1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hoạt động của tầu U-Boat ở Địa Trung Hải (ĐTH)
    Địa Trung Hải là một chiến trường hấp dẫn cho các hoạt động của Admiralstab Đức, một phần đáng kể hàng nhập khẩu của Anh đi ngang qua ĐTH, vùng biển này là cực kỳ quan trọng đối với hàng của Pháp và Ý, và tàu ngầm có thể hoạt động hiệu quả trong ĐTH ngay cả trong mùa thu và mùa đông, khi thời tiết nghèo nàn cản trở các hoạt động của tầu ngầm tại Đại Tây Dương và biển Bắc biển. Ngoài ra, có một số điểm nút cổ chai mà tầu vận tải phải vượt qua, chẳng hạn như Kênh đào Suez, Malta, Crete, và eo biển Gibraltar. Cuối cùng, Địa Trung Hải cung cấp những lợi thế như ít khi gặp phải tàu trung lập, chẳng hạn như tầu Mỹ hoặc Brazil, vì ít có công dân ngoài châu Âu đi lại ở vùng biển này.
    Trong suốt mùa hè, người Đức đã lắp ráp một lố 4 chiếc tầu ngầm tại Cattaro cho các hoạt động chống lại tàu hàng ở Địa Trung Hải. Chiến dịch được tiến hành trong tháng mười năm 1915, khi các chiếc U-33 và U-39, tiếp theo sau là chiếc U-35, được lệnh tấn công các tầu vận tải khi chúng tiếp cận Salonika và Kavalla. Trong tháng này, 18 tàu bị đánh chìm với tổng số trọng tải 63.848 tấn. Người Đức đã quyết định cùng tháng đó tăng thêm quân tiếp viện bằng một chiếc U-boat lớn hơn nữa, chiếc U-38 khởi hành đi Cattaro. Kể từ lúc này Đức vẫn chưa có chiến tranh với Ý, mặc dù nước Áo vẫn đang ở tình trạng chiến tranh với Ý, các tàu ngầm Đức đã nhận được mệnh lệnh tránh tấn công tàu Ý tại phía đông Địa Trung Hải, nơi người Ý có thể chờ các hành động thù địch chỉ từ tàu ngầm của Đức. Khi hoạt động ở phía tây đến Cape Matapan, U-Boat Đức kéo cờ Áo, và đánh đắm tầu hàng mà không cần sử dụng biện pháp cảnh báo nào, kể từ lúc này tàu buôn lớn có thể bị tấn công trên con đường vận chuyển bởi tầu ngầm hoặc tàu tuần dương trinh sát.
    Bộ Hải quân Đức cũng đã quyết định rằng tàu ngầm loại UB II sẽ là lý tưởng cho hoạt động ở Địa Trung Hải. Từ lúc này loại tầu ngầm mới là quá lớn để được vận chuyển bằng đường sắt tới Pola như tầu ngầm UB Type I, nên chỉ có các phần tháo rời của nó và công nhân Đức làm việc lắp ráp chúng được gửi đển thay thế. Điều này có nghĩa là sẽ thiếu công nhân để lắp ráp Tầu ngầm U-boat để phục vụ trong vùng biển nhà, nhưng đây lại có vẻ là hợp lý bởi những thành công tại Địa Trung Hải trong tháng 11, khi 44 tàu hàng bị đánh chìm với tổng trọng tải lên đến 155.882 tấn. Tổng số tầu bị đánh chìm trong tháng 12 đã giảm xuống còn 17 tàu (73.741 tấn) mà vẫn là hơn quá nửa tổng trọng tải bị đánh chìm trong tất cả các vùng biển có hoạt động của UB vào thời điểm đó.
    Trong tháng 11 năm 1915 chiếc U-38 lại gây ra một sự cố ngoại giao khi nó đã đánh chìm chiếc tàu hơi nước Ý Ancona trong khi nó căng cờ Áo, và làm mất mạng 40 công dân Mỹ. Một sự kiện tương tự xảy ra vào tháng ba 1916 đã ảnh hưởng tới quyết định của Ý tuyên chiến với Đức vào tháng tám năm 1916.
    Biện pháp đối phó của Đồng minh
    Biện pháp đối phó của Đồng Minh trong thời kỳ này đã thành công một cách hỗn độn.
    Các biện pháp phòng thủ, chẳng hạn như tàu buôn có vũ trang và tư vấn cho họ để hoặc là đâm vào các tầu U Boat, hoặc ép chúng phải lặn xuống là hiệu quả nhất. Từ các tàu có vũ trang để tự vệ, bước tiếp theo là các tàu vũ trang với mục đích tham gia săn đuổi các tầu ngầm U-boat. Trong các cuộc đọ súng 2 tầu ngầm U-boat bị đánh chìm vào năm 1915 bởi các tầu đánh cá có trang bị vũ khí tấn công. Bước tiếp sau là trang bị vũ khí và người cho các con tầu với những khẩu súng được che dấu (để săn tầu ngầm), loại tầu này được gọi là tầu Q. Một biến thể theo ý tưởng trang bị vũ khí cho tàu nhỏ cùng với tầu ngầm hộ tống. Năm 1915 có 2 UB bị đánh chìm bởi tầu Q và 2 chiếc nữa bị đánh chìm bởi tàu ngầm hộ tống.
    Các biện pháp tấn công tỏ ra có ít hiệu quả, những nỗ lực đã được thực hiện để sử dụng các tấm lưới để truy tìm và làm Tầu ngầm U-boat mắc vào lưới, và tiêu diệt chúng bằng thuốc nổ, nhưng cách này phần lớn gặp thất bại. các nỗ lực cũng được thực hiện để phong tỏa các tuyến đường như con đường qua Eo biển Dover với lưới và bãi thủy lôi, và chúng được gọi là Dover Barrage, thủy lôi được thả xung quanh các căn cứ U-boat, và các cơ sở của tàu ngầm để đón chúng ra vào cảng. Những biện pháp này đòi hỏi một chi phí rất lớn và rất nhiều nguyên vật liệu, nhưng đã gặt hái rất ít thành công. Chỉ có 2 chiếc tầu ngầm U-boat bị đánh chìm bởi những biện pháp này vào năm 1915.
    Vào đầu thời kỳ này British Merchant Marine đã có một hạm đội thương thuyền với tổng trọng tải lên đến 21.000.000 GRT. Trong sáu tháng chiến tranh tàu ngầm không hạn chế hạn Tầu ngầm U-boat đã chìm ¾ triệu tấn vận chuyển của Đồng Minh, với tốc độ này thì khó mà tiêu diệt được hạm đội thương thuyền của Anh, trong khi số tầu được đóng mới, và bổ sung từ các tàu bị tịch thu đã thừa đủ để bù đắp mất mát này. Mặt khác, các vi phạm nghiêm trọng của tầu ngầm U-Boát vào các nước trung lập như Na Uy và Hà Lan, đã đẩy nước Mỹ tham gia vào chiến tranh. Thất bại này cùng với các hạn chế chủ yếu khác nhau đối với các tầu U-boat vũ trang ở khu vực Đại Tây Dương đã làm chiến dịch phải tạm dừng, mặc dù nó vẫn tiếp tục với gây ra những trở ngại nhỏ trên Địa Trung Hải và các nơi khác, những nơi có ít khả năng tấn công phải tầu trung lập.
    Bom chìm - Depht Charge
    Bom chìm, hay "thả mìn" như nó được đặt tên ban đầu, lần đầu tiên được bàn tới vào năm 1910, và được phát triển thành thực tế khi Tổng tư lệnh của Hải quân Hoàng gia, Đô đốc Hạm đội Sir George Callaghan yêu cầu sản xuất cho mình trong năm 1914. Công việc thiết kế được thực hiện bởi Herbert Taylor tại HMS Vernon Torpedo và Mine School tại Portsmouth nước Anh, và là loại bom chìm đầu tiên có hiệu quả, "Type D", đã được sản xuất hàng loạt trong tháng 1 năm 1916.
    [​IMG]
    Cảnh chất bom chìm lênmôth tầu khu trục hộ tống - chiếc HMS Dianthus
    Các tầu chống tàu ngầm ban đầu chỉ mang hai quả bom chìm, chúng được từ một chiếc dù ở đuôi tàu. Thành công đầu tiên là sự kiện đánh chìm chiếc U-68 ngoài khơi Kerry, Ireland, ngày 22 tháng ba 1916 bởi tàu Q Farnborough. Đức đã trở thành nhận thức của các phụ trách các cuộc tấn công chiều sâu sau không thành công trên U-67 ngày 15 tháng tư 1916, và chiếc U-69 ngày 20 tháng 4. Các chiếc UC-19 và UB-29 là những chiếc tầu ngầm loại khác bị đánh chìm bởi bom chìm trong năm 1916.
    [​IMG]
    Ảnh dùng bom chìm diệt tầu ngầm từ chiếc HMS Ceylon - đây là ảnh minh họa, không phải ảnh trong WW I
    1916: Hạm đội High Seas Fleed, Địa Trung Hải, Mỹ, và vùng biển Bắc cực
    Với sự hỗ trợ của Hạm đội High Seas Fleed
    Năm 1916, Hải quân Đức cố gắng một lần nữa sử dụng Tầu ngầm U-boat để làm xói mòn ưu thế về số lượng của Grand Fleed, chúng phân đoạn hoạt động thu hút Grand Fleed vào một cái bẫy của U-boat. Bởi vì Tầu ngầm U-boat có tốc độ chậm hơn nhiều so với hạm đội tầu chiến, hoạt động này yêu cầu U-boat lập trước nơi phục kích, sau đó cơ động hạm đội tầu chiến để dử Grand Fleed tiến về phía họ.
    Một số các hoạt động này đã được phân đoạn vào tháng ba và tháng tư năm 1916, nhưng đã không thành công. Trớ trêu thay, trận đánh của các hạm đội lớn đó đã diễn ra, Trận Jutland, vào tháng 5 năm 1916 mà không có sự tham gia của U-boat, các hạm đội đã chạm trán và tấn công lẫn nhau một cách tình cờ, và không có bất cứ đội tầu U-boat nào ở gần khu vực chiến sự. Một loạt các hoạt động được tiếp tục trong tháng 8 và tháng 10 năm 1916, tương tự không có hiệu quả và chiến thuật này đã bị loại bỏ để các U Boat tiếp tục tham gia tấn công tầu hàng .
    Người Anh cũng nhận thức được rằng có nguy cơ về các cái bẫy U-boat cho Grand Fleed, mặc dù họ không có phương tiện để tìm xem các bẫy này có thể được đặt ở đâu. Tuy nhiên Jellicoe đã phát triển một chiến thuật phản ứng cho trường hợp này. Đối mặt với một hạm đội Đức đang quay lưng rút lui, ông ta sẽ giả định rằng có một cái bẫy tàu ngầm và tránh đuổi theo chúng, nhưng lại di chuyển ở tốc độ cao để tấn công vào bên sườn của đối phương, trước khi đối phương kịp triển khai và nổ súng, mục đích là để tránh phải chiến đấu ở vùng biển được lựa chọn bởi kẻ thù, và buộc bất cứ Tầu ngầm U-boat nào đang hiện diện phải nổi lên mặt nước nếu chúng dự định bám sát họ.
    Vùng biển Địa Trung Hải
    Trong năm 1916 các vụ tấn công tầu hàng tiếp tục không suy giảm tại Địa Trung Hải. Đồng minh đã không có biện pháp đối phó hiệu quả, các sắp xếp phức tạp để hợp tác giữa hải quân các quốc gia khác nhau có nghĩa là phản ứng bị phân mảnh và không có sự hợp tác, trong khi các biện pháp chính được các lực lượng đồng minh ưa chuộng cho mối đe doạ của tầu ngầm U-boat là rào chặn tầu ngầm tai Otranto (Otranto Barrage) có rất ít hiệu quả.
    Chỉ có hai Tầu ngầm U-boat bị tiêu diệt trong tại rào chặn này trong thời gian diễn ra tất cả các hoạt động của U-Boat, trong khi đó các đội tầu buôn chịu tổn thất rất lớn. Năm 1916 quân Đồng minh đã mất 415 tàu, chiếm tải trọng 1.045.058 GRT, một nửa trong số tất cả các tàu Đồng Minh bị đánh chìm tại tất cả các chiến trường.
    Tám trong số một tá tầu U-boat ghi nhiều thành tích nhất đã đạt danh hiệu "Ách" khi phục vụ trong đội tàu nhỏ ở Pola, bao gồm chỉ huy có thành tích cao nhất trong số đó, K / L Arnauld de la Perière.
    [​IMG]
    Ảnh thuyền trưởng Arnauld de la Perière " Ách" đầu bảng của tầu UBoat tại Địa Trung Hải, bác này sau chết vì tai nạn máy bay năm 1941 (ko có được hân hạnh sinh nghề tử nghiệp)
    Tại Hoa kỳ
    Năm 1916, người Đức hoàn tất việc lắp ráp hai tàu ngầm vận tải , chúng được sử dụng như những tầu phá vỡ phong tỏa. Mục đích sử dụng chúng là để vận chuyển những hàng hoá có giá trị cao từ các quốc gia trung lập như Mỹ, tuy vẫn duy trì một thái độ trung lập nghiêm ngặt, nhưng vẫn có những hoạt động hàng với Đức như với bất kỳ quốc gia nào khác. Chiếc đầu tiên của các con tàu này, chiếc Deutschland, khởi hành vào mùa hè năm 1916 và đã tạo ra một hình ảnh thuận lợi vào công chúng Mỹ. Nó đã thực hiện một chuyến đi thành công thứ hai vào mùa thu năm đó. Chiếc chị em của nó, chiếc Bremen, đã kém may mắn, nó biến mất ngay trong chuyến đi đầu tiên mà không ai rõ nguyên nhân.
    [​IMG]
    Chiếc tầu ngầm vận tải Deutschland, một trong những chiếc tầu ngầm lớn nhất thế giới thời WW I với trọng tải 2.272 tấn, nó có nhiệm vụ đột phá vòng phong tỏa của Anh để sang các nước trung lập
    Một hình ảnh tạo ấn tượng rất xấu đã được tại ra bởi hành trình của chiếc tầu ngầm U-53 dưới sự chỉ huy của K / L Hans Rose. Sau khi tiếp nhiên liệu tại Newport, Rhode Island, Rose tiến hành đột kích tầu buôn của Đồng Minh đang vận chuyển ngoài khơi bờ biển Canada và Hoa Kỳ. Mặc dù đây là ở biển quốc tế, và mặc dù Rose đã tuân thủ nghiêm ngặt luật pháp quốc tế, nhưng hành động này được xem là một sỉ nhục đối với Mỹ, đặc biệt là khi tàu chiến Mỹ đã buộc phải bó tay đứng đứng nhìn trong khi tàu buôn gần đó bị đánh chìm.
    Vùng biển Bắc cực
    Trong mùa thu năm 1916, Tầu ngầm U-boat trong hạm đội Hight Seas tấn công các tầu vận chuyển cho nước Nga. Năm Tầu ngầm U-boat hoạt động trong Biển Barent giữa Bắc Cape và Kola inlet. Ngoài ra, hai tầu ngầm thả thủy lôi lớp UE1 cũng đặt các bãi mìn trong Biển Trắng. Những chiếc tầu ngầm U-boat đã đánh chìm 34 tàu (19 chiếc trong số đó là của Na Uy) trước khi mùa đông băng đóng vùng này và làm các hoạt động vận tải phải ngừng lại.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:39 ngày 10/05/2010
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Năm 1917: Quay trở lại chiến tranh tàu ngầm không hạn chế
    [​IMG]c khu vực bóng mờ cho thấy khu vực tàu ngầm hoạt động không hạn chế được công bố bởi người Đức vào ngày 01 tháng hai năm 1917
    Ngày 22 tháng 12 1916, Đô đốc von Holtzendorff chuẩn bị một bản giác thư mà nó đã trở thành một tài liệu quan trọng cho việc quay trở lại chiến tranh không hạn chế của U-boat vào năm 1917. Holtzendorff đề xuất phá vỡ phong tỏa của Anh bằng cách đánh chìm 600.000 tấn / tháng, dựa trên một nghiên cứu của Tiến sĩ Richard Fuss vào tháng hai năm 1916, người đã chứng minh rằng nếu số tàu buôn bị đánh chìm ở mức như vậy, nước Anh sẽ phải dừng tuyến vận chuyển và bị buộc phải thương lượng hòa bình trong vòng 6 tháng, trước khi người Mỹ có thể hành động. Ngay cả khi có sự can thiệp một cách "vô tổ chức và vô kỷ luật" của người Mỹ, Holtzendorff đảm bảo với Kaiser (Đức Hoàng) "thần xin đảm bảo với Majesty của thần với tư cách một quân nhân rằng sẽ không có một người Mỹ nào có thể đặt chân lên lục địa này."
    Ngày 09 Tháng một 1917, Kaiser đã có 1 cuộc họp với Thủ tướng Bethmann-Hollweg và các nhà lãnh đạo quân đội tại Schloss Pless để thảo luận về các biện pháp để cải thiện tình hình chiến sự đang ngày càng trở nên tồi tệ đối với người Đức, chiến dịch quân sự của họ tại Pháp đã sa lầy, và khoảng 190 sư đoàn của Đồng minh đang chiếm ưu thế so với 150 của người Đức, đã có một khả năng thực sự là một cuộc tấn công của quân đồng minh sẽ thành công. Trong khi đó, hải quân Đức đã bị giam chân tại cảng nhà Kiel, và cuộc phong tỏa của Anh đã gây ra một sự khan hiếm thực phẩm và gây ra tử vong cao do suy dinh dưỡng. Các nhân viên quân sự thúc giục Kaiser phải mở rộng phạm vi hoạt động của hạm đội tàu ngầm để tấn công các tầu vận chuyển hàng hóa đến Anh, Hindenburg đưa ra lời khuyên tới Kaiser rằng "chiến tranh phải được đi đến một kết thúc có nghĩa là với bất cứ phương tiện nào càng sớm càng tốt." Kaiser đã ký hợp hợp pháp hóa cho việc tiếp tục chiến tranh tàu ngầm không hạn chế vào ngày 01 tháng 2 năm 1917, Bethmann-Hollweg, người đã phản đối quyết định này, cho biết: " nước Đức thế là hết".
    Ngày 27 tháng 1, Đô đốc Beatty cho thấy quan điểm là "Điểm mấu chốt nằm ở thực tế là chúng ta phải phong tỏa đối phương để họ phải quỳ gối, hoặc họ cũng sẽ làm như vậy với chúng ta"
    105 tàu ngầm Đức đã sẵn sàng cho chiến dịch trên vào ngày 1 tháng hai: 46 chiếc trong Hạm đội Hight Seas Fleed, 23 chiếc ở Flanders, 23 tại Địa Trung Hải, 10 trong biển Baltic, và 3 tại Constantinople. Công tác đóng tầu đảm bảo rằng, bất chấp những thiệt hại, có ít nhất 120 tàu ngầm đã được sẵn sàng cho phần còn lại của năm 1917. Giai đoạn đầu của chiến dịch là một thành công lớn, gần 500.000 tấn tàu bị đánh chìm vào tháng hai và tháng ba, và 860.000 tấn trong tháng tư, làm cho dự trữ lúa mì của nước Anh giảm đi còn có đến 6 tuần. Trong tháng 5 thiệt hại vượt quá 600.000 tấn, và trong tháng sáu là 700.000 tấn. Đức chỉ bị mất có 9 tàu ngầm trong ba tháng đầu tiên của chiến dịch.
    Ngày 03 tháng 2, để trả lời cho chiến dịch tàu ngầm không hạn chế mới, tổng thống Wilson đã cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao với Đức và tuyên chiến với 06 tháng 4.
    Phản ứng của Đồng Minh
    Chiến dịch chiến tranh tàu ngầm không hạn chế mới đã thu được những thành công ban đầu. Trong tháng 1 năm 1917, trước khi chiến dịch này diễn ra, Anh đã mất 49 tàu, trong tháng hai, sau khi nó nổ ra, 105 tầu, và tháng ba, 147 tầu. Trong tháng ba 25 % trên tổng số tàu Anh đang chở hàng bị đánh chìm.
    Hải quân Anh không có biện pháp đáp trả một cách có hiệu quả cho cuộc tấn công của Đức. Mặc dù đã được chứng minh là các tầu hộ tống đã thu được thành công trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, các đoàn công voa đi qua Channel giữa Anh và Pháp, và các đoàn công voa Hà Lan, Pháp, Scandinavia và Biển Bắc, ban đầu từ chối xem xét việc tăng cường hộ tống. Tăng cường hộ tống sẽ gây ra sự chậm trễ nghiêm trọng về tốc độ vận chuyển và được cho là nhằm vào các mục tiêu riêng, gây ra một sự mất mát về lực lượng để thực hiện hộ tống lớn hơn tổn thất gây ra bởi các tầu U Boat. Điều này không được ưa thích bởi cả thuyền trưởng tầu buôn lẫn tầu hải quân, và họ thường chế giễu biện pháp phòng thủ thụ động này. Mãi cho đến ngày 27 tháng 4 thì Bộ Hải quân mới chuẩn y đoàn hộ tống cho đoàn công vao đầu tiên xuất phát từ Gibraltar, ngày 10 tháng 5 năm 1917.
    Trong tháng tư, Chuẩn Đô đốc Mỹ William Sims tới London như là đầu mối liên lạc của Hải quân Mỹ. Ông bị làm mất tinh thần bởi thông báo của Bộ Hải quân Anh rằng Đức sẽ giành chiến thắng trong chiến tranh nếu các tàu ngầm của họ không bị chặn lại, và ông này ngay lập tức đánh điện tín cho Washington để yêu cầu các tàu khu trục của Hải quân Hoa kỳ xuất phát đến Queenstown, Ireland, từ đó họ có thể tuần tra ở phía tây.
    Khi các tầu buôn của các nước Đồng Minh bị đánh chìm, tàu Brazil đã tiếp nhận các tuyến đường đã bị bỏ trống. Tuy nhiên, điều này dẫn đến việc các tàu Brazil đi vào vùng biển có sự hoạt động của Tầu ngầm U-boat . Khi chính sách chiến tranh tàu ngầm không hạn chế của nước Đức được thông qua kết quả là tàu của Brazil đã rất nhanh chóng bị đánh chìm, việc này đã làm cho quốc gia này tuyên chiến với các cường quốc Trung Tâm (Đức - Áo).
    Trong tháng Năm và Tháng Sáu một hệ thống hộ tống tầu vận tải vượt Đại Tây Dương được thành lập, và sau đó kể từ tháng bảy thiệt hại hàng tháng không bao giờ vượt quá 500.000 tấn, mặc dù chúng vẫn còn vượt 300.000 tấn ở trong các tháng còn lại của năm 1917. Việc hộ tống thành công ngay lập tức trên các tuyến đường nó được sử dụng và nó dẫn đến việc giảm tổn thất trong vận chuyển, với Tầu ngầm U-boat cũng dễ dàng để tìm ra chúng (tầu UB) hơn. Việc các tàu chiến hộ tống các đoàn công voa tăng cường va chạm và tấn công Tầu ngầm U-boat, dẫn đến sự gia tăng số lượng Tầu ngầm U-boat bị phá hủy. Tổn thất tàu ngầm Đức là khoảng 5 -> 10 chiếc mỗi tháng, và họ nhanh chóng nhận được sự cần thiết phải tăng cường đóng mới các tầu ngầm, thậm chí phải đóng thêm các chiến hạm nổi. Tuy nhiên, công việc đóng tầu đã bị trì hoãn bởi sự thiếu hụt lao động và vật liệu.
    Hoạt động đầu tiên của hải quân Mỹ
    Một loạt các cuộc chạm trán bất phân thắng bại nổ ra trong Thế chiến thứ nhất có liên quan đến tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Đức. Người Mỹ khoác lác là đã đánh chìm ít nhất hai Tầu ngầm U-boat của Đức trong các chiến dịch có sự tham gia của họ. Trong hoạt động quân sự ngày 15 Tháng Mười 1917, một tàu khu trục của Hải quân Mỹ đã bị đánh hỏng nặng bởi một tàu ngầm của Đức. Trong hoạt động ngày 17 tháng 11 năm 1917, chiếc Tầu ngầm U-boat đầu tiên của Đức bị đánh chìm bởi tàu chiến Mỹ trong thế chiến I.
    Năm 1918: Năm cuối cùng
    Vào cuối năm 1917 tổn thất về tầu buôn của Đồng Minh ở mức trên 6.000.000 GRT cho cả năm. Tuy nhiên thiệt hại các tháng cuối năm đã giảm xuống còn khoảng 300.000 GRT/ tháng, và không bao giờ tăng lên được đến mức như vào mùa xuân năm 1917. Với việc thành lập một hệ thống hộ tống toàn diện đoàn, thiệt hại về vận tải của Đồng minh đã giảm đến mức không còn là thiết yếu, trong khi thiệt hại của U-boat lại tăng lên đến mức đáng báo động. Từ 48 tầu ngầm U-boat bị mất trong các năm đầu tiên đến tháng hai năm 1917 thế mà chỉ cho đến cuối năm này đã có thêm 61 chiếc bị tiêu diệt.
    Câu trả lời chính là sự hợp lý của hệ thống đoàn hộ tống, trong đó tập trung lực lượng vào để bảo vệ cũng tương tự như tập trung lực lượng vào để tấn công. Các tầu U-boat vũ trang đã không tìm được cách hóa giải thành công khi gặp phản ứng như vậy trong Thế chiến thứ nhất. Chỉ duy nhất một nỗ lực được thực hiện để tiến hành hoạt động theo nhóm, mục đích là để tung ra một cuộc tấn công của một nhóm U Boat vào bất kỳ đoàn công voa nào mà chúng gặp phải, 6 Tầu ngầm U-boat khởi hành tháng 5 năm 1918 trong đội hình một nhóm được chỉ huy bởi K / L Rucker trong chiếc U-103. Họ gặp phải một vài đoàn công voa có hộ tống và thành công trong việc đánh chìm 3 tàu hàng, nhưng mất 2 chiếc trong số họ, bao gồm cả U-103 bị đâm bởi chiếc tầu chở quân Olympic. Rucker đã phát hiện ra sự mất kiểm soát từ vị trí tầu của mình ở trên biển và sự nản lòng cao độ đã làm người Đức không có thêm bất cứ thử nghiệm nào thêm.
    Tầu ngầm tuần dương
    Cuối cuộc chiến, các nhà lãnh đạo cao cấp của Đức quyết định leo thang chiến tranh tàu ngầm tới tận bờ biển của Mỹ bằng cách sử dụng Tầu ngầm U-boat lớn lớp U-151. Lớp U-151 mang 18 quả ngư lôi 105 mm và hai súng ở boong, và chúng có tầm hoạt động khoảng 25.000 hải lý (46.300 km). Bảy chiếc được chế tạo trong năm 1916, ban đầu chúng là những Tầu ngầm U-boat vận tải loại lớn để vận chuyển vật liệu đến và đi từ những địa điểm mà tầu nổi của Đức không thể tiểp cận, Chẳng hạn như Hoa Kỳ, và 6 chiếc đã được trang bị cho nhiệm vụ chiến đấu vào năm 1917. Chúng là những Tầu ngầm U-boat lớn nhất của Thế chiến I.
    Chiến dịch ở Hoa kỳ
    Chiếc U-151 khởi hành từ Kiel ngày 14 tháng tư 1918 được chỉ huy bởi Heinrich von Korvettenkapitän Nostitz und Jänckendorff, nhiệm vụ của nó là tấn công các tàu Mỹ. Nó đã tới Chesapeake Bay ngày 21 tháng năm, nơi nó thả các quả thủy lôi ngoài khơi Capes Delaware, và cắt đứt đường cáp điện báo ngầm dưới nước dùng để kết nối New York với Nova Scotia. Ngày 25 Tháng
    Năm, nó chặn ba chiếc tầu schooners của Mỹ ở ngoài khơi Virginia, bắt thủy thủ đoàn của các con tầu này làm tù binh sau khi đánh chìm chúng. Ngày 2 tháng sáu năm 1918 được biết đến bởi một số nhà sử học như "là một ngày chủ nhật đen tối", chiếc U-151 đánh chìm sáu tàu Mỹ và làm hư hại hai chiếc khác ngoài khơi bờ biển New Jersey trong khoảng thời gian chỉ một vài giờ đồng hồ. Ngày hôm sau chiếc tàu chở dầu Herbert L. Pratt húc vào một quả thủy lôi trước đó được thả bởi chiếc U-151 trong khu vực nhưng sau đó con tầu đã được vớt. Chỉ có 13 người chết trong bảy vụ đắm tầu, nguyên nhân cái chết của họ được gây ra là bởi một xuồng cứu sinh bị lật úp. Chiếc U-151 trở lại Kiel, ngày 20 Tháng 7 năm 1918 sau một cuộc hành trình dài 94 ngày và với một khoảng cách là khoảng 10.915 dặm (17.566 km), nó đánh chìm 23 tàu với tổng trọng 61.000 tấn, và phải chịu trách nhiệm về thảm họa đắm tàu của 4 chiếc khác vì trúng thủy lôi mà nó thả.
    [​IMG]
    Ảnh chiếc UBoat số 151, chiếc đã từng làm loạn cả bờ biển Hoa kỳ vào năm 1918
    Được khuyến khích bởi sự thành công của chiếc U-151, các chiếc U-156, U-117, và chiếc tầu ngầm tuần dương U-139 cỡ lớn đã xuất phát với các nhiệm vụ tương tự, nhưng Hải quân Mỹ đã sẵn sàng để tiếp đón họ, và mùa săn bắn đã không có kết quả tốt đẹp. Chiếc U-156 đã bị mất với tất cả thủy thủ đoàn trên hành trình trở về khi nó đụng phải một quả thủy lôi ngoài khơi Bergen, Na Uy, ngày 25 tháng chín năm 1918. Một bộ ba các chiếc tàu ngầm tầm xa, U-155, U-152, và chiếc tầu ngâm tuần dương U-139 phải đi xuyên qua Đại Tây Dương theo cách của họ trong tháng 11 năm 1918 khi chiến tranh đã kết thúc.
    Một vài chuyến đi dài của tầu ngầm tuần dương cũng được tiến hành về phía nam tới Azores và bờ biển châu Phi, nơi chúng thoải mái hoạt động tấn công các tầu buôn của Đồng minh trong khu vực mà không bị cản trở, mặc dù một chiếc, chiếc U-154 đã bị trúng ngư lôi của tàu ngầm Anh HMS E35 ngoài khơi bờ biển của Bồ Đào Nha tháng 5 năm 1918.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:41 ngày 10/05/2010
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Biện pháp đối phó cuối cùng
    Vào năm 1918 các biện pháp của Đồng Minh để chống tàu ngầm đã tiếp tục trở nên hiệu quả hơn.
    Máy bay bắt đầu đóng một vai trò ngày càng hiệu quả trong việc tuần tra các khu vực lớn một cách nhanh chóng. Trong khi chúng có ít hiệu lực ít khi tấn công (chỉ có một tầu U Boat đã được xác nhận là bị đánh chìm bởi tấn công đường không) sự hiện diện của máy bay đã buộc U-boat phải lặn sâu xuống và trở thành bị mù và không cơ động được, hoặc nguy cơ máy bay đi cùng với tàu chiến tuần tra để săn tầu ngầm. Trong năm 1918 các đoàn công voa được hộ tống bởi máy bay tuần tra đã không bị mất một con tàu nào, và tầu ngầm U-boat ngày càng bị buộc phải hoạt động vào ban đêm hoặc vượt quá phạm vi của máy bay.
    Năm 1918 Hải quân Hoa Kỳ bắt tay vào một kế hoạch khổng lồ để tạo ra một rào chắn trên các tuyến đường quá cảnh Biển Bắc. Rào chắn biển Bắc (Northern Barrage ) được thả hơn 70.000 quả thủy lôi trong mùa hè năm 1918. Từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1918, 6 Tầu ngầm U-boat bị đánh chìm bởi biện pháp này.
    Hải quân Hoàng gia cũng phát triển Tàu ngầm lớp R, Thiết kế như một tàu săn tầu ngầm, với tốc độ cao và hệ thống thiết bị dò dưới nước (sophisticated hydrophone system). Tuy nhiên những thiết bị này đã được ra đời quá muộn để đưa vào hành động và chúng đã không lập nên được chiến công nào.
    Đến cuối năm, đội tầu hàng của Đồng minh bị thiệt hại 2 ¾ triệu GRT trong cả năm, Tầu ngầm vũ trang U-boat mất 69 chiếc trong năm 1918, năm tồi tệ nhất của nó.
    [​IMG]
    Mô hình của tầu ngầm lớp R của Hải quân Anh, chúng có trang bị thiết bị do dưới nước và có tốc độ cao để săn tầu UBoat nhưng chưa kịp ra tay thì đã ... xong.
    [​IMG]
    Ảnh thật cuả một chiếc tầu ngầm lớp R - trên mũi và tháp của nó có ký hiệu R3 - Kẻ săn lùng sát thủ
    Sự tham gia của Nhật Bản
    Bắt đầu từ tháng tư năm 1917, Nhật Bản, một đồng minh của Anh Quốc, đã gửi tổng cộng 14 tàu khu trục đến Địa Trung Hải với các tàu tuần dương làm kỳ hạm, chúng có căn cứ tại Malta và đóng một vai trò quan trọng trong việc hộ tống đoàn công voa và bảo vệ họ chống lại tàu ngầm của đối phương. Các tàu Nhật rất hiệu quả trong việc tuần tra và hoạt động chống tàu ngầm. Tuy nhiên, trong số 9 tàu ngầm của hải quân Áo-Hung bị tiêu diệt, 5 chiếc bị đánh chìm bởi các đơn vị hải quân Ý (U-13, U-10, U-16, U-20, và U-23), 1 bị đánh chìm bởi liên quân Ý Pháp (U-30), 1 bởi Hải quân Hoàng gia Nauy (U-3), Trong khi hải quân Nhật Bản không đánh chìm được chiếc tầu ngầm nào thì họ lại bị mất một trong những khu trục hạm (tàu khu trục Nhật Bản Sakaki trúng ngư lôi của chiếc U-27).
    Sự tham gia của Brazil
    Ngày 21 tháng mười hai năm 1917 chính phủ Anh yêu cầu sự có mặt của một đội tàu tuần dương hạng nhẹ của hải quân Brazil được đặt dưới sự kiểm soát Hải quân Hoàng gia và một hải đoàn đã được thành lập, chúng bao gồm các tuần dương hạm Rio Grande do Sul và Bahia, các tàu khu trục Paraiba, Rio Grande do Norte, Piauí, và Santa Catarina, cùng các tàu hỗ trợ Belmonte và các tàu kéo đi biển Laurindo Pitta, chúng được gọi là Divisão Naval em Operações de Guerra (Naval Division in War Operations) gọi tắt là DNOG. Đám này khởi hành vào ngày 31 tháng Bảy 1918 từ Fernando de Noronha thuộc Sierra Leone, chúng đến lúc Freetown ngày 09 tháng 8, và đi tới căn cứ hoạt động mới của chúng ở Dakar vào ngày 23 tháng Tám. Vào đêm 25 tháng 8 đám này tin rằng chúng đã bị tấn công bởi một chiếc tầu ngầm UBoat khi chiếc tàu tuần dương phụ trợ Belmonte nhìn thấy một ngư lôi bắn theo. Chiếc tàu ngầm này trở thành đích để bị đánh bằng bom chìm, và nó được báo cáo là đã bị đánh chìm bởi chiếc Rio Grande do Norte nhưng không bao giờ được xác nhận.
    Các lực lượng của DNOG tuần tra tuyến tam giác Dakar - Cape Verde - Gibraltar, bị nghi là được sử dụng bởi Tầu ngầm U-boat để phục kích các đoàn công voa, cho đến ngày 03 tháng 11 năm 1918 khi nó (DNOG) khởi hành đi Gibraltar để bắt đầu hoạt động tại Địa Trung Hải mà không có các chiếc Rio Grande do Sul, Rio Grande do Norte, và Belmonte. Khi hải đoàn này đến Gibraltar, ngày 10 tháng 11, trong khi vượt qua eo biển Gibraltar, họ tưởng lầm ba chiếc tầu khu trục nhỏ của Hải quân Hoa Kỳ là Tầu ngầm U-boat nhưng không gây ra thiệt hại gì.
    Kết thúc
    Vào năm 1918, đội tầu ngầm U-boat đã bị thiệt hại lên tới mức không thể chấp nhận được, và tinh thần của các thủy thủ đoàn của chúng đã xấu đi đáng kể, vào mùa thu tình hình trở nên rõ ràng rằng các cường quốc Trung Tâm sẽ không thể giành chiến thắng trong chiến tranh.
    Đồng Minh nhấn mạnh rằng một điều kiện tiên quyết thiết yếu cho bất kỳ hiệp ước đình chiến nào là tất cả các tàu ngầm của nó phải đầu hàng và vào ngày 24 tháng 10 năm 1918 tất cả các Tầu ngầm U-boat của Đức được lệnh phải chấm dứt hoạt động tấn công và trở về cảng nhà của họ. Đồng minh quy định rằng tất cả các tàu ngầm còn đủ khả năng đi biển phải đầu hàng ngay lập tức và những chiếc đang đóng dở dang trong nhà máy đóng tàu phải bị phá bỏ. Cuối cùng quan trọng vai trò của Tầu ngầm U-boat trong Thế chiến I được là sự đàn áp phong trào binh biến của Thủy binh Đức trong cùng tháng đó, khi chúng tuyên bố sẵn sàng "bắn mà không có cảnh báo vào bất kỳ con tàu nào có treocờ đỏ" ( tựa như người Nga, khi nước Đức thua trận thì các Thủy binh Đức đứng dậy làm cách mạng XHCN, nhưng họ đã thất bại vì bị bọn ********* đàn áp từ nhiều phía ?" quân Đồng minh và lực lượng tầu U Boat)
    Thống kê tóm tắt
    Trọng tải tầu hàng của Đồng minh và các nước trung lập bị đánh chìm bởi tàu ngầm U Boat trong Thế chiến I
    Tháng 1914 1915 1916 1917 1918
    Tháng một 47.981 81.259 368.521 306.658
    Tháng hai 59.921 117.547 540.006 318.957
    Tháng ba 80.775 167.097 593.841 342.597
    Tháng tư 55.725 191.667 881.027 278.719
    May 120.058 129.175 596.629 295.520
    Tháng Sáu 131.428 108.855 687.507 255.587
    Tháng Bảy 109.640 118.215 557.988 260.967
    Tháng Tám 62.767 185.866 162.744 511.730 283.815
    Tháng Chín 98.378 151.884 230.460 351.748 187.881
    Tháng Mười 87.917 88.534 353.660 458.558 118.559
    Tháng mười một 19.413 153.043 311.508 289.212 17.682
    Tháng mười hai 44.197 123.141 355.139 399.212
    Tổng số 312.672 1.307.996 2.327.326 6.235.878 2.666.942
    Tổng cộng 12.850.814 tấn
    Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế được bắt đầu vào tháng 2 năm 1917 và người Anh bắt đầu triển khai hộ tống toàn diện vào tháng 9 năm 1917. Thiệt hại nặng nhất mà Đồng minh phải chịu là trong tháng 4 năm 1917 khi một kỷ lục 881.027 tấn bị đánh chìm do Tầu ngầm U-boat lập.
    Trong Thế chiến thứ nhất xấp xỉ 5.000 tàu buôn đã bị đánh chìm bởi tầu ngầm U-boat , với thủy thủ 15.000 Đồng Minh mất mạng (con số này có vẻ không được logic cho lắm vì nếu thế thì chỉ có 3 thủy thủ mất mạng cho 01 tầu buôn bị U Boat đánh đắm. Đây cũng chưa tính số thủy thủ của tầu chiến Anh thiệt mạng, ví dụ khi chiếc U-9 diệt 04 tầu tuần dương Anh thì có đến gần 2.000 thủy thủ Anh thiệt mạng rồi).
    Lực lượng tàu ngầm Đức 1914-1918
    1914 1915 1916 1917 1918
    Số tầu có trong tay 24 29 54 133 142
    Đóng mới bổ sung 10 52 108 87 70
    Mất trong chiến đấu 5 19 22 63 69
    Mất vì lý do khác 8 7 15 9??
    Còn lại 29 54 133 142 134
    ? Tổng số tầu ngầm U-boat được đưa vào hoạt động: 351 chiếc
    ? Tổng số tầu bị đánh chìm trong chiến đấu: 178 (50%)
    ? Tổn thất khác: 39 chiếc (11%)
    ? Hoàn thành sau khi đình chiến: 45 chiếc
    ? Đầu hàng Đồng Minh: 179 chiếc
    ? Thủy thủ đoàn của Uboat thiệt mạng: 5.000 người
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:50 ngày 10/05/2010
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Sưu tầm ảnh về U-Boat trong Thế chiến I
    [​IMG]
    Ảnh bìa của quấn " Trong quan tài thép" của Herbert Werner - đúng ra quấn sách này nói về WW II nhưng trong nó phê quá nên em phải up lên - Mục tiêu đã sẵn sàng, chuẩn bị ... bắn
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tầu ngầm Đức U35 với môt khẩu súng bắn nhanh ở bên trái và một khẩu khác ở bên phải tháp điều khiển
    [​IMG]
    [​IMG]
    Tranh vẽ một chiến hạm của Anh đang chìm khi trúng ngư lôi của tầu UBoat, các thủy thủ Anh đang khẩn trương trèo lên xuồng cứu sinh để cứu lấy tính mạng của họ
    [​IMG]
    Tranh vẽ các thủy thủ UBoat được đón tiếp hân hoan tại cảng nhà khi họ được lập chiến công
    [​IMG]
    Trông đây, ai dám bảo là UBoat yếu phòng không nào
    [​IMG]
    Tranh vẽ chiếc tháp điều khiển của tầu UBoat loại 86 -> 89 với mục đích quyên từ thiện
    [​IMG]
    Ảnh chụp chiếc tầu ngầm UB1 nhưng em làm thiếu mất khúc đuôi - cái trông như con mắt chính là ống ngư phóng lôi của nó đó
    [​IMG]
    Đây là ảnh đầy đủ của chiếc UB1, nó là tầu ngầm ven biển được nâng cấp thành tầu ngầm thả thủy lôi
    [​IMG]
    Chiếc tầu ngầm UB49 dưới sự chỉ huy của Wolfgang Steinbaueur - một trong những " Ách " đầu bảng của hải quân Đức
    [​IMG]
    Trong buồng máy của chiếc UBoat vận tải Deutschland, nhìn chỉ thấy toàn đồng hồ và vô lăng - hoa cả mắt
    [​IMG]
    [​IMG]
    Ảnh của các bộ phận máy móc của chiếc UBoat loại VIIC141 được trưng bày tại Nhà tưởng niệm ở TP Laboe ( gần cảng căn cứ Kiel)
    [​IMG]
    Ảnh chụp chiếc tầu ngầm thả mìn UC30, Chiếc này có phần mũi gồ lên rất đặc trưng để chứa được nhiều thủy lôi
    [​IMG]
    [​IMG]
    Ảnh một con tầu ngầm thả thủy lôi đang được đóng dở trong xưởng của nó, những ô vuông là ngăn chứa thủy lôi. Loại này chính ra rất nguy hiểm vì nó lén lút xâm nhập vào cảng của đối phương -> thả thủy lôi vào huyết mạch giao thông rồi chuồn, hôm sau bật Radio nghe cáo phó.
    [​IMG]
    Ảnh chụp chiếc U135, một trong những con quái vật biển khơi có trọng tải 1.175 -> 1.534 tấn. Nó được đóng trong xưởng đóng tầu Danzic và hạ thủy vào tháng 9 năm 1917
    [​IMG]
    Ảnh chụp chiếc U90 với một khẩu súng 105 ly nòng dài ở phía trước tháp chỉ huy, khẩu súng này có lẽ để triệt hạ tầu buôn vào những hôm có nhiều sương mù hoặc ban đêm
    [​IMG]
    Cảnh sinh hoạt của thủy thủ đoàn UBoat tại phòng chứa ngư lôi - chắc là đọc thư nhà
    [​IMG]
    Giờ cơm trưa của thủy thủ đoàn của chiếc U9, chiếc đã hạ một lèo 3 chiếc tầu tuần dương của Anh năm 1914, trông nét mặt các bác này rất thư giãn he he
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:38 ngày 11/05/2010
  5. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    mình góp vài tấm
    ảnh chiến đấu thực của tàu mỹ và U boat
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    U-515 under attack by a DE
    [​IMG]
    tàu mỹ bắt sống u boat
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Escorts USS Joyce & Peterson Sink a U-boat."
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    chiến đấu thực
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    @ Macay3: mời bác cứ tự nhiên chung vui, càng nhiều càng tốt.
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận hải chiến Coronel
    Tóm tắt
    Ngày: 01 tháng 11 năm 1914
    Địa điểm: Biển Thái Bình Dương ngoài khơi Coronel, Chile
    Kết quả: Đức chiến thắng
    Tham chiến
    Vương quốc Anh
    Chỉ huy
    Sir Christopher Cradock?
    Sức mạnh
    2 tuần dương hạm bọc thép
    1 Tàu tuần dương hạng nhẹ
    1 tàu tuần dương phụ trợ
    Thương vong
    1.570 người thiệt mạng
    2 tuần dương hạm bọc thép chìm
    Hải quân Đức
    Chỉ huy
    Maximilian von Graf Spee
    Sức mạnh
    2 tuần dương hạm bọc thép
    3 tàu tuần dương hạng nhẹ
    Thương vong
    3 người bị thương
    [​IMG]
    Bản đồ trận hải chiến Coronel
    Trận hải chiến Coronel diễn ra trong chiến tranh thế giới I vào ngày 01 tháng 11 năm 1914 ngoài khơi bờ biển miền Trung Chile gần thành phố Coronel. Một hải đội của Kaiserliche Marine do Phó Đô đốc Maximilian von Graf Spee chỉ huy đã chạm trán và đánh bại một hải đội của Hải quân Hoàng gia chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Sir Christopher Cradock.
    Trận đánh có lẽ đã diễn ra như là kết quả của một loạt các hiểu lầm. Không vị đô đốc nào dự kiến sẽ phải chiến đấu với một đối phương có đầy đủ lực lượng. Khi hai bên giáp mặt, Cradock cho rằng mệnh lệnh của ông là chiến đấu đến cùng, mặc dù ông lại hoàn toàn không chiếm được ưu thế. Mặc dù Đô đốc Spee đã có một chiến thắng dễ dàng, phá hủy hai tuần dương hạm bọc thép của đối phương và chỉ bị thương có ba thủy thủ, quá trình chiến đấu cũng làm tiêu hao đi một nửa nguồn dự trữ đạn dược của người Đức, mà đây lại là vấn đề không thể thay thế. Cú Shock vì thua trận tại Anh đã dẫn tới một phản ứng ngay lập tức và họ gửi thêm tàu chiến mà sau đó những tầu này đã tiêu diệt phần lớn hải đội của của Spee tại Trận chiến Quần đảo Falkland.

    Khúc dạo đầu
    Hải quân Hoàng gia, với sự hỗ trợ của các lực lượng hải quân khác thuộc Đồng minh ở viễn đông, đã sớm gây chiến để chiếm các thuộc địa của Đức như Kaiser-Wilhelmsland, Yap, Nauru và Samoa thay vì tìm kiếm hải đội Viễn Đông của Đức do Phó Đô đốc Maximilian von Spee chỉ huy khi họ đã bỏ căn cứ tại tại tô giới của Đức ở Thanh Đảo Trung Quốc vào lúc Nhật Bản tham chiến theo phe Anh. Cuối cùng nhận ra tiềm năng của hải đội Đức trong việc đánh phá tuyến đường giao thông tại Thái Bình Dương của Anh, Bộ trươ?ng ha?i quân đã ra quyết định tiêu diệt hải đội này như là một sự ưu tiên cao độ nhưng người Anh lại tập trung tìm kiếm tại phía tây Thái Bình Dương sau khi hải đội của Spee bắn phá Papeete.
    Ngày 05 tháng mười, người Anh đã đọc được từ một thông tin vô tuyến về kế hoạch của Spee để tấn công các con mồi là tầu buôn ở các tuyến đường thương mại quan trọng dọc theo bờ biển phía tây của Nam Mỹ. Chịu trách nhiệm tuần tra trong khu vực này vào thời điểm đó là Hải đội Nam Đại Tây Dương dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô Đốc Sir Christopher Cradock, hải đội này gồm ba tàu tuần dương bọc thép, chiếc HMS Good Hope (Kỳ hạm của Cradock), HMS Monmouth và HMS Defence, chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ hiện đại HMS Glasgow, ba tàu tuần dương hạng nhẹ khác, một chiếc tầu chở khách chuyển đổi, chiếc HMS Otranto và hai tầu buôn vũ trang.
    Hải đội của Cradock không có các phương tiện chiến đấu hiện đại, hầu hết các thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm đặc biệt với các chiếc Good Hope và Monmouth thì thủy thủ đoàn chủ yếu là lực lượng dự bị. Von Spee có một lực lượng hùng mạnh gồm năm tàu chiến, dẫn đầu là hai chiếc tàu tuần dương bọc thép Scharnhorst và Gneisenau cộng với ba tàu tuần dương hạng nhẹ, SMS Dresden, SMS Leipzig và SMS Nürnberg, tất cả các tàu này đều là tầu chiến hiện đại với các sỹ quan được giới thiệu bởi Đại Bộ trưởng Hải quân Alfred von Tirpitz. Tuy nhiên, Cradock chỉ nhận được mệnh lệnh đơn giản là "chuẩn bị chạm trán với đối phương trong đội hình chiến đấu" mà không chỉ rõ những nỗ lực mà Cradock sẽ phải thực hiện, hoặc không nói rõ ràng rằng ông ta nên phải truy tìm von Spee.
    Ngày nhận được mệnh lệnh gửi đến cho mình, Cradock hỏi Bộ hải quân để xin phép chia hải đội của mình thành hai thê đội, mỗi thê đội có thể phải đối mặt với von Spee một cách độc lập. Các thê đội sẽ hoạt động ở bờ biển phía đông và phía tây của Nam Mỹ để đề phòng khả năng von Spee Cradock vượt qua và đánh phá vào Đại Tây Dương. Bộ Hải quân đồng ý và thế là chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Defence cùng ba tàu tuần dương và hai tầu buôn vũ trang tạo thành một thê đội ở bờ biển phía đông dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc A.P. Stoddart
    Các tàu còn lại thành lập thê đội ở bờ biển phía tây dưới sự chỉ huy của Cradock được tăng cường bởi một chiếc thiết giáp hạm cũ kỹ, chiếc HMS Canopus đến vào ngày 18 tháng mười. Chiếc này đã được thoát khỏi lịch trình tháo dỡ bán đồng nát bởi sự bùng nổ của chiến tranh I và vì cần một cuộc sửa chữa lớn nên tốc độ tối đa của nó chỉ đạt 12 hải lý mỗi giờ (đúng là một con rùa già ?" nhưng trong trận này vì chậm như rùa nên nó đã thoát chết trong trận Coronel). Bộ Hải quân nhận ra rằng tốc độ của nó quá chậm có nghĩa là hạm đội của mình sẽ không đủ nhanh để tham chiến và vì không có chiếc Canopus thì hạm đội không có đủ cơ hội để chống trả lực lượng của von Spee, do đó họ đã nói với Cradock sử dụng chiếc Canopus là "một thành trì và bao xung quanh các tàu tuần dương của chúng ta trong những vùng biển này và như vậy sẽ an toàn tuyệt đối".
    Tham mưu trưởng của Bộ hải quân, Phó Đô đốc Sir Doveton Sturdee, Yêu cầu thêm tầu được gửi để củng cố cho Cradock nhưng điều này đã được phủ quyết bởi First Lord of the Admiralty (Thành viên đứng đầu của Ủy Ban điều hành Bộ hải quân Lords of Admiral) - Winston Churchill và First Sea Lord of the Admiralty ( Chức tương đương với bộ trưởng Hải quân - First Naval Lord) - Hoàng tử Louis của Battenberg. Cradock sau đó yêu cầu chiếc HMS Defence tái gia nhập thê đội của ông nhưng đã bị từ chối với lý do chỉ chiếc Canopus là "đủ để tăng cường lực lượng".
    Thí tốt chốt xe
    Ngày 22 tháng 10 Cradock đánh dây thép cho Bộ hải quân rằng ông ta sẽ đi tuần vòng quanh Cape Horn và để chiếc Canopus lại phía sau để hộ tống các tầu chở than của ông. Đô đốc John Fisher thay thế Battenberg làm First Sea Lord of the Admiralty vào ngày 27 tháng 10, và ngày hôm sau Fisher đã ra lệnh cho Cradock không tấn công von Spee mà không có chiếc Canopus. Sau đó ông ra lệnh cho chiếc tàu HMS Defence quay lại để củng cố cho Cradock.
    Tuần trước Cradock đã gửi chiếc Glasgow đến Montevideo để nhận bất kỳ thông điệp nào mà Bộ Hải quân có thể đã được gửi đến. Von Spee, biết được sự hiện diện của chiếc Glasgow ở ngoài khơi Coronel, ông ta liền khởi hành từ phía nam Valparaíso với tất cả năm tàu chiến của mình với ý định tiêu diệt nó. Tuy nhiên chiếc Glasgow lại bắt được sóng vô tuyến điện từ một trong các tuần dương hạm của Đức và đã thông báo cho Cradock, làm ông ta quyết định quay hạm đội của mình về phía bắc để đánh chặn các tàu tuần dương của người Đức.
    Do von Spee có ưu thế về tốc độ, hỏa lực và hơn hẳn về số lượng, vậy tại sao Cradock lại chọn phương án đối đầu là một câu đố cho các nhà sử gia. Người ta được biết rằng, một người bạn của Cradock tại thời điểm đó đang chờ để ra tòa án binh vì đã tránh đối đầu với một kẻ địch có ưu thế hơn nhưng ông này (bạn của Cradock) lại bị Bộ Hải quân nói rằng có ông ta thừa đủ lực lượng ( Tóm lại đánh thì chết ?" không đánh ra tòa án binh). Quan điểm được chấp nhận trong số các đồng nghiệp của Cradock là ông đã cho rằng ?o Không có quyền lựa chọn để từ chối đối đầu ?o Lời giải thích phổ biến hơn là Cradock biết nhiệm vụ của ông là không thể hoàn thành nhưng ông ta muốn gây thiệt hại cho von Spee và buộc ông này phải sử dụng số đạn dược mà ông (von Spee) không thể có bổ sung (Vì ngoài Thanh Đảo ra thì đức không có các căn cứ hải quân ở Hải Ngoại). Ngày 31 tháng 10, ông (Cradock) ra lệnh cho hải đội của mình để chuyển qua đội hình tấn công. Cả hai bên đều dự kiến rằng mình sẽ chỉ gặp một chiếc tàu duy nhất của đối phương cho đến khi họ nhìn thấy nhau vào lúc 04:40, ngày 1 tháng 11.
    Trận đánh
    [​IMG]
    Bản đồ chi tiết hơn về sự di chuyển của hải đội các bên trong trận đánh

    [​IMG]
    Bản đồ có mầu về sự di chuyển của các tầu chiến trong trận hải chiến Coronel. Tàu Anh được thể hiện bằng màu đỏ, tàu Đức được thể hiện bằng màu xanh lam.
    Ngày 31 tháng 10 chiếc Glasgow vào cảng Coronel để thu thập tin tức từ lãnh sự Anh. Cũng trong bến cảng có một tàu hậu cần, chiếc Göttingen của hải đội Spee và nó ngay lập tức gửi thông tin bằng radio về việc con tàu Anh ?" chiếc Glasgow mới cập cảng. Trong khi đó chiếc Glasgow lại bắt được tin này và cho rằng tàu chiến của Đức đang ở rất gần. Nhầm lẫn đã xảy ra vì các tàu của Đức đã được hướng dẫn để sử dụng chung cùng một mật danh - đó là Leipzig. Spee quyết định chuyển tàu của mình đến Coronel để bẫy chiếc Glasgow, trong khi Đô đốc Cradock đã vội vã tiến về phía bắc để chặn đường chiếc Leipzig. Không bên nào nhận ra rằng lực lượng chính của hai bên đang tiến gần về phía nhau.
    Lúc 9:15 sáng ngày 1 tháng 11 chiếc Glasgow rời cảng để gia nhập vào hải đội của Cradock lúc giữa trưa, ở khoảng 40 dặm về phía tây Coronel. Vùng biển lúc này đang có bão nên không thể gửi một chiếc thuyền để chuyển các thông báo giữa các con tầu lúc này đang trôi dạt thành một dòng trên biển. Vào lúc 13:50 các con tàu hình thành một dòng chiến đấu dài khoảng mười lăm dặm và bắt đầu đi về phía bắc với tốc độ 10 hải lý mỗi giờ tìm kiếm chiếc Leipzig. Lúc 16:17 chiếc Leipzig đi kèm với các con tàu Đức khác đã phát hiện thấy khói từ dòng tầu của Anh. Von Spee ra lệnh tăng tốc tối đa các chiếc Scharnhorst, Gneisenau và Leipzig để tiếp cận tầu Anh ở tốc độ 20 knot, còn các tàu tuần dương hạng nhẹ chậm hơn như chiếc Dresden và Nürnberg thì tụt lại một khoảng xa ở phía sau.
    Vào lúc 4,20 các chiếc Glasgow và Otranto đã nhìn thấy khói của tầu Đức ở phía bắc, và sau đó thấy chiếc ba tàu kia ở một khoảng cách chừng mười hai dặm. Hải đội Anh vội đảo ngược hướng, vì vậy cả hai đội tầu cùng di chuyển về phía nam, và một cuộc đuổi bắt bắt đầu nổ ra và kéo dài khoảng 90 phút. Cradock phải đối mặt với một sự lựa chọn, hoặc là tăng tốc ba tuần dương hạm của mình lên tới hai mươi hải lý và bỏ lại chiếc Otranto(đây là một chiếc tầu buôn chuyển đổi ) và chạy thoát khỏi người Đức, hoặc ở lại và chiến đấu cùng với chiếc Otranto ?" mà chiếc này chỉ có thể cố gắng chạy đến 16 knot. Các tàu Đức chạy chậm lại và giữ khoảng cách chừng 15.000 yard để tổ chức lại và chọn cho mình các vị trí tốt nhất, và để chờ đợi thời điểm tấn công tốt nhất, khi người Anh chạy về phía tây và ngược với mặt trời lặn.
    Vào lúc 5:10 Cradock quyết định rằng ông ta chấp nhận chiến đấu, và đã cố gắng cho các tàu của ông xích lại gần nhau hơn. Ông thay đổi hướng dịch chuyển để về phía đông nam và cố gắng để tiến lại gần các tàu của Đức trong khi mặt trời vẫn còn rất cao và lại chiếu từ phía sau tàu của ông sẽ làm chói mắt các pháo thủ Đức. Von Spee từ chối không tham chiến và quay tàu của mình đi nhanh hơn, duy trì khoảng cách song song giữa các hải đội ở khoảng 14.000 yard. Vào lúc 6:18 Cradock lại một lần nữa cố gắng để tiến đến gần, lần này ông cho hải đội lao thẳng vào đội hình của đối phương, nhưng lại một lần nữa tầu Đức lại chạy lùi và giữ ở khoảng cách lớn hơn 18.000 yard. Vào lúc 6:50 mặt trời đã lặn, Spee tiến lại gần tới 12.000 yard và bắt đầu nổ súng (von Spee đúng là một con cáo già ?" nhưng phải như vậy mới chắc thắng).
    Một số bức ảnh về hạm đội hai phía
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương - kỳ hạm bọc thép HMS Good Hope của Đô đốc Cradock
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Monmouth trong hải đội của Đô đốc Cradock
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Defence trong hải đội của Đô đốc Cradock - chiếc này không tham gia trận đánh vì được cử đi làm nhiệm vụ ở hướng khác
    [​IMG]
    Chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ HMS Glasgow trong hải đội của Đô đốc Cradock
    [​IMG]
    Chiếc tầu buôn chuyển đổi thành tuần dương hạm hạng nhẹ HMS Otranto - chiếc này cùng với chiếc Glasgow thoát chết trong trận Coronel
    [​IMG]
    Chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnought chậm như rùa HMS Canopus, nhưng chính vì chậm chạp nên nó đã thoát chết trong trận Coronel
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 14:30 ngày 12/05/2010
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương - kỳ hạm bọc thép SMS Scharnhorst trong hải đội của von Spee
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm bọc thép SMS Gneisenau trong hải đội của von Spee
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ SMS Leipzig trong hải đội của von Spee

    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ SMS Dresden - chiếc duy nhất còn sống sót trong hải đội của von Spee sau trận Falkland
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ SMS Nürnberg trong hải đội của von Spee
    Các tàu Đức có mười sáu súng 8,2 inch khi so sánh với hai súng 9,2 inch trên chiếc Good Hope. Một trong số hai khẩu này đã bị trúng đạn trong vòng năm phút khi trận đánh bắt đầu. Những khẩu súng 6 in còn lại trên các tàu Anh đều được đặt trong các hầm súng dọc theo hai bên mạn của các con tàu, mà vùng biển này lại đang có bão không dứt, các con tầu của Anh sẽ bị ngập nước nghiêm trọng nếu các cửa này được mở ra để bắn súng. Chiếc tàu tuần dương chuyển đổi Otranto chỉ có súng 4-inch và đang trở thành một mục tiêu lớn hơn nhiều so với các tàu khác nên nó phải chạy té về phía tây ở tốc độ tối đa và hoàn toàn bị loại khỏi vòng chiến.
    Súng 6-inch của các tầu Anh không đủ tầm xa để giao chiến với súng 8-inch của tầu Đức, Cradock vẫn cố gắng để áp sát các con tàu của Đức. Vào lúc 7:30 ông ta vào gần đến 6.000 yard, nhưng khi tầu của ông càng xáp lại gần thì đạn của tầu Đức lại trở thành chính xác hơn. Cả hai chiếc Good Hope và Monmouth đều bị bốc cháy và trở thành mục tiêu dễ dàng cho các pháo thủ Đức vì bây giờ bóng tối đã phủ xuống và lại làm cho tàu Đức biến mất vào bóng tối. Chiếc Monmouth lần đầu tiên trở nên câm lặng. Chiếc Good Hope tiếp tục bắn, tiếp tục áp vào gần tàu Đức hơn nữa và lĩnh nhiều phát đạn hơn và hơn nữa. Vào lúc 19:50 nó cũng ngừng bắn, sau đó phần phía trước của nó phát nổ, sau đó nó vỡ ra và chìm, không có một ai được chứng kiến tận mắt con tầu này chìm ( vì tầu Đức đã lảng vào bóng tối, tầu Anh chiếc thì bỏ chạy, chiếc cũng đang sắp chìm).


    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Good Hope trong tầm súng của tầu Đức, lúc này mặt trời đã lặn và người Anh không còn ưu thế về sự chói mắt của tia sáng mặt trời nữa
    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Good Hope lỗ chỗ các vết đạn được bắn từ tầu Đức
    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Good Hope đã phát nổ và bắt đầu chìm xuống lòng biển cùng toàn bộ những người có mặt trên tầu
    Chiếc Scharnhorst chuyển hướng và bắn vào chiếc Monmouth, trong khi đó chiếc Gneisenau quay sang cùng với chiếc Leipzig và Dresden đồng loạt tấn công chiếc Glasgow. Hai tuần dương hạm hạng nhẹ của Đức chỉ có súng 4,1 inch nên làm chiếc Glasgow tương đối ít bị tổn thương, nhưng lúc này nó lại bị tấn công bằng súng 8,2 inch của chiếc Gneisenau. John Luce, đội trưởng của Glasgow, xác định rằng chẳng còn mục tiêu gì để cố mà ở lại và tiếp tục chiến đấu. Ông cũng đã nhận thấy rằng mỗi lần tầu của mình khai hỏa thì ánh lửa lóe lên từ các khẩu súng của ông sẽ được người Đức sử dụng làm mục tiêu cho một loạt bắn mới, vì thế ông cũng cho ngừng bắn. Một khoang của con tàu đã bị ngập, nhưng nó vẫn có thể cố gắng chạy với tốc độ 24 hải lý mỗi giờ. Đầu tiên là ông cho tầu quay lại phía chiếc Monmouth, lúc này nó không còn lửa cháy nhưng vẫn còn nổi. Chẳng còn làm được gì cho con tàu, nó đang từ từ chìm dần nhưng vẫn cố gắng để tiến về phía bãi biển thuộc bờ biển Chile. Chiếc Glasgow chuyển hướng về phía nam và bỏ đi.
    Có một số nhầm lẫn giữa các tàu của Đức về số phận của hai tàu tuần dương bọc thép lúc này đã biến mất vào bóng tối sau khi ngừng bắn, và một cuộc săn đuổi lại bắt đầu. chiếc Leipzig thấy một cái gì đó đang cháy nhưng khi đến gần lại chỉ thấy đó là đống đổ nát mà thôi (xác của chiếc Good Hope???). Chiếc Nürnberg, chậm hơn so với các tàu Đức khác nên đã đến muộn và không tham gia trận đánh, nhưng nó lại nhìn thấy chiếc Monmouth, chiếc này đã bị nghiêng và bị hư hỏng nặng nhưng vẫn di chuyển. Sau khi hướng đèn pha vào cột cờ hiệu của nó, một tín hiệu yêu cầu đầu hàng đã bị từ chối, nó nổ súng và cuối cùng đã đánh chìm con tàu này. Vì không có thông tin xác nhận nên von Spee quyết định rằng chiếc Good Hope đã trốn thoát và ra lệnh từ bỏ cuộc tìm kiếm vào lúc 22:15. Và nhớ đến những báo cáo rằng một chiến hạm của Anh đang ở một nơi nào đó, ông quay về phía bắc.
    Không có một ai còn sống sót trong cả hai chiếc Good Hope hoặc Monmouth, gần 1.600 sĩ quan và thủy thủ Anh đã chết với Cradock nằm trong số đó. Cả hai chiếc Glasgow và Otranto đều trốn thoát (chiếc tầu chuyển đổi chỉ bị trúng năm phát đạn và có năm người bị thương). Chỉ cần hai phát đạn đã bắn trúng chiếc Scharnhorst, không phát đạn nào trong đó phát nổ: một trong 6-inch vỏ hit trên các vành đai giáp và xuyên vào một kho, nơi mà theo lời của von Spee, "những tạo vật này chỉ nằm đó như một loại thiệp chúc mừng." Một phát đạn khác trúng vào chiếc ống khói. Đổi lại chiếc Scharnhorst đã cố gắng bắn ít nhất 35 phát đạn trúng vào chiếc Good Hope, nhưng đã phải dùng tới 422 viên đạn 8,2-inch, và chỉ còn lại 350 viên đạn. Bốn phát đạn đã bắn trúng chiếc Gneisenau, một trong số đó như gần như đã làm ngập phòng sĩ quan. Một phát đạn từ chiếc Glasgow bắn trúng tháp pháo phía sau và làm nó tạm thời rời ra. Ba thủy thủ của chiếc Gneisenau đã bị thương, và nó dùng hết 244 viên đạn của mình và chỉ còn lại có 528 viên.
    Hậu quả
    [​IMG]
    Ảnh Phó Đô đốc von Spee người đã chiến thắng với tổn thất ít chưa từng thấy tại trận Coronel nhưng lại thất bại và thiệt mạng cùng phần lớn thủy thủ của mình trong trận Falkland
    Von Spee sau đó nhận xét về các chiến thuật của Anh. Ông đã có những thông tin sai lạc rằng chiếc tàu chiến Canopus được nhìn thấy ở khu vực này lại được cho là một chiếc thiết giáp hạm tương đối hiện đại lớp Queen, trong khi thực tế thì chiếc tầu tăng viện lại là 1 thiết giáp hạm lớp Canopus loại đã cũ và đi biển rất kém, nhưng dù sao nó vẫn có tới bốn súng 12in và mười súng 6 in. Von Spee tin rằng ông có thể sẽ thua nếu tất cả các tàu Anh đều tham chiến đầy đủ (người Anh có chiếc Canopus đi quá chậm và chiếc Defence cùng vài chiếc nữa đi hướng khác). Mặc dù chiến thắng, ông vẫn bi quan về sự đe dọa của hải quân Anh, và cũng như cơ hội sống còn của mình. Cradock có rất ít thuyết phục về giá trị của chiếc Canopus vì nó quá chậm với tốc độ 12 hải lý để cho phép các tàu khác của mình có thể tự do di chuyển và người chỉ huy nó chỉ là sỹ quan dự bị thiếu kinh nghiệm chiến đấu.
    Lời giải thích chính thức của thất bại này khi trình lên Hạ nghị viện bởi Winston Churchill là: "ông ta cảm thấy rằng ông không thể ép đối phương vào một trận chiến ngay lập tức nếu ông còn giữ chiếc Canopus, ông quyết định tấn công họ ngay với chỉ những tàu có tốc độ cao của mình, với niềm tin rằng ngay cả khi bản thân ông bị tiêu diệt ... ông sẽ gây thiệt hại cho đối phương mà ... nhất định sẽ dẫn đến sự hủy diệt tiếp theo của họ sau đó. "
    Ngày 03 tháng 11, các chiếc Scharnhorst, Gneisenau và Nürnberg vào cảng Valparaiso và đã được chào đón như những anh hùng của người Đức. Von Spee từ chối tham gia vào các lễ kỷ niệm: xuất hiện với một bó hoa và ông nhận xét, " Bó hoa độc đáo này sẽ làm đẹp cho ngôi mộ của tôi?. Ông đã chết với một phần lớn người trên tàu của ông khoảng gần một tháng sau đó tại Trận Quần đảo chiến Falkland ngày 08 tháng 12 năm 1914.
    Sự chậm trễ của đường dây thông tin liên lạc


    Ngày 30 tháng 10, trước khi trận chiến diễn ra nhưng sự chậm trễ của hệ thống thông tin liên lạc đã làm cho các mệnh lệnh đến quá muộn để có được tác dụng, Đô đốc Jacky Fisher đã được tái bổ nhiệm First Sea Lord thay thế cho Battenberg. Battenberg và Churchill đã mất khá nhiều thời gian để tranh cãi trong việc để giữ lại Battenberg, một hoàng tử Đức, là First Sea Lord chống lại các mối quan tâm rộng rãi rằng Đô đốc cấp cao của Anh đã điều hành một cuộc chiến tranh chống lại đất mà ông ta ra đời. Battenberg là một đô đốc đã được chứng minh là đáng tin cậy, nhưng cuối cùng đã phải bị thay thế vì sức ép của công luận. Tuy nhiên, toàn bộ cuộc khủng hoảng đã thu hút sự chú ý của các sĩ quan cao cấp nhất của bộ ha?i quân sự ra khỏi các sự kiện ở Nam Mỹ. Churchill sau đó nói rằng nếu ông đã không bị phân tâm, ông sẽ phải đặt câu hỏi sâu sắc hơn về những ý định của vị đô đốc của mình ở trên biển.
    Churchill đã nhận được một bức điện tín từ Cradock vào ngày 27 Tháng 10, xin cố vấn cho ý định của ông để lại chiếc Canopus ở phía sau, vì tốc độ nó quá chậm, và cũng như những hướng dẫn để đưa những tàu còn lại vào tìm kiếm Spee. Ông này (Cradock) nói lại rằng ông vẫn hy vọng lực lượng tiếp viện sẽ vẫn là chiếc HMS Defence mà trước đó ông này đã được cho biết là sắp tới, và rằng ông đã đưa ra mệnh lệnh cho nó gia nhập hải đội của ông càng sớm càng tốt. Mặc dù chiếc HMS Defence đã từng được gửi đi để củng cố cho lực lượng của Cradock, sau đó nó lại được thu hồi và gọi trở về Địa Trung Hải và sau lại được gửi lại để tạo thành một phần của một hải đội mới đi tuần tra bờ biển phía đông của Nam Mỹ. Một sự bất đồng đã phát sinh giữa Cradock và bộ trươ?ng ha?i quân trong viêc giao nhiệm vụ và sử dụng con tầu này như thế nào?. Cradock tin rằng ông đã được (các quan chức ngồi ở BHQ) lên kế hoạch để tiến lên và tiếp chiến với von Spee với những lực lượng ông có trong tay, trong khi Bộ Hải quân dự kiến ông nên tập trung các tầu chiến xung quanh chiếc Canopus để tăng cường phòng, và chỉ để trinh sát tình hình hoặc tận dụng bất kỳ tình huống lợi thế nào mà ông có để đánh bại chỉ một phần lực lượng của đối phương. Churchill trả lời qua điện tín rằng chiếc Defencesẽ ở lại bờ biển phía đông và rằng Cradock phải thực hiện nhiệm vụ với lực lượng hiện có của mình mà không đưa ra bất cứ bình luận nào về kế hoạch của Cradock để bỏ lại chiếc Canopus của mình. Churchill đã gửi thông điệp này đến các thành viên của bộ ha?i quân và nói rằng ông không hiểu một cách chính xác Cradock dự định những gì.


    [​IMG]
    Ảnh Chuẩn Đô đốc Cradock, người đã chiến đấu theo kiểu tấn công cảm tử và anh dũng hy sinh trong trận Coronel.
    Cradock có thể nhận được thư trả lời của Churchill, vào ngày 01 tháng 11 với các thông điệp nhận được bởi chiếc Glasgow tại Coronel, và ông ta có thời gian để đọc nó trước khi trận chiến. Vì vậy Cradock đã có thể lấy được thông báo mà nó xác nhận lần cuối về những gì ông được mong đợi sẽ phải làm. Khởi hành từ Stanley ( thuộc quần đảo Falkland) ông để lại một lá thư được chuyển tiếp đến Đô đốc Hạm đội Sir Hedworth Meux trong trường hợp ông bị chết. Trong này, ông nhận xét rằng ông không có ý định phải chịu số phận của Chuẩn Đô đốc Troubridge, người trong tháng 8 đã phải ra tòa án binh vì lẩn tránh không tán công vào đối phương, mặc dù ông ta hoàn toàn mất ưu thế về lực lương trong khi ông ta truy đuổi các chiếc Goeben và Breslau. Trong trường hợp của Troubridge tàu Đức đã vượt qua tầu của ông ta và trốn thoát, và đã có thể là von Spee cũng sẽ làm điều tương tự, chạy xung quanh mũi Horn và trở về nước Đức nếu ông (Cradock ) không can thiệp. Viên thống đốc của Falklands báo rằng Cradock có thể đã không hy vọng rằng mình còn sống sót, đồng ý kiến với viên thống đốc, Luce, thuyền trưởng của chiếc Glasgow báo cáo rằng "Cradock không đưa ra lựa chọn lẩn tránh hoặc trì hoãn giao chiến ngay cả nếu có được cơ hội thành công nhỏ nhất".
    Ngày 03 tháng 11, Fisher tại London nhận được tin từ Valparaiso rằng người ta đã nhìn thấy Spee. Ông khẩn trương ra lệnh cho chiếc Defence ra nhập vào đội hình của Cradock, và nhấn mạnh sự cần thiết phải giữ chiếc Canopus cùng với các tàu khác thì vào ngày 04 tháng 11, các báo cáo của người Đức về kết quả của trận chiến đã lan tới được London.
    Phản ứng của người Anh

    Đây là lần đầu tiên hải quân Anh bị đánh bại đánh bại kể từ Trận Lake Champlain trong Chiến tranh năm 1812 và lần đầu tiên một hải đội hải quân Anh bị đánh bại kể từ Trận Port Grand vào năm 1810. Sáu tuần trước đó một chiếc tàu ngầm Đức đã đánh chìm ba tàu tuần dương Anh đang tuần tra tại English Channel.
    Khi tin tức về quy mô của sự thất bại của người Anh, và hậu quả nhục nhã của nó đến được Bộ Hải quân ở London, một lực lượng hải quân mới đã được tập hợp dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Sturdee. Lực lượng này đã tìm thấy và tiêu diệt lực lượng của Spee tại Trận chiến Quần đảo Falkland.
    Chiếc Glasgow thoát khỏi trận chiến và liên tục chạy về phía Nam trong ba ngày với tốc độ 20 hải lý mỗi giờ đi qua Eo biển Magellan. Chiếc Canopus nhận được cảnh báo của chiếc Glasgow qua tin nhắn đã quay về với tốc độ tối đa mà nó có thể đi được - 9 hải lý mỗi giờ. Ngày 6 tháng 11 hai tàu đã gặp nhau và từ từ tiến về phía đảo Falkland. Hai lần trong suốt chuyến đi chiếc Canopus đã báo rằng con tàu đã không thể được kiểm soát. Sau khi ăn than, cả hai tàu được mệnh lệnh tiến về phía Bắc, nhưng một lần nữa chiếc Canopus lại bị vỡ (nồi hơi). Cuối cùng nó nhận được lệnh tiến vào bãi biển ở phần bên trong của Stanley Harbour, Nơi nó có thể phục vụ như là một khẩu đội pháo phòng thủ bờ biển.
    Chiếc Otranto chạy 200 dặm và vào biển Thái Bình Dương, trước khi chuyển hướng về phía nam và đi xung quanh mũi Cape Horn. Ngày 04 tháng 11 bộ ha?i quân ra lệnh cho các tàu còn sống sót chuyển đến Abrolhos Rocks, nơi mà một lực lượng mới đã được tập hợp ở đó. Chuẩn Đô đốc Archibald Stoddart với các tàu tuần dương bọc thép Carnarvon và Cornwall gặp họ ở đó và chờ đợi sự xuất hiện của chiếc Defence. Sturdee được lệnh để đi cùng với các tàu chiến Invincible và Inflexible sau đó nhập vào Hạm đội Grand Fleed tại Bắc ha?i để chỉ huy một hải đội mới với các ưu thế rõ ràng hơn hẳn lực lượng của von Spee.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 14:46 ngày 12/05/2010
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Hải chiến Quần đảo Falkland
    Tóm tắt trận đánh
    Ngày Ngày 08 tháng 12 năm 1914
    Nơi Nam Đại Tây Dương, gần Quần đảo Falkland
    Kết quả Anh chiến thắng quyết định
    Tham chiến
    Hải quân Hoàng gia
    Chỉ huy
    Doveton Sturdee
    Sức mạnh
    2 tàu thiết giáp hạm chủ lực
    3 tuần dương hạm bọc thép
    2 tuần dương hạm hạng nhẹ và
    1 thiết giáp hạm tiền Dreadnought
    Thương vong
    10 bị giết
    19 người bị thương
    Không có tàu bị mất
    Kaiserliche Marine - Hải quân Đế chế
    Chỉ huy
    Maximilian von Spee ?
    Sức mạnh
    2 tuần dương hạm bọc thép
    3 tuần dương hạm hạng nhẹ
    3 tàu vận tải
    Thương vong
    1.871 thiệt mạng
    215 bị bắt
    2 tuần dương hạm bọc thép bị đánh chìm
    2 tuần dương hạm hạng nhẹ bị đánh chìm
    2 tàu vận tải bị bắt và sau đó bị đánh đắm
    Trận chiến Quần đảo Falkland là một chiến thắng của Hải quân Anh trước Hải quân Đế quốc Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Thế chiến thứ nhất ở Nam Đại Tây Dương. Người Anh nhục nhã vì một thất bại tại trận Coronel ngày 01 tháng 11 đã gửi một lực lượng lớn để theo dõi và tiêu diệt hải đội tàu tuần dương Đức và đã đánh bại họ trong trận Coronel.
    Đô đốc Graf Maximilian von Spee chỉ huy hải đội Đức gồm hai tuần dương hạm bọc thép, SMS Scharnhorst và SMS Gneisenau, ba tuần dương hạm hạng nhẹ, Nürnberg, Dresden và Leipzig, và ba tầu vận tải đã cố gắng tấn công căn cứ tiếp vận của Anh tại Stanley trên quần đảo Falkland. Hai tầu tuần dương chủ lực của Anh gồm, các chiếc HMS Invincible và HMS Inflexible, ba tàu tuần dương bọc thép gồm các chiếc HMS Carnarvon, HMS Cornwall và HMS Kent, và hai tuần dương hạm hạng nhẹ gồm các chiếc HMS Bristol và HMS Glasgow đã cập cảng chỉ một ngày trước đó.
    Tầm nhìn lúc đó là tối đa: mặt biển rất bình yên với các làn gió nhẹ thổi từ phía tây bắc, mặt trời rất sáng, bầu trời quang đãng. Các tuần dương hạm hải đội Đức đã bị phát hiện rất sớm, và vào lúc 9:00 sáng ngày hôm đó trong khi các tàu tuần dương chủ lực và tàu tuần dương còn lại của Anh đều đang gắt gao tìm tông tích của năm chiếc tàu chiến Đức thì các con tầu này dàn thành hàng và tiến về phía đông nam. Tất cả ngoại trừ chiếc Dresden và chiếc tầu phụ trợ Seydlitz số còn lại đều bị bắt và đánh chìm.

    Các tàu tuần dương chủ lực của Anh được lắp tám súng 12-inch (305 mm) trên một chiếc tầu, trong khi các chiếc SMS Scharnhorst và SMS Gneisenau của Spee chỉ có tám súng 8,24-inch (209 mm). Ngoài ra, các tàu tuần dương chủ lực có thể chạy với tốc độ 25 ½ knot/ giờ so với tốc độ 22 ½ knot của các tầu của Spee. Vì vậy, các tàu tuần dương chủ lực của Anh có thể chạy nhanh hơn đối thủ của họ và có ưu thế đáng kể về chất lượng súng. Chiếc thiết giáp hạm lạc hậu tiền Dreadnought, HMS Canopus, cũng đóng tại Stanley để hoạt động như một pháo đài nổi để bảo vệ khu vực này.
    Hải đội của Spee
    [​IMG]
    Dữ liệu thống kê tóm tắt lực lượng của Phó Đô đốc Spee
    Sau của sự thành công von Spee vào ngày 01 tháng 11 năm 1914 tại trận Coronel ở ngoài khơi bờ biển Valparaiso, Chile, nơi Hải đội Đông Á của Đức đánh chìm các tàu tuần dương HMS Good Hope (Kỳ hạm của Đô đốc Cradock) và HMS Monmouth, lực lượng của Von Spee tiến vào Valparaíso. Theo yêu cầu theo luật quốc tế đối với các tàu tham chiến tại các nước trung lập, các tàu ở lại đó trong vòng 24 giờ trước khi di chuyển đến Mas Afuera, 400 dặm ngoài khơi bờ biển Chile. Ở đó, họ nhận được tin tức về việc chiếc SMS Emden bị tiêu diệt, chiếc này trước đó đã tách ra khỏi hải đội và bị tấn công ở Ấn Độ Dương. Họ cũng biết được của sự sụp đổ của thuộc địa của Đức tại Thanh Đảo - Trung Quốc, vốn đã là cảng nhà của họ. Ngày 15 tháng 11 hải đội chuyển đến Bahia San Quintin trên bờ biển Chile, nơi mà một buổi lễ được tổ chức để phân phát huân chương 300 Iron Cross hạng hai cho các thủy thủ đoàn, và một huân chương chữ thập sắt hạng nhất được trao cho Đô đốc Spee.
    Spee cũng nhận được các khuyến nghị nên trở về Đức nếu ông có thể. Các tàu của ông đã sử dụng một nửa số đạn dược của họ tại trận Coronel mà họ không thể có bổ sung, và có những khó khăn để có nhiên liệu - than. Tin tình báo cho rằng các tàu Defence, Cornwall và Carnarvon đang đóng tại sông Plate, và rằng có không có tàu chiến của Anh tại đảo Stanley khi 1 tàu hơi nước ghé qua vào thời gian gần đó. Spee đã quan tâm đến các báo cáo về một tàu chiến Anh, chiếc Canopus, nhưng không ai xác định được rõ vị trí của nó. Ngày 26 tháng 11 hải đội di chuyển tới Cape Horn và đến đó vào ngày 1 tháng 12, sau đó thả neo tại Picton Island, nơi họ ở lại trong ba ngày để lấy than từ một tầu chở hàng của Anh bị bắt giữ. Ngày 06 tháng 12 Spee đề nghị một cuộc tấn công vào quần đảo Falkland trước khi chuyển về phía bắc. Cuộc tấn công này là không cần thiết vì hải đội đã có nhiều than đá ở mức họ có thể mang được, và ý tưởng này bị phản đối bởi hầu hết các thuyền trưởng của Spee, nhưng ông này vẫn quyết định tiến hành cuộc tấn công.
    Sự chuẩn bị của người Anh
    Ngày 30 Tháng 10 vị Đô đốc về hưu Sir John Fisher được tái bổ nhiệm First Sea Lord để thay thế Đô đốc Hoàng tử Louis của Battenberg, người đã bị buộc phải từ chức vì sự phản đối kịch liệt của công chúng chống lại việc một hoàng tử người Đức đảm nhận việc điều hành hải quân Anh. Ngày 03 tháng 11 Fisher đã được báo rằng có người nhìn thấy Spee ở ngoài khơi Valparaiso và đã có hành động để củng cố Cradock bằng cách tăng cường thêm chiếc HMS Defence lúc này đã được gửi tới tuần tra bờ biển phía đông của Nam Mỹ để củng cố hải đội của ông ta. Khi ông nhận được tin tức vào ngày 4 tháng 11 về sự thất bại tại Coronel. Kết quả là các tàu tuần dương chủ lực Invincible and Inflexible được lệnh rời khỏi Hạm đội Grand Fleed và đi đến Plymouth để sửa chữa lớn và chuẩn bị cho nhiệm vụ ở nước ngoài. Tham mưu trưởng của Admiralty là Phó Đô đốc Doveton Sturdee, Fisher có một bất đồng lâu dài với Sturdee, một trong những người kêu gọi sa thải ông ta (Fisher ) trong lần nắm cương vị First Sea Lord đầu tiên trong năm 1911, do đó, ông nắm lấy cơ hội quyết định bổ nhiệm Sturdee chức Tổng tư lệnh vùng Nam Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, để chỉ huy hải đội mới từ chiếc Invincible.
    [​IMG]
    Ảnh Phó Đô đốc Sturdee người đã chiến thắng trong trận hải chiếc Falkaland
    Ngày 11 tháng 11 các chiếc Invincible và Inflexible rời Devonport, mặc dù công việc sửa chữa của chiếc tầu vẫn chưa được hoàn tất và nó khởi hành với những thợ sửa chữa vẫn còn trên boong. Mặc cho tính cấp bách của tình hình và tốc độ tối đa của nó là khoảng 25 hải lý/ giờ, con tàu chỉ đi với tốc độ ổn định 10. Chạy tốc độ cao đòi hỏi phải sử dụng một số lượng than cực lớn, do đó, để hoàn thành cuộc hành trình dài nó là cần thiết để đi ở tốc độ hành trình đây là tốc độ kinh tế nhất. Hai chiếc tàu cũng tải theo rất nhiều vật tư. Tính bảo mật của chuyến hành trình được coi là tối quan trọng để làm Spee bất ngờ, nhưng ngày 17 tháng 11, Trung úy Hirst từ chiếc Glasgow nghe người dân địa phương thảo luận về sự xuất hiện của các con tầu sắp tới ở bờ của Cape Verde. Nhưng những tin tức này đã không đến được tới Spee. Sturdee đến Abrolhos Rocks vào ngày 26 tháng 11 nơi mà Chuẩn Đô đốc Stoddart chờ đợi ông ta với phần còn lại của hải đội.
    [​IMG]
    Dữ liệu thống kê số tải trọng của hải đội Anh tại trận Falkaland
    Ảnh hải đội của Phó Đô đốc Sturdee
    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Invincible, chiếc tuần dương hạm chủ lực của Anh đã tiêu diệt hải đội của von Spee
    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Inflexible, chiếc tuần dương hạm chủ lực của Anh đã tiêu diệt hải đội của von Spee
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Carnarvon của Anh có tham chiến trận Falkland
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Cornwall của Anh có tham chiến trận Falkland
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Kent của Anh có tham chiến trận Falkland
    Sturdee thông báo ý định của mình để khởi hành đi quần đảo Falkland, ngày 29 tháng 11. Từ đó, các tàu tuần dương hạng nhẹ cao tốc Glasgow và Bristol sẽ tuần tra tìm kiếm Spee và gọi quân tiếp viện nếu họ tìm thấy ông ta. Thuyền trưởng Luce của chiếc Glasgow, người đã chạy thoát trong trận Coronel, phản đối rằng không có cần phải chờ đợi quá lâu và thuyết phục Sturdee khởi hành sớm hơn một ngày. Hải đội này đã bị trì hoãn trong suốt cuộc hành trình 12 giờ khi một sợi dây cáp dùng để kéo các mục tiêu bắn tập đã quấn xung quanh chân vịt cánh quạt của chiếc Invincible, nhưng rồi con tàu đã đến đích vào buổi sáng ngày 07 tháng 12. Hai tàu tuần dương hạng nhẹ thả neo ở phần bên trong của Stanley Harbour, Trong khi các tàu lớn hơn ở lại bến cảng sâu hơn bên ngoài của Port William. Các thợ lặn vẫn cố gắng tháo chiếc cáp bọc xung quanh chiếc chân vịt cánh quạt của chiếc Invincible. Chiếc Cornwall tắt nồi hơi của mình để sửa chữa, và chiếc Bristol tháo dỡ một trong những động cơ của nó. Con tàu nổi tiếng SS Great Britain, bỏ vai trò khiêm tốn là một hầm than để một góp phần vào trận đánh, cung cấp than cho các Invincible và Inflexible. Chiếc tuần dương hạm tầu buôn chuyển đổi HMS Macedonia được lệnh tuần tra các bến cảng, trong khi chiếc Kent duy trì nhiệt độ trong nồi hơi của mình, sẵn sàng để thay thế chiếc Macedonia vào ngày hôm sau, ngày 08 tháng 11. Hạm đội của Spee xuất hiện vào buổi sáng của ngày thứ 8.
    Trận đánh
    [​IMG]
    Bản đồ diễn biến trận chiến Quần đảo Falkland
    Tuần dương hạm của Spee, các chiếc Gneisenau và Nürnberg, là những chiếc đầu tiên tiếp cận đảo Stanley. Vào lúc đó, toàn bộ hạm đội Anh đã ăn than. Khi Spee gây sức ép tấn công, không chỉ tàu của Sturdee trở thành các mục tiêu dễ dàng, mà bất kỳ con tàu nào muốn cố gắng để thoát ra cũng sẽ phải đối mặt với hỏa lực của toàn bộ các tàu Đức. Chỉ cần một con tàu bị đánh chìm cũng có thể ngăn chặn phần còn lại của hải đội Anh ở trong cảng. May mắn cho người Anh, người Đức đã rất ngạc nhiên bởi một phát súng bắn từ một đối tượng bất ngờ: chiếc Canopus, được đặt như một tầu canh gác và nấp đằng sau một ngọn đồi. Sự kiên này đủ để chặn trước sự tiến quân của người Đức. Các cột ống khỏi kiểu đặc biệt của các tàu chiến chủ lực Anh đã cho thấy rằng họ sẽ phải đối mặt với một kẻ thù được trang bị tốt hơn rất nhiều. Chiếc Kent đã tách ra khá xa khỏi cảng và đã nhận được mệnh lệnh đuổi theo tàu của Spee.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:36 ngày 14/05/2010
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Hải chiến Quần đảo Falkland
    Tóm tắt trận đánh
    Ngày Ngày 08 tháng 12 năm 1914
    Nơi Nam Đại Tây Dương, gần Quần đảo Falkland
    Kết quả Anh chiến thắng quyết định
    Tham chiến
    Hải quân Hoàng gia
    Chỉ huy
    Doveton Sturdee
    Sức mạnh
    2 tàu thiết giáp hạm chủ lực
    3 tuần dương hạm bọc thép
    2 tuần dương hạm hạng nhẹ và
    1 thiết giáp hạm tiền Dreadnought
    Thương vong
    10 bị giết
    19 người bị thương
    Không có tàu bị mất
    Kaiserliche Marine - Hải quân Đế chế
    Chỉ huy
    Maximilian von Spee ?
    Sức mạnh
    2 tuần dương hạm bọc thép
    3 tuần dương hạm hạng nhẹ
    3 tàu vận tải
    Thương vong
    1.871 thiệt mạng
    215 bị bắt
    2 tuần dương hạm bọc thép bị đánh chìm
    2 tuần dương hạm hạng nhẹ bị đánh chìm
    2 tàu vận tải bị bắt và sau đó bị đánh đắm
    Trận chiến Quần đảo Falkland là một chiến thắng của Hải quân Anh trước Hải quân Đế quốc Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Thế chiến thứ nhất ở Nam Đại Tây Dương. Người Anh nhục nhã vì một thất bại tại trận Coronel ngày 01 tháng 11 đã gửi một lực lượng lớn để theo dõi và tiêu diệt hải đội tàu tuần dương Đức và đã đánh bại họ trong trận Coronel.
    Đô đốc Graf Maximilian von Spee chỉ huy hải đội Đức gồm hai tuần dương hạm bọc thép, SMS Scharnhorst và SMS Gneisenau, ba tuần dương hạm hạng nhẹ, Nürnberg, Dresden và Leipzig, và ba tầu vận tải đã cố gắng tấn công căn cứ tiếp vận của Anh tại Stanley trên quần đảo Falkland. Hai tầu tuần dương chủ lực của Anh gồm, các chiếc HMS Invincible và HMS Inflexible, ba tàu tuần dương bọc thép gồm các chiếc HMS Carnarvon, HMS Cornwall và HMS Kent, và hai tuần dương hạm hạng nhẹ gồm các chiếc HMS Bristol và HMS Glasgow đã cập cảng chỉ một ngày trước đó.
    Tầm nhìn lúc đó là tối đa: mặt biển rất bình yên với các làn gió nhẹ thổi từ phía tây bắc, mặt trời rất sáng, bầu trời quang đãng. Các tuần dương hạm hải đội Đức đã bị phát hiện rất sớm, và vào lúc 9:00 sáng ngày hôm đó trong khi các tàu tuần dương chủ lực và tàu tuần dương còn lại của Anh đều đang gắt gao tìm tông tích của năm chiếc tàu chiến Đức thì các con tầu này dàn thành hàng và tiến về phía đông nam. Tất cả ngoại trừ chiếc Dresden và chiếc tầu phụ trợ Seydlitz số còn lại đều bị bắt và đánh chìm.

    Các tàu tuần dương chủ lực của Anh được lắp tám súng 12-inch (305 mm) trên một chiếc tầu, trong khi các chiếc SMS Scharnhorst và SMS Gneisenau của Spee chỉ có tám súng 8,24-inch (209 mm). Ngoài ra, các tàu tuần dương chủ lực có thể chạy với tốc độ 25 ½ knot/ giờ so với tốc độ 22 ½ knot của các tầu của Spee. Vì vậy, các tàu tuần dương chủ lực của Anh có thể chạy nhanh hơn đối thủ của họ và có ưu thế đáng kể về chất lượng súng. Chiếc thiết giáp hạm lạc hậu tiền Dreadnought, HMS Canopus, cũng đóng tại Stanley để hoạt động như một pháo đài nổi để bảo vệ khu vực này.
    Hải đội của Spee
    [​IMG]
    Dữ liệu thống kê tóm tắt lực lượng của Phó Đô đốc Spee
    Sau của sự thành công von Spee vào ngày 01 tháng 11 năm 1914 tại trận Coronel ở ngoài khơi bờ biển Valparaiso, Chile, nơi Hải đội Đông Á của Đức đánh chìm các tàu tuần dương HMS Good Hope (Kỳ hạm của Đô đốc Cradock) và HMS Monmouth, lực lượng của Von Spee tiến vào Valparaíso. Theo yêu cầu theo luật quốc tế đối với các tàu tham chiến tại các nước trung lập, các tàu ở lại đó trong vòng 24 giờ trước khi di chuyển đến Mas Afuera, 400 dặm ngoài khơi bờ biển Chile. Ở đó, họ nhận được tin tức về việc chiếc SMS Emden bị tiêu diệt, chiếc này trước đó đã tách ra khỏi hải đội và bị tấn công ở Ấn Độ Dương. Họ cũng biết được của sự sụp đổ của thuộc địa của Đức tại Thanh Đảo - Trung Quốc, vốn đã là cảng nhà của họ. Ngày 15 tháng 11 hải đội chuyển đến Bahia San Quintin trên bờ biển Chile, nơi mà một buổi lễ được tổ chức để phân phát huân chương 300 Iron Cross hạng hai cho các thủy thủ đoàn, và một huân chương chữ thập sắt hạng nhất được trao cho Đô đốc Spee.
    Spee cũng nhận được các khuyến nghị nên trở về Đức nếu ông có thể. Các tàu của ông đã sử dụng một nửa số đạn dược của họ tại trận Coronel mà họ không thể có bổ sung, và có những khó khăn để có nhiên liệu - than. Tin tình báo cho rằng các tàu Defence, Cornwall và Carnarvon đang đóng tại sông Plate, và rằng có không có tàu chiến của Anh tại đảo Stanley khi 1 tàu hơi nước ghé qua vào thời gian gần đó. Spee đã quan tâm đến các báo cáo về một tàu chiến Anh, chiếc Canopus, nhưng không ai xác định được rõ vị trí của nó. Ngày 26 tháng 11 hải đội di chuyển tới Cape Horn và đến đó vào ngày 1 tháng 12, sau đó thả neo tại Picton Island, nơi họ ở lại trong ba ngày để lấy than từ một tầu chở hàng của Anh bị bắt giữ. Ngày 06 tháng 12 Spee đề nghị một cuộc tấn công vào quần đảo Falkland trước khi chuyển về phía bắc. Cuộc tấn công này là không cần thiết vì hải đội đã có nhiều than đá ở mức họ có thể mang được, và ý tưởng này bị phản đối bởi hầu hết các thuyền trưởng của Spee, nhưng ông này vẫn quyết định tiến hành cuộc tấn công.
    Sự chuẩn bị của người Anh
    Ngày 30 Tháng 10 vị Đô đốc về hưu Sir John Fisher được tái bổ nhiệm First Sea Lord để thay thế Đô đốc Hoàng tử Louis của Battenberg, người đã bị buộc phải từ chức vì sự phản đối kịch liệt của công chúng chống lại việc một hoàng tử người Đức đảm nhận việc điều hành hải quân Anh. Ngày 03 tháng 11 Fisher đã được báo rằng có người nhìn thấy Spee ở ngoài khơi Valparaiso và đã có hành động để củng cố Cradock bằng cách tăng cường thêm chiếc HMS Defence lúc này đã được gửi tới tuần tra bờ biển phía đông của Nam Mỹ để củng cố hải đội của ông ta. Khi ông nhận được tin tức vào ngày 4 tháng 11 về sự thất bại tại Coronel. Kết quả là các tàu tuần dương chủ lực Invincible and Inflexible được lệnh rời khỏi Hạm đội Grand Fleed và đi đến Plymouth để sửa chữa lớn và chuẩn bị cho nhiệm vụ ở nước ngoài. Tham mưu trưởng của Admiralty là Phó Đô đốc Doveton Sturdee, Fisher có một bất đồng lâu dài với Sturdee, một trong những người kêu gọi sa thải ông ta (Fisher ) trong lần nắm cương vị First Sea Lord đầu tiên trong năm 1911, do đó, ông nắm lấy cơ hội quyết định bổ nhiệm Sturdee chức Tổng tư lệnh vùng Nam Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, để chỉ huy hải đội mới từ chiếc Invincible.
    [​IMG]
    Ảnh Phó Đô đốc Sturdee người đã chiến thắng trong trận hải chiếc Falkaland
    Ngày 11 tháng 11 các chiếc Invincible và Inflexible rời Devonport, mặc dù công việc sửa chữa của chiếc tầu vẫn chưa được hoàn tất và nó khởi hành với những thợ sửa chữa vẫn còn trên boong. Mặc cho tính cấp bách của tình hình và tốc độ tối đa của nó là khoảng 25 hải lý/ giờ, con tàu chỉ đi với tốc độ ổn định 10. Chạy tốc độ cao đòi hỏi phải sử dụng một số lượng than cực lớn, do đó, để hoàn thành cuộc hành trình dài nó là cần thiết để đi ở tốc độ hành trình đây là tốc độ kinh tế nhất. Hai chiếc tàu cũng tải theo rất nhiều vật tư. Tính bảo mật của chuyến hành trình được coi là tối quan trọng để làm Spee bất ngờ, nhưng ngày 17 tháng 11, Trung úy Hirst từ chiếc Glasgow nghe người dân địa phương thảo luận về sự xuất hiện của các con tầu sắp tới ở bờ của Cape Verde. Nhưng những tin tức này đã không đến được tới Spee. Sturdee đến Abrolhos Rocks vào ngày 26 tháng 11 nơi mà Chuẩn Đô đốc Stoddart chờ đợi ông ta với phần còn lại của hải đội.
    [​IMG]
    Dữ liệu thống kê số tải trọng của hải đội Anh tại trận Falkaland
    Ảnh hải đội của Phó Đô đốc Sturdee
    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Invincible, chiếc tuần dương hạm chủ lực của Anh đã tiêu diệt hải đội của von Spee
    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Inflexible, chiếc tuần dương hạm chủ lực của Anh đã tiêu diệt hải đội của von Spee
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Carnarvon của Anh có tham chiến trận Falkland
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Cornwall của Anh có tham chiến trận Falkland
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Kent của Anh có tham chiến trận Falkland
    Sturdee thông báo ý định của mình để khởi hành đi quần đảo Falkland, ngày 29 tháng 11. Từ đó, các tàu tuần dương hạng nhẹ cao tốc Glasgow và Bristol sẽ tuần tra tìm kiếm Spee và gọi quân tiếp viện nếu họ tìm thấy ông ta. Thuyền trưởng Luce của chiếc Glasgow, người đã chạy thoát trong trận Coronel, phản đối rằng không có cần phải chờ đợi quá lâu và thuyết phục Sturdee khởi hành sớm hơn một ngày. Hải đội này đã bị trì hoãn trong suốt cuộc hành trình 12 giờ khi một sợi dây cáp dùng để kéo các mục tiêu bắn tập đã quấn xung quanh chân vịt cánh quạt của chiếc Invincible, nhưng rồi con tàu đã đến đích vào buổi sáng ngày 07 tháng 12. Hai tàu tuần dương hạng nhẹ thả neo ở phần bên trong của Stanley Harbour, Trong khi các tàu lớn hơn ở lại bến cảng sâu hơn bên ngoài của Port William. Các thợ lặn vẫn cố gắng tháo chiếc cáp bọc xung quanh chiếc chân vịt cánh quạt của chiếc Invincible. Chiếc Cornwall tắt nồi hơi của mình để sửa chữa, và chiếc Bristol tháo dỡ một trong những động cơ của nó. Con tàu nổi tiếng SS Great Britain, bỏ vai trò khiêm tốn là một hầm than để một góp phần vào trận đánh, cung cấp than cho các Invincible và Inflexible. Chiếc tuần dương hạm tầu buôn chuyển đổi HMS Macedonia được lệnh tuần tra các bến cảng, trong khi chiếc Kent duy trì nhiệt độ trong nồi hơi của mình, sẵn sàng để thay thế chiếc Macedonia vào ngày hôm sau, ngày 08 tháng 11. Hạm đội của Spee xuất hiện vào buổi sáng của ngày thứ 8.
    Trận đánh
    [​IMG]
    Bản đồ diễn biến trận chiến Quần đảo Falkland
    Tuần dương hạm của Spee, các chiếc Gneisenau và Nürnberg, là những chiếc đầu tiên tiếp cận đảo Stanley. Vào lúc đó, toàn bộ hạm đội Anh đã ăn than. Khi Spee gây sức ép tấn công, không chỉ tàu của Sturdee trở thành các mục tiêu dễ dàng, mà bất kỳ con tàu nào muốn cố gắng để thoát ra cũng sẽ phải đối mặt với hỏa lực của toàn bộ các tàu Đức. Chỉ cần một con tàu bị đánh chìm cũng có thể ngăn chặn phần còn lại của hải đội Anh ở trong cảng. May mắn cho người Anh, người Đức đã rất ngạc nhiên bởi một phát súng bắn từ một đối tượng bất ngờ: chiếc Canopus, được đặt như một tầu canh gác và nấp đằng sau một ngọn đồi. Sự kiên này đủ để chặn trước sự tiến quân của người Đức. Các cột ống khỏi kiểu đặc biệt của các tàu chiến chủ lực Anh đã cho thấy rằng họ sẽ phải đối mặt với một kẻ thù được trang bị tốt hơn rất nhiều. Chiếc Kent đã tách ra khá xa khỏi cảng và đã nhận được mệnh lệnh đuổi theo tàu của Spee.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:36 ngày 14/05/2010

Chia sẻ trang này