1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Nắm rõ được tình hình của các tàu Đức, Sturdee ra lệnh cho các thuyền viên tiếp tục ăn sáng khi biết rằng Canopus đã tạo cho họ 1 khoảng thời gian trong khi hơi nước tăng nhiệt độ.
    Còn về phía Spee thì với những thuyền viên đang mệt mỏi mỏi của mình cộng với tàu của ông bị yếu thế về hỏa lực, thất bại dường như là không thể tránh khỏi. Nhận thức về nguy hiểm của mình một cách quá muộn màng và đã bỏ lỡ mất cơ hội vàng để bắn hạ hải đội của Sturdee khi tại cảng - Spee và hải đội của ông đã bị đánh tan ngoài biển khơi. Các tầu Anh rời cảng vào khoảng 10:00. Spee đã chạy trước với khoảng cách chừng 15 dặm (24 km) nhưng ánh sáng ban ngày rất rõ để các tàu tuần dương chủ lực nhanh hơn đuổi kịp.
    [​IMG]
    Cuộc rượt đuổi giữa các tầu chiến của Hải đội Anh và Hải đội Đức
    Đó là lúc 13:00 khi tàu tuần dương chủ lực của Anh nổ súng, nhưng chúng phải mất nửa giờ để đưa chiếc Leipzig vào tầm bắn. Nhận thấy rằng ông ta không có hy vọng chạy thoát khỏi tàu Anh, Spee quyết định tấn công vào họ với chỉ một chiếc tàu tuần dương bọc thép của ông, để tạo cơ hội cho các tàu tuần dương hạng nhẹ trốn thoát. Trận đấu súng nổ ra vào lúc 13:20. Các tuần dương hạm bọc thép của Đức có lợi thế về gió vì đang có gió tây bắc làm người Anh bị che khuất mục tiêu bởi khói tầu của họ trong suốt thời gian tác chiến. Tác giả Hans Pochhammer (cựu sỹ quan Đức còn sống sót và thành tù binh sau trận đánh) chỉ ra rằng có một thời gian yên lặng kéo dài trong giai đoạn đầu của trận đánh, đây là lúc người Anh cố gắng buộc Đô đốc Spee phải bỏ vị trí thuận lợi của mình nhưng họ không thể làm được.
    Mặc dù các chiếc Scharnhorst và Gneisenau đã thành công bước đầu khi tấn công chiếc Invincible, nhưng chiếc tàu chiến của Anh bị thiệt hại rất ít nhờ lớp giáp hạng nặng của nó. Spee sau đó lại quay sang tìm cách tẩu thoát, nhưng các tàu tuần dương chủ lực lại đưa tầu của ông vào trong tầm bắn chỉ bốn mươi phút sau đó.
    Các chiếc Invincible và Inflexible tấn công các chiếc Scharnhorst và Gneisenau, Trong khi Sturdee tách các tuần dương hạm hạng nhẹ của mình ra để theo đuổi các chiếc Leipzig và Nürnberg.
    Các chiếc Invincible và Inflexible quay sang nổ pháo mạn vào các tuần dương hạm bọc thép của Đức và Spee phản ứng bằng cách cố gắng để tiến lại gần. Chiếc kỳ hạm của ông ta, chiếc Scharnhorst đã bị thiệt hại lớn ở dưới ống khói, bị cháy và bị nghiêng đi. Tình trạng bị nghiêng trở thành tồi tệ hơn vào lúc 16:04 và và nó đã bị chìm vào lúc 16:17. Chiếc Gneisenau tiếp tục bắn trả và né tránh cho đến lúc 17:15 bởi vào lúc đó nó đã hết đạn dược và thủy thủ đoàn được cho phép đánh chìm nó và chuyển xuống xuồng cứu sinh vào lúc 18:02. Trong lúc con tầu này đang chìm, Đô đốc Sturdee tiếp tục tấn công vào chiếc Gneisenau với hai tàu tuần dương chủ lực của mình và chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Carnarvon, thay vì tách một trong những tàu chiến trên để bắt nốt chiếc Dresden. Trong số thuyền viên của chiếc Gneisenau, 190 đã được cứu khỏi mặt nước. Các tàu tuần dương chủ lực đã bị trúng khoảng 40 phát đạn nhưng chỉ bị chết một người và bốn người khác bị thương.
    [​IMG]
    Tranh vẽ chiếc Kỳ hạm Scharnhorst của Đô đốc Spee đang nghiêng và chìm dần
    Trong khi đó các chiếc Nürnberg và Leipzig đã cố chạy thoát khỏi các tuần dương hạm của Anh. Chiếc Nürnberg đã chạy ở tốc độ cao nhất nhưng nó cần sửa chữa, trong khi thủy thủ đoàn của chiếc đuổi theo, chiếc Kent, nồi hơi và động cơ của nó đã được đẩy đến mức giới hạn. Chiếc Nürnberg cuối cùng đã quay sang chiến đấu vào 17:30. Chiếc Kent có ưu thế về pháo và trọng lượng giáp. Chiếc Nürnberg có hai vụ nổ lò hơi vào khoảng 18:30, nó phải trao lợi thế về tốc độ và tính cơ động cho chiếc Kent. Chiếc Nürnberg sau đó chìm vào lúc 19:27 sau khi có một cuộc đuổi bắt kéo dài. Các tàu tuần dương Glasgow và tầu phụ trợ Cornwall truy đuổi chiếc Leipzig tới cùng. Chiếc Glasgow vào gần để kết liễu chiếc Leipzig, chiếc này tuy đã hết đạn nhưng cờ hiệu chiến đấu của nó vẫn tung bay. Nó bắn hai phát pháo sáng (xin ngừng chiến), do đó chiếc Glasgow ngừng nổ súng. Lúc khoảng 21:23, ở hơn 80 dặm (130 km) về phía đông nam của Falklands, nó chìm xuống chỉ để lại 18 người sống sót.
    Kết quả


    [​IMG]
    Chiếc HMS Invincible vớt các thủy thủ Đức của chiếc Gneisenau sau khi trận chiến kết thúc
    Mười thủy thủ Anh đã thiệt mạng trong trận chiến và 19 người bị thương; không chiếc nào trong số các con tàu của Anh bị hư hỏng nặng. Ngược lại, 1.871 thủy thủ Đức đã thiệt mạng trong trận đánh trong đó có Đô đốc Spee và hai con trai của ông. 215 người sống sót đã được cứu thêm và trở thành tù binh trên tàu của Anh. Hầu hết họ đều đến từ chiếc Gneisenau, 5 người từ chiếc Nürnberg và 18 người từ chiếc Leipzig. Trong số 765 sĩ quan và thủy thủ từ chiếc Scharnhorst chỉ có 7 sống sót.
    Trong số 8 chiếc tầu lực lượng Hải quân Đức có hai chiếc chạy thoát: đó là chiếc tầu trợ Seydlitz và tàu tuần dương hạng nhẹ Dresden, nó phải lang thang trong phần lớn một quãng thời gian khoảng ba tháng nữa trước khi thuyền trưởng của nó đã bị dồn ép bởi một hải đội Anh ở ngoài khơi Quần đảo Juan Fernández vào ngày 14 tháng ba năm 1915. Sau một trận chiến ngắn, thuyền trưởng của chiếc Dresden đã ra lệnh di tản khỏi con tầu của ông và sau đó đánh đắm nó bằng cách cho nổ kho đạn dược chính.
    Như là một hệ quả của cuộc chiến, chiến thuật tấn công tầu chở hàng của đối phương ở trên các đại dương bằng tàu chiến của Marine Kaiserliche (Hạm đội Đế chế Đức ) đến hồi kết thúc. Tuy nhiên, Đức vẫn tung ra một vài tàu buôn vũ trang để tấn công tầu chở hàng cho đến khi chiến tranh kết thúc (ví dụ: xem chiếc Felix von Luckner).
    Các tầu phụ trợ của Đức
    Sturdee lưu ý rằng "thông tin đã nhận được từ thuyền trưởng của chiếc HMS Bristol lúc 11:27 rằng ba tàu của đối phương đã xuất hiện ngoài khơi Port Pleasant (cách không xa đảo Stanley trên bờ biển phía đông Falkland), Đây có thể là những tầu vận chuyển than. do đó viên thuyền trưởng này theo lệnh của ông ta cùng với chiếc HMS Macedonia tiến hành tiêu diệt các tàu vận tải "Vào cuối báo cáo của mình, Sturdee ghi lại một cách ngắn gọn vấn đề về các tàu vận tải của Đức" chiếc HMS Macedonia báo cáo rằng chỉ có hai chiếc tàu, tàu hơi nước Baden và Santa Isabel có xuất hiện: cả hai tàu đều bị đánh chìm sau khi đã bắt giữ các thuyền viên".
    Trong đêm ngày 07 tháng 12 các tàu phụ trợ Đức đã di chuyển
    trong sự bao bọc của bóng tối và neo gần ven bờ.
    Tổng số tàu phụ trợ của Đức được cho là có năm chiếc. Hai trong số này, các tàu hơi Mera và Elinore Woermann, khởi hành từ sông River Plate trong ngày 4 tháng 12 năm 1914 ở một địa điểm không xác định và được chất đầy với xi măng, cuộn dây thép gai, các thiết bị phòng thủ và các vật tư dự phòng. Người ta cho rằng họ đã đi về phía quần Falklands, họ trở về sông River Plate khoảng ngày 11 tháng 12.
    Chiếc tầu chở than Baden, khoảng 7.500 tấn, là một tàu Hapag được đóng vào năm 1913. Chiếc tầu than Santa Isabel, khoảng 5.200 tấn, là một tầu Hamburg Sud-Amerika được đóng năm 1914. Cả hai đều là những tầu chở than hiện đại có thể làm một bổ sung hữu ích cho các đội tàu vận tải của Anh nếu dùng chúng làm giải thưởng, nhưng cả hai đã bị đánh chìm trong vòng 50 dặm (80 km) gần Port Stanley. Hai tàu hơi nước dường như bị bắt giữ bởi các chiếc Bristol và Macedonia vào khoảng 01:00 chiều và các thuyền viên "có mười phút để bỏ tàu". Các đội đột kích Anh vẫn còn trên tàu Santa Isabel tới tận bảy giờ, và tám giờ rưỡi trên tàu Baden trước khi các tầu chở than này bị đánh chìm.
    Chiếc tàu thứ năm là tầu hành khách Norddeutscher Lloyd Seydlitz, được đóng tại nhà máy đóng tàu F. Schichau trong năm 1903. Nó có khả năng chở 2.000 người, nó đã qua thời kỳ đỉnh cao của mình nhưng vẫn có thể chạy với tốc độ 14 knot (26 km/ h). Những ngày trước khi nổ ra chiến tranh, chiếc Seydlitz khởi hành từ Sydney và đến Argentina mà không hề hấn gì, nó ẩn nấp tại Bahía Blanca ở cuối phía nam tỉnh Buenos Aires. Đầu tháng 11 năm 1914, nó thực hiện các chuyến đi từ đó đến Valparaiso thuộc Chile, nơi này là trung tâm chủ yếu để huy động các lực lượng dự bị của Đức và tình nguyện viên từ tất cả các phần của Nam Mỹ.
    Theo hồi ký của Fregattenkapitän (thuyền trưởng tầu Frigate) Hans Pochhammer (Graf Spees Fahrt Letzte, Leipzig, 1924), Sỹ quan Trưởng của tuần dương hạm bọc thép SMS Gneisenau và là sĩ quan cao cấp của Đức còn sống sót trong cuộc chiến Falklands, Hải đội Đông Á của Đức đã được cất giấu trong Vịnh Peñas dọc theo bờ biển phía nam của Chile trong phần sau của tháng 11 năm 1914, để vận chuyển bổ sung đồ cung cấp mới và sửa chữa. Chiếc Seydlitz gia nhập nhóm này vào khoảng ngày 21 tháng 12 từ Valparaiso. Pochhammer đã bị bối rối bởi chiếc tầu khách này, cho dù không có dấu hiệu gì đặc biệt ở phía ngoài, nó được mô tả là "một con tàu bệnh viện". Ông không thể hiểu được sự cần thiết phải có một con tàu như vậy, vì mỗi chiếc trong số năm tàu chiến được trang bị thiết bị y tế đầy đủ, khoang cho bệnh nhân và có tổng cộng mười một bác sĩ phẫu thuật. Pochhammer khôngđược lên chiếc Seydlitz, và không có thành viên của nó mà ông ta từng nhìn thấy là nhân viên y tế .
    Pochhammer xác nhận rằng ba tầu phụ trợ đã có mặt tại Picton Island trong Beagle Channel vào đầu tháng 12 năm 1914. Họ đã không thể đến Falklands cùng với năm chiếc tàu chiến vào tối ngày 07 tháng 12, và bị bỏ lại trước đó. Pochhammer nói rằng trong thời gian ông ta bị giam cầm tại Port Stanley, ông đã bị giam giữ trên chiếc tàu HMS Macedonia trong một khoảng thời gian. Trong những cuộc trò chuyện với người của mình, khi ông hỏi họ về những gì có ở trên chiếc Seydlitz, ông đã kể lại,
    "Con tầu thoát khỏi cảng Pleasant như là một con dơi thoát khỏi địa ngục. Các chiếc Macedonia và Bristol mỗi chiếc mải bắt một chiếc tầu hơi nước và điều này cho phép chiếc Seydlitz chạy về phía nam và phía tây để thoát ra, tất cả chúng tôi đều cho rằng nó là một tàu buôn chuyển đổi thành tuần dương có vũ trang?.
    Khi đến lãnh thổ của Argentina, chiếc Seydlitz tiến vào San Antonio Oeste và tuyên bố nó là "một con tàu bệnh viện". Các quan chức Argentina đã không bị mắc lừa và họ giải giới nó như là một tầu phụ trợ của hải quân Đức. Nó đã bị giải giới trong phần còn lại của cuộc chiến.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:11 ngày 14/05/2010
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Nắm rõ được tình hình của các tàu Đức, Sturdee ra lệnh cho các thuyền viên tiếp tục ăn sáng khi biết rằng Canopus đã tạo cho họ 1 khoảng thời gian trong khi hơi nước tăng nhiệt độ.
    Còn về phía Spee thì với những thuyền viên đang mệt mỏi mỏi của mình cộng với tàu của ông bị yếu thế về hỏa lực, thất bại dường như là không thể tránh khỏi. Nhận thức về nguy hiểm của mình một cách quá muộn màng và đã bỏ lỡ mất cơ hội vàng để bắn hạ hải đội của Sturdee khi tại cảng - Spee và hải đội của ông đã bị đánh tan ngoài biển khơi. Các tầu Anh rời cảng vào khoảng 10:00. Spee đã chạy trước với khoảng cách chừng 15 dặm (24 km) nhưng ánh sáng ban ngày rất rõ để các tàu tuần dương chủ lực nhanh hơn đuổi kịp.
    [​IMG]
    Cuộc rượt đuổi giữa các tầu chiến của Hải đội Anh và Hải đội Đức
    Đó là lúc 13:00 khi tàu tuần dương chủ lực của Anh nổ súng, nhưng chúng phải mất nửa giờ để đưa chiếc Leipzig vào tầm bắn. Nhận thấy rằng ông ta không có hy vọng chạy thoát khỏi tàu Anh, Spee quyết định tấn công vào họ với chỉ một chiếc tàu tuần dương bọc thép của ông, để tạo cơ hội cho các tàu tuần dương hạng nhẹ trốn thoát. Trận đấu súng nổ ra vào lúc 13:20. Các tuần dương hạm bọc thép của Đức có lợi thế về gió vì đang có gió tây bắc làm người Anh bị che khuất mục tiêu bởi khói tầu của họ trong suốt thời gian tác chiến. Tác giả Hans Pochhammer (cựu sỹ quan Đức còn sống sót và thành tù binh sau trận đánh) chỉ ra rằng có một thời gian yên lặng kéo dài trong giai đoạn đầu của trận đánh, đây là lúc người Anh cố gắng buộc Đô đốc Spee phải bỏ vị trí thuận lợi của mình nhưng họ không thể làm được.
    Mặc dù các chiếc Scharnhorst và Gneisenau đã thành công bước đầu khi tấn công chiếc Invincible, nhưng chiếc tàu chiến của Anh bị thiệt hại rất ít nhờ lớp giáp hạng nặng của nó. Spee sau đó lại quay sang tìm cách tẩu thoát, nhưng các tàu tuần dương chủ lực lại đưa tầu của ông vào trong tầm bắn chỉ bốn mươi phút sau đó.
    Các chiếc Invincible và Inflexible tấn công các chiếc Scharnhorst và Gneisenau, Trong khi Sturdee tách các tuần dương hạm hạng nhẹ của mình ra để theo đuổi các chiếc Leipzig và Nürnberg.
    Các chiếc Invincible và Inflexible quay sang nổ pháo mạn vào các tuần dương hạm bọc thép của Đức và Spee phản ứng bằng cách cố gắng để tiến lại gần. Chiếc kỳ hạm của ông ta, chiếc Scharnhorst đã bị thiệt hại lớn ở dưới ống khói, bị cháy và bị nghiêng đi. Tình trạng bị nghiêng trở thành tồi tệ hơn vào lúc 16:04 và và nó đã bị chìm vào lúc 16:17. Chiếc Gneisenau tiếp tục bắn trả và né tránh cho đến lúc 17:15 bởi vào lúc đó nó đã hết đạn dược và thủy thủ đoàn được cho phép đánh chìm nó và chuyển xuống xuồng cứu sinh vào lúc 18:02. Trong lúc con tầu này đang chìm, Đô đốc Sturdee tiếp tục tấn công vào chiếc Gneisenau với hai tàu tuần dương chủ lực của mình và chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Carnarvon, thay vì tách một trong những tàu chiến trên để bắt nốt chiếc Dresden. Trong số thuyền viên của chiếc Gneisenau, 190 đã được cứu khỏi mặt nước. Các tàu tuần dương chủ lực đã bị trúng khoảng 40 phát đạn nhưng chỉ bị chết một người và bốn người khác bị thương.
    [​IMG]
    Tranh vẽ chiếc Kỳ hạm Scharnhorst của Đô đốc Spee đang nghiêng và chìm dần
    Trong khi đó các chiếc Nürnberg và Leipzig đã cố chạy thoát khỏi các tuần dương hạm của Anh. Chiếc Nürnberg đã chạy ở tốc độ cao nhất nhưng nó cần sửa chữa, trong khi thủy thủ đoàn của chiếc đuổi theo, chiếc Kent, nồi hơi và động cơ của nó đã được đẩy đến mức giới hạn. Chiếc Nürnberg cuối cùng đã quay sang chiến đấu vào 17:30. Chiếc Kent có ưu thế về pháo và trọng lượng giáp. Chiếc Nürnberg có hai vụ nổ lò hơi vào khoảng 18:30, nó phải trao lợi thế về tốc độ và tính cơ động cho chiếc Kent. Chiếc Nürnberg sau đó chìm vào lúc 19:27 sau khi có một cuộc đuổi bắt kéo dài. Các tàu tuần dương Glasgow và tầu phụ trợ Cornwall truy đuổi chiếc Leipzig tới cùng. Chiếc Glasgow vào gần để kết liễu chiếc Leipzig, chiếc này tuy đã hết đạn nhưng cờ hiệu chiến đấu của nó vẫn tung bay. Nó bắn hai phát pháo sáng (xin ngừng chiến), do đó chiếc Glasgow ngừng nổ súng. Lúc khoảng 21:23, ở hơn 80 dặm (130 km) về phía đông nam của Falklands, nó chìm xuống chỉ để lại 18 người sống sót.
    Kết quả


    [​IMG]
    Chiếc HMS Invincible vớt các thủy thủ Đức của chiếc Gneisenau sau khi trận chiến kết thúc
    Mười thủy thủ Anh đã thiệt mạng trong trận chiến và 19 người bị thương; không chiếc nào trong số các con tàu của Anh bị hư hỏng nặng. Ngược lại, 1.871 thủy thủ Đức đã thiệt mạng trong trận đánh trong đó có Đô đốc Spee và hai con trai của ông. 215 người sống sót đã được cứu thêm và trở thành tù binh trên tàu của Anh. Hầu hết họ đều đến từ chiếc Gneisenau, 5 người từ chiếc Nürnberg và 18 người từ chiếc Leipzig. Trong số 765 sĩ quan và thủy thủ từ chiếc Scharnhorst chỉ có 7 sống sót.
    Trong số 8 chiếc tầu lực lượng Hải quân Đức có hai chiếc chạy thoát: đó là chiếc tầu trợ Seydlitz và tàu tuần dương hạng nhẹ Dresden, nó phải lang thang trong phần lớn một quãng thời gian khoảng ba tháng nữa trước khi thuyền trưởng của nó đã bị dồn ép bởi một hải đội Anh ở ngoài khơi Quần đảo Juan Fernández vào ngày 14 tháng ba năm 1915. Sau một trận chiến ngắn, thuyền trưởng của chiếc Dresden đã ra lệnh di tản khỏi con tầu của ông và sau đó đánh đắm nó bằng cách cho nổ kho đạn dược chính.
    Như là một hệ quả của cuộc chiến, chiến thuật tấn công tầu chở hàng của đối phương ở trên các đại dương bằng tàu chiến của Marine Kaiserliche (Hạm đội Đế chế Đức ) đến hồi kết thúc. Tuy nhiên, Đức vẫn tung ra một vài tàu buôn vũ trang để tấn công tầu chở hàng cho đến khi chiến tranh kết thúc (ví dụ: xem chiếc Felix von Luckner).
    Các tầu phụ trợ của Đức
    Sturdee lưu ý rằng "thông tin đã nhận được từ thuyền trưởng của chiếc HMS Bristol lúc 11:27 rằng ba tàu của đối phương đã xuất hiện ngoài khơi Port Pleasant (cách không xa đảo Stanley trên bờ biển phía đông Falkland), Đây có thể là những tầu vận chuyển than. do đó viên thuyền trưởng này theo lệnh của ông ta cùng với chiếc HMS Macedonia tiến hành tiêu diệt các tàu vận tải "Vào cuối báo cáo của mình, Sturdee ghi lại một cách ngắn gọn vấn đề về các tàu vận tải của Đức" chiếc HMS Macedonia báo cáo rằng chỉ có hai chiếc tàu, tàu hơi nước Baden và Santa Isabel có xuất hiện: cả hai tàu đều bị đánh chìm sau khi đã bắt giữ các thuyền viên".
    Trong đêm ngày 07 tháng 12 các tàu phụ trợ Đức đã di chuyển
    trong sự bao bọc của bóng tối và neo gần ven bờ.
    Tổng số tàu phụ trợ của Đức được cho là có năm chiếc. Hai trong số này, các tàu hơi Mera và Elinore Woermann, khởi hành từ sông River Plate trong ngày 4 tháng 12 năm 1914 ở một địa điểm không xác định và được chất đầy với xi măng, cuộn dây thép gai, các thiết bị phòng thủ và các vật tư dự phòng. Người ta cho rằng họ đã đi về phía quần Falklands, họ trở về sông River Plate khoảng ngày 11 tháng 12.
    Chiếc tầu chở than Baden, khoảng 7.500 tấn, là một tàu Hapag được đóng vào năm 1913. Chiếc tầu than Santa Isabel, khoảng 5.200 tấn, là một tầu Hamburg Sud-Amerika được đóng năm 1914. Cả hai đều là những tầu chở than hiện đại có thể làm một bổ sung hữu ích cho các đội tàu vận tải của Anh nếu dùng chúng làm giải thưởng, nhưng cả hai đã bị đánh chìm trong vòng 50 dặm (80 km) gần Port Stanley. Hai tàu hơi nước dường như bị bắt giữ bởi các chiếc Bristol và Macedonia vào khoảng 01:00 chiều và các thuyền viên "có mười phút để bỏ tàu". Các đội đột kích Anh vẫn còn trên tàu Santa Isabel tới tận bảy giờ, và tám giờ rưỡi trên tàu Baden trước khi các tầu chở than này bị đánh chìm.
    Chiếc tàu thứ năm là tầu hành khách Norddeutscher Lloyd Seydlitz, được đóng tại nhà máy đóng tàu F. Schichau trong năm 1903. Nó có khả năng chở 2.000 người, nó đã qua thời kỳ đỉnh cao của mình nhưng vẫn có thể chạy với tốc độ 14 knot (26 km/ h). Những ngày trước khi nổ ra chiến tranh, chiếc Seydlitz khởi hành từ Sydney và đến Argentina mà không hề hấn gì, nó ẩn nấp tại Bahía Blanca ở cuối phía nam tỉnh Buenos Aires. Đầu tháng 11 năm 1914, nó thực hiện các chuyến đi từ đó đến Valparaiso thuộc Chile, nơi này là trung tâm chủ yếu để huy động các lực lượng dự bị của Đức và tình nguyện viên từ tất cả các phần của Nam Mỹ.
    Theo hồi ký của Fregattenkapitän (thuyền trưởng tầu Frigate) Hans Pochhammer (Graf Spees Fahrt Letzte, Leipzig, 1924), Sỹ quan Trưởng của tuần dương hạm bọc thép SMS Gneisenau và là sĩ quan cao cấp của Đức còn sống sót trong cuộc chiến Falklands, Hải đội Đông Á của Đức đã được cất giấu trong Vịnh Peñas dọc theo bờ biển phía nam của Chile trong phần sau của tháng 11 năm 1914, để vận chuyển bổ sung đồ cung cấp mới và sửa chữa. Chiếc Seydlitz gia nhập nhóm này vào khoảng ngày 21 tháng 12 từ Valparaiso. Pochhammer đã bị bối rối bởi chiếc tầu khách này, cho dù không có dấu hiệu gì đặc biệt ở phía ngoài, nó được mô tả là "một con tàu bệnh viện". Ông không thể hiểu được sự cần thiết phải có một con tàu như vậy, vì mỗi chiếc trong số năm tàu chiến được trang bị thiết bị y tế đầy đủ, khoang cho bệnh nhân và có tổng cộng mười một bác sĩ phẫu thuật. Pochhammer khôngđược lên chiếc Seydlitz, và không có thành viên của nó mà ông ta từng nhìn thấy là nhân viên y tế .
    Pochhammer xác nhận rằng ba tầu phụ trợ đã có mặt tại Picton Island trong Beagle Channel vào đầu tháng 12 năm 1914. Họ đã không thể đến Falklands cùng với năm chiếc tàu chiến vào tối ngày 07 tháng 12, và bị bỏ lại trước đó. Pochhammer nói rằng trong thời gian ông ta bị giam cầm tại Port Stanley, ông đã bị giam giữ trên chiếc tàu HMS Macedonia trong một khoảng thời gian. Trong những cuộc trò chuyện với người của mình, khi ông hỏi họ về những gì có ở trên chiếc Seydlitz, ông đã kể lại,
    "Con tầu thoát khỏi cảng Pleasant như là một con dơi thoát khỏi địa ngục. Các chiếc Macedonia và Bristol mỗi chiếc mải bắt một chiếc tầu hơi nước và điều này cho phép chiếc Seydlitz chạy về phía nam và phía tây để thoát ra, tất cả chúng tôi đều cho rằng nó là một tàu buôn chuyển đổi thành tuần dương có vũ trang?.
    Khi đến lãnh thổ của Argentina, chiếc Seydlitz tiến vào San Antonio Oeste và tuyên bố nó là "một con tàu bệnh viện". Các quan chức Argentina đã không bị mắc lừa và họ giải giới nó như là một tầu phụ trợ của hải quân Đức. Nó đã bị giải giới trong phần còn lại của cuộc chiến.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:11 ngày 14/05/2010
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hoạt động hải quân trong Chiến dịch Dardanelles
    Ngày 19 tháng 02 năm 1915 ?"> 09 tháng 01 năm 1916
    Nơi Dardanelles, Thổ Nhĩ Kỳ
    Kết quả Chiến thắng quyết định thuộc về Liên minh Trung tâm ( Đức & Thổ)
    Tham chiến
    Phe Đồng minh
    Đế quốc Anh
    Pháp
    Australia
    New Zealand
    Nga
    Chỉ huy
    Sackville Carden
    John de Robeck
    Émile Guépratte
    Sức mạnh
    31 tàu thiết giáp
    3 tàu tuần dương chủ lực
    24 tàu tuần dương
    25 tàu khu trục
    8 tầu monitor
    14 tàu ngầm
    50 tàu vận tải
    Thương vong
    6 tàu thiết giáp chìm
    3 tàu thiết giáp bị thiệt hại
    1 tàu tuần dương chủ lực bị thiệt hại
    1 tàu khu trục bị đánh chìm
    8 tàu ngầm bị tiêu diệt
    Phe Trung tâm
    Đế quốc Ottoman
    Đức
    Chỉ huy
    Fuad Pasa
    Cevat Bey
    Otto Liman von Sanders
    Sức mạnh
    Không thống kê được
    Thương vong
    2 tàu thiết giáp
    1 tàu thả thủy lôi
    Một số tầu vận tải nhỏ
    Các hoạt động của hải quân trong Chiến dịch Dardanelles ở Thế chiến thứ nhất chủ yếu được thực hiện bởi Hải quân Hoàng gia với sự hỗ trợ đáng kể từ Hải quân Pháp và những đóng góp khiêm tốn từ Nga và Australia. Chiến dịch Dardanelles bắt đầu như là một hoạt động hoàn toàn của hải quân. Khi hoạt động này không thành công trong việc vượt qua tuyến phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ, một cuộc xâm lược vào bán đảo Gallipoli đã được tiến hành, mà trong đó lực lượng hải quân đã đóng một vai trò quan trọng. Trong suốt chiến dịch, các nỗ lực được thực hiện bởi lực lượng tàu ngầm để đi qua eo biển Dardanelles và phá vỡ tuyến đường vận chuyển của Đế quốc Ottoman trong Biển Marmara.

    Khúc dạo đầu
    Vào lúc khởi điểm của sự bùng nổ của Thế chiến I, Đế chế Ottoman là một cường quốc chưa thực sự ngả về phe nào. Trong khi nước Anh đã có những mối quan tâm mang tính chất lịch sử lâu dài trong khu vực, nước Đức đã có những hoạt động tích cực nhất trong việc tạo dựng một mối quan hệ tốt đẹp với Đế quốc Ottoman. Khi chiến tranh bùng nổ, người Anh bắt giữ hai thiết giáp hạm đang được đóng cho Đế quốc Ottoman mà lúc đó chúng vẫn còn ở xưởng đóng tàu của Anh. Để đáp lại, người Đức đã tặng một món quà gồm hai tàu, chiếc tuần dương hạm chủ lực Goeben và tuần dương hạm hạng nhẹ Breslau để thay thế (những tầu đã bị Anh cướp trắng). Trong khi vẫn còn được điều hành bởi đội thủy thủ người Đức của họ, các tàu được đổi tên thành tương ứng Yavuz Sultan Selim và Midilli, chúng trở thành xương sống của hải quân Ottoman. Thông qua việc sở hữu chiếc Yavuz Sultan Selim, Đế chế Ottoman kiểm soát các tàu chiến mạnh nhất trong biển Hắc ha?i vào năm 1914.
    Đóng cửa eo biển Dardanelles
    Trong tháng mười năm 1914, Đế quốc Ottoman đóng cửa eo biển Dardanelles đối với vận chuyển Đồng Minh. Điều này xảy ra sau một sự cố ngày 27 tháng 9 khi người Anh hải đội của Anh tại Dardanelles đã bắt giữ một tàu phóng ngư lôi Thổ Nhĩ Kỳ. Thực tế quyết định thực tế đóng cửa eo biển dường như đã được thực hiện bởi các cố vấn quân sự của Đức đang có mặt tại Dardanelles mà không cần sự chuẩn y của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày 28 tháng 10, hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ, dẫn đầu là Goeben, bắt đầu bắn phá các con tầu của Nga tại Biển Đen. Các cảng ở Odessa và Sevastopol đã bị bắn phá, một tàu thả thủy lôi và một pháo hạm bị đánh chìm. Mục đích thực sự của cuộc tấn công là triệt phá sức mạnh của hạm đội Biển Đen Nga đã không được hoàn thành. Nga tuyên chiến với Đế chế Ottoman, ngày 2 tháng 11, và người Anh cũng làm thế sau ngày 06 tháng 11. Một cuộc tấn công của Đế quốc Ottoman vào nước Nga qua Dãy núi Kavkaz đã được tiến hành trong tháng 12 đã không thành công (Trận Sarikamish), các nhà lãnh đạo hàng đầu của Nga kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh trong tháng 1 năm 1915.
    Winston Churchill, lúc này đang đảm đương chức vụ First Lord of Admiralty, đã lên kế hoạch chiếm giữ eo biển Dardanelles sớm nhất là vào tháng 9 năm 1914. Trong một tờ trình lên thủ tướng, Herbert Asquith vào dịp năm mới, ông đã vạch ra hai mặt trận mới có khả năng chống lại quân Đức, dự định để phá vỡ thế bế tắc và những mất mát to lớn về nhân mạng ở mặt trận phía Tây. Khả năng đầu tiên, đó cũng là lựa chọn ưa thích của ông, là một cuộc xâm lược vào Schleswig-Holstein bằng đường biển, cho phép Đan Mạch tham gia Đồng minh và lập ra cho người Nga một tuyến đường cung cấp thông qua biển Baltic. Một khả năng nữa là một cuộc tấn công vào eo biển Dardanelles, mà một lần nữa cũng sẽ tạo lập cho người Nga một tuyến đường cung cấp và có thể khuyến khích Bulgaria và Romania tham gia phía Đồng minh. Người Nga rất sẵn sàng hỗ trợ, cùng với nhận thức rằng Đế quốc Ottoman là một kẻ thù yếu đuối (" con bệnh của Châu Âu"), thì triển vọng tiến hành một chiến dịch ở eo biển Dardanelles có vẻ rất hấp dẫn.
    Phân chia trách nhiệm

    First Lord of the Admiralty Winston Churchill và First Sea Lord - Fisher, 1914
    Vấn đề có vẻ trở nên phức tạp đối với Churchill trong việc chọn chức vụ First Sea Lord, người mà thường phải là một viên đô đốc cao cấp nhất có trách nhiệm phụ trách hoạt động của hải quân. Churchill đã bổ nhiệm Hoàng tử Louis của Battenberg vào chức vụ này vào năm 1912. Ông phải thay thế Battenberg vì tình cảm bài Đức của công chúng - Battenberg đã trở thành một công dân Anh khi ông gia nhập hải quân ở tuổi 14, nhưng ông vẫn nói tiếng Anh với một giọng Đức. Sự lựa chọn của ông là vị đô đốc 73 tuổi John Fisher, người đã về hưu sau khi nắm giữ chức vụ First Sea Lord vào năm 1910. Fisher được coi là xuất xắc, nhưng phần nào cũng bị suy giảm vì tuổi tác. Một vấn đề nữa nảy sinh ngay lập tức với Churchill, ông là một người có tính cách mạnh mẽ và quen với việc chỉ đạo từ Admiralty, và muốn nhận sự hỗ trợ về chính trị cho các quyết định của mình từ the First Sea Lord hơn là nhận mệnh lệnh từ ông ta.
    Fisher được bổ nhiệm vào cuối tháng 10 năm 1914 và ủng hộ chiến dịch mới ở Bắc Âu, mà có lẽ phản ánh mối quan tâm truyền thống của lực lượng hải quân khi kiểm soát được vùng biển Channel. Ông miễn cưỡng tạm đồng ý kế hoạch cho một hoạt động hải quân trong eo biển Dardanelles, nhưng sau đó luôn khẳng định rằng ông không bao giờ ủng hộ nó, và đã luôn luôn tin rằng một hoạt động của hải quân phải nên được kèm theo một lực lượng trên bộ. Churchill và Fisher liên tục cãi nhau trong suốt thời gian của chiến dịch, và Fisher cuối cùng xin từ chức vào ngày 15 tháng 5 1915 sau khi lặp đi lặp lại các mối đe dọa sẽ làm như vậy. Fisher đã viết về Churchill rằng: Ông ta luôn luôn cố thuyết phục tôi. Mối quan hệ của Fisher với Churchill luôn phức tạp và đột ngột từ chức của ông là không có ngoại lệ. Việc Fisher từ chức xảy ra đúng vào lúc chiến dich đang có những tiến triển nghèo nàn nhất, tạo ra sự sụp đổ của chính phủ và Churchill bị thay thế khỏi chức vụ the First Lord, do đó không người nào ( Fisher và Churchill) giành được quyền kiểm soát Bộ Hải quân. Trớ trêu thay, mặc dù họ không thể đồng ý với nhau, cả hai đều tôn trọng lẫn nhau và không mong muốn kế hoạch của người kia thất bại
    Ngày 11 tháng 1, theo yêu cầu của Churchill, chỉ huy của Hải đội Hoàng gia Anh tại Địa Trung Hải, Phó Đô đốc S.H. Carden đề xuất một kế hoạch phong tỏa eo biển Dardanelles bằng việc sử dụng thiết giáp hạm, tàu ngầm và tàu quét mìn. Ngày 13 1háng 01, Hội đồng Chiến tranh của Anh phê duyệt kế hoạch này, và Carden được cung cấp bổ sung các tầu thiết giáp tiền Dreadnought, HMS Queen Elizabeth và chiếc tuần dương hạm chủ lực HMS Inflexible, Pháp cung cấp một hải đội gồm bốn tàu chiến tiền Dreadnought, trong khi Nga đóng góp duy nhất một tàu tuần dương hạng nhẹ, chiếc Askold.
    Chiến dịch ban đầu được dự định tiến hành hoàn toàn bằng hải quân do việc thiếu quân và do sự độc lập của bộ trươ?ng ha?i quân Winston Churchill, nhưng vào đầu tháng hai người ta mới quyết định rằng có nhiều bộ binh chính quy hơn là điều cần thiết. Lực lượng thủy quân lục chiến Hoàng gia được bổ sung bởi một sư đoàn bộ binh chính quy, sư đoàn 29 Anh. Sư đoàn này xuất phát từ Ai Cập, lính Úc và New Zealand, những người đã trải qua đào tạo vất vả cũng tham gia chiến đấu. Ở giai đoạn đầu của chiến dịch này, vai trò dự kiến của bộ binh là chiếm đóng Istanbul; Việc chiếm eo biển đã được thực hiện bởi các lực lượng hải quân của Entente.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 18:42 ngày 16/05/2010
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hoạt động hải quân trong Chiến dịch Dardanelles
    Ngày 19 tháng 02 năm 1915 ?"> 09 tháng 01 năm 1916
    Nơi Dardanelles, Thổ Nhĩ Kỳ
    Kết quả Chiến thắng quyết định thuộc về Liên minh Trung tâm ( Đức & Thổ)
    Tham chiến
    Phe Đồng minh
    Đế quốc Anh
    Pháp
    Australia
    New Zealand
    Nga
    Chỉ huy
    Sackville Carden
    John de Robeck
    Émile Guépratte
    Sức mạnh
    31 tàu thiết giáp
    3 tàu tuần dương chủ lực
    24 tàu tuần dương
    25 tàu khu trục
    8 tầu monitor
    14 tàu ngầm
    50 tàu vận tải
    Thương vong
    6 tàu thiết giáp chìm
    3 tàu thiết giáp bị thiệt hại
    1 tàu tuần dương chủ lực bị thiệt hại
    1 tàu khu trục bị đánh chìm
    8 tàu ngầm bị tiêu diệt
    Phe Trung tâm
    Đế quốc Ottoman
    Đức
    Chỉ huy
    Fuad Pasa
    Cevat Bey
    Otto Liman von Sanders
    Sức mạnh
    Không thống kê được
    Thương vong
    2 tàu thiết giáp
    1 tàu thả thủy lôi
    Một số tầu vận tải nhỏ
    Các hoạt động của hải quân trong Chiến dịch Dardanelles ở Thế chiến thứ nhất chủ yếu được thực hiện bởi Hải quân Hoàng gia với sự hỗ trợ đáng kể từ Hải quân Pháp và những đóng góp khiêm tốn từ Nga và Australia. Chiến dịch Dardanelles bắt đầu như là một hoạt động hoàn toàn của hải quân. Khi hoạt động này không thành công trong việc vượt qua tuyến phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ, một cuộc xâm lược vào bán đảo Gallipoli đã được tiến hành, mà trong đó lực lượng hải quân đã đóng một vai trò quan trọng. Trong suốt chiến dịch, các nỗ lực được thực hiện bởi lực lượng tàu ngầm để đi qua eo biển Dardanelles và phá vỡ tuyến đường vận chuyển của Đế quốc Ottoman trong Biển Marmara.

    Khúc dạo đầu
    Vào lúc khởi điểm của sự bùng nổ của Thế chiến I, Đế chế Ottoman là một cường quốc chưa thực sự ngả về phe nào. Trong khi nước Anh đã có những mối quan tâm mang tính chất lịch sử lâu dài trong khu vực, nước Đức đã có những hoạt động tích cực nhất trong việc tạo dựng một mối quan hệ tốt đẹp với Đế quốc Ottoman. Khi chiến tranh bùng nổ, người Anh bắt giữ hai thiết giáp hạm đang được đóng cho Đế quốc Ottoman mà lúc đó chúng vẫn còn ở xưởng đóng tàu của Anh. Để đáp lại, người Đức đã tặng một món quà gồm hai tàu, chiếc tuần dương hạm chủ lực Goeben và tuần dương hạm hạng nhẹ Breslau để thay thế (những tầu đã bị Anh cướp trắng). Trong khi vẫn còn được điều hành bởi đội thủy thủ người Đức của họ, các tàu được đổi tên thành tương ứng Yavuz Sultan Selim và Midilli, chúng trở thành xương sống của hải quân Ottoman. Thông qua việc sở hữu chiếc Yavuz Sultan Selim, Đế chế Ottoman kiểm soát các tàu chiến mạnh nhất trong biển Hắc ha?i vào năm 1914.
    Đóng cửa eo biển Dardanelles
    Trong tháng mười năm 1914, Đế quốc Ottoman đóng cửa eo biển Dardanelles đối với vận chuyển Đồng Minh. Điều này xảy ra sau một sự cố ngày 27 tháng 9 khi người Anh hải đội của Anh tại Dardanelles đã bắt giữ một tàu phóng ngư lôi Thổ Nhĩ Kỳ. Thực tế quyết định thực tế đóng cửa eo biển dường như đã được thực hiện bởi các cố vấn quân sự của Đức đang có mặt tại Dardanelles mà không cần sự chuẩn y của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày 28 tháng 10, hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ, dẫn đầu là Goeben, bắt đầu bắn phá các con tầu của Nga tại Biển Đen. Các cảng ở Odessa và Sevastopol đã bị bắn phá, một tàu thả thủy lôi và một pháo hạm bị đánh chìm. Mục đích thực sự của cuộc tấn công là triệt phá sức mạnh của hạm đội Biển Đen Nga đã không được hoàn thành. Nga tuyên chiến với Đế chế Ottoman, ngày 2 tháng 11, và người Anh cũng làm thế sau ngày 06 tháng 11. Một cuộc tấn công của Đế quốc Ottoman vào nước Nga qua Dãy núi Kavkaz đã được tiến hành trong tháng 12 đã không thành công (Trận Sarikamish), các nhà lãnh đạo hàng đầu của Nga kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh trong tháng 1 năm 1915.
    Winston Churchill, lúc này đang đảm đương chức vụ First Lord of Admiralty, đã lên kế hoạch chiếm giữ eo biển Dardanelles sớm nhất là vào tháng 9 năm 1914. Trong một tờ trình lên thủ tướng, Herbert Asquith vào dịp năm mới, ông đã vạch ra hai mặt trận mới có khả năng chống lại quân Đức, dự định để phá vỡ thế bế tắc và những mất mát to lớn về nhân mạng ở mặt trận phía Tây. Khả năng đầu tiên, đó cũng là lựa chọn ưa thích của ông, là một cuộc xâm lược vào Schleswig-Holstein bằng đường biển, cho phép Đan Mạch tham gia Đồng minh và lập ra cho người Nga một tuyến đường cung cấp thông qua biển Baltic. Một khả năng nữa là một cuộc tấn công vào eo biển Dardanelles, mà một lần nữa cũng sẽ tạo lập cho người Nga một tuyến đường cung cấp và có thể khuyến khích Bulgaria và Romania tham gia phía Đồng minh. Người Nga rất sẵn sàng hỗ trợ, cùng với nhận thức rằng Đế quốc Ottoman là một kẻ thù yếu đuối (" con bệnh của Châu Âu"), thì triển vọng tiến hành một chiến dịch ở eo biển Dardanelles có vẻ rất hấp dẫn.
    Phân chia trách nhiệm

    Vấn đề có vẻ trở nên phức tạp đối với Churchill trong việc chọn chức vụ First Sea Lord, người mà thường phải là một viên đô đốc cao cấp nhất có trách nhiệm phụ trách hoạt động của hải quân. Churchill đã bổ nhiệm Hoàng tử Louis của Battenberg vào chức vụ này vào năm 1912. Ông phải thay thế Battenberg vì tình cảm bài Đức của công chúng - Battenberg đã trở thành một công dân Anh khi ông gia nhập hải quân ở tuổi 14, nhưng ông vẫn nói tiếng Anh với một giọng Đức. Sự lựa chọn của ông là vị đô đốc 73 tuổi John Fisher, người đã về hưu sau khi nắm giữ chức vụ First Sea Lord vào năm 1910. Fisher được coi là xuất xắc, nhưng phần nào cũng bị suy giảm vì tuổi tác. Một vấn đề nữa nảy sinh ngay lập tức với Churchill, ông là một người có tính cách mạnh mẽ và quen với việc chỉ đạo từ Admiralty, và muốn nhận sự hỗ trợ về chính trị cho các quyết định của mình từ the First Sea Lord hơn là nhận mệnh lệnh từ ông ta.
    Fisher được bổ nhiệm vào cuối tháng 10 năm 1914 và ủng hộ chiến dịch mới ở Bắc Âu, mà có lẽ phản ánh mối quan tâm truyền thống của lực lượng hải quân khi kiểm soát được vùng biển Channel. Ông miễn cưỡng tạm đồng ý kế hoạch cho một hoạt động hải quân trong eo biển Dardanelles, nhưng sau đó luôn khẳng định rằng ông không bao giờ ủng hộ nó, và đã luôn luôn tin rằng một hoạt động của hải quân phải nên được kèm theo một lực lượng trên bộ. Churchill và Fisher liên tục cãi nhau trong suốt thời gian của chiến dịch, và Fisher cuối cùng xin từ chức vào ngày 15 tháng 5 1915 sau khi lặp đi lặp lại các mối đe dọa sẽ làm như vậy. Fisher đã viết về Churchill rằng: Ông ta luôn luôn cố thuyết phục tôi. Mối quan hệ của Fisher với Churchill luôn phức tạp và đột ngột từ chức của ông là không có ngoại lệ. Việc Fisher từ chức xảy ra đúng vào lúc chiến dich đang có những tiến triển nghèo nàn nhất, tạo ra sự sụp đổ của chính phủ và Churchill bị thay thế khỏi chức vụ the First Lord, do đó không người nào ( Fisher và Churchill) giành được quyền kiểm soát Bộ Hải quân. Trớ trêu thay, mặc dù họ không thể đồng ý với nhau, cả hai đều tôn trọng lẫn nhau và không mong muốn kế hoạch của người kia thất bại
    Ngày 11 tháng 1, theo yêu cầu của Churchill, chỉ huy của Hải đội Hoàng gia Anh tại Địa Trung Hải, Phó Đô đốc S.H. Carden đề xuất một kế hoạch phong tỏa eo biển Dardanelles bằng việc sử dụng thiết giáp hạm, tàu ngầm và tàu quét mìn. Ngày 13 1háng 01, Hội đồng Chiến tranh của Anh phê duyệt kế hoạch này, và Carden được cung cấp bổ sung các tầu thiết giáp tiền Dreadnought, HMS Queen Elizabeth và chiếc tuần dương hạm chủ lực HMS Inflexible, Pháp cung cấp một hải đội gồm bốn tàu chiến tiền Dreadnought, trong khi Nga đóng góp duy nhất một tàu tuần dương hạng nhẹ, chiếc Askold.
    Chiến dịch ban đầu được dự định tiến hành hoàn toàn bằng hải quân do việc thiếu quân và do sự độc lập của bộ trươ?ng ha?i quân Winston Churchill, nhưng vào đầu tháng hai người ta mới quyết định rằng có nhiều bộ binh chính quy hơn là điều cần thiết. Lực lượng thủy quân lục chiến Hoàng gia được bổ sung bởi một sư đoàn bộ binh chính quy, sư đoàn 29 Anh. Sư đoàn này xuất phát từ Ai Cập, lính Úc và New Zealand, những người đã trải qua đào tạo vất vả cũng tham gia chiến đấu. Ở giai đoạn đầu của chiến dịch này, vai trò dự kiến của bộ binh là chiếm đóng Istanbul; Việc chiếm eo biển đã được thực hiện bởi các lực lượng hải quân của Entente.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 13:33 ngày 17/05/2010
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiếm giữ eo biển
    Ngày 3 tháng 11 năm 1914, Churchill đã ra lệnh tiến hành đợt tấn công đầu tiên của Anh vào Dardanelles sau cuộc chiến giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Nga bùng nổ. Đợt tấn công của Anh được thực hiện bởi các tàu chiến của Hải đội Địa Trung Hải của Carden, Indomitable và Indefatigable, cũng như các tàu chiến Pháp đã lỗi thời, các chiếc Suffren và Vérité. Cuộc tấn công này thực sự đã diễn ra trước khi một lời tuyên chiến chính thức đã được công bố bởi nước Anh để chống lại Đế quốc Ottoman.
    Mục đích của cuộc tấn công là để kiểm tra độ chắc chắn của các công sự và biện pháp ứng phó của Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả có vẻ như rất đáng khích lệ. Trong hai mươi phút bắn phá, một phát đạn duy nhất bắn trúng vào kho đạn của một pháo đài ở Sedd el Bahr, mũi của bán đảo Gallipoli, loại khỏi vòng chiến (nhưng không phá hủy hoàn toàn) 10 khẩu pháo và giết chết 86 binh sĩ Thổ Nhĩ Kỳ. Tổng số thương vong của cuộc tấn công là 150 người trong đó có 40 người Đức. Hậu quả đáng kể nhất là người Thổ quan tâm hơn và hướng vào để tăng cường phòng thủ của họ, và họ thiết lập việc mở rộng các khu vực thả thủy lôi.


    Hệ thống phòng thủ Dardanelles trong tháng hai - ba, 1915 hiển thị bãi mìn, lưới chống tàu ngầm và khẩu đội súng lớn.
    Eo biển Dardanelles được bảo vệ bởi một hệ thống pháo đài tăng cường và pháo binh di động được sắp xếp phòng thủ theo các tuyến "bên ngoài", " trung gian" và "bên trong" phòng thủ. Trong khi tuyến phòng thủ bên ngoài nằm ở lối vào eo biển và đã được chứng minh dễ bị bắn phá và tấn công, thì tyến phòng thủ bên trong bao phủ các hẻm núi, điểm hẹp nhất của eo biển gần Canakkale. Vượt ra ngoài phòng thủ bên trong, eo biển đã hầu như không còn được ba?o vệ. Tuy nhiên, Nền tảng của sự phòng thủ của eo biển là một loạt 10 bãi thủy lôi được thiết lập trên eo biển gần các hẻm núi và có tổng cộng 370 quả thủy lôi.
    Và các sự kiện tiếp theo đã tạo nên Trận Gallipoli, Một trận đánh tiêu hao kéo dài 10-tháng, bắt đầu vào lúc 07:30, ngày 19 tháng hai 1915. Hai tàu khu trục đã được gửi để thăm dò eo biển. Các phát bắn đầu tiên được bắn từ Kumkale bởi các khẩu đội pháo Krupp 24 cm của Orhaniye Tepe lúc 07:58. Các thiết giáp hạm Cornwallis và Vengeance di chuyển vào phía trong và tấn công vào các pháo đài và phat bắn đầu tiên của chiến dịch của người Anh nổ ra vào lúc 09:51 và bởi chiếc Cornwallis. Không có thống kê kết quả của đợt bắn phá thử nghiệm của ngày 03 tháng 11.
    Một nỗ lực được tiến hành vào ngày 25 tháng 2. Thời gian này người Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành di tản tuyến phòng thủ bên ngoài và hạm đội tiến vào eo biển để tấn công tuyến phòng thủ trung gian. Lính Thủy quân lục chiến Hoàng gia đột kích các pháo đài Sedd el Bahr và Kum Kale và gặp ít phản kháng. Ngày 01 tháng 03, bốn thiết giáp hạm tham gia bắn phá tuyến phòng thủ trung gian.
    Rất ít các nỗ lực được thực hiện để xóa bỏ các bãi thủy lôi. Các tàu quét mìn, chỉ huy bởi tham mưu trưởng của Carden, Roger Keyes, là những tầu đánh cá được điều khiến bởi các thuyền viên dân sự và họ không muốn làm việc trong tầm đạn. Các cuộc tấn công mạnh mẽ vào eo biển tiếp tục bị cản trở bởi quá trình quét mìn. Sự ỳ trệ của này của hạm đội đã làm tăng cường sự phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ vốn đã lung lay khi Đồng minh bắt đầu tấn công. Ngày 4 tháng 3, các cuộc tấn công vào phòng thủ bên ngoài đã bị chống trả làm 23 thủy quân lục chiến Anh thiệt mạng.
    Chiếc Queen Elizabeth nhận được mệnh lệnh tấn công tuyến phòng thủ bên trong, lúc đầu tiên từ Aegean gần bờ biển GABA Tepe, bắn phá vào toàn bán đảo và sau đó bắn sâu vào bên trong eo biển. Vào đêm 13 tháng 03, tàu tuần dương HMS Amethyst dẫn sáu tàu quét mìn trong một nỗ lực để xóa các bãi thủy lôi, Bốn trong số các tầu đánh cá đã bị đánh chìm và chiếc Amethyst đã bị thiệt hại với 19 người đã bị giết chết từ một phát bắn duy nhất.
    Ngày 15 tháng 03, Bộ ha?i quân thông báo với Carden rằng họ đồng ý kế hoạch của ông ta trong việc tiến hành một cuộc tấn công mở rộng vào ban ngày, các tàu quét mìn được điều hành dưới sự bảo vệ trực tiếp của toàn bộ hạm đội. Carden đã bị ốm trong cùng ngày và được thay thế bằng Chuẩn Đô đốc John de Robeck. Một sĩ quan pháo binh có ghi trong nhật ký của mình rằng de Robeck đã bày tỏ mối nghi ngại về khả năng có thể làm câm lặng các khẩu súng của Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách bắn phá, và rằng quan điểm này đã được tin tưởng một cách rộng rãi trên tàu.
    Trận 18 tháng 3
    Trận chiến quyết định diễn ra vào đêm 08 tháng ba khi tàu tha? thủy lôi của Thổ Nhĩ Kỳ chiếc Nusret đặt một đường thủy lôi ở Eren Koy Bay, một vịnh rộng dọc theo bờ biển châu Á ở bên trong lối vào eo biển. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã nhận thấy những chiếc tàu Anh quay sang mạn phải vào vịnh khi rút ra. Dòng thủy lôi mới có từ 20 -> 26 quả chạy song song với bờ, và được thả cách nhau khoảng 2,5 yard (4,5 m) và tổng khoảng cách đươc rải thủy lôi là 100 yard (91 m). Nước biển rất trong có nghĩa là các quả thủy lôi có thể được nhìn thấy qua mặt nước bằng máy bay trinh sát.
    Kế hoạch của Anh cho 18 tháng 03 là làm câm lặng tuyến phòng thủ bảo vệ gồm 5 bãi mìn đầu tiên, họ xóa các bãi thủy lôi bằng các tàu quét mìn làm viêc qua đêm. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ còn lại quanh eo biển và năm bãi thủ lôi mới đã được xóa bỏ. Các hoạt động vẫn được tiến hành mà không có sự nhận thức của Anh hoặc Pháp có những bãi thủy lôi bổ sung gần đây của Thổ Nhĩ Kỳ.
    Các tàu thiết giáp hạm được bố trí thành ba dòng, hai của Anh và một của Pháp, với các tàu hỗ trợ đi bên sườn và hai tàu dự bị.
    Các tầu trong dòng đầu tiên của Anh đã nổ súng từ Eren Koy Bay khoảng 11:00. Ngay sau buổi trưa, de Robeck ra lệnh cho dòng Pháp đi qua và bắn vào các pháo đài ở eo biển. Súng của Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu ngắm vào các chiếc Gaulois, Suffren, Agamemnon và Inflexible tất cả các chiếc này lần lượt dính đạn. Trong khi đạn của hải quân đã không phá hủy được các khẩu đội pháo Thổ Nhĩ Kỳ, thì nó cũng thành công trong việc tạm thời giảm hỏa lực của họ. Vào khoảng 13:25 pháo phòng thủ Thổ Nhĩ Kỳ đã hầu hết là câm lặng như vậy de Robeck quyết định rút dòng tầu Pháp về và chuyển tiếp dòng thứ hai của tầu Anh cũng như các chiếc Swiftsure và Majestic.
    Lúc 13:54 chiếc ouvet thực hiện một cú lướt qua mạn phải vào Eren Koy Bay và nó đâm phairt một quả thủy lôi, bị lật và chìm trong vòng một vài phút, giết chết 600 người. Phản ứng ban đầu của Anh là họ cho rằng con tầu đã bị vì nổ kho đạn bị bắn trúng hoặc đã bị trúng ngư lôi. Hầu hết các báo cáo công bố rằng họ không biết gì về các bãi mìn, tuy nhiên, chuỗi các thủy lôi đã được phát hiện trước đó vào buổi sáng, và nhìn thấy họ chuyển đến Đô đốc de Robeck. Các tầu đánh cá dân sự hoạt động như tàu quét mìn ở phía trước của dòng tầu A đã phát hiện và tiêu diệt ba quả thủy lôi trong một khu vực được cho là đã được dọn sạch, trước khi các đội tầu này phải rút lui vì đạn đối phương. Thông tin này đã không được chuyển đến cho de Robeck.


    chiếc Irresistible bị bỏ lại và chìm.
    Người Anh tăng cường tấn công. Khoảng 16:00 chiếc Inflexible bắt đầu quay về và đâm vào một quả thủy lôi ở gần nơi chiếc Bouvet đã chìm, giết chết 30 người. Chiếc tuần dương hạm chủ lực vẫn nổi và cuối cùng tấp được vào một bãi biển trên đảo Bozcaada (Tenedos).
    Chiếc Irresistible là chiếc tiếp theo trúng thủy lôi. Khi nó bắt đầu trôi một cách vô vọng, thủy thủ đoàn đã được cứu thoát. De Robeck ra lệnh cho chiếc Ocean tiếp cận chiếc Irresistible nhưng nước được cho là quá nông để thực hiện một cú tiếp cận. Cuối cùng lúc18:05 chiếc Ocean cũng lại đâm vào một quả thủy lôi làm hỏng các thiết bị lái rây tình trạng bất lực tương tự. Chiếc thiết giáp hạm bị bỏ rơi vẫn còn nổi khi người Anh rút lui. Một tàu khu trục được chỉ huy bởi viên thuyền trưởng kỳ cựu Roger Keyes trở lại muộn hơn, đã cố gắng để kéo đi hoặc đánh chìm xác con tầu bị nạn nhưng dù loay hoay trong bốn giờ, không có dấu hiệu kết quả nào của của họ.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 18:51 ngày 16/05/2010
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiếm giữ eo biển
    Ngày 3 tháng 11 năm 1914, Churchill đã ra lệnh tiến hành đợt tấn công đầu tiên của Anh vào Dardanelles sau cuộc chiến giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Nga bùng nổ. Đợt tấn công của Anh được thực hiện bởi các tàu chiến của Hải đội Địa Trung Hải của Carden, Indomitable và Indefatigable, cũng như các tàu chiến Pháp đã lỗi thời, các chiếc Suffren và Vérité. Cuộc tấn công này thực sự đã diễn ra trước khi một lời tuyên chiến chính thức đã được công bố bởi nước Anh để chống lại Đế quốc Ottoman.
    Mục đích của cuộc tấn công là để kiểm tra độ chắc chắn của các công sự và biện pháp ứng phó của Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả có vẻ như rất đáng khích lệ. Trong hai mươi phút bắn phá, một phát đạn duy nhất bắn trúng vào kho đạn của một pháo đài ở Sedd el Bahr, mũi của bán đảo Gallipoli, loại khỏi vòng chiến (nhưng không phá hủy hoàn toàn) 10 khẩu pháo và giết chết 86 binh sĩ Thổ Nhĩ Kỳ. Tổng số thương vong của cuộc tấn công là 150 người trong đó có 40 người Đức. Hậu quả đáng kể nhất là người Thổ quan tâm hơn và hướng vào để tăng cường phòng thủ của họ, và họ thiết lập việc mở rộng các khu vực thả thủy lôi.


    [​IMG]
    Hệ thống phòng thủ Dardanelles trong tháng hai - ba, 1915 hiển thị bãi mìn, lưới chống tàu ngầm và các khẩu đội súng lớn.
    Eo biển Dardanelles được bảo vệ bởi một hệ thống pháo đài tăng cường và pháo binh di động được sắp xếp phòng thủ theo các tuyến "bên ngoài", " trung gian" và "bên trong" phòng thủ. Trong khi tuyến phòng thủ bên ngoài nằm ở lối vào eo biển và đã được chứng minh dễ bị bắn phá và tấn công, thì tyến phòng thủ bên trong bao phủ các hẻm núi, điểm hẹp nhất của eo biển gần Canakkale. Vượt ra ngoài phòng thủ bên trong, eo biển đã hầu như không còn được ba?o vệ. Tuy nhiên, Nền tảng của sự phòng thủ của eo biển là một loạt 10 bãi thủy lôi được thiết lập trên eo biển gần các hẻm núi và có tổng cộng 370 quả thủy lôi.
    Và các sự kiện tiếp theo đã tạo nên Trận Gallipoli, Một trận đánh tiêu hao kéo dài 10-tháng, bắt đầu vào lúc 07:30, ngày 19 tháng hai 1915. Hai tàu khu trục đã được gửi để thăm dò eo biển. Các phát bắn đầu tiên được bắn từ Kumkale bởi các khẩu đội pháo Krupp 24 cm của Orhaniye Tepe lúc 07:58. Các thiết giáp hạm Cornwallis và Vengeance di chuyển vào phía trong và tấn công vào các pháo đài và phat bắn đầu tiên của chiến dịch của người Anh nổ ra vào lúc 09:51 và bởi chiếc Cornwallis. Không có thống kê kết quả của đợt bắn phá thử nghiệm của ngày 03 tháng 11.
    Một nỗ lực được tiến hành vào ngày 25 tháng 2. Thời gian này người Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành di tản tuyến phòng thủ bên ngoài và hạm đội tiến vào eo biển để tấn công tuyến phòng thủ trung gian. Lính Thủy quân lục chiến Hoàng gia đột kích các pháo đài Sedd el Bahr và Kum Kale và gặp ít phản kháng. Ngày 01 tháng 03, bốn thiết giáp hạm tham gia bắn phá tuyến phòng thủ trung gian.
    Rất ít các nỗ lực được thực hiện để xóa bỏ các bãi thủy lôi. Các tàu quét mìn, chỉ huy bởi tham mưu trưởng của Carden, Roger Keyes, là những tầu đánh cá được điều khiến bởi các thuyền viên dân sự và họ không muốn làm việc trong tầm đạn. Các cuộc tấn công mạnh mẽ vào eo biển tiếp tục bị cản trở bởi quá trình quét mìn. Sự ỳ trệ của này của hạm đội đã làm tăng cường sự phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ vốn đã lung lay khi Đồng minh bắt đầu tấn công. Ngày 4 tháng 3, các cuộc tấn công vào phòng thủ bên ngoài đã bị chống trả làm 23 thủy quân lục chiến Anh thiệt mạng.
    Chiếc Queen Elizabeth nhận được mệnh lệnh tấn công tuyến phòng thủ bên trong, lúc đầu tiên từ Aegean gần bờ biển GABA Tepe, bắn phá vào toàn bán đảo và sau đó bắn sâu vào bên trong eo biển. Vào đêm 13 tháng 03, tàu tuần dương HMS Amethyst dẫn sáu tàu quét mìn trong một nỗ lực để xóa các bãi thủy lôi, Bốn trong số các tầu đánh cá đã bị đánh chìm và chiếc Amethyst đã bị thiệt hại với 19 người đã bị giết chết từ một phát bắn duy nhất.
    Ngày 15 tháng 03, Bộ ha?i quân thông báo với Carden rằng họ đồng ý kế hoạch của ông ta trong việc tiến hành một cuộc tấn công mở rộng vào ban ngày, các tàu quét mìn được điều hành dưới sự bảo vệ trực tiếp của toàn bộ hạm đội. Carden đã bị ốm trong cùng ngày và được thay thế bằng Chuẩn Đô đốc John de Robeck. Một sĩ quan pháo binh có ghi trong nhật ký của mình rằng de Robeck đã bày tỏ mối nghi ngại về khả năng có thể làm câm lặng các khẩu súng của Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách bắn phá, và rằng quan điểm này đã được tin tưởng một cách rộng rãi trên tàu.
    Trận 18 tháng 3
    Trận chiến quyết định diễn ra vào đêm 08 tháng ba khi tàu tha? thủy lôi của Thổ Nhĩ Kỳ chiếc Nusret đặt một đường thủy lôi ở Eren Koy Bay, một vịnh rộng dọc theo bờ biển châu Á ở bên trong lối vào eo biển. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã nhận thấy những chiếc tàu Anh quay sang mạn phải vào vịnh khi rút ra. Dòng thủy lôi mới có từ 20 -> 26 quả chạy song song với bờ, và được thả cách nhau khoảng 2,5 yard (4,5 m) và tổng khoảng cách đươc rải thủy lôi là 100 yard (91 m). Nước biển rất trong có nghĩa là các quả thủy lôi có thể được nhìn thấy qua mặt nước bằng máy bay trinh sát.
    Kế hoạch của Anh cho 18 tháng 03 là làm câm lặng tuyến phòng thủ bảo vệ gồm 5 bãi mìn đầu tiên, họ xóa các bãi thủy lôi bằng các tàu quét mìn làm viêc qua đêm. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ còn lại quanh eo biển và năm bãi thủ lôi mới đã được xóa bỏ. Các hoạt động vẫn được tiến hành mà không có sự nhận thức của Anh hoặc Pháp có những bãi thủy lôi bổ sung gần đây của Thổ Nhĩ Kỳ.
    Các tàu thiết giáp hạm được bố trí thành ba dòng, hai của Anh và một của Pháp, với các tàu hỗ trợ đi bên sườn và hai tàu dự bị.
    [​IMG]
    Ô mầu đỏ là những chiếc tầu chiến bị đắm, ô mầu xanh là bị thương nặng, kết quả thu được thì rất ẹ nhưng nhoáng một cái người Anh mất 3 chiếc tầu chiến (loại khỏi vòng chiến đấu) người Pháp cũng mất 3 chiếc
    Các tầu trong dòng đầu tiên của Anh đã nổ súng từ Eren Koy Bay khoảng 11:00. Ngay sau buổi trưa, de Robeck ra lệnh cho dòng Pháp đi qua và bắn vào các pháo đài ở eo biển. Súng của Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu ngắm vào các chiếc Gaulois, Suffren, Agamemnon và Inflexible tất cả các chiếc này lần lượt dính đạn. Trong khi đạn của hải quân đã không phá hủy được các khẩu đội pháo Thổ Nhĩ Kỳ, thì nó cũng thành công trong việc tạm thời giảm hỏa lực của họ. Vào khoảng 13:25 pháo phòng thủ Thổ Nhĩ Kỳ đã hầu hết là câm lặng như vậy de Robeck quyết định rút dòng tầu Pháp về và chuyển tiếp dòng thứ hai của tầu Anh cũng như các chiếc Swiftsure và Majestic.
    Lúc 13:54 chiếc ouvet thực hiện một cú lướt qua mạn phải vào Eren Koy Bay và nó đâm phairt một quả thủy lôi, bị lật và chìm trong vòng một vài phút, giết chết 600 người. Phản ứng ban đầu của Anh là họ cho rằng con tầu đã bị vì nổ kho đạn bị bắn trúng hoặc đã bị trúng ngư lôi. Hầu hết các báo cáo công bố rằng họ không biết gì về các bãi mìn, tuy nhiên, chuỗi các thủy lôi đã được phát hiện trước đó vào buổi sáng, và nhìn thấy họ chuyển đến Đô đốc de Robeck. Các tầu đánh cá dân sự hoạt động như tàu quét mìn ở phía trước của dòng tầu A đã phát hiện và tiêu diệt ba quả thủy lôi trong một khu vực được cho là đã được dọn sạch, trước khi các đội tầu này phải rút lui vì đạn đối phương. Thông tin này đã không được chuyển đến cho de Robeck.


    [​IMG]
    Ảnh giây phút lâm chung của chiếc Bouvet
    [​IMG]
    chiếc Irresistible bị bỏ lại và chìm nghỉm
    Người Anh tăng cường tấn công. Khoảng 16:00 chiếc Inflexible bắt đầu quay về và đâm vào một quả thủy lôi ở gần nơi chiếc Bouvet đã chìm, giết chết 30 người. Chiếc tuần dương hạm chủ lực vẫn nổi và cuối cùng tấp được vào một bãi biển trên đảo Bozcaada (Tenedos).
    Chiếc Irresistible là chiếc tiếp theo trúng thủy lôi. Khi nó bắt đầu trôi một cách vô vọng, thủy thủ đoàn đã được cứu thoát. De Robeck ra lệnh cho chiếc Ocean tiếp cận chiếc Irresistible nhưng nước được cho là quá nông để thực hiện một cú tiếp cận. Cuối cùng lúc18:05 chiếc Ocean cũng lại đâm vào một quả thủy lôi làm hỏng các thiết bị lái rây tình trạng bất lực tương tự. Chiếc thiết giáp hạm bị bỏ rơi vẫn còn nổi khi người Anh rút lui. Một tàu khu trục được chỉ huy bởi viên thuyền trưởng kỳ cựu Roger Keyes trở lại muộn hơn, đã cố gắng để kéo đi hoặc đánh chìm xác con tầu bị nạn nhưng dù loay hoay trong bốn giờ, không có dấu hiệu kết quả nào của của họ.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:43 ngày 17/05/2010
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hậu quả
    Ngày 18 tháng 3 là một chiến thắng quan trọng cho Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên đã có các cuộc điện đàm giữa các nhà lãnh đạo Anh, đặc biệt là từ Churchill, cho báo chí về cuộc tấn công hải quân. Ngày 20 tháng 3 De Robeck nói rằng ông đang tổ chức lại đội tàu quét mìn của mình, điều này cho thấy ông có ý định tiếp tục tấn công, và Churchill trả lời rằng ông ta sẽ gửi bốn tàu thay thế. Chỉ ngoại lệ có chiếc Inflexible, các con tàu đã bị mất đều đã bị hư hỏng hoặc đã cũ không còn tác dụng để trang bị chiến đấu cho hải quân hiện đại và chúng đã được lựa chọn cho đoàn quân chinh phục là một lựa chọn chính xác bởi vì chúng có thể bị tiêu diệt. Các pháo đài Thổ Nhĩ Kỳ gần như đã cạn kiệt đạn dược của họ nên nếu các cuộc tấn công hải quân được nối lại, quân Đồng minh có thể gặp ít phản kháng từ các khẩu đội. Hơn nữa các thuyền viên của những chiếc tàu chiến bị chìm sẽ thay thế các thường dân trên đánh cá tàu quét mìn đánh cá, làm cho chúng có thể sẵn sàng hơn nữa trong việc tỏa sâu và rộng dưới làn lửa đạn, và hạm đội có những tàu khu trục có một số tầu được trang bị thiết bị rà phá thủy lôi hiện đại, có thể xử lý công việc dễ dàng. Đại sứ Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ, Henry Morgenthau, báo cáo rằng Istanbul dự kiến sẽ Đồng minh sẽ lại tấn công và rằng người Thổ Nhĩ Kỳ cảm thấy rằng họ chỉ có thể giữ được trong một vài giờ nếu một đợt tấn công nữa đã diễn ra vào ngày19. Hơn nữa, ông nghĩ rằng bản thân Thổ Nhĩ Kỳ có thể tan rã như khi thủ đô của nó bị chiếm đóng. (chính vì lý do này mà sau đó người Thổ phải rời thủ đô tới Ankara)
    Nhưng phải lưu ý rằng tại khu vực chính của eo biển hẹp, hơn mười lớp thủy lôi ở tầng nước sâu hơn vẫn hoàn toàn nguyên vẹn. Hơn nữa, chúng được bảo vệ rất tốt bởi các khẩu súng có cỡ nòng nhỏ hơn trên bờ mà người ta chưa thấy bất kỳ hành động nào của chúng trong ngày 18 tháng 3. Những vị trí này và các tuyến phòng thủ khác nữa trong eo biển vẫn chưa hết đạn dược và các nguồn tiếp tế của họ. Thực tế rằng là một hoặc nhiều hơn nữa các cố gắng của hạm đội chưa chắc đã tạo ra kết quả là thông được sang biển Marmara.


    Sir Roger Keyes, Phó Đô đốc De Robeck, Sir Ian Hamilton, Tướng Braithwaite
    Churchill đã dự tính tổn thất này và xem xét chúng như là cái giá phải trả cần thiết về mặt chiến thuật. Trong tháng 6 năm 1915, ông thảo luận về tình hình chiến dịch với phóng viên chiến tranh Ellis Ashmead-Bartlett, người phải trở về London để cung cấp các báo cáo thực tế. Ashmead-Bartlett rất tức giận vì tổn thất về tàu bè và nhân mạng nhưng Churchill trả lời: Đó không phải là điểm quan trọng! Họ đã phải hy sinh.Vấn đề gì sẽ xảy ra nếu bị mất nhiều tầu chiến hơn? Các tàu bị mất đều đã cũ và vô dụng. Với quan điểm để bù đắp cho số bị thiệt hại, Hải quân quyết định đặt hàng 600 chiếc tàu mới trong giai đoạn Đô đốc Fisher làm First Sea Lord, khoảng tương ứng với độ dài của chiến dịch Dardanelles.
    De Robeck được báo cáo là đã quẫn trí từ các thiệt hại. Ông đã viết trong ngày 18 tháng 3: Sau khi mất quá nhiều tàu chiến rõ ràng tôi thấy mình sẽ bị thay thế vào sáng ngày mai. Ông ta đã phụ trách một hạm đội bị tổn thất nghiêm trọng nhất của Hải quân Hoàng gia kể từ trận Trafalgar và cảm thấy việc tiếp tục mất đi những con tầu là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với một thủy thủ. Ngày 23 tháng ba, ông gửi điện tín cho bộ ha?i quân và yêu cầu có sự hỗ trợ cần thiết của lực lượng trên bộ trước khi tiếp tục chiến dịch. Sau đó ông nói với Ủy ban Dardanelles hiện đang điều tra những thiệt hại của chiến dịch rằng nguyên nhân chính làm thay đổi tâm trí của ông là mối quan tâm là những gì có thể xảy ra trong trường hợp chiến dịch thành công: hạm đội có thể tiến vào İstanbul hoặc vào được biển Marmara nhưng đối phương thì không đơn giản là sẽ đầu hàng như kế hoạch đã dự tính, mà không có bộ binh để đảm bảo an toàn cho lãnh thổ vừa bị chiếm đóng. ( ông này lo xa là Hạm đội Anh sẽ cô độc khi tiến sâu vào đất địch, nhưng đấy là lo hão ?" các tầu Anh chẳng bao giờ bén mảng được đến đó)
    Với sự thất bại của các cuộc tấn công bằng hải quân, ý tưởng tung các lực lượng trên bộ để tiến qua các vùng phía sau các pháo đài Dardanelles và chiếm Istanbul đã được chấp nhận thay thế. Ngày 25 tháng 4, Chiến dịch Gallipoli đã được tiến hành. Một lực lượng hải quân đáng kể đã được dành để hỗ trợ các hoạt động đó.
    Nỗ lực hơn nữa
    Sau kết quả không thành công của chiến dịch trên đất liền cho đến tháng 5, De Robeck cho rằng có thể một lần nữa cố gắng tiến hành một cuộc tấn công bằng hải quân. Churchill hỗ trợ ý tưởng này, ít nhất là khởi động lại nỗ lực để dọn sạch các bãi thủy lôi, nhưng điều này bị phản đối bởi Fisher và các thành viên khác của Hội đồng Admiralty. Bên cạnh những khó khăn tại Dardanelles, nó còn liên quan đến việc nhiều tàu chiếc có thể phải được chuyển đến đây từ Hạm đội Grand Fleed ở Biển Bắc. Bất đồng này góp phần vào nguyên nhân xin từ chức cuối cùng của Fisher, tiếp theo là sự cần thiết cho Asquith ( thủ tướng Anh lúc đó) tìm kiếm các đối tác liên minh để chống đỡ cho chính phủ của ông, Churchill cũng bị miễn nhiệm các hậu quả của chiến dịch. Kế hoạch tấn công hải quân tiếp theo thế là được bỏ xó.
    Keyes vẫn là một người ủng hộ kiên định các hoạt động của hải quân và ngày 23 tháng 9 gửi một đề nghị tiếp tục tấn công Dardanelles đển de Robeck. De Robeck không thích kế hoạch này nhưng dù sao cũng chấp nhận nó để gửi lên Bộ Hải quân. Rủi ro đối với tàu Anh đã tăng lên kể từ tháng Ba do sự hiện diện của tàu ngầm Đức tại Địa Trung Hải và biển Marmara, nơi mà các tàu của Anh sẽ trở thành những mục tiêu mời mọc nếu kế hoạch thành công. Mặt khác, bây giờ các tầu quét mìn được trang bị tốt hơn và một số các tàu có lưới quét thủy lôi mà chúng được đặt hy vọng sẽ cải thiện cơ hội của họ đối với các quả mìn nước. Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ đã được cung cấp tốt hơn bởi các tuyến đường từ Đức trong khi nhu cầu nhiều nữa hơn cho tàu hải quân của Đồng minh để hỗ trợ các nỗ lực bổ sung vào chiến dịch liên tục của tàu chiến để hỗ trợ cho các tấn công trên đất liền, và hải quân lại phải tham gia chiến dịch đang diễn ra tại Salonica để cố gắng hỗ trợ cho người Serbia. Kitchener (không rõ chức vụ ) đã đưa ra một đề nghị là chiếm lấy Eo đất Bulair bằng việc sử dụng tới 40.000 quân, qua đó cho phép các tàu của Anh trong biển Marmara được tái cung cấp bằng đường bộ từ Vịnh Xeros. Bộ hải quân ý kiến là một cuộc tấn công hải quân không thể được tiến hành mà không có sự hỗ trợ của lực lượng trên bộ để tấn công các pháo đài Dardanelles, đây là điều được coi là không thực tế vì thiếu quân số. Kitchener đã đến thăm khu vực này để kiểm tra các vị trí và nói chuyện với những chỉ huy có liên quan, trước khi đưa ra một báo cáo tư vấn cho một sự rút quân. Ủy ban Chiến tranh phải đối mặt với một sự lựa chọn hoặc là mới một chiến dịch mới không đủ chắc chắn để phá vỡ bế tắc hiện tại, hoặc tiến hành rút quân, đề nghị được đưa ra vào 23 tháng 11 rằng tất cả các đội quân này được triệt thoái.
    Phần lớn Nội các Anh ít quan tâm đến hậu quả của việc từ bỏ chiến dịch, đó là hậu quả về mặt chính trị của một thất bại và hậu quả gây thiệt hại cho nước Nga. De Robeck đã được tạm thời thay thế bằng Đô đốc Rosslyn Wemyss trong tháng 11 năm 1915 vì lý do sức khoẻ kém. Ngược lại với De Robeck, Wemyss là một người ủng hộ các hành động xa hơn và lạc quan hơn đáng kể về cơ hội thành công. Trong khi ước tính thiệt hại của de Robeck là 12 tàu chiến, Wemyss coi họ có khả năng mất không quá ba. Đó là đề nghị từ bỏ các hoạt động ở Salonica, nơi mà quân đội không bao giờ trực tiếp tham gia chiến đấu để trợ giúp Serbia, để có thể tăng thêm quân tiếp viện, nhưng điều này đã bị phủ quyết bởi người Pháp. Wemyss tiếp tục một chiến dịch quảng bá về cơ hội thành công. Ông đã có mặt khi de Robeck nhận chức vụ từ Carden, mặc dù Wemyss có thâm niên cao hơn (de Robeck), nhưng ông ta chỉ được chỉ huy căn cứ tại Mudros trong khi de Robeck được làm tư lệnh hạm đội. Churchill đã ưu tiên lựa chọn de Robeck. Ngày 07 Tháng 12 quyết định của Nội các là phải từ bỏ chiến dịch.
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hậu quả
    Ngày 18 tháng 3 là một chiến thắng quan trọng cho Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên đã có các cuộc điện đàm giữa các nhà lãnh đạo Anh, đặc biệt là từ Churchill, cho báo chí về cuộc tấn công hải quân. Ngày 20 tháng 3 De Robeck nói rằng ông đang tổ chức lại đội tàu quét mìn của mình, điều này cho thấy ông có ý định tiếp tục tấn công, và Churchill trả lời rằng ông ta sẽ gửi bốn tàu thay thế. Chỉ ngoại lệ có chiếc Inflexible, các con tàu đã bị mất đều đã bị hư hỏng hoặc đã cũ không còn tác dụng để trang bị chiến đấu cho hải quân hiện đại và chúng đã được lựa chọn cho đoàn quân chinh phục là một lựa chọn chính xác bởi vì chúng có thể bị tiêu diệt. Các pháo đài Thổ Nhĩ Kỳ gần như đã cạn kiệt đạn dược của họ nên nếu các cuộc tấn công hải quân được nối lại, quân Đồng minh có thể gặp ít phản kháng từ các khẩu đội. Hơn nữa các thuyền viên của những chiếc tàu chiến bị chìm sẽ thay thế các thường dân trên đánh cá tàu quét mìn đánh cá, làm cho chúng có thể sẵn sàng hơn nữa trong việc tỏa sâu và rộng dưới làn lửa đạn, và hạm đội có những tàu khu trục có một số tầu được trang bị thiết bị rà phá thủy lôi hiện đại, có thể xử lý công việc dễ dàng. Đại sứ Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ, Henry Morgenthau, báo cáo rằng Istanbul dự kiến sẽ Đồng minh sẽ lại tấn công và rằng người Thổ Nhĩ Kỳ cảm thấy rằng họ chỉ có thể giữ được trong một vài giờ nếu một đợt tấn công nữa đã diễn ra vào ngày19. Hơn nữa, ông nghĩ rằng bản thân Thổ Nhĩ Kỳ có thể tan rã như khi thủ đô của nó bị chiếm đóng. (chính vì lý do này mà sau đó người Thổ phải rời thủ đô tới Ankara)
    Nhưng phải lưu ý rằng tại khu vực chính của eo biển hẹp, hơn mười lớp thủy lôi ở tầng nước sâu hơn vẫn hoàn toàn nguyên vẹn. Hơn nữa, chúng được bảo vệ rất tốt bởi các khẩu súng có cỡ nòng nhỏ hơn trên bờ mà người ta chưa thấy bất kỳ hành động nào của chúng trong ngày 18 tháng 3. Những vị trí này và các tuyến phòng thủ khác nữa trong eo biển vẫn chưa hết đạn dược và các nguồn tiếp tế của họ. Thực tế rằng là một hoặc nhiều hơn nữa các cố gắng của hạm đội chưa chắc đã tạo ra kết quả là thông được sang biển Marmara.

    [​IMG]
    Sir Roger Keyes, Phó Đô đốc De Robeck, Sir Ian Hamilton, Tướng Braithwaite
    Churchill đã dự tính tổn thất này và xem xét chúng như là cái giá phải trả cần thiết về mặt chiến thuật. Trong tháng 6 năm 1915, ông thảo luận về tình hình chiến dịch với phóng viên chiến tranh Ellis Ashmead-Bartlett, người phải trở về London để cung cấp các báo cáo thực tế. Ashmead-Bartlett rất tức giận vì tổn thất về tàu bè và nhân mạng nhưng Churchill trả lời: Đó không phải là điểm quan trọng! Họ đã phải hy sinh.Vấn đề gì sẽ xảy ra nếu bị mất nhiều tầu chiến hơn? Các tàu bị mất đều đã cũ và vô dụng. Với quan điểm để bù đắp cho số bị thiệt hại, Hải quân quyết định đặt hàng 600 chiếc tàu mới trong giai đoạn Đô đốc Fisher làm First Sea Lord, khoảng tương ứng với độ dài của chiến dịch Dardanelles.
    De Robeck được báo cáo là đã quẫn trí từ các thiệt hại. Ông đã viết trong ngày 18 tháng 3: Sau khi mất quá nhiều tàu chiến rõ ràng tôi thấy mình sẽ bị thay thế vào sáng ngày mai. Ông ta đã phụ trách một hạm đội bị tổn thất nghiêm trọng nhất của Hải quân Hoàng gia kể từ trận Trafalgar và cảm thấy việc tiếp tục mất đi những con tầu là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với một thủy thủ. Ngày 23 tháng ba, ông gửi điện tín cho bộ ha?i quân và yêu cầu có sự hỗ trợ cần thiết của lực lượng trên bộ trước khi tiếp tục chiến dịch. Sau đó ông nói với Ủy ban Dardanelles hiện đang điều tra những thiệt hại của chiến dịch rằng nguyên nhân chính làm thay đổi tâm trí của ông là mối quan tâm là những gì có thể xảy ra trong trường hợp chiến dịch thành công: hạm đội có thể tiến vào İstanbul hoặc vào được biển Marmara nhưng đối phương thì không đơn giản là sẽ đầu hàng như kế hoạch đã dự tính, mà không có bộ binh để đảm bảo an toàn cho lãnh thổ vừa bị chiếm đóng. ( ông này lo xa là Hạm đội Anh sẽ cô độc khi tiến sâu vào đất địch, nhưng đấy là lo hão ?" các tầu Anh chẳng bao giờ bén mảng được đến đó)
    Với sự thất bại của các cuộc tấn công bằng hải quân, ý tưởng tung các lực lượng trên bộ để tiến qua các vùng phía sau các pháo đài Dardanelles và chiếm Istanbul đã được chấp nhận thay thế. Ngày 25 tháng 4, Chiến dịch Gallipoli đã được tiến hành. Một lực lượng hải quân đáng kể đã được dành để hỗ trợ các hoạt động đó.
    Nỗ lực hơn nữa
    Sau kết quả không thành công của chiến dịch trên đất liền cho đến tháng 5, De Robeck cho rằng có thể một lần nữa cố gắng tiến hành một cuộc tấn công bằng hải quân. Churchill hỗ trợ ý tưởng này, ít nhất là khởi động lại nỗ lực để dọn sạch các bãi thủy lôi, nhưng điều này bị phản đối bởi Fisher và các thành viên khác của Hội đồng Admiralty. Bên cạnh những khó khăn tại Dardanelles, nó còn liên quan đến việc nhiều tàu chiếc có thể phải được chuyển đến đây từ Hạm đội Grand Fleed ở Biển Bắc. Bất đồng này góp phần vào nguyên nhân xin từ chức cuối cùng của Fisher, tiếp theo là sự cần thiết cho Asquith ( thủ tướng Anh lúc đó) tìm kiếm các đối tác liên minh để chống đỡ cho chính phủ của ông, Churchill cũng bị miễn nhiệm các hậu quả của chiến dịch. Kế hoạch tấn công hải quân tiếp theo thế là được bỏ xó.
    Keyes vẫn là một người ủng hộ kiên định các hoạt động của hải quân và ngày 23 tháng 9 gửi một đề nghị tiếp tục tấn công Dardanelles đển de Robeck. De Robeck không thích kế hoạch này nhưng dù sao cũng chấp nhận nó để gửi lên Bộ Hải quân. Rủi ro đối với tàu Anh đã tăng lên kể từ tháng Ba do sự hiện diện của tàu ngầm Đức tại Địa Trung Hải và biển Marmara, nơi mà các tàu của Anh sẽ trở thành những mục tiêu mời mọc nếu kế hoạch thành công. Mặt khác, bây giờ các tầu quét mìn được trang bị tốt hơn và một số các tàu có lưới quét thủy lôi mà chúng được đặt hy vọng sẽ cải thiện cơ hội của họ đối với các quả mìn nước. Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ đã được cung cấp tốt hơn bởi các tuyến đường từ Đức trong khi nhu cầu nhiều nữa hơn cho tàu hải quân của Đồng minh để hỗ trợ các nỗ lực bổ sung vào chiến dịch liên tục của tàu chiến để hỗ trợ cho các tấn công trên đất liền, và hải quân lại phải tham gia chiến dịch đang diễn ra tại Salonica để cố gắng hỗ trợ cho người Serbia. Kitchener (không rõ chức vụ ) đã đưa ra một đề nghị là chiếm lấy Eo đất Bulair bằng việc sử dụng tới 40.000 quân, qua đó cho phép các tàu của Anh trong biển Marmara được tái cung cấp bằng đường bộ từ Vịnh Xeros. Bộ hải quân ý kiến là một cuộc tấn công hải quân không thể được tiến hành mà không có sự hỗ trợ của lực lượng trên bộ để tấn công các pháo đài Dardanelles, đây là điều được coi là không thực tế vì thiếu quân số. Kitchener đã đến thăm khu vực này để kiểm tra các vị trí và nói chuyện với những chỉ huy có liên quan, trước khi đưa ra một báo cáo tư vấn cho một sự rút quân. Ủy ban Chiến tranh phải đối mặt với một sự lựa chọn hoặc là mới một chiến dịch mới không đủ chắc chắn để phá vỡ bế tắc hiện tại, hoặc tiến hành rút quân, đề nghị được đưa ra vào 23 tháng 11 rằng tất cả các đội quân này được triệt thoái.
    Phần lớn Nội các Anh ít quan tâm đến hậu quả của việc từ bỏ chiến dịch, đó là hậu quả về mặt chính trị của một thất bại và hậu quả gây thiệt hại cho nước Nga. De Robeck đã được tạm thời thay thế bằng Đô đốc Rosslyn Wemyss trong tháng 11 năm 1915 vì lý do sức khoẻ kém. Ngược lại với De Robeck, Wemyss là một người ủng hộ các hành động xa hơn và lạc quan hơn đáng kể về cơ hội thành công. Trong khi ước tính thiệt hại của de Robeck là 12 tàu chiến, Wemyss coi họ có khả năng mất không quá ba. Đó là đề nghị từ bỏ các hoạt động ở Salonica, nơi mà quân đội không bao giờ trực tiếp tham gia chiến đấu để trợ giúp Serbia, để có thể tăng thêm quân tiếp viện, nhưng điều này đã bị phủ quyết bởi người Pháp. Wemyss tiếp tục một chiến dịch quảng bá về cơ hội thành công. Ông đã có mặt khi de Robeck nhận chức vụ từ Carden, mặc dù Wemyss có thâm niên cao hơn (de Robeck), nhưng ông ta chỉ được chỉ huy căn cứ tại Mudros trong khi de Robeck được làm tư lệnh hạm đội. Churchill đã ưu tiên lựa chọn de Robeck. Ngày 07 Tháng 12 quyết định của Nội các là phải từ bỏ chiến dịch.
    Hoạt động của tàu ngầm Đồng minh
    [​IMG]
    Tàu chiến của Đế quốc Ottoman, chiếc Mesudiye đã già nua cũ kỹ tới mức chỉ để làm pháo hạm ven bờ -> nhưng đánh chìm được nó cũng là một chiếc công xuất sắc của Đồng minh trong chiến dịch Dardanelles
    [​IMG]
    Tàu ngầm Úc chiếc AE2, chiếc này bị tiêu diệt bởi chiếc tầu phóng ngư lôi Sultanhisar của người Thổ
    Các vụ tấn công của tàu ngầm Anh đã bắt đầu vào năm 1914, trước khi chiến dịch Dardanelles bắt đầu. Ngày 13 tháng 12, tàu ngầm Anh HMSB11 đã vào eo biển, tránh năm dòng thủy lôi, và phóng ngư lôi vào chiếc các thiết giáp hạm cũ kỹ của Đế quốc Ottoman, chiếc Mesudiye được chế tạo vào năm 1874, lúc này đang neo như một pháo đài nổi trong Sari Sighlar Bay, phía nam của Canakkale. Chiếc Mesudiye bị lật úp trong 10 phút, nó bẫy nhiều thủy thủ đoàn trong số 673 người. Tuy nhiên vì ở trong vùng nước không sâu, các thân tàu vẫn nổi trên bề mặt nên hầu hết cacsthuyr thủ đã được cứu sống bằng cách đục các lỗ hổng ở thân tàu. Ba mươi bảy người đã chết.
    Vụ đánh chìm con tầu trên được cho là một chiến thắng đối với Hải quân Hoàng gia. Thuyền trưởng của chiếc B11, Đại úy ha?i quân Norman Holbrook, được trao tặng huân chương Victoria Cross ?" Huân chương VC đầu tiên của Hải quân Hoàng gia trong chiến tranh - và tất cả 12 thành viên thủy thủ đoàn khác nhận được giải thưởng. Cùng với sự bắn phá của hải quân vào tuyến phòng thủ bên ngoài, ngày 3 tháng 11, thành công này khuyến khích người Anh theo đuổi chiến dịch Dardanelles.
    Tàu ngầm đầu tiên của Pháp cũng hoạt động trước khi bắt đầu chiến dịch. Ngày 15 tháng 1 năm 1915, tàu ngầm Pháp chiếc Saphir đã cố gắng để đi vào eo biển hẹp, nó đi qua tất cả 10 dòng thủy lôi, trước khi chạy bị mắc cạn tại điểm Nagara. Nhiều tài liệu viết rằng nó đã bị nổ bởi thủy lôi, bị đánh chìm bởi đạn pháo hay tự đánh đắm, làm 14 người chết và 13 người còn lại trong số thủy thủ đoàn trở thành tù binh chiến tranh.
    Ngày 17 tháng 4, chiếc tàu ngầm Anh E15 cố gắng đi qua eo biển nhưng do lặn xuống quá sâu nên bị mắc cạn gần điểm Kepez, mũi phía nam của Sari Sıĝlar Bay, thuộc tầm súng của khẩu đội pháo Dardanos. Bảy thủy thủ đoàn đã thiệt mạng và phần còn lại bị bắt. Chiếc E15 bị mắc cạn là một giải thưởng có giá trị cho người Thổ Nhĩ Kỳ và người Anh đã cố gắng để phá hủy nó cuối cùng họ cũng đánh chìm được nó sau rất nhiều nỗ lực.
    [​IMG]
    Ảnh chiếc E15 khi trở thành tù binh của người Thổ, chiếc này có tải trọng tối đa 807 tấn và tốc độ tối đa 15,25 hải lý/ giờ khi nổi trên mặt nước, 9,75 hải lý giờ khi lặn sâu
    Chiếc tàu ngầm đầu tiên thành công trong việc đi qua eo biển là chiếc HMAS AE2, trong đó nó đã đi qua được vào đêm 24/25 tháng 4. Lúc này quân đội đã bắt đầu đổ bộ vào Cape Helles và Anzac Cove tại bán đảo vào lúc bình minh của ngày 25. Mặc dù AE2 đã đánh chìm một tàu tuần dương Thổ Nhĩ Kỳ, chiếc tàu ngầm dưới sự chỉ huy của Trung úy Stoker, đã bị đe dọa bởi các tầu phóng ngư lôi trong một số nỗ lực để đánh chìm một mục tiêu đầy hứa hẹn khác. Ngày 29 Tháng 4, trong vịnh Artaki Bay gần Panderma, chiếc AE2 bị nhìn thấy và nhấn chìm bởi chiếc tầu phóng ngư lôi Sultanhisar của Thổ Nhĩ Kỳ. Bỏ tàu thủy thủ đoàn đã trở thành tù binh chiến tranh. Hiện tai có một nỗ lực được thực hiện bởi các chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và Úc để xác định vị trí và trục vớt chiếc AE2.
    Chiếc tàu ngầm thứ hai đi qua eo biển gặp may mắn hơn chiếc AE2. Ngày 27 tháng 4, chiếc HMSE14, được chỉ huy bởi trung úy Edward Boyle, tiến vào biển Marmara và đã hoành hành trong ba tuần, đây là một trong những hoạt động quân sự thành công nhất mà Đồng Minh đã đạt được trong toàn bộ chiến dịch. Trong khi số lượng và giá trị của các con tàu bị đánh chìm tương đối nhỏ, hiệu quả về truyền thông và tinh thần đối với người Thổ Nhĩ Kỳ lại rất đáng kể. Khi trở về Boyle đã ngay lập tức được trao tặng Huân chương Victoria. Boyle và con tầu E14 đã thực hiện một số chuyến đi vòng quanh biển Marmara. Chuyến đi thứ ba của ông bắt đầu vào ngày 21 Tháng 7, khi ông đi qua eo biển mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt một lưới chống tàu ngầm ở gần eo biển hẹp.
    [​IMG]
    Ảnh thuỷ thủ đoan cùa chiếc E14 chụp trên boong của chính con tầu này, nó có trọng tải tối đa 820 tấn và một thuỷ thủ đoàn 30 người
    [​IMG]
    Thủy thủ đoàn của tàu HMS Grampas hoan hô chiếc E11 sau một hoạt động thành công.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 14:19 ngày 17/05/2010
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hoạt động của tàu ngầm

    Tàu chiến của Đế quốc Ottoman chiếc Mesudiye


    tàu ngầm Úc chiếc AE2
    Các vụ tấn công của tàu ngầm Anh đã bắt đầu vào năm 1914, trước khi chiến dịch Dardanelles bắt đầu. Ngày 13 tháng 12, tàu ngầm Anh HMSB11 đã vào eo biển, tránh năm dòng thủy lôi, và phóng ngư lôi vào chiếc các thiết giáp hạm cũ kỹ của Đế quốc Ottoman, chiếc Mesudiye được chế tạo vào năm 1874, lúc này đang neo như một pháo đài nổi trong Sari Sighlar Bay, phía nam của Canakkale. Chiếc Mesudiye bị lật úp trong 10 phút, nó bẫy nhiều thủy thủ đoàn trong số 673 người. Tuy nhiên vì ở trong vùng nước không sâu, các thân tàu vẫn nổi trên bề mặt nên hầu hết cacsthuyr thủ đã được cứu sống bằng cách đục các lỗ hổng ở thân tàu. Ba mươi bảy người đã chết.
    Vụ đánh chìm con tầu trên được cho là một chiến thắng đối với Hải quân Hoàng gia. Thuyền trưởng của chiếc B11, Đại úy ha?i quân Norman Holbrook, được trao tặng huân chương Victoria Cross ?" Huân chương VC đầu tiên của Hải quân Hoàng gia trong chiến tranh - và tất cả 12 thành viên thủy thủ đoàn khác nhận được giải thưởng. Cùng với sự bắn phá của hải quân vào tuyến phòng thủ bên ngoài, ngày 3 tháng 11, thành công này khuyến khích người Anh theo đuổi chiến dịch Dardanelles.
    Tàu ngầm đầu tiên của Pháp cũng hoạt động trước khi bắt đầu chiến dịch. Ngày 15 tháng 1 năm 1915, tàu ngầm Pháp chiếc Saphir đã cố gắng để đi vào eo biển hẹp, nó đi qua tất cả 10 dòng thủy lôi, trước khi chạy bị mắc cạn tại điểm Nagara. Nhiều tài liệu viết rằng nó đã bị nổ bởi thủy lôi, bị đánh chìm bởi đạn pháo hay tự đánh đắm, làm 14 người chết và 13 người còn lại trong số thủy thủ đoàn trở thành tù binh chiến tranh.
    Ngày 17 tháng 4, chiếc tàu ngầm Anh E15 cố gắng đi qua eo biển nhưng do lặn xuống quá sâu nên bị mắc cạn gần điểm Kepez, mũi phía nam của Sari Sıĝlar Bay, thuộc tầm súng của khẩu đội pháo Dardanos. Bảy thủy thủ đoàn đã thiệt mạng và phần còn lại bị bắt. Chiếc E15 bị mắc cạn là một giải thưởng có giá trị cho người Thổ Nhĩ Kỳ và người Anh đã cố gắng để phá hủy nó cuối cùng họ cũng đánh chìm được nó sau rất nhiều nỗ lực.
    Chiếc tàu ngầm đầu tiên thành công trong việc đi qua eo biển là chiếc HMAS AE2, trong đó nó đã đi qua được vào đêm 24/25 tháng 4. Lúc này quân đội đã bắt đầu đổ bộ vào Cape Helles và Anzac Cove tại bán đảo vào lúc bình minh của ngày 25. Mặc dù AE2 đã đánh chìm một tàu tuần dương Thổ Nhĩ Kỳ, chiếc tàu ngầm dưới sự chỉ huy của Trung úy Stoker, đã bị đe dọa bởi các tầu phóng ngư lôi trong một số nỗ lực để đánh chìm một mục tiêu đầy hứa hẹn khác. Ngày 29 Tháng 4, trong vịnh Artaki Bay gần Panderma, chiếc AE2 bị nhìn thấy và nhấn chìm bởi chiếc tầu phóng ngư lôi Sultanhisar của Thổ Nhĩ Kỳ. Bỏ tàu thủy thủ đoàn đã trở thành tù binh chiến tranh. Hiện tai có một nỗ lực được thực hiện bởi các chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và Úc để xác định vị trí và trục vớt chiếc AE2.
    Chiếc tàu ngầm thứ hai đi qua eo biển gặp may mắn hơn chiếc AE2. Ngày 27 tháng 4, chiếc HMSE14, được chỉ huy bởi trung úy Edward Boyle, tiến vào biển Marmara và đã hoành hành trong ba tuần, đây là một trong những hoạt động quân sự thành công nhất mà Đồng Minh đã đạt được trong toàn bộ chiến dịch. Trong khi số lượng và giá trị của các con tàu bị đánh chìm tương đối nhỏ, hiệu quả về truyền thông và tinh thần đối với người Thổ Nhĩ Kỳ lại rất đáng kể. Khi trở về Boyle đã ngay lập tức được trao tặng Huân chương Victoria. Boyle và con tầu E14 đã thực hiện một số chuyến đi vòng quanh biển Marmara. Chuyến đi thứ ba của ông bắt đầu vào ngày 21 Tháng 7, khi ông đi qua eo biển mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt một lưới chống tàu ngầm ở gần eo biển hẹp.


    Thủy thủ đoàn của tàu HMS Grampas hoan hô chiếc E11 sau một hoạt động thành công.
    Một tàu ngầm nữa của Anh cũng có một hành trình thành công vào biển Marmara là chiếc E11, được chỉ huy bởi Trung úy Martin Nasmith, người được trao huân chương VC và thăng cấp đại úy vì thành tích của mình. Ông đã đánh chìm hoặc vô hiệu 11 chiếc tàu trong ba ngày từ ngày 24 tháng 5 tại cảng Rodosto trên bờ biển Thrace. Ngày 08 tháng 8, trong một đi tuần tiếp theo vào biển Marmara, chiếc E11 phóng ngư lôi vào chiếc thiết giáp hạm Hayreddin Barbarossa của Thổ Nhĩ Kỳ.
    Một số nhiệm vụ phá hoại được thực hiện bởi các nhóm được đổ bộ từ tàu ngầm. Ngày 08 tháng 9, thiếu úy H.V. Lyon từ tàu ngầm E2 của Anh, bơi vào bờ gần Küçükçekmece (Thrace) để cho nổ một cây cầu đường sắt. Cây cầu đã bị phá hủy nhưng Lyon đã không bao giờ trở về. Các nỗ lực cũng đã được thực hiện để phá vỡ tuyến đường sắt chạy sát mặt nước dọc theo Vịnh İzmit trên bờ biển châu Á. Vào đêm 20 tháng 8, trung úy D?Oyly Hughes từ chiếc E11 bơi lên bờ và cho nổ tung một phần của tuyến đường sắt, ông đã có được phần thưởng Distinguished Service Order cho những nỗ lực của mình. Ngày 17 tháng 7, chiếc tàu ngầm E7 đã bắn phá các tuyến đường sắt và sau đó đã phá hủy hai chiếc xe lửa đã buộc phải dừng lại.
    Người Pháp cũng tiếp tục các nỗ lực để vào biển Marmara. Tiếp theo thành công của chiếc AE2 và E14, chiếc Tàu ngầm Pháp Joule cố gắng đột nhập vào ngày 01 tháng 5, nhưng đã đâm vào một quả thủy lôi và đã bị đắm với toàn bộ thủy thủ đoàn. Các nỗ lực tiếp theo đã được thực hiện bởi chiếc Mariotte ngày 27 tháng 7. Tuy nhiên, chiếc Mariotte thất bại trong việc vượt qua lưới chống tàu ngầm mà chiếc E14 đã làm được và bị buộc phải bề mặt. Sau khi bị bắn trúng từ các khẩu đội pháo bờ biển, chiếc Mariotte bị đánh đắm. Ngày 04 tháng 09, vẫn chiếc lưới này đã đánh bắt được chiếc E7 khi nó đang cố gắng để bắt đầu một chuyến đi vào biển Marmara.
    Tàu ngầm đầu tiên của Pháp vào biển Marmara là chiếc Turquoise. Tuy nhiên, nó đã buộc phải quay lại và, ngày 30 tháng 10, khi cố gắng quay trở lại qua eo biển, nó bị mắc cạn dưới một pháo đài và bị bắt giữ nguyên vẹn. Các thủy thủ đoàn 25 người được bắt làm tù binh và các tài liệu chi tiết về kế hoạch hoạt động của quân Đồng minh đã bị phát hiện, bao gồm một lịch điểm hẹn với tàu ngầm Anh, chiếc E20, ngày 6 tháng 11. Điểm hẹn này được canh trừng bởi tầu ngầm Đức, chiếc U-14 , nó đã phóng ngư lôi và đánh chìm chiếc E20 giết chết tất cả chỉ trừ chín người trong số thủy thủ đoàn. Chiếc Turquoise được vớt lên và đưa vào biên chế (nhưng khônglàm nhiệm vụ) Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ với cái tên Onbasi Müstecip, được đặt theo tên chỉ huy pháo thủ đã buộc tầu Pháp phải đầu hàng.
    Chiến dịch tàu ngầm của Đồng Minh trong biển Marmara là một trong những cuộc tấn công thành công đáng kể trong trận Gallipoli. Giữa tháng 4 năm 1915 đến tháng 1 năm 1916, chín tàu ngầm của Anh đã đánh chìm hai tàu thiết giáp (mặc dù đã lỗi thời) và một tàu khu trục, năm pháo hạm, chín tàu vận tải, bảy tầu cung cấp, 35 tàu hơi nước và 188 các tàu loại nhỏ hơn với tổn thất tổng cộng 8 tàu ngầm của Đồng Minh bị đánh chìm tại eo biển hoặc trong biển Marmara. Người Thổ Nhĩ Kỳ bị buộc phải từ bỏ việc sử dụng biển Marmara như là một tuyến đường vận chuyển.
    Năm 1993, một hoạt động khai thác than cho thấy xác tàu của một tàu ngầm Đức, chiếc UB-46, gần bờ biển Kemerburgaz. Sau khi thực hiện nhiệm vụ trong Hắc ha?i, trên đường trở về, chiếc UB-46 trúng một quả thủy lôi gần Karaburun và chìm với tất cả các thủy thủ của nó. Con tầu này bây giờ được trưng bày tại Bảo tàng Hải quân Besiktas tại Istanbul.
    Hỗ trợ cho bộ binh
    Quân đoàn viễn chinh Địa Trung Hải được thành lập vào ngày 12 tháng 3 dưới sự chỉ huy của tướng Sir Ian Hamilton bao gồm khoảng 70.000 binh sĩ. Tại một cuộc họp ngày 22 tháng 03, bốn ngày sau sự thất bại của hải quân, người ta đã quyết định sử dụng bộ binh để chiếm bán đảo Gallipoli và chiếm giữ các pháo đài, mở đường cho hải quân đi qua vào biển Marmara. Công việc chuẩn bị cho đổ bộ kéo dài một tháng, tạo điều kiện cho quân phòng thủ Thổ Nhĩ Kỳ có dư dật thời gian để củng cố.
    Các nhà lập kế hoạch Anh vẫn đánh giá thấp khả năng của người Thổ Nhĩ Kỳ và, lúc bắt đầu, nó được dự kiến là cuộc xâm lược nhanh chóng. Một lực lượng Anh đổ bộ vào Cape Helles, sau đó tiến sâu sáu dặm (11 km) vào ngày đầu tiên và vào ngày thứ hai, sẽ chiếm cao nguyên Kilitbahir, ở đây họ có thể nhìn ra eo biển hẹp. Nhưng như thực tế đã xảy ra, trong tám tháng chiến đấu người Anh không bao giờ vượt quá được nhiều hơn năm dặm Anh (9 km) và mục tiêu ngày đầu tiên của họ là Krithia và đồi Achi Baba vẫn còn nằm ngoài tầm với.
    Cuộc đổ bộ vào Gallipoli là chiến dịch đổ bộ lớn nhất trong chiến tranh. Cuộc đổ bộ ban đầu được thực hiện tại Cape Helles do Sư đoàn 29 Anh và tại GABA Tepe do Quân đoàn hỗn hợp Úc và New Zealand. Cuộc đổ bộ thứ hai, bị mất liên lạc và binh sỹ được đổ bộ quá xa bờ bắc tại một nơi nay là Anzac Cove. Trong cả hai đợt đổ bộ, các tàu chiến đều làm lực lượng yểm trợ hai bên cánh chỉ có ngoại lệ ở V Beach tại Helles nơi chiếc SS River Clyde được sử dụng như một chiếc tầu đổ bộ và chuyên chở 2.000 binh lính.


    Bản đồ của lực lượng đổ bộ bao gồm từ tàu chiến (Màu đỏ) và
    tàu khu trục (Màu cam) tại Anzac Cove, 25 tháng tư 1915.
    Trong đợt đổ bộ tại Anzac Cove, lớp quân đổ bộ đầu tiên đã đi thuyền vào bờ từ ba chiếc thiết giáp hạm lớp Formidable; các chiếc HMS London, Prince of Wales và Queen. Lớp đổ bộ thứ hai đã lên bờ từ bảy tàu khu trục. Dưới sự hỗ trợ của các chiếc Triumph, Majestic tuần dương Bacchante cùng với các thu?y phi cơ từ tàu sân bay Ark Royal và chiếc khinh khí cầu Manica đây là chiếc khí cầu được dùng để cung cấp tọa độ bắn cho pháo binh.
    Các đợt đổ bộ vào tại Cape Helles được trải rộng trên năm bãi biển với những hướng chính là bãi biển V & W ở mũi của bán đảo. Trong khi đổ bộ vào Anzac được lập kế hoạch như là một cuộc triển khai bất ngờ mà không có các đợt bắn phá sơ bộ, thì cuộc đổ bộ vào Helles được thực hiện sau khi các bãi biển và pháo đài đã bị bắn phá bởi các tàu chiến. Việc đổ bộ vào S Beach bên trong các eo biển đã được thực hiện từ tàu chiến Cornwallis và hầu như không gặp mây kho khăn. Lực lương đổ bộ vào W Beach được sự yểm hộ từ các tàu tuần dương HMS Euryalus và thiết giáp hạm Implacable và các tầu này cũng mang quân để đổ bộ vào bãi biển X. Các tàu tuần dương HMS Dublin và thiết giáp hạm Goliath hỗ trợ các đổ bộ vào bãi biển X cũng như đổ một cuộc bộ nhỏ ở phía bắc trên bờ biển Aegean tại bãi biển Y, sau đó đợt này bị từ bỏ.
    Vai trò của lực lượng hải quân này là để hỗ trợ đổ bộ, sử dụng súng hải quân để thay thế pháo dã chiến, loại vũ khí đang bị thiếu hụt một cách trầm trọng trong năm 1915. Tuy nhiên, với một vài ngoại lệ ngoạn mục, hiệu suất của súng hải quân đối với các mục tiêu đất liền được cho là không cao, đặc biệt là để tấn công vào các vị trí cố thủ. Các khẩu súng thiếu độ cao ( do hạn chế của tháp pháo) do đó phải bắn với một đạn đạo không đổi, cùng với nền tảng của súng vốn đã không ổn định, dẫn đến kết quả kém chính xác giảm.
    Tuy nhiên súng của tàu chiến cũng chứng minh hiệu quả chống lại các đợt tấn công của bộ binh. Ngày 27 tháng 4, trong cuộc tấn công đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ ở Anzac, trung đoàn 57 Thổ Nhĩ Kỳ tấn công đổ dốc ra biển trong phạm vi của chiếc thiết giáp hạm Hill trong tầm ngắm của chiếc Queen Elizabeth, chiếc nàyắn một loạt sáu phát đạn 15 in, ngăn chặn hoàn toàn cuộc tấn công này. Ngày 28 tháng 4, gần bãi biển Y, chiếc Queen Elizabeth quan sát thấy một đợt tấn công của khoảng 100 lính Thổ Nhĩ Kỳ. Một phát đạn 15 in có chứa 24.000 viên được bắn ra ở tầm ngắn và xóa sổ toàn bộ toán quân trên. Đối với phần còn lại của chiến dịch người Thổ Nhĩ Kỳ rất cảnh giác với di chuyển trong phạm vi tầm nhìn của chiến hạm.


    Những giây phút cuối của chiếc Majestic, bị chìm vì trúng ngư lôi của chiếc U-21 ngày 27 tháng 5.
    Cũng trong ngày 27 tháng tư, một quả khinh khí cầu phát hiện một con tàu vận tải Thổ Nhĩ Kỳ di chuyển gần eo biển. Chiếc Queen Elizabeth, đang đóng ở ngoài khơi GABA Tepe, đã bắn qua bán đảo, ở khoảng cách trên 10 dặm (khoảng 20 km), và đánh chìm chiếc tầu vận tải với phát bắn thứ ba của nó. Đối với phần lớn thời gian chiến dịch người Thổ Nhĩ Kỳ vận chuyển quân qua các tuyến đường sắt mặc dù các vật tư khác tiếp tục được vận chuyển bằng tàu trên biển Marmara và Dardanelles.
    Người ta đã nhanh chóng trở nên rõ ràng rằng cuộc chiến ở Gallipoli sẽ không là một chiến dịch nhanh chóng hay dễ dàng. Tại Helles, nơi ban đầu là chiến trường chính, một loạt các trận đánh tốn kém ở tiền tuyến chỉ nhằm để tiến gần hơn tới Krithia. Qua những trận chiến, hải quân tiếp tục cung cấp hỗ trợ bằng oanh tạc hải pháo. Tuy nhiên, trong tháng 5 đã có ba tàu chiến bị trúng ngư lôi, chiếc Goliath trong Morto Bay ngày 12 tháng 5, chiếc Triumph ngoài khơi Anzac, ngày 25 tháng 5 và chiếc Majestic ngoài khơi bãi biển W ngày 27 tháng 5. Chiếc Goliath bị đánh chìm bởi tàu phóng ngư lôi của Thổ Nhĩ Kỳ, chiếc Muavenet, trong khi hai chiếc khác bị đánh chìm bởi tầu ngầm Đức, chiếc U-21. Sau những mất mát trên, sự hỗ trợ thường xuyên từ các thiết giáp hạm giảm xuống với việc sự rút đi của chiếc thiết giáp hạm có giá trị HMS Queen Elizabeth bởi Bộ ha?i quân ngay sau khi tin tức về việc mất chiếc HMS Goliath đến tai họ. Để thay thế các thiết giáp hạm việc hỗ trợ của hải pháo được tiến hành bởi các tàu tuần dương, tàu khu trục và tầu lớp Monitor mục đích thiết kế là để chuyên bắn phá ven biển.
    Một khi lực lượng hải quân trở nên cảnh giác với mối đe dọa tàu ngầm, thiệt hại đã chấm dứt. Ngoại trừ các hoạt động liên tục của tàu ngầm Đồng Minh trong eo biển Dardanelles và biển Marmara, thiệt hại đáng kể duy nhất của hải quân sau tháng 5 là chiếc tầu khu trục lớp Laforey, chiếc HMS Louis, vào ngày 31 tháng 10 bị mắc cạn ngoài khơi Suvla trong một cơn gió mạnh và bị vỡ. Việc tiêu hủy con tàu bị mắc kẹt được tăng tốc bởi sự trợ giúp từ súng của người Thổ Nhĩ Kỳ.
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Một tàu ngầm nữa của Anh cũng có một chuyến hành trình thành công vào biển Marmara đó là chiếc E11, được chỉ huy bởi Trung úy Martin Nasmith, người được trao huân chương VC và thăng cấp đại úy vì thành tích của mình. Ông đã đánh chìm hoặc vô hiệu 11 chiếc tàu trong ba ngày từ ngày 24 tháng 5 tại cảng Rodosto trên bờ biển Thrace. Ngày 08 tháng 8, trong một đi tuần tiếp theo vào biển Marmara, chiếc E11 phóng ngư lôi vào chiếc thiết giáp hạm Hayreddin Barbarossa của Thổ Nhĩ Kỳ.
    Một số nhiệm vụ phá hoại được thực hiện bởi các nhóm được đổ bộ từ tàu ngầm. Ngày 08 tháng 9, thiếu úy H.V. Lyon từ tàu ngầm E2 của Anh, bơi vào bờ gần Küçükçekmece (Thrace) để cho nổ một cây cầu đường sắt. Cây cầu đã bị phá hủy nhưng Lyon đã không bao giờ trở về. Các nỗ lực cũng đã được thực hiện để phá vỡ tuyến đường sắt chạy sát mặt nước dọc theo Vịnh İzmit trên bờ biển châu Á. Vào đêm 20 tháng 8, trung úy D?Oyly Hughes từ chiếc E11 bơi lên bờ và cho nổ tung một phần của tuyến đường sắt, ông đã có được phần thưởng Distinguished Service Order cho những nỗ lực của mình. Ngày 17 tháng 7, chiếc tàu ngầm E7 đã bắn phá các tuyến đường sắt và sau đó đã phá hủy hai chiếc xe lửa đã buộc phải dừng lại.
    [​IMG]
    Ảnh chiếc E2 của Anh, nó có tải trọng tối đa 809 tấn và tốc độ tối đa 15 hải lý/ giờ khi nổi trên mặt nước, 9,5 hải lý giờ khi lặn sâu
    [​IMG]
    Ảnh chiếc E27 của Anh, nó có tải trọng tối đa 809 tấn và tốc độ tối đa 15 hải lý/ giờ khi nổi trên mặt nước, 9,5 hải lý giờ khi lặn sâu, chiếc này hy sinh vì mắc lưới chống tầu ngầm
    Người Pháp cũng tiếp tục các nỗ lực để vào biển Marmara. Tiếp theo thành công của chiếc AE2 và E14, chiếc Tàu ngầm Pháp Joule cố gắng đột nhập vào ngày 01 tháng 5, nhưng đã đâm vào một quả thủy lôi và đã bị đắm với toàn bộ thủy thủ đoàn. Các nỗ lực tiếp theo đã được thực hiện bởi chiếc Mariotte ngày 27 tháng 7. Tuy nhiên, chiếc Mariotte thất bại trong việc vượt qua lưới chống tàu ngầm mà chiếc E14 đã làm được và bị buộc phải bề mặt. Sau khi bị bắn trúng từ các khẩu đội pháo bờ biển, chiếc Mariotte bị đánh đắm. Ngày 04 tháng 09, vẫn chiếc lưới này đã đánh bắt được chiếc E7 khi nó đang cố gắng để bắt đầu một chuyến đi vào biển Marmara.
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tầu ngầm E20 của Anh, chiếc này bị phục kích và bắn hạ bởi chiếc tầu ngầm U-14 của Đức
    Tàu ngầm đầu tiên của Pháp vào biển Marmara là chiếc Turquoise. Tuy nhiên, nó đã buộc phải quay lại và, ngày 30 tháng 10, khi cố gắng quay trở lại qua eo biển, nó bị mắc cạn dưới một pháo đài và bị bắt giữ nguyên vẹn. Các thủy thủ đoàn 25 người được bắt làm tù binh và các tài liệu chi tiết về kế hoạch hoạt động của quân Đồng minh đã bị phát hiện, bao gồm một lịch điểm hẹn với tàu ngầm Anh, chiếc E20, ngày 6 tháng 11. Điểm hẹn này được canh trừng bởi tầu ngầm Đức, chiếc U-14 , nó đã phóng ngư lôi và đánh chìm chiếc E20 giết chết tất cả chỉ trừ chín người trong số thủy thủ đoàn. Chiếc Turquoise được vớt lên và đưa vào biên chế (nhưng khônglàm nhiệm vụ) Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ với cái tên Onbasi Müstecip, được đặt theo tên chỉ huy pháo thủ đã buộc tầu Pháp phải đầu hàng.
    Chiến dịch tàu ngầm của Đồng Minh trong biển Marmara là một trong những cuộc tấn công thành công đáng kể trong trận Gallipoli. Giữa tháng 4 năm 1915 đến tháng 1 năm 1916, chín tàu ngầm của Anh đã đánh chìm hai tàu thiết giáp (mặc dù đã lỗi thời) và một tàu khu trục, năm pháo hạm, chín tàu vận tải, bảy tầu cung cấp, 35 tàu hơi nước và 188 các tàu loại nhỏ hơn với tổn thất tổng cộng 8 tàu ngầm của Đồng Minh bị đánh chìm tại eo biển hoặc trong biển Marmara. Người Thổ Nhĩ Kỳ bị buộc phải từ bỏ việc sử dụng biển Marmara như là một tuyến đường vận chuyển.
    Năm 1993, một hoạt động khai thác than cho thấy xác tàu của một tàu ngầm Đức, chiếc UB-46, gần bờ biển Kemerburgaz. Sau khi thực hiện nhiệm vụ trong Hắc ha?i, trên đường trở về, chiếc UB-46 trúng một quả thủy lôi gần Karaburun và chìm với tất cả các thủy thủ của nó. Con tầu này bây giờ được trưng bày tại Bảo tàng Hải quân Besiktas tại Istanbul.
    Hỗ trợ cho bộ binh
    Quân đoàn viễn chinh Địa Trung Hải được thành lập vào ngày 12 tháng 3 dưới sự chỉ huy của tướng Sir Ian Hamilton bao gồm khoảng 70.000 binh sĩ. Tại một cuộc họp ngày 22 tháng 03, bốn ngày sau sự thất bại của hải quân, người ta đã quyết định sử dụng bộ binh để chiếm bán đảo Gallipoli và chiếm giữ các pháo đài, mở đường cho hải quân đi qua vào biển Marmara. Công việc chuẩn bị cho đổ bộ kéo dài một tháng, tạo điều kiện cho quân phòng thủ Thổ Nhĩ Kỳ có dư dật thời gian để củng cố.
    Các nhà lập kế hoạch Anh vẫn đánh giá thấp khả năng của người Thổ Nhĩ Kỳ và, lúc bắt đầu, nó được dự kiến là cuộc xâm lược nhanh chóng. Một lực lượng Anh đổ bộ vào Cape Helles, sau đó tiến sâu sáu dặm (11 km) vào ngày đầu tiên và vào ngày thứ hai, sẽ chiếm cao nguyên Kilitbahir, ở đây họ có thể nhìn ra eo biển hẹp. Nhưng như thực tế đã xảy ra, trong tám tháng chiến đấu người Anh không bao giờ vượt quá được nhiều hơn năm dặm Anh (9 km) và mục tiêu ngày đầu tiên của họ là Krithia và đồi Achi Baba vẫn còn nằm ngoài tầm với.
    Cuộc đổ bộ vào Gallipoli là chiến dịch đổ bộ lớn nhất trong chiến tranh. Cuộc đổ bộ ban đầu được thực hiện tại Cape Helles do Sư đoàn 29 Anh và tại GABA Tepe do Quân đoàn hỗn hợp Úc và New Zealand. Cuộc đổ bộ thứ hai, bị mất liên lạc và binh sỹ được đổ bộ quá xa bờ bắc tại một nơi nay là Anzac Cove. Trong cả hai đợt đổ bộ, các tàu chiến đều làm lực lượng yểm trợ hai bên cánh chỉ có ngoại lệ ở V Beach tại Helles nơi chiếc SS River Clyde được sử dụng như một chiếc tầu đổ bộ và chuyên chở 2.000 binh lính.


    [​IMG]
    Bản đồ của lực lượng đổ bộ bao gồm từ tàu chiến (Màu đỏ) và tàu khu trục (Màu cam) tại Anzac Cove, 25 tháng tư 1915.
    Trong đợt đổ bộ tại Anzac Cove, lớp quân đổ bộ đầu tiên đã đi thuyền vào bờ từ ba chiếc thiết giáp hạm lớp Formidable; các chiếc HMS London, Prince of Wales và Queen. Lớp đổ bộ thứ hai đã lên bờ từ bảy tàu khu trục. Dưới sự hỗ trợ của các chiếc Triumph, Majestic tuần dương Bacchante cùng với các thu?y phi cơ từ tàu sân bay Ark Royal và chiếc khinh khí cầu Manica đây là chiếc khí cầu được dùng để cung cấp tọa độ bắn cho pháo binh.
    Các đợt đổ bộ vào tại Cape Helles được trải rộng trên năm bãi biển với những hướng chính là bãi biển V & W ở mũi của bán đảo. Trong khi đổ bộ vào Anzac được lập kế hoạch như là một cuộc triển khai bất ngờ mà không có các đợt bắn phá sơ bộ, thì cuộc đổ bộ vào Helles được thực hiện sau khi các bãi biển và pháo đài đã bị bắn phá bởi các tàu chiến. Việc đổ bộ vào S Beach bên trong các eo biển đã được thực hiện từ tàu chiến Cornwallis và hầu như không gặp mây kho khăn. Lực lương đổ bộ vào W Beach được sự yểm hộ từ các tàu tuần dương HMS Euryalus và thiết giáp hạm Implacable và các tầu này cũng mang quân để đổ bộ vào bãi biển X. Các tàu tuần dương HMS Dublin và thiết giáp hạm Goliath hỗ trợ các đổ bộ vào bãi biển X cũng như đổ một cuộc bộ nhỏ ở phía bắc trên bờ biển Aegean tại bãi biển Y, sau đó đợt này bị từ bỏ.
    Vai trò của lực lượng hải quân này là để hỗ trợ đổ bộ, sử dụng súng hải quân để thay thế pháo dã chiến, loại vũ khí đang bị thiếu hụt một cách trầm trọng trong năm 1915. Tuy nhiên, với một vài ngoại lệ ngoạn mục, hiệu suất của súng hải quân đối với các mục tiêu đất liền được cho là không cao, đặc biệt là để tấn công vào các vị trí cố thủ. Các khẩu súng thiếu độ cao ( do hạn chế của tháp pháo) do đó phải bắn với một đạn đạo không đổi, cùng với nền tảng của súng vốn đã không ổn định, dẫn đến kết quả kém chính xác giảm.
    Tuy nhiên súng của tàu chiến cũng chứng minh hiệu quả chống lại các đợt tấn công của bộ binh. Ngày 27 tháng 4, trong cuộc tấn công đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ ở Anzac, trung đoàn 57 Thổ Nhĩ Kỳ tấn công đổ dốc ra biển trong phạm vi của chiếc thiết giáp hạm Hill trong tầm ngắm của chiếc Queen Elizabeth, chiếc nàyắn một loạt sáu phát đạn 15 in, ngăn chặn hoàn toàn cuộc tấn công này. Ngày 28 tháng 4, gần bãi biển Y, chiếc Queen Elizabeth quan sát thấy một đợt tấn công của khoảng 100 lính Thổ Nhĩ Kỳ. Một phát đạn 15 in có chứa 24.000 viên được bắn ra ở tầm ngắn và xóa sổ toàn bộ toán quân trên. Đối với phần còn lại của chiến dịch người Thổ Nhĩ Kỳ rất cảnh giác với di chuyển trong phạm vi tầm nhìn của chiến hạm.


    [​IMG]
    Những giây phút cuối của chiếc Majestic, bị chìm vì trúng ngư lôi của chiếc U-21 ngày 27 tháng 5.
    Cũng trong ngày 27 tháng tư, một quả khinh khí cầu phát hiện một con tàu vận tải Thổ Nhĩ Kỳ di chuyển gần eo biển. Chiếc Queen Elizabeth, đang đóng ở ngoài khơi GABA Tepe, đã bắn qua bán đảo, ở khoảng cách trên 10 dặm (khoảng 20 km), và đánh chìm chiếc tầu vận tải với phát bắn thứ ba của nó. Đối với phần lớn thời gian chiến dịch người Thổ Nhĩ Kỳ vận chuyển quân qua các tuyến đường sắt mặc dù các vật tư khác tiếp tục được vận chuyển bằng tàu trên biển Marmara và Dardanelles.
    Người ta đã nhanh chóng trở nên rõ ràng rằng cuộc chiến ở Gallipoli sẽ không là một chiến dịch nhanh chóng hay dễ dàng. Tại Helles, nơi ban đầu là chiến trường chính, một loạt các trận đánh tốn kém ở tiền tuyến chỉ nhằm để tiến gần hơn tới Krithia. Qua những trận chiến, hải quân tiếp tục cung cấp hỗ trợ bằng oanh tạc hải pháo. Tuy nhiên, trong tháng 5 đã có ba tàu chiến bị trúng ngư lôi, chiếc Goliath trong Morto Bay ngày 12 tháng 5, chiếc Triumph ngoài khơi Anzac, ngày 25 tháng 5 và chiếc Majestic ngoài khơi bãi biển W ngày 27 tháng 5. Chiếc Goliath bị đánh chìm bởi tàu phóng ngư lôi của Thổ Nhĩ Kỳ, chiếc Muavenet, trong khi hai chiếc khác bị đánh chìm bởi tầu ngầm Đức, chiếc U-21. Sau những mất mát trên, sự hỗ trợ thường xuyên từ các thiết giáp hạm giảm xuống với việc sự rút đi của chiếc thiết giáp hạm có giá trị HMS Queen Elizabeth bởi Bộ ha?i quân ngay sau khi tin tức về việc mất chiếc HMS Goliath đến tai họ. Để thay thế các thiết giáp hạm việc hỗ trợ của hải pháo được tiến hành bởi các tàu tuần dương, tàu khu trục và tầu lớp Monitor mục đích thiết kế là để chuyên bắn phá ven biển.
    Một khi lực lượng hải quân trở nên cảnh giác với mối đe dọa tàu ngầm, thiệt hại đã chấm dứt. Ngoại trừ các hoạt động liên tục của tàu ngầm Đồng Minh trong eo biển Dardanelles và biển Marmara, thiệt hại đáng kể duy nhất của hải quân sau tháng 5 là chiếc tầu khu trục lớp Laforey, chiếc HMS Louis, vào ngày 31 tháng 10 bị mắc cạn ngoài khơi Suvla trong một cơn gió mạnh và bị vỡ. Việc tiêu hủy con tàu bị mắc kẹt được tăng tốc bởi sự trợ giúp từ súng của người Thổ Nhĩ Kỳ.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 14:49 ngày 17/05/2010

Chia sẻ trang này