạm đội, hoặc một nhóm chiến hạm và bảo vệ họ chống lại nhỏ hơn, tầm ngắn, những kẻ tấn công mạnh mẽ nhưng lại nhỏ hơn, tầm ngắn, (ban đầu là tàu phóng ngư lôi, sau này tàu ngầm và máy bay).
    Trước Chiến tranh thế giới II, tàu khu trục là những tàu hạng nhẹ không đủ sức chịu đựng cho các hoạt động trên đại dương mà không cần giám sát, thường một số khu trục hạm và một đơn tàu khu trục tiếp liệu hoạt động cùng nhau. Trong và sau cuộc chiến, những tàu khu trục trở lên lớn hơn và mạnh mẽ nhiều hơn nữa có khả năng hoạt động độc lập được chế tạo, đặc biệt là khi tàu tuần dương không còn được sử dụng trong thập niên 1950 và thập niên 60.
    Vào buổi bình minh của thế kỷ 21, tàu khu trục là loại tầu chiến đấu bề mặt hạng nặng nhất được sử dụng nói chung, và chỉ có bốn quốc gia ( Hoa Kỳ, Nga, Pháp và Peru) vẫn tiếp tục cho hoạt động các lớp tầu hạng nặng hơn tàu tuần dương và tàu thiết giáp không vũ trang hoặc tầu tuần dương chủ lực thật sự. Tàu khu trục hiện đại, còn được gọi là tàu khu trục có tên lửa điều khiển, thường có trọng tải tương đương với loại tuần dương hạng nặng nhưng hỏa lực thì khủng khiếp hơn tàu tuần dương của thời kỳ Chiến tranh Thế giới II, thậm chí chúng còn có khả năng mang tên lửa hạt nhân.

    Buổi đầu lịch sử
    Sự xuất hiện và phát triển của tầu khu trục, tới tận Thế chiến II, liên quan đến việc sáng chế ra ngư lôi tự hành trong thập niên 1860. Một lực lượng hải quân hồi đó có khả năng tiêu diệt một hạm đội mạnh hơn của đối phương bằng cách dùng tầu chạy bằng hơi nước để phóng ngư lôi. Những con tầu nhỏ cao tốc có trang bị ngư lôi được chế tạo và được gọi là tàu phóng ngư lôi. Vào thập niên 1880, chúng đã phát triển thành những tàu nhỏ 50-100 tấn, đủ nhanh để trốn tránh tầu tuần tra của kẻ thù.
    Ban đầu, mối nguy hiểm cho một hạm đội chiến đấu được coi là chỉ tồn tại khi chúng đang buông neo, nhưng nhiều loại ngư lôi nhanh hơn có và tầm bắn xa hơn được phát triển, mối đe dọa cũng mở rộng ra khi hạm đội du hành trên biển. Để đối phó với mối đe dọa mới này người ta phải đóng những tầu tuần tra lớn hơn và có súng lớn hơn, chúng được gọi là "người bắt giữ - catcher" và được sử dụng để hộ tống hạm đội tầu chiến trên biển. Chúng cần phải có khả năng đi biển cùng và sức chịu đựng lớn hơn, và khi chúng nhất thiết phải trở thành lớn hơn, và chính thức được trở thành " Kẻ tiêu diệt tàu phóng ngư lôi - torpedo boat destroyer", và nhanh tróng được rút gọn thành ?otầu khu trục ?o hay ?o Destroyer? trong tiếng Anh. Các tầu chống tàu ngư lôi xuất xứ từ loại tàu này được giữ tên nguyên tên của nó trong ngôn ngữ khác, bao gồm tiếng Pháp (contre-torpilleur), Ý (cacciatorpediniere), Bồ Đào Nha (contratorpedeiro), Ba Lan (kontrtorpedowiec), Séc (torpédoborec), Hy Lạp (antitorpiliko,αν"ι"ορ?ιλικO).
    Một khi tàu khu trục đã trở thành có nhiều tính năng hơn là chỉ để bảo vệ một tầu chiến đang buông neo, người ta nhận ra rằng cũng lý tưởng để tầu khu trục tiếp nhận vai trò của các tàu phóng ngư lôi, do đó, chúng đã được trang bị ống phóng ngư lôi cũng như súng. Tại thời điểm đó, và thậm chí cả vào Chiến tranh thế giới I, chức năng duy nhất của khu trục hạm là để bảo vệ hạm đội tầu chiến (tầu thiết giáp và tầu tuần dương) của chúng từ các tầu phóng ngư lôi tấn công của và để tung ra các cuộc tấn công tương tự vào tàu chiến của địch. Nhiệm vụ hộ tống thương đoàn vẫn còn ở trong tương lai.
    Một sự tiến hóa quan trọng trong năm 1884 đến với chiếc HMS Switf, một tầu phóng ngư lôi lớn với sáu súng 47 mm bắn ra nhanh và ba ống phóng ngư lôi. Trong khi vẫn không đủ nhanh để tham gia làm nhiệm vụ như tàu phóng ngư lôi một cách đáng tin cậy, nó ít nhất đã có đủ trang bị vũ khí để đối phó với chúng.


    [​IMG]
    Chiếc Kotaka tầu khu trục của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (1887)
    Tầu khu trục Kotaka của người Nhật (Chim ưng) năm 1885 là "tiền thân của tầu khu trục phóng ngư lôi xuất hiện một thập kỷ sau". Thiết kế thông số kỹ thuật của Nhật Bản và đặt hàng từ xưởng đóng tàu Yarrow London năm 1885, nó được vận chuyển từng phần đến Nhật Bản, nơi nó được lắp ráp và hạ thủy vào năm 1887. Nó được trang bị bốn súng 1 pounder (37 mm) bắn nhanh và sáu ống ngư lôi, nó đạt tới tốc độ 19 hải lý / giờ (35 km / h), và trọng tải 203 tấn, nó là tàu phóng như lôi lớn nhất được chế tạo lúc đó. Trong các thử nghiệm của nó vào năm 1889, Kotaka chứng minh rằng nó có thể tiến xa hơn chỉ vai trò bảo vệ ven biển, và có khả năng đi theo những tàu lớn trên các đại dương. Xưởng đóng tàu Yarrow noei đóng các phần của chiếc Kotaka " cho rằng Nhật Bản được coi là nơi phát minh ra tàu khu trục có hiệu quả đầu tiên".


    [​IMG]
    Chiếc tầu khu trục Destructor của Hải quân Tây Ban Nha (1886)
    Gần như ngay sau khi chiếc Kotaka được đặt hàng, Fernando Villaamil, Công chức bậc hai của Bộ Hải quân Tây Ban Nha nơi ông được giao phụ trách phát triển các khái niệm về một con tàu mới được thiết kế để chống tàu phóng ngư lôi, đã đặt mua một pháo hạm có ngư lôi lớn trong tháng 11 năm 1885, từ nhà đóng tầu Anh - James and George Thompson, của Clydebank không xa hơn nơi mà xưởng đóng tàu Yarrow sẽ chuyển về từ London hai mươi năm sau đó. Con tàu, được đặt tên là Destructor (Nghĩa đen Destroyer), đã được đặt khung sườn vào cuối năm, hạ thủy vào năm 1886, và làm nhiệm vụ năm 1887. Trọng tải của nó là 380 tấn, và nó được trang bị một súng Hontoria 90 mm, bốn súng Nordenfelt 57 mm, hai pháo Hotchkiss 37 mm và 3 ống phóng ngư lôi Schwarzkopf. Thủy thủ đoàn của nó gồm 60 người. Trong điều kiện vừa chạy vừa tác xạ, tốc độ của nó vẫn đạt đến 22,5 hải lý/ giờ trong các thử nghiệm và kích thước, thiết kế cụ thể của nó cho phép nó theo đuổi các tàu phóng ngư lôi và có khả năng chịu đựng được biển cả, Destructor được coi một cách rộng rãi là một tầu tàu khu trục phóng ngư lôi đầu tiên từng được chế tạo.
    Chiếc Destructor của người Tây Ban Nha được cho là đã ảnh hưởng đến tên và khái niệm phát triển sau này của tàu khu trục của Hải quân Anh.
    Ngay sau đó, người Anh bắt đầu thí nghiệm với những " tầu săn tầu ngư lôi", đó là một lớp 17 tàu phóng ngư lôi lớn - tiền thân đầu tiên của tàu khu trục được chế tạo thành một lớp, chứ không phải là con tàu duy nhất. Trong các bài test, chiếc Rattlesnake tỏ ra nhẹ nhanh hơn tàu phóng ngư lôi, nhưng vẫn không đủ nhanh để ra đòn quyết định.


    [​IMG]
    Chiếc tầu khu trục HMS Havock của Hải quân đế quốc Anh (1893)
    Các tàu đầu tiên chính thức mang tên"tàu khu trục ngư lôi " là các lớp Daring và lớp Havock , mỗi lớp gồm hai chiếc tàu của Hải quân Hoàng gia, chúng được phát triển vào năm 1892 dưới thời của Sea Lord thứ 3 chuẩn Đô đốc "Jackie" Fisher mới được bổ nhiệm. Các lớp Daring và Decoy được đặt hàng vào ngày 27 tháng 6 năm 1892 từ John I. Thornycroft & Company ở Chiswick, trong khi lớp Havock và Hornet được đặt hàng năm ngày sau đó ở Yarrow tại Poplar. Tất cả đã được hạ thủy trong các năm 1893-1894. Mỗi tầu được trang bị một súng 12 pounder (76 mm), ba súng 6 pounder (57 mm), và ba ống phóng ngư lôi 46 cm. Chúng cũng có phạm vi hoạt động và tốc độ để đi tuần dương một cách có hiệu quả với một hạm đội chiến đấu.
    Hải quân Pháp, một lực lượng sử dụng rộng rãi tàu ngư lôi, có chiếc tàu khu trục đầu tiên của họ được chế tạo vào năm 1899, với lớp Durandal "torpilleur descadre?.
    Hoa Kỳ đưa tàu khu trục đầu tiên của mình, chiếc USS Bainbridge, Destroyer số 1 vào làm nhiệm vụ năm 1902 và đến 1906 đã có 16 tàu khu trục phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ.
    [​IMG]
    Chiếc tầu khu trục đầu tiên của Hoa kỳ, chiếc USS Bainbridge
    Trước Chiến tranh Thế giới I
    Thiết kế tầu khu trục phát triển xung quanh điểm đầu của thế kỷ 20 theo một số cách quan trọng. Việc đầu tiên là sự ra đời của tua bin hơi nước. Các cuộc trình diễn không có ủy quyền rất ngoạn mục của động cơ tua bin tại Turbinia tại năm 1897 Spithead Navy Review trong đó, đáng kể là các tầu cỡ tầu ngư lôi khiến Hải quân Hoàng gia phải đặt một mẫu động cơ tua bin thử nghiệm làm trang bị cho tàu khu trục, chiếc HMS Viper năm 1899. Đây là chiếc tàu chiến đầu tiên có loại động cơ tuốc bin và đạt được tốc độ vượt trội 36 hải lý/ giờ (67 km / h) khi thử nghiệm trên biển. Vào năm1910 động cơ tuabin đã được chấp nhận rộng rãi ở tất cả các lực lượng hải quân để làm cho tàu của họ nhanh hơn.
    Sự phát triển thứ hai là sự thay thế của boong trước theo kiểu mai con rùa (Turtlorback) cho phần lớn phân trước cu?a con tàu, kiểu này tạo ra khả năng đi biển tốt hơn cũng như tạo ra nhiều không gian hơn dưới sàn tàu.


    [​IMG]
    Tàu khu trục lớp Paulding của Hoa Kỳ, chiếc USS Perkins 1909.
    Người Anh thử nghiệm với động cơ đẩy dầu cho lớp Tribal năm 1905 nhưng tạm thời chuyển trở lại dùng than cho sau này, lớp Beagle năm 1909. Hải quân các nước khác cũng ứng dụng động cơ đốt dầu, ví dụ lớp Paulding của Hải quân Hoa kỳ năm 1909. Mặc dù có nhiều dạng khác nhau, tàu khu trục đã được ứng dụng một mô hình chủ yếu tương tự. Các thân tàu thường được kéo dài và hẹp, với một độ mớm nước tương đối nông. Mũi tầu được cấu tạo rất lớn ở phần trước cu?a tàu hoặcbị che phủ bởi một sàn tầu hình lưng rùa, bên dưới đó là những khoảng không gian của thủ thủ đoàn, chúng chiếm 1 / 4 đến 1 / 3 con đường dọc theo thân tàu. Phía sau khoảng không gian của thủy thủ đoàn là khoảng không gian của động cơ cũng như các công nghệ của thời gian đó như nồi hơi và một số động cơ hoặc tua bin. Ở trên boong, một hay nhiều khẩu súng bắn ra nhanh được đặt ở trong mũi tầu, trước mặt đài chỉ huy, một số khác được gắn ơ? giữa và ơ? phía sau con tầu. Hai giá ống phóng ngư lôi (sau này các gía có nhiều ống phóng ngư lôi) thường được ơ? đặt ở giữa con tầu.
    Giữa năm 1890 và 1914 đã trở thành rõ rệt rằng là các tàu khu trục ngày càng trở nên lớn hơn: ban đầu 300 tấn đã là một kích cỡ tốt, nhưng vào lúc sắp bắt đầu của Thế chiến thứ nhất tầu khu trục lên đến 1.000 tấn cũng không là điều khác thường. Tuy nhiên, nguyên tắc chế tạo vẫn tập trung vào việc đưa một động cơ lớn nhất có thể vào một thân tầu nhỏ, kết quả là thân tầu được chế tạo khá mỏng manh. Thường vỏ tầu được chế tạo bằng thép chỉ dày 1/8in.
    Vào năm 910 tầu phóng ngư lôi động cơ hơi nước đã trở thành dư thừa và được tách thành một loại riêng biệt. Người Đức vẫn tiếp tục đóng các tàu phóng ngư lôi cho đến khi kết thúc Thế chiến I, mặc dù họ đã có các tàu khu trục hiệu quả nhỏ ven biển. Trong thực tế Đức không bao giờ phân biệt giữa hai loại, và chúng có cờ hiệu cùng loạt và không bao giờ được đặt tên là tàu khu trục. Cuối cùng thuật ngữ tầu ngư lôi được dùng cho một loại tàu rất khác nhau ?" tầu phóng ngư lôi chạy động cơ hydromotor.
    Cuộc sống trên những tàu khu trục đầu tiên
    Những tàu khu trục đầu tiên được coi là nơi quá chật chội để sinh hoẠT. Trong lớp Havock không có thành viên thủy thủ đoàn nào có thể có được một không gian thoải mái, các sĩ quan phải ngủ trên ghế đệm xung quanh wardroom thay vì giường. Bụi nước và nước ngưng tụ làm cho cuộc sống của thủy thủ đoàn trở nên khốn khổ. Các lớp tầu đầu tiên của Anh có khoang riêng biệt cho sỹ quan hoặc một bếp sưởi ấm cho thuyền trưởng, là lớp River năm 1902.
    Những chiến thuật và những lần tham chiến đầu tiên của tầu khu trục
    Mục đích ban đầu của tàu khu trục tạo bảo vệ chống lại các tàu phóng ngư lôi, nhưng hải quân sớm đánh giá cao sự linh hoạt lẫn đa năng của chúng. Phó Đô đốc Sir Baldwin Walker đặt ra nhiệm vụ cho các khu trục của Hải quân Hoàng gia như sau:
    ? Tiến trước hạm đội để cảnh giác các tàu phóng ngư lôi của đối phương.
    ? Mở đường tại một bờ biển thù địch để mà một hạm đội có thể vượt qua
    ? Quan sát cảng của đối phương với mục đích phóng ngư lôi quấy rối của ông thủ công và ngăn chặn quân địch trở về
    ? Tấn công một hạm đội của đối phương
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:51 ngày 05/05/2010
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đầu tiên tàu khu trục được sử dụng với số lượng lớn trong cuộc tấn công bất ngờ của Nhật Bản vào hạm đội Nga tại Port Arthur tại buổi mở đầu của Chiến tranh Nga-Nhật trong năm 1904. Ba đơn vị tầu khu trục tấn công hạm đội Nga tại cảng, bắn tổng cộng 18 quả ngư lôi, và làm hư hại nặng hai tàu thiết giáp hạm Nga.
    Chiến tranh thế giới I
    [​IMG]
    Chiêc USS Wickes DD-75, một tàu khu trục lớp Wickes
    Trong khi rất hiếm có các cuộc đụng độ của tàu chiến chủ lực trong Thế chiến I, đơn vị tàu khu trục đã gần như liên tục tham gia vào các trận đánh và hành động tuần tra. Các phát bắn đầu tiên của cuộc chiến tranh trên mặt biển nổ ra vào ngày 05 tháng 8 năm 1914 bởi một tàu khu trục của đội tàu thứ2, chiếc Lance, nổ súng tấn công chiếc tàu tha? mìn Königin Luise của Đức. Nạn nhân đầu tiên của hải quân Anh là chiếc Amphion, tàu tuần dương hạng nhẹ dẫn đầu đội tàu khu trục thứ 3 đã húc phải một quả thủy lôi được thả bởi chiếc Königin Luise.
    Tàu khu trục đã tham gia vào các xung đột mà chúng dẫn đến trận Heligoland Bight, và đóng một loạt các vai trò trong Trận Gallipoli, chúng hoạt động như tầu vận chuyển quân và tàu hỏa lực hỗ trợ, cũng như trong vai trò tầu đi cảnh giới cho hạm đội của chúng. Hơn 80 tàu khu trục Anh và 60 tầu ngư lôi Đức đã tham gia vào Trận Jutland, có các xô xát giữa các đội tầu nhỏ trong các hạm đội chính, và một số cuộc tấn công liều mạng của tàu khu trục được hỗ trợ vào tàu tiết giáp. Trận Jutland kết thúc với một một trận chiến lộn xộn vào ban đêm giữa Hạm đội Hight Sea của Đức và một phần của tàu khu trục lớp Monitor của Anh.
    Các mối đe dọa trong Chiến tranh thế giới I cũng đến từ sự phát triển của tàu ngầm, Hay còn gọi là đội tàu U Boat của Đức. Các tàu ngầm có khả năng lẩn trốn rồi tiến lại gần và bắn ngư lôi dưới mực nước. Các tàu khu trục thời đầu chiến tranh đã có tốc độ và vũ khí trang bị để đánh chặn các tàu ngầm trước khi chúng lặn xuống nước, hoặc bằng súng hoặc bằng cách đâm tầu. Khu trục hạm có một thiết kế ngư lôi quá nông nên rất khó khăn để tiêu diệt chúng.
    Mong muốn để tấn công các tàu ngầm dưới nước dẫn đến sự tiến hóa nhanh chóng của tầu khu trục trong chiến tranh, chúng nhanh chóng được tăng cường mũi tầu cho đòn đâm, trang bị bom chống ngầm và hydrophones để xác định các mục tiêu ngầm dưới biển. Thương vong đầu tiên của tàu ngầm xảy ra khi một tàu khu trục đã húc vào chiếc U-19 của Đức vào ngày 29 tháng 10 1914. Trong khi chiếc U-19 chỉ bị hư hỏng, thì tháng tiếp theo chiếc tầu khu trục HMS Garry đã thành công khi đánh chìm chiếc U-18. Bom chìm lần đầu tiên được sử dụng vào 4 tháng 12 năm 1916, khi chiếc UC-19 bị đánh chìm bởi chiếc Llewellyn.
    Mối đe dọa của tàu ngầm có nghĩa là tàu khu trục phải dành nhiều thời gian của chúng vào việc tuần tra chống tàu ngầm, khi Đức thông qua chiến tranh tàu ngầm không hạn chế trong tháng 1 năm 1917, tàu khu trục đã được kêu gọi để hộ tống thương đoàn. Tàu khu trục của Hải quân Mỹ được đi là đơn vị đầu tiên gia nhập cuộc chiến, và một hải đội tàu khu trục của Nhật Bản thậm chí đã tham gia lực lượng Đồng Minh để tuần tra ở Địa Trung Hải. Nhiệm việc tuần đã mở xa khỏi vùng an toàn và 67 khu trục hạm của Anh bị mất trong chiến tranh, Đồng Minh có18 chiếc, trong khi 12 chiếc bị đắm.
    Tầu phóng ngư lôi - Torpedo Boat
    Một tầu phóng ngư lôi là một tàu hải quân tương đối nhỏ và nhanh nhẹn được thiết kế để mang ngư lôi vào trận chiến. Các mẫu thiết kế đầu tiên của tầu ngư lôi là dùng đòn đâm vào tàu đối phương với ngư lôi spar mang thuốc nổ, và sau đó là với thiết kế ngư lôi Whitehead tự hành. Chúng được tạo ra để tấn công các tàu thiết giáp và những tầu chiến loại lớn khác tuy vũ trang tốt nhưng chậm chạp và nặng nề bằng tốc độ và sự nhanh nhẹn ( của tầu phóng ngư lôi).
    [​IMG]
    Tàu phóng ngư lôi tấn công vào pháo hạm của Chile, chiếc Cochrane trong Nội chiến Chile năm 1891.
    Ngư lôi như chúng ta biết được phát minh vào năm 1860 bởi thuyền trưởng Giovanni Luppis (Còn được gọi là Ivan Blaz Lupis) ở thành phố Rijeka, Croatia, đó là một phần lãnh thổ cũ của Đế quốc Áo-Hungary. Ngư lôi lần đầu tiên được ra mắt với công chúng vào năm 1860, đến năm 1866 ông đã chứng tỏ sự thành công trong công việc của mình khi cùng cộng tác với Robert Whitehead. Nhà máy sản xuất ngư lôi đầu tiên được xây dựng ở Rijeka.

    Nội chiến Hoa Kỳ
    [​IMG]
    Tầu phóng ngư lôi CSS David của miền Nam tại Charleston Harbor


    [​IMG]
    Bản vẽ của chiếc CSS David của Hải quân Hợp bang miền Nam
    Trong Nội chiến Hoa Kỳ người ta có thể thấy một số phát minh mới trong những trận hải chiến, bao gồm cả tàu ngư lôi đầu tiên, trong đó có ngư lôi spar. Năm 1861 Tổng thống Lincoln thiết lập một cuộc phong tỏa bằng hải quân vào các cảng phía Nam, để làm tê liệt những nỗ lực của miền Nam nhằm có được các thiết bị chiến tranh từ nước ngoài. Miền Nam cũng thiếu các phương tiện để xây dựng một hạm đội hải quân có khả năng đối đầu với Hải quân của Liên bang. Một chiến lược của Hợp bang miền Nam để chống lại cuộc phong tỏa đã tạo ra sự phát triển của tàu phóng ngư lôi, những tàu nhỏ, cao tốc được thiết kế để tấn công các tàu chiến lớn hơn của các hạm đội phong toả.
    Các tàu ngư lôi lớp David đã có động cơ hơi nước hỗ trợ với một thân có các đồ dằn buộc kèm. Chúng không phải là tầu ngầm nhưng có thể coi là tàu bán ngầm, Khi đã treo đủ đồ dằn chỉ có ống khói và vài inch (1 inch xấp xỉ bằn 25 mm) của thân tàu nổi trên mặt nước. Vào một đêm tối, và sử dụng than đá không khói, các tàu phóng ngư lôi đã hầu như trở nên vô hình. Các tầu lớp David được đặt tên theo câu chuyện của David và Goliath ( trong kinh thánh Cựu ước chú nhỏ David đã đánh bại chàng khổng lồ Goliath). Các chiếc CSS Midge và CSS St. Patrick là các tàu phóng ngư lôi lớp David.
    Các tầu CSS Squib và CSS Scorpion đại diện cho một lớp tàu ngư lôi được đóng với các boong tầu thấp, nhưng không có các thùng đựng đồ dằn như đã được tìm thấy trên các tầu lớp David.


    [​IMG]
    Một tàu phóng ngư lôi lớp David nằm trên bãi biểnsau chiến tranh

    [​IMG]
    Một tàu phóng ngư lôi Spar thế kỷ 19.
    Các tàu phóng ngư lôi miền Nam được trang bị ngư lôi spar. Đây là một thùng chứa đầy chất nổ không thấm nước, được gắn vào mũi của tàu phóng ngư lôi ở dưới mức nước trên một thanh spar dài. Các tàu phóng ngư lôi tấn công bằng cách đâm thanh ngư lôi spar vào mục tiêu dự định của mình,làm cho quả ngư lôi mắc kẹt vào mục tiêu bằng một chiếc móc trên mặt trước của quả ngư lôi. Tàu phóng lôi sẽ lùi ra xa một khoảng cách an toàn và kích nổ quả ngư lôi, thường là bằng một dây dài gắn với một ngòi kích hoạt ( Nói chung là tựa như đánh bom ba càng của nhà Vịt vậy).
    Nhìn chung, tàu phóng ngư lôi miền Nam đã không quá thành công. Vì bên thành tầu thấp hơn của chúng làm cho chúng dễ bị ngập trong vùng biển nước lớn, và thậm chí làm nồi hơi của họ bị tắt bởi nước bắn ra từ vụ nổ ngư lôi của mình. Ngư lôi thường nổ quá sớm và chuyện thất bại là phổ biến.
    Năm 1864, trung úy Cushing của hải quân Liên bang ( miền Bắc) đã dùng một tầu có trang bị động hơi nước với một ngư lôi spar để tấn công tầu bọc thép của miền Nam chiếc CSS Albermarle (đã kể chi tiết ở trang ). Cũng cùng năm đó Liên bang đã hạ thủy chiếc USS Spuyten Duyvil, Một con tầu với một loạt các cải tiến kỹ thuật bao gồm rất nhiều dạng các đồ dằn cho các hoạt động tấn công và một vị trí mở rộng cho việc nạp ngư lôi spar.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:23 ngày 05/05/2010
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Thời đại của ngư lôi tự hành
    Nguyên mẫu của một ngư lôi tự hành đầu tiên ở Châu Âu được tạo ra bởi Giovanni Luppis, một sĩ quan hải quân người Áo ở Fiume (ngày nay là Rijeka, Croatia), một thành phố cảng của Đế quốc Áo - Hung. Năm 1860, ông trình bày salvacoste (vũ khí bảo vệ bờ biển), một vũ khí có thể nổi trong nước, được điều khiển bởi những sợi dây từ bờ. Dự án này đã không được sử dụng bởi Hải quân. Luppis có quen biết Robert Whitehead, một kỹ sư người Anh quản lý của một nhà máy Fiume và vào năm 1864 Luppis đã ký một hợp đồng với ông ta để hoàn thiện các sáng chế của mình. Kết quả là một vũ khí dưới mực nước có tên Minenschiff, đây chính là chiếc ngư lôi tự hành đầu tiên, chính thức được trình lên Ủy ban Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 21 tháng 12 năm 1866.


    [​IMG]
    Chiếc tầu phóng ngư lôi HMS Lightning năm 1877.
    Cuối thế kỷ 19
    Trong thời gian giữa những năm 1800, các tàu tiền tuyến được thay thế bằng tàu hơi nước lớn trang bị súng và giáp hạng nặng, được gọi là ironclad. Cuối dòng này là sự phát triển dẫn đến lớp tầu Dreadnought, loại thiết giáp hạm với tất cả các súng lớn.


    [​IMG]
    Tàu phóng ngư lôi No.46 và No.45 của Pháp năm 1884 tại Trận Phúc Châu.
    Nhưng đồng thời, trọng lượng mới của lớp giáp làm các con tầu chậm lại, và các khẩu lớn đủ cần thiết để bắn thủng giáp kẻ thù cũng có tốc độ bắn rất chậm. Điều này tạo ra khả năng một chiếc tàu nhỏ và nhanh nhẹn có thể tấn công các tàu thiết giáp, với chi phí thấp hơn nhiều. Việc đưa vào sử dụng ngư lôi tạo ra một vũ khí mà nó có thể làm tê liệt, hoặc đánh chìm, bất cứ chiến hạm nào.
    Con tàu đầu tiên được thiết kế để bắn ngư lôi tự hành Whitehead là chiếc HMS Lightning, nó được hoàn thành vào năm 1877. Hải quân Pháp sau năm 1878 cũng xuất xưởng chiếc Torpilleur No 1, nó được hạ thủy vào năm 1878 mặc dù đã được đặt hàng vào năm 1875. Chiếc HNoMS Rap của Hải quân Hoàng gia Na Uy- có nghĩa ?o Cao tốc?-được đặt hàng từ Thornycroft nước Anh năm 1873, nhưng đã không được trang bị ngư lôi tự hành cho đến tận năm 1879.


    [​IMG]
    Chiếc tàu phóng ngư lôi Drazki của Bungari
    Những ghi chép đầu tiên về việc phóng các ngư lôi từ một tàu phóng lôi (mà chính chúng lại được phóng ra từ một tàu phóng ngư tiếp liệu) Trong một trận chiến thực sự do đô đốc Nga Stepan Makarov (ông này chết vì húc phải mìn trong trận Port Arthur) chỉ huy ngày 16 Tháng 1 năm 1878, người đã sử dụng ngư lôi Whitehead tự hành để tấn công một con tàu chiến của Thổ Nhĩ Kỳ có tên là Intibah trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1877-1878.


    [​IMG]
    Tàu phóng ngư lôi tiếp liệu Foudre trong năm 1896
    Trong cuối thế kỷ 19, nhiều lực lượng hải quân bắt đầu chế tạo tàu phóng ngư lôi có chiều dài 30-50 m, trang bị đến ba ống phóng ngư lôi và có súng nhỏ. Chúng được trang bị động cơ hơi nước và có tốc độ tối đa 20-30 hải lý/ giờ (37-56 km/ giờ). Chúng có giá thành tương đối rẻ tiền và có thể mua được với số lượng, cho phép có thể tiến hành hàng loạt vụ tấn công vào hạm đội các tàu lớn hơn. Nhiều khi bị mất cả một hải đội tàu phóng ngư lôi để bắn chìm một tầu chiến chủ lực của đối phương vẫn được coi là có lãi.
    Tàu phóng ngư lôi đánh chìm tàu chiến của Anh là chiếc HMS Goliath năm 1915, của Áo-Hung là chiếc Wien vào năm 1917 và Szent István vào năm 1918.
    Giới thiệu các khu trục hạm tàu phóng lôi
    Sự ra đời của các tàu phóng lôi đã tạo ra kết quả là một loạt các thay đổi sôi động trong các lực lương hải quân trên thế giới, như là các súng nhỏ hơn bắn nhanh hơn được thêm vào các tàu hiện tại để tránh khỏi các mối đe dọa mới. Vào giữa thập niên 1880 người ta đã phát triển pháo hạm ngư lôi giống như chiếc Destructor của Tây Ban Nha, Nhưng chúng được coi là quá chậm để ngăn chặn các tàu phóng ngư lôi vì mọi người đều tin rằng tốc độ trong chiến đấu của tàu phóng ngư lôi sẽ xấp xỉ tương đương tốc độ của chúng trong điều kiện thử nghiệm . Cuối cùng một lớp tầu chiến hoàn toàn mới ra đời, các tàu khu trục phóng ngư lôi được phát minh để ngăn chặn chúng. Những con tàu này, trong đó, khi sang thế kỷ, đã được gọi một cách đơn giản là tàu khu trục, ban đầu chúng chỉ là sự mở rộng của tàu ngư lôi, với tốc độ tương đương với tàu phóng ngư lôi, nhưng chúng có súng nặng hơn có thể tấn công tiêu diệt tầu phóng ngư lôi trước khi chúng có thể tấn công vào hạm đội chính.
    Khu trục hạm trở nên hữu ích hơn nhiều, có khả năng đi biển tốt hơn và có nhiều tính năng lớn hơn tàu phóng ngư lôi, và cuối cùng chúng đã thay thế hầu hết các tàu phóng ngư lôi. Tuy nhiên, Hiệp ước Hải quân London sau khi Chiến tranh Thế giới I đã giới hạn trọng tải các tàu chiến lớn, nhưng không có giới hạn nào được đặt ra cho tàu dưới 600 tấn. Các quốc gia Pháp, Ý, Nhật Bản và Đức phát triển lực lượng tàu phóng ngư lôi hải quân xung quanh xung quanh trọng tải trên với khỏang 7-10 m dài, trang bị hai hoặc ba súng có cỡ nòng khoảng 100 mm (4 in) và với ngư lôi tự hành. Ví dụ tàu khu trục lớp Sleipner của Hải quân Hoàng gia Na Uy trong thực tế làcỡ của tàu phóng ngư lôi, trong khi đó tàu phóng ngư lôi của Ý lớp Spica lại là loại Tàu khu trục hộ tống. Sau Thế chiến II cuối cùng chúng được gộp vào và phân loại lại là tầu hộ tống.
    Các tàu phóng ngư lôi Kriegsmarine của Đức đã được phân loại là Torpedoboot với ký hiệu chữ "T" ở thân tầu. Các lớp tầu được thiết kế vào giữa thập niên 1930, chẳng hạn như tàu phóng lôi loại 35, đã có vài khẩu súng, còn các lớp trước đó dựa gần như hoàn toàn vào ngư lôi làm vũ khí chính của chúng. Điều này được phát hiện ra là không phù hợp trong chiến đấu, và kết quả là người ta đã hình thành các "hạm đội tàu phóng ngư lôi" (Flottentorpedoboot), trong đó có những tầu có trọng tải lớn đánh kể có thể lên đến 1.700 tấn, thực tế đây là tàu khu trục loại nhỏ. Cách phân hạng tàu ngư lôi này của Đức đã có được hiệu quả cao trong chiến đấu, ví dụ chiếc tàu tuần dương Anh HMS Charybdis bị đánh chìm ngoài khơi Brittany bởi một loạt ngư lôi được bắn ra từ các tàu phóng ngư lôi T23 số và T27 thuộc lớp tầu Elbing.
    Tầu phóng ngư lôi nhỏ


    [​IMG]
    Tàu phóng lôi Nhật Bản Kasumi, vào biên chế năm 1902, có trọng tải khoảng 400 tấn.
    Trước Chiến tranh thế giới I tàu phóng ngư lôi động cơ hơi nước thường lớn hơn và có nhiều vũ khí mạnh hơn so với loại được sử dụng ngày nay. Động cơ đốt trong mới đã tạo ra nhiều động năng hơn so với động cơ hơi nước có cùng kích thước và trọng lượng, và cho phép người ta phát triển một lớp tầu mới nhỏ hơn và cao tốc hơn. Những động cơ mạnh mẽ có thể tận dụng sử dụng thiết kế thân tàu, chẳng hạn như ở Motor Boat ven biển Boat của Anh, chúng đạt tới tốc độ cao hơn nhiều trong điều kiện biển thích hợp so với các thân tầu truyền thống.
    Kết quả là một tầu phóng ngư lôi nhỏ có chiều dài 5-10 feet (15-30 m) với tốc độ tối đa 30-50 hải lý /giờ (56-93 km/giờ), mang 2-4 quả ngư lôi được bắn từ bệ phóng cố định và một số súng máy đơn ra đời. Tàu phóng ngư lôi kiểu vẫn rất hữu ích tại Chiến tranh thế giới II. Các tầu phóng ngư lôi Motor Boats (MTB) của Hải quân Hoàng gia Anh (RN) Ngư lôi Motor Boats (MTBs), Kriegsmarine ?oS-Boote? của Đức (Schnellboot là "tàu cao tốc": người Anh gọi là chúng E Boat), của Ý như M.A.S. và M.S. và của Mỹ như PT Boat (được đặt tên cho tầu tuần tra ngư lôi) tất cả chúng đều là loại này.
    Một trận đánh kiểu cổ điển diễn ra giữa các tầu phóng ngư lôi cao tốc tại Channel Dash (Kênh Đan Mạch) vào tháng 2 năm 1942 giữa các E-Boat và tàu khu trục của Đức khi chúng phải bảo vệ một phân đội các tầu lớn gồm các chiếc Scharnhorst, Gneisenau, Prinz Eugen và một vài tàu nhỏ hơn khỏi sự tấn công của các RN MTB của Anh (tầu phóng ngư lôi Motor Boats của Hải quân Hoàng gia Anh).
    Vào thế chiến II tàu phóng ngư lôi đã bị lấn lướt một cách nghiêm trọng bởi máy bay có tốc độ cao hơn, mặc dù chúng vẫn có lợi thế tốc độ, nhưng chúng chỉ có thể bắt kịp các tàu lớn hơn bằng cách chạy ở tốc độ rất cao trên một khoảng cách rất ngắn, như đã được thể hiện trong Dash Channel. Một mối đe dọa thậm chí còn lớn hơn rất nhiều đó là máy bay tuần tra, chúng có thể bắn hạ tàu phóng ngư lôi trước khi chúng có thể tấn công vào các mục tiêu của chúng.
    Trong Thế chiến II, Hải quân Hoa Kỳ sử dụng một số lượng lớn tầu cao tốc PT Boat bằng gỗ ở Nam Thái Bình Dương trong vai trò bổ sung cho lực lượng tấn công ngư lôi (tại những thời điểm này Hoa kỳ đã mất gần hết các tầu tuần dương và khu trục bởi người Nhật rồi). PT Boat thực hiện nhiệm vụ trinh sát, vận chuyển cao tốc, tìm kiếm cứu nạn và cũng như thực hiện các cuộc tấn công thăm dò. Chúng đã tham gia vào các hoạt động quân sự như một hạm đội và cũng làm việc trong các nhóm nhỏ hơn và thậm chí đơn lẻ để quấy rối đường cung cấp của đối phương. Vào cuối Chiến tranh Thái Bình Dương khi các mục tiêu lớn đã trở thành khan hiếm, nhiều chiếc PT Boat thay thế hai hoặc tất cả bốn ống phóng ngư lôi của chúng bằng súng bổ sung cho con tàu để tấn công ven biển, các xà lan cung cấp của đối phương, cô lập các đảo của đối phương kẻ thù, tổ chức tăng cường phòng ngự hoặc tham gia sơ tán (chở tướng Mc Arthur chạy chối chết khỏi Philippine).
    Các tàu quân sự quan trọng nhất bị đánh chìm bởi một ngư lôi tàu trong Thế chiến II là tàu tuần dương HMS Manchester đã bị đánh chìm bởi hai Ý tàu phóng lôi (MS 16 và MS 21) trong Hoạt động Đôn ngày 13 Tháng Tám năm 1942.
    Tầu cao tốc tấn công ngày nay
    Các tàu tương tự như tàu phóng ngư lôi vẫn còn trong sử dụng nhưngchúng đã được trang bị vũ khí tầm xa như tên lửa đối hạm có thể được sử dụng ở khoảng cách từ 30 -> 70 km. Điều này làm giảm sự cần thiết là phải theo đuổi tốc một tốc độ ngày cao và tạo cho chúng có nhiều không gian hoạt động hơn nữa trong khi tiếp cận mục tiêu.
    Máy bay là một mối đe dọa lớn, làm cho việc sử dụng tầu phóng ngư lôi chống lại bất kỳ hạm đội nào có không quân yểm trợ chở thành rất nguy hiểm. Chiều cao rất khiêm tốn của cột radar của tầu phóng ngư lôi làm cho chúng rất khó khăn để bắt và khóa vào một mục tiêu trong khi vẫn duy trì được một khoảng cách an toàn. Kết quả là việc các tầu nhỏ, cao tốc tham gia tấn công hạm đội đối phương sẽ được thay thế bằng cách sử dụng những tầu chiến hải quân lớn hơn như tàu hộ tống, đây là loại có thể mang theo tên lửa phòng không dẫn đường bằng Radar để tự vệ, và dùng trực thăng để phát hiện mục tiêu vượt quá tầm đường chân trời.
    Mặc dù tàu phóng ngư lôi đã gần như biến mất trong hầu hết các lực lượng hải quân trên thế giới, chúng vẫn được sử dụng tới tận ngày nay trong một vài khu vực đặc biệt, đáng chú ý nhất là trong biển Baltic. Việc các vùng biên giới thuộc biển Baltic có quá nhiều chồng lấn và phức tạp phủ nhận lợi thế của việc sử dụng ASM ( tên lửa đối hạm ). Các hoạt động gần bờ kết hợp với giám sát mặt đất và bởi radar ở các căn cứ không quân trên đất liền, và trong trường hợp các căn cứ hải quân của Na Uy bị cắt khỏi Vịnh Fjord, tàu phóng ngư lôi với chi phí giá rẻ ngăn chặn hữu hiệu các cuộc tấn công đổ bộ. Thực tế này cũng là mô hình hoạt động của Hải quân Trung Quốc với loại tàu phóng lôi lớp 025 của họ để bảo vệ vùng ven biển và vùng cửa biển.
    Chúng vẫn còn được sử dụng bởi nhiều lực lượng hải quân và cảnh sát bảo vệ bờ biển thuộc lãnh hải của họ để phòng chống bọn buôn lậu, đặc biệt là buôn lậu ma tuý và vũ khí cho quân nổi dậy. Nhiều tàu cao tốc vũ trang hạng nặng, thường cùng với sự hỗ trợ của máy bay tuần tra hải quân, đây là lực lượng cần thiết để ngăn chặn và tiêu diệt các tàu cao tốc có vũ trang của đối phương.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:58 ngày 06/05/2010
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Giới thiệu về những trận đánh - những chiến dịch hải quân nổi tiếng trong Chiến tranh Thế giới I
    Chiến dịch U-boat
    Chiến dịch U boat (Chiến tranh thế giới I 1914-1918) là chiến dịch Tầu ngầm U-boat của hải quân Đức tấn công vào các tuyến đường thương mại của Liên minh Trung tâm (hay còn gọi là các nước Đồng minh) trong Chiến tranh thế giới I. Nó diễn ra chủ yếu ở các vùng biển xung quanh các quần đảo thuộc Anh quốc và biển Địa Trung Hải.
    Đế quốc Đức dựa vào nhập khẩu thực phẩm và sản xuất thực phẩm trong nước (đặc biệt là phân bón) còn Vương quốc Anh dựa rất nhiều vào nhập khẩu để nuôi dân của họ, và cả các nguyên liệu cần thiết để cung cấp ngành công nghiệp chiến tranh của họ, do đó với mục đích nhằm làm suy yếu đối phương, cả hai cường quốc đã tiến hành các cuộc phong tỏa vào nhau. Người Anh có lực lượng Hải quân Hoàng gia có ưu thế về số lượng và có thể hoạt động trên hầu hết các đại dương trên thế giới vì nước Anh là Đế quốc biển cả, Trong khi Kaiserliche Marine Hạm đội của Đế quốc Đức chủ yếu bị hạn chế ở German Bight, và họ phải sử dụng chiến thuật tấn công tầu thương mại và chiến tranh tàu ngầm không hạn chế ở nơi khác.
    Thành công của cuộc phong tỏa vào nước Đức đã góp phần vào sự thất bại về mặt quân sự của Đức vào năm 1918, và là hiệu lực để thi hành việc ký kết Hiệp ước Versailles vào giữa năm 1919.
    1914: Bước đầu của chiến dịch
    Biển Bắc: giai đoạn ban đầu
    Chuyến ra quân đầu tiên
    Ngày 06 tháng 8 năm 1914, hai ngày sau khi nước Anh đã tuyên chiến với Đức, Tầu ngầm U-boat U-5, U-7, U-8, U-9, U-13, U-14, U-15, U-16, U-17, và U-18 của Hải quân Đế quốc Đức khởi hành từ căn cứ của họ tại Heligoland tấn công vào tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh trong biển Bắc ha?i và làm nổ ra chiến tranh tàu ngầm đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
    Các tầu ngầm U-boat khởi hành đi về phía bắc, với hy vọng sẽ gặp hải đoàn của Hải quân Hoàng gia ở giữa Shetland và Bergen. Ngày 08 tháng 8 một trong các động cơ của U-9 bị vỡ và nó đã bị buộc phải trở về căn cứ. Cùng ngày, ngoài khơi Fair Isle, chiếc U-15 nhìn thấy các thiết giáp hạm Anh HMS Ajax, Monarch, và Orion đang di chuyển và nó bắn một quả ngư lôi vào chiếc Monarch. Phát bắn đã không trúng đích và sự thành công được mang đến chỉ là các chiến hạm tăng phải cường canh gác. Lúc bình minh sáng hôm sau, Hải đoàn tuần dương hạm hạng nhẹ số 1 làm nhiệm vụ bảo vệ các thiết giáp hạm, đã có va chạm với Tầu ngầm U-boat , chiếc HMS Birmingham nhìn thấy chiếc U-15 lúc đó đang nổi trên mặt nước. Không có bất kỳ dấu hiệu cảnh giới nào trên con tàu-U này và người ta có thể được nghe âm thanh của động cơ, như là thủy thủ đoàn đang tiến hành sửa chữa gì đó. Chiếc Birmingham ngay lập tức thay đổi hướng đi và đâm vào chiếc U-15 và cắt nó ra làm đôi.
    Ngày 12 Tháng 8 bảy chiếc Tầu ngầm U-boat đã trở về Heligoland; chiếc U-13 cũng bị mất tích, và người ta nghĩ rằng nó đã đâm trúng một quả thủy lôi. Có thể nói mặc dù chuyến ra quân đầu tiên của tầu U Boat là một thất bại, nó gây cho Hải quân Hoàng gia một số lo lắng rằng nó đã chứng minh ước tính trước đó về bán kính hoạt động của Tầu ngầm U-boat là sai sự thật và đặt ra câu hỏi cho sự an toàn của Grand Fleed khi họ không được bảo vệ trong lúc neo đậu tại Scapa Flow. Mặt khác việc phá hủy dễ dàng chiếc U-15 bởi chiếc HMS Birmingham đã khuyến khích một niềm tin sai lầm rằng tàu ngầm không là một nguy cơ nghiêm trọng với tàu chiến khi chúng nổi trên mặt nước.
    Thành công đầu tiên
    Ngày 05 tháng 9 năm 1914, chiếc U-21 chỉ huy bởi Trung úy Otto Hersing đã làm nên lịch sử khi nó phóng ngư lôi vào chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ HMS Pathfindercủa Hải quân Hoàng gia. Kho đạn của chiếc tàu tuần dương này phát nổ, và con tàu bị chìm trong vòng bốn phút, lấy mạng 259 người trong thủy thủ đoàn của nó. Đây là chiến thắng chiến đấu đầu tiên của tàu ngầm hiện đại.
    Các tầu ngầm U-boat của Đức đã gặp may mắn vào ngày 22 tháng Chín. Rất sớm vào buổi sáng ngày hôm đó, trong lúc quan sát trên cầu của chiếc U-9, chỉ huy của nó là Trung úy Otto Weddigen đã phát hiện một con tàu trên đường chân trời. Weddigen ra lệnh cho chiếc tầu ngầm U-boat này lặn xuống ngay lập tức, và chiếc tàu ngầm tiến về phía trước để tăng cường điều tra.
    [​IMG]
    Trung úy Otto Weddigen chỉ huy của chiếc U-9, người đã được trao tặng huy chương CrossIron hang I vì diệt một mớ các tuần dương hạm của Anh
    Ở tầm gần hơn, Weddigen đã phát hiện ba chiếc tuần dương hạm bọc thép Aboukir, Cressy, và Hogue của Hải quân Hoàng gia. Ba chiếc tàu này không chỉ đơn thuần là những chiếc tầu cổ lỗ mà thủy thủ đoàn của chúng chủ yếu là những quân nhân dự bị, và như vậy chúng rất dễ dàng bị tổn thương, rõ ràng rằng có một quyết định rút chúng trở về đã năm trong các văn phòng đầy tính quan liêu của Bộ ha?i quân Anh và mệnh lệnh này đã không đến kịp với các con tàu. Weddigen bắn một phát ngư lôi vào Aboukir. Thuyền trưởng của các chiếc Hogue và Cressy giả định rằng chiếc Aboukir đã đâm vào một quả thủy lôi và xúm vào để hỗ trợ. Chiếc U 9 phóng hai quả ngư lôi vào chiếc Hogue, và sau đó nhấn chìm chiếc Cressy bằng hai quả ngư lôi tiếp theo khi chiếc tàu tuần dương này cố gắng để bỏ chạy. Ba tuần dương hạm bị đánh chìm trong vòng chưa đầy một giờ đồng hồ, 1.460 thủy thủ Anh đã thiệt mạng.
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tầu ngầm U-9 anh hùng của Hải quân Đức, chiếc đã hạ một lèo 04 chiếc tuần dưong hạm của Ạnh
    Kết thúc cuộc ra quân đầu tiên
    Những mối quan tâm cũng đã được thiết lập một cách đầy đủ. Ngày 23 tháng 11 chiếc U-18 thâm nhập vào Scapa Flow với rất ít khó khăn. Tuy nhiên, bãi neo đậu đã vắng ngắt, Grand Fleed đã được phân tán để thả neo ở bờ biển phía tây của Scotland và Ireland. Cuối ngày hôm đó chiếc U-18 đã bị chặn lại trong Pentland Firth bởi tầu đánh cá tuần tra, và sau đó bị đâm và bị đánh chìm bởi tàu khu trục Garry.
    Thành công cuối cùng của tầu U Boat trong năm đó là vào ngày 31 Tháng 12. Chiếc U-24 nhìn thấy chiếc thiết giáp hạm của Anh, chiếc HMS Formidable, đang di chuyển trong Channel và phóng ngư lôi của nó. Chiếc Formidable chìm với tổn thất là 547 người trong số thủy thủ đoàn. Chỉ huy của Hạm độiC-in-C của Anh tại Channel, Đô đốc Sir Lewis Bayly, đã bị chỉ trích vì không có những đề phòng thích hợp trong các tình huống huấn luyện, nhưng ông đã được xóa tội vì đây là sơ suất của cấp dưới. Bayly sau này phục vụ với sự đặc cách như là chỉ huy của các lực lượng chống tàu ngầm tại Queenstown.
    Tại Địa Trung Hải: giai đoạn ban đầu
    Giai đoạn đầu của chiến dịch U-boat tại Địa Trung Hải gồm các hành động của lực lượng tầu ngầm U-boat của Hải quân Áo-Hung (Kuk) chống lại người Pháp, lực lượng đã phong toả Eo biển Otranto. Lúc bắt đầu chiến sự Kuk có bảy Tầu ngầm U-boat đang làm nhiệm vụ tại thời điểm đó, 5 chiếc làm nhiệm vụ chiến đấu, 2 chiếc cho nhiệm vụ đào tạo, tất cả đều thuộc loại hoạt động ven biển, với phạm vi và độ bền hạn chế, phù hợp với hoạt động chiến đấu trong vùng biển Adriatic. Tuy nhiên họ đã gặt hái được một số thành công. Ngày 21 Tháng Mười Hai 1914, U-12 phóng ngư lôi vào chiếc chiến hạm lớp Dreadnought Jean Bart, khiến nó bị loại khỏi vòng chiến mãi mãi và vào ngày 27 tháng tư 1915 chiếc U-5 đánh chìm tàu tuần dương Leon Gambetta cùng với một tổn thất nặng nề về nhân mạng. Tuy nhiên, Kuk đã không thể tạo ra bất kỳ sự ngăn chặn nào vào tuyến đường giao thông của Đồng minh tại Địa Trung Hải khi họ vượt eo biển Otranto.
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm của Pháp Leon Gambetta, bị đánh chìm ở Địa Trung Hải bởi tầu ngầm Áo với tổn thất cực lớn về nhân mạng, chỉ còn 137 trong tổng số 728 người của thủy thủ đoàn còn sống sót
    --------------------------------------------------------------------------------
    Note: Hải quân Hoàng gia - Hải quân Anh
    Hải quân Đế chế - Hải quân Đức
    Hải quân Đế quốc - Hải quân Mỹ
    Hải quân Đế quốc Mặt Trời - Hải quân Nhật Bản
    Grand Fleed: Hạm đội Anh
    Hight Seas Fleed - Hạm đội Đức
    Có cái link này có rất nhiều sách lý thú về U Boat ( rất tiếc là toàn UB của WW II) các bác có rảnh thì download về ngâm cứu nha http://www.ebookee.net/search.php?cx=005418540955315608444%3Ahzcbi9hnswe&cof=FORID%3A11&q=world+war+I+u-boat+1914+-18&sa=Search#1137
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 14:21 ngày 07/05/2010
  8. alsou1

    alsou1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2010
    Bài viết:
    1.571
    Đã được thích:
    4.539
    Topic rất hay và công phu
    Riêng phần ngư lôi em nghĩ bác hongson nên xem qua link này:
    http://en.wikipedia.org/wiki/Torpedo
    Trong đó nói thuật ngữ "torpedo" và người đầu tiên sử dụng là người Mỹ Robert Fulton vào năm 1800 chứ ko phải ông Croat như post trên của bác.
    ........"The first usage of the term torpedo to refer to a naval explosive was by American inventor Robert Fulton. In 1800, Fulton launched his submarine, Nautilus, and demonstrated its method of attack using a floating explosive charge Fulton called a torpedo"......
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    -------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    @ alsou1: Cám ơnbác alsou1 đã góp ý, để em kiểm tra lại nha. Ồ nhưng bác người Croat là phát minh ra ngư lôi tự hành mà bác, còn đúng là ngư lôi thì đã có trước đó rồi nhưng là ngư lôi spa bác ạ .
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đôi nét về tàu ngầm trong Thế chiến Thứ nhất
    Năm 1914 ưu thế chính của tầu ngầm U-boat là có thể lặn sâu, tàu nổi không có đủ phương tiện để phát hiện một tàu ngầm dưới nước, và không có phương tiện để tấn công ngay cả khi họ có thể phát hiện ra chúng, trong khi với ngư lôi U-boat đã có một vũ khí để có thể đánh chìm một tàu chiến bọc thép với một phát bắn của nó. ít rõ ràng, nhưng khả năng này ngày càng trở nên rõ ràng trong chiến dịch tầu ngầm. Trong khi lặn xuống nước tầu ngầm U-boat gần như bị mất tầm quan sát và di chuyển rất chậm , tàu ngầm thời kỳ này có một tốc độ rất hạn chế khi lặn sâu dưới nước và sức chịu đựng rất kém, do đó, chúng phải nhất thiết chiếm được vị trí thuận lợi trước khi tung ra một cuộc tấn công, trong khi ngay cả khi nổi trên mặt nước tốc độ của chúng (khoảng 15 hải lý) chậm hơn tốc độ di chuyển đường trường của hầu hết các tàu chiến và chỉ bằng một phần ba so với các tàu lớp Dreadnought hiện đại nhất.
    Các tầu ngầm U-boat đã tạo được một số thành công ấn tượng, và đã có thể đuổi Grand Fleed ra khỏi căn cứ của nó để tìm kiếm một neo đậu an toàn hơn, nhưng Hải quân Đức đã không thể làm xói mòn lợi thế của Grand Fleed như họ đã mong đợi. Ngoài ra, trong hai hoạt động chính trên mặt nước thời kỳ này các tầu ngầm U-boat đã không thể tạo ra một chiếc bẫy hiệu quả, High Seas Fleet cũng không thể đẩy Grand Fleed vào một cái bẫy của U-boat. Trong khi tàu chiến ngày càng chạy ở tốc độ và với cách chạy hình zích zắc họ sẽ trở nên được tương đối an toàn và trong phần còn lại của cuộc chiến Tầu ngầm U-boat đã không thể tung ra một cuộc tấn công thành công nào vào một tàu chiến đang di chuyển theo cách này.
    Đến cuối chiến dịch đầu tiên Tầu ngầm U-boat đã đánh chìm chín tàu chiến, trong khi họ đã bị mất năm chiếc trong số tầu ngầm của họ.
    Các cuộc tấn công đầu tiên vào các tàu buôn
    [​IMG]
    Chiếc tầu hơi nước của Anh Andex bị chìm sau khi trúng một quả ngư lôi từ một tầu ngầm U Boat của Đức
    Các cuộc tấn công đầu tiên vào tàu buôn được bắt đầu vào tháng 10 năm 1914. Vào thời điểm đó không có một kế hoạch cụ thể cho một cuộc tấn công phối hợp các tầu U-boat chống lại tuyến đường vận chuyển Đồng minh. Người ta đã công nhận rằng tầu ngầm U-boat có một số hạn chế khi tham gia tấn công tầu buôn, và một chiến dịch như vậy đã làm ảnh hưởng đến các quốc gia trung lập. Trong sáu tháng sau khi mở ra cuộc chiến tấn công tầu hàng trong tháng 2 năm 1915, Tầu ngầm U-boat đã đánh chìm 19 tàu buôn với tổng cộng 43.000 tấn GRT(Gross Register Tonnage).
    1915: Tấn công tầu chở hàng của Đồng Minh
    Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế

    [​IMG]
    Khu vực bóng mờ cho thấy "khu vực chiến sự" được người Đức công bố vào ngày 4 Tháng 2 năm 1915
    Đến đầu năm 1915, tất cả các bên tham chiến đã mất đi hy vọng rằng cuộc chiến có thể dẫn đến thắng lợi một cách nhanh chóng, và bắt đầu xem xét các biện pháp tàn bạo hơn để cố chiếm được một lợi thế.
    Người Anh, với sức mạnh áp đảo trên biển của họ, đã thiết lập một cuộc phong tỏa vào hải quân Đức ngay lập tức sau khi có sự bùng nổ của cuộc chiến trong tháng 8 năm 1914, và vào đầu tháng 11 năm 1914 tuyên bố đây là một khu vực chiến sự, với bất kỳ con tàu nào ra vào Biển Bắc thì chúng phải chấp nhận rủi ro. Cuộc phong tỏa được tiến hành nghiêm ngặt một cách lạ thường khiến thực phẩm thậm chí được coi là " Mặt hàng lậu của chiến tranh". Người Đức coi đây là một cố gắng rõ ràng để bỏ đói người dân Đức và bắt họ phải quy phục và (người Đức) muốn trả thù (người Anh) theo cùng một cách, và trong thực tế mức độ nghiêm trọng của cuộc phong tỏa của Anh đã không đi quá nước Mỹ,
    Thậm chí về cơ bản người Đức không thể đối phó với sức mạnh hải quân Anh, và cách duy nhất để Đức có thể áp đặt một cuộc phong tỏa vào nước Anh là sử dụng U-Boat. Thủ tướng Đức, Theobald von Bethmann Hollweg, nghĩ rằng đó là một cuộc phong tỏa bằng tàu ngầm, dựa trên nguyên tắc "bắn mà không cần cảnh báo", sẽ ngăn ca?n Hoa Kỳ và các quốc gia trung lập khác. Tuy nhiên, ông ta đã chấp nhận đâm lao thì phải theo lao khi sử dụng nguyên tắc này.
    Để đối phó với tuyên bố của Anh trong tháng 11 năm 1914 rằng toàn bộ Biển Bắc bây giờ đã trở thành một khu vực chiến sự, vào ngày 04 tháng 2 năm 1915 Đô đốc Hugo von Pohl, Chỉ huy của Hạm đội Hight Seas Fleed, đã cho xuất bản một lời cảnh báo trong Deutscher Reichsanzeiger ( Đức Hoàng Công báo):
    (1) Các biển xung quanh Vương quốc Anh và Ireland, bao gồm toàn bộ English Channel, tại thời điểm này được tuyên bố là khu vực chiến sự. Từ ngày 18 tháng hai trở đi bất cứ tàu buôn nào của đối phương bị bắt gặp trong vùng này sẽ đều bị tiêu diệt, đồng thời cũng không có các biện pháp ngăn chặn các mối nguy hiểm có thể đe dọa tính mạng thủy thủ đoàn và hành khách.
    (2) các tàu trung lập cũng sẽ phải đối mặt với rủi ro trong khu vực chiến sự, bởi các rủi ro nguy hiểm của cuộc chiến trên biển và kể từ ngày 31 tháng 1 do người Anh lạm dụng cờ của các quốc gia trung lập, nên không thể luôn luôn tiến hành các cuộc tấn công vào tàu đối phương mà không làm tổn hại đến tầu trung lập (ở khu vực chiến sự)
    Trong thời gian đó, điều này sẽ đẩy các quốc gia ngoài châu Âu (như Brazil và Hoa Kỳ) vào cuộc chiến tranh ở phe Đòng minh.
    Tầu U-boat của Đức giờ đây là lực lượng chủ yếu có căn cứ ở Ostend Bỉ, đây là nơi làm cho các tàu ngầm Đức tiếp cận dễ dàng hơn tới những tuyến đường biển trên khắp nước Anh. Người Đức đã sử dụng lợi thế này khi họ đưa về đó 20 Tầu ngầm U-boat để bắt đầu cuộc phong tỏa hải quân. Vào tháng Giêng, trước khi tuyên bố "chiến tranh tàu ngầm không hạn chế" như là một cuộc phong tỏa của tàu ngầm, tổng số tàu hàng lên tới 43.550 tấn đã bị đánh chìm bởi Tầu ngầm U-boat . Số bị đánh đắm sau đó tăng đều đặn tới 168.200 tấn bị đánh đắm trong tháng tám. Tấn công mà không có cảnh báo, tầu ngầm U-boat đã đánh chìm gần 100,000 GRT/ tháng, trung bình 1,9 tàu/ ngày.
    Ngày 10 tháng 4 năm 1915 con tầu hơi nước của Anh, chiếc Harpalyce, một chiếc tàu cứu trợ của Bỉ và được đánh dấu rõ ràng như vậy, đã bị tấn công bằng ngư lôi mà không có cảnh báo bởi chiếc tầu ngầm UB-4 ở ngay gần đèn biển North Hinder, ngay bên ngoài dải vùng biển được tuyên bố là an toàn bởi von Pohl. Con tàu đang trên đường đến nước Mỹ để thu thập thực phẩm cho người Bỉ lúc này đang chết đói, và việc nó bị đánh chìm đã làm xúc động các công dân Mỹ và người Mỹ cũng cảm thấy bất bình về cái chết của Leon C. Thrasher, anh này bị chết đuối khi chiếc SS Falaba bị đánh chìm vào ngày 28 tháng 3 năm 1915 bởi chiếc tầu ngầm U-28 (sự cố Thrasher).
    Sự kiện chiếc RMS Lusitania
    [​IMG]
    Chiếc RMS Lusitania mà việc nó bị đánh đắm bởi tầu UBoat đã làm xấu nghiêm trọng quan hệ bang giao Đức - Hoa kỳ
    Ngày 7 tháng năm 1915, chiếc RMS Lusitania bị trúng ngư lôi của của chiếc tầu ngầm U-20, 8 dặm (13 km) ngoài khơi Old Head of Kinsale, Ireland, và chìm chỉ trong vòng 18 phút. Trong số 1.959 người trên tàu có 1.198 người đã thiệt mạng, 128 người trong số họ là công dân Mỹ.
    Sau vụ việc, chính phủ Đức đã cố gắng biện minh cho nó với một loạt các tham số, mà vẫn còn tranh luận ngày hôm nay, nhưng nó vẫn gây sự phẫn nộ lớn ở Anh và Mỹ, và người Anh cảm thấy rằng người Mỹ muốn phải tuyên chiến với Đức. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson từ chối qua phản ứng, mặc dù sự mất mát to lớn của mạng người do chiếc Lusitania bị đắm yêu cầu một phản ứng dứt khoát từ phía người Mỹ.
    Khi người Đức bắt đầu chiến dịch tàu ngầm chống lại nước Anh, Wilson đã cảnh báo rằng Hoa Kỳ mạnh mẽ yêu cầu chính phủ Đức phải ngừng ngay lập tức bất kỳ hành vi vi phạm quyền của người Mỹ. Được hỗ trợ bởi người cao cấp thứ nhì của Bộ Ngoại giao Robert Lansing, Wilson thể hiện rõ ràng yêu cầu của mình trong ba bị vong lục được gửi cho chính phủ Đức vào các ngày 13 tháng 5, ngày 09 tháng 6, và ngày 21 tháng 7 năm 1915.
    Lưu ý đầu tiên khẳng định quyền của người Mỹ đi mọi nơi với tư cách là hành khách trên tàu buôn và kêu gọi người Đức từ bỏ chiến tranh tàu ngầm U-boat tấn công vào tầu hàng mà không quan tâm tới bất cứ cờ gì mà họ treo trên tầu.
    Lưu ý thứ hai của Wilson bác bỏ lập luận của Đức rằng cuộc phong tỏa của Anh là bất hợp pháp, và là một cuộc tấn công tàn bạo và chết người vào dân thường vô tội, và cáo buộc của họ rằng chiếc Lusitania có chở vũ khí. William Jennings Bryan Wilson coi lưu ý thứ hai là quá khiêu khích và đã từ chức để
    phản đối việc người ta không kiểm duyệt nó.
    Lưu ý thứ ba, trong ngày 21 Tháng 7, Hoa kỳ đưa ra tối hậu, cho thấy rằng họ sẽ coi bất kỳ vụ đánh đắm tầu nào tiếp theo là " hành động cố tình không thân thiện". Trong khi công chúng và lãnh đạo Hoa Kỳ chưa sẵn sàng cho chiến tranh, con đường dẫn đến một lời tuyên chiến đã được tạo ra như là một kết quả của việc chiếc Lusitania bị đánh chìm.
    Tàu ngầm thả thủy lôi
    Sự xuất hiện của những bãi mìn mới ngoài khơi bờ biển phía Đông của Anh trong tháng sáu năm 1915 đã gây bối rối cho Hải quân Hoàng gia vì lúc này mặt nước quá phức tạp, và ban đầu họ đã đổ lỗi cho tàu đánh cá trung lập. Tuy nhiên, ngày 02 tháng 7 khi chiếc tầu tuần duyên nhỏ Cottingham vô tình đâm phải chiếc U-boat nhỏ UC-2 ở ngoài khơi ven biển Great Yarmouth, và khi người ta vớt nó lên và thấy rằng đó là một tàu ngầm thả thủy lôi, nó được trang bị mười hai quả thủy lôi trong sáu chiếc máng.
    Ngày 21 tháng 8 UC-5 trở thành chiếc tàu ngầm thả thủy lôi đầu tiên thâm nhập vào English Channel và thả 12 quả thủy lôi ngoài khơi Boulogne, một trong số đó đã đánh chìm chiếc tàu hơi nước William Dawson trong cùng ngày. Chiếc UC-5 thả 6 quả thủy lôi nữa ngoài khơi Boulogne và Folkestone ngày 07 tháng chín, một trong số đó đã đánh chìm chiếc Monarch. Nhiều quả thủy lôi nữa đã được thả ngoài khơi bờ biển phía đông nam bởi các chiếc UC-1, UC-3, UC-6, và UC-7.
    [​IMG]
    Chiếc tầu ngầm thả thủy lôi UC5 khi bị mang về New York - Hoa Kỳ
    [​IMG]
    Chiếc tầu ngầm thả thủy lôi UC5 được trưng bày tại Công viên Trung tâm - Hoa kỳ ( Hổ sa cơ phải ở truồng cho lợn xem này các bác ah). Vài thông số chung của chiếc UC5: chiến công 29, trọng tải tối đa 200 tấn, tốc độ 6.49 knots (12.02 km/h) khi nổi. 5.67 knots (10.50 km/h) khi lặn, bán kính hoạt động 900 dặm với tốc độ 5 knots, độ lặn sâu thử nghiệm 50 m, vũ khí 6 ống phóng ngư lôi 100 cm, 120 quả thủy lôi, thủy thủ đoàn 14 người
    [​IMG]
    Lại thêm một chiếc tầu ngầm thả thủy lôi nữa - chiếc UC1, chiếc này tuồng như là vừa đi làm nhiệm vụ về gặp người nhà nên anh em thủy thủ chui ra làm vài pô ảnh chơi.
    Sự kiện chiếc SS Arabic
    Ngày 19 tháng 8 năm 1915 Chiếc U-24 đánh chìm chiếc tầu chở khách White Star SS Arabic, ở ngoài lãnh hải của nước Mỹ, khoảng 50 dặm (80 km) về phía nam Kinsale. Nó bắn một quả ngư lôi duy nhất trúng vào phía sau con tầu chở khách, và chiếc này đã chìm trong vòng 10 phút, với tổn thất về sinh mạng của 44 hành khách và thủy thủ đoàn, 3 trong số đó là người Mỹ. Động thái tiếp theo là Mỹ có khả năng cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đức,
    Ngày 28 tháng 8 thủ tướng Đức đã ban hành lệnh mới tới các chỉ huy tàu ngầm và chuyển tiếp chúng tới Washington. Các mệnh lệnh mới nói rằng cho đến khi tiếp tục có các chỉ thị mới, tất cả các tàu khách chỉ có thể bị đánh chìm sau khi đã được cảnh báo và phải cứu tính mạng của hành khách và thuyền viên. Điều này được chứng minh là không được chấp nhận bởi các chỉ huy cao cấp của Hải quân, và vào ngày 18 tháng chín các đội tầu High Seas ( tầu U-Boat) được rút khỏi nhiệm vụ tấn công tầu hàng .
    Hoạt động của tầu ngầm U Boat ở eo biển Dardanelles
    Hải quân Đức đã gửi tàu ngầm đầu tiên của họ đến Địa Trung Hải để đáp trả Chiến dịch Dardanelles của Anh-Pháp, sau khi trở nên rõ ràng rằng đồng minh của họ Đế quốc Áo-Hung không có thể làm được gì nhiều để chống lại Đồng minh với lực lượng tàu ngầm nhỏ bé của họ, tuy rằng họ vẫn gặt hái được thành công trong việc bảo vệ biển Adriatic. Chiếc tầu ngầm U-boat đầu tiên được gửi đến là U-21 và hai tầu nhỏ hoạt động ven biển, UB-7 và UB-8. Chúng đã có được thành công ban đầu, chiếc U-21 đã đánh chìm các thiết giáp hạm tiền Dreadnought HMS Triumph và HMS Majestic của Hải quân Hoàng gia vào ngày 25 và ngày 27 tháng 5 trên con đường nó tới Constantinople, nhưng phải hạn chế nghiêm trọng các hoạt động của nó tại Dardanelles, nơi có nhiều tầu tuần tra nhỏ và lưới chống tàu ngầm lớn cùng với bom chìm đã hạn chế hoạt động của chúng.
    Đến cuối tháng sáu 1915, người Đức đã lắp ráp thêm 3 tàu ngầm loại UB ở Pola, 2 trong số đó đã được chuyển giao cho Hải quân Áo. Họ cũng đã được lắp ráp 3 tầu ngầm thả thủy lôi loại UC I, và sau đó chúng nhận được ra lệnh chuyển đổi thành tàu vận tải để thực hiện việc giao một số lượng nhỏ vật tư quan trọng cho Thổ Nhĩ Kỳ.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:34 ngày 10/05/2010

Chia sẻ trang này