1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [​IMG]
    Lúc 06:04 AM: Ở phía bên trái, một cột khói lớn bốc lên từ chỗ chiếc Hood bị đắm, chiếc Prince of Wales bắt đầu tháo lui trước làn hỏa lực dữ dội của đối phương ở bên phải, khi mà loạt đạn thứ 19 của nó ?" loạt đạn đầu tiên được điều khiển tại chỗ ?" đã thiếu tầm hàng nghìn yard.
    [​IMG]
    Lúc 06:07 AM: Khói từ điểm mà chiếc Hood bị chìm ở bên trái và màn khói của chiếc Prince of Wales ở bên phải.
    [​IMG]
    Lúc 06:25 AM Tầm nhìn của Jasper - sỹ quan pháo binh của chiếc Prinz Eugen khi ông leo lên mũi tầu để tìm kiếm một sự quan sát toàn cảnh cho trận chiến: Khói từ điểm mà chiếc Hood bị chìm bốc lên ở trên trái, chiếc Norfolk xuất hiện trên đường chân trời ở giữa và chiếc Prince of Wales đang nhả khói dày đặc ở bên phải.
    Chiếc Prince of Wales thấy rằng mình đang đi thẳng vào nơi chiếc Hood bị đánh chìm. Sĩ quan chỉ huy của nó, Đại tá John C. Leach ra lệnh chuyển hướng khẩn cấp để tránh đống đổ nát của chiếc Hood. Sự thay đổi này tất nhiên đã can thiệp làm mất mục tiêu của nó và đặt nó vào vị thế làm người Đức dễ dàng hơn để nhắm bắn. Nó lại tiếp tục hướng đi trước đây nhưng giờ đây nó nằm dưới hỏa lực tập trung của cả hai tàu của Đức.
    Chiếc Prince of Wales đã trúng bốn phát đạn bắn từ chiếc Bismarck và ba phát đạn bắn từ chiếc Prinz Eugen. Một phát đạn xuyên qua phần trên của phần thượng tầng cu?a con tàu, giết chết và làm bị thương một số thuyền viên ở bộ phận la bàn (Compass Platform) và ụ phòng không (Air Defense Platform). Mảnh của một viên đạn khác văng vào khu vực radar ở phía sau giết chết các thuyền viên bên trong. Một phát đạn 203 mm từ chiếc Prinz Eugen bắn trúng buồng thao tác bên dưới tháp pháo 5,25 in ở phía sau và một phát đạn 380 mm từ chiếc Bismarck bắn trúng vành đai giáp dưới ở dưới mực nước và xuyên vào khoảng 13 ft (4 m) vào sâu trong thân của con tàu, khoảng 25 ft (8 m) dưới mực nước, nhưng bị chặn lại do giáp vách ngăn chống ngư lôi. May mắn cho chiếc Prince of Wales phát đạn này đã không bao phát nổ, nhưng nó vẫn còn bị ngập nước và thiệt hại mất một số ít dầu nhiên liệu. Trái với một số ý kiến sai lầm, phát đạn 380 mm bắn trúng phần dưới mực nước của chiếc Prince of Wales đã không gây nguy hiểm cho các kho đạn của nó, khi nó quay ngang vào một phòng chứa máy móc thiết bị phụ trợ.
    Vào thời gian này, trục trặc nghiêm trọng về xạ kích đã tạo ra các vấn đề liên tục với hệ thống vũ khí chính, dẫn đến con tầu bị giảm 26% số lượng các phát bắn. Thuyền trưởng Leach nhận ra rằng nếu tiếp tục chiến đấu có nguy cơ sẽ mất nốt chiếc Prince of Wales mà không gây được thiệt hại hơn nữa cho kẻ thù. Vì thế ông ra lệnh cho tàu của mình phun khói và rút lui ?otrong khi chờ cơ hội thuận lợi hơn ?o. Chiếc Prince of Wales chuyển hướng ngay sau lúc 0.6:04, tháp pháo ở phía sau vẫn tiếp tục bắn dưới sự kiểm soát tại chỗ cho đến khi nguồn tiếp đạn của nó bị kẹt và làm cho các súng không thể hoạt động. Bất chấp những nỗ lực của các thành viên thủy thủ đoàn và các kỹ thuật viên dân sự để sửa chữa các vòng tiếp đạn, tất cả 4 khẩu súng đã không trở lại hoạt động cho đến 0.8:25, mặc dù 2 của 4 khẩu súng tạm dùng được vào lúc 0.7:20. Lúc này tạm thời chỉ còn lại có năm súng 14-inch còn hoạt động, nhưng chín trong số mười khẩu đã hoạt động trong vòng năm giờ. Các loạt đạn đã trở nên rời rạc và được cho là bị mất tầm. Nó đã ra khỏi trận chiến vào khoảng sau 0.6:10. Mười ba thủy thủ đoàn thiệt mạng, chín người bị thương. Thời gian mà chiếc Prince of Wales bỏ chạy tình cờ nó đã đi qua rất nhiều phát ngư lôi được bắn từ chiếc Prinz Eugen và quay lưng lại phía chiếc tuần dương hạm Đức lúc chiếc này vẫn cố bắn đuổi theo. ( rất tiếc cho người Đức là mục tiêu họ là đoàn công voa chở hàng nếu không thì dưới sự truy đuổi của tầu Đức chiếc Prince of Wales chẳng phải đợi đến trận Singapor mới bỏ mạng)
    Trận đánh bị gián đoạn
    Trên chiếc Bismarck lúc này đã có nhiều hứng khởi khi họ đánh chìm chiếc Hood. Cũng có một ý tưởng rằng họ sẽ theo chặt chẽ chiếc Prince of Wales và có thể sé kết thúc nó. Thuyền trưởng Ernst Lindemann của chiếc Bismarck yêu cầu Đô đốc Günther Lütjens cho phép chiếc Bismarck làm việc này. Thuyền trưởng Lindemann là một tay kỳ cựu về pháo binh hải quân và ông ta biết rằng chiếc Prince of Wales đã ở trong tầm tay. Ngay cả trường hợp Hải đội của Đô đốc Anh John Tovey rời Scapa Flow từ ngày hôm trước, ông ta vẫn còn ở một khoảng cách khoảng hơn 300 hải lý (560 km) và chiếc Bismarck vẫn còn kịp chuyển hướng sau khi đuổi theo và hóa vàng chiếc Prince of Wales. Lindemann đã tính toán rằng có thể chỉ mất hai hoặc ba giờ để tận diệt chiếc tầu Anh. Lütjens đã không cho phép Lindemann đuổi theo mà không đưa ra lời giải thích nào. Lindemann đã lặp đi lặp lại yêu cầu của ông ta lần này quả quyết hơn. Lütjens đã phải xin chỉ thị từ Tư lệnh Hải quân Đức ?" Đại Đô đốc Erich Raeder để tránh chiến đấu một cách không cần thiết với Hải quân Hoàng gia, đặc biệt là khi nó có thể dẫn đến thiệt hại hơn nữa và có thể đẩy chiếc Bismarck về phía các lực lượng đối phương có thể đang phục sẵn. Ông ta đã ra lệnh ngừng chiến thay vì theo đuổi theo chiếc Prince of Wales và ra lệnh chuyển hướng về góc 270 độ, về phía tây. Chiếc Bismarck đã bắn 93 trong số 353 viên đạn xuyên giáp - Armour Piercing của nó trong thời gian tham gia trận đánh.
    Vụ việc này đã tạo ra đụng độ giữa hai sĩ quan cao cấp của Đức phản ánh về các chức năng khác nhau và các mệnh lệnh riêng biệt của họ. Với cương vị là chỉ huy của chiếc Bismarck, các hành động của Lindemann được ưu tiên và đặt lên trước hết có tính chất chiến thuật. Như vậy, ông đặt câu hỏi về mục tiêu trước mắt của con tầu của mình là phải tiêu diệt chiếc Prince of Wales, và ông đã gây sức ép với ý kiến của mình đến mức ông có thể làm. Lütjens chỉ huy trưởng hạm đội và chỉ huy lực lượng đặc nhiệm, có suy nghĩ ở cấp độ chiến lược. Ở một cấp độ, mệnh lệnh của ông là rõ ràng, tấn công đoàn công voa được ưu tiên hơn hết, không phải mạo hiểm tham gia vào một trận đánh với một mục tiêu hạn chế và có lẽ không chắc thắng. Và tất nhiên mệnh lệnh của Raeder cũng in sâu vào trong tâm trí của Lütjens rằng là chỉ chấp nhận chiến đấu nếu không thể tránh khỏi và cố gắng kết thúc trận đánh với ít tổn thất.
    Điểm mấu chốt là mệnh lệnh mà Lütjens nhận không phải là ưu tiên để đạt được một thành công ngoạn mục, ưu tiên của ông là phải tập trung đi vào những lộ trình đã được hướng dẫn, và ông phải đánh chìm đoàn tàu buôn và tránh chạm trán với tàu chiến đối phương bất cứ khi nào có thể. Hơn nữa trước khi rời Đức Lütjens đã nói với các Đô đốc Conrad Patzig và Wilhelm Marschall rằng ông ta sẽ tuân theo chỉ thị của Raeder. Điều này có nghĩa ông không có ý định trở thành một người chỉ huy thứ ba đi ngược lại mệnh lệnh của Raeder (chỉ huy thứ nhất tất nhiên là Raeder, chỉ huy thứ hai là thuyền trưởng Lindemann, Lütjens chỉ là người thay mặt Raeder trong chiến dịch này), Marschall một trong hai người tiền nhiệm của ông ta đã bị thuyên chuyển khỏi chức vụ chỉ huy Hạm đội vì không tuân theo mệnh lệnh mà mình đã nhận mặc dù thực tế là Marschall đã phân tích về những thay đổi thực tế về tình hình chiến thuật và đã đưa ra những mệnh lệnh dẫn đến việc đánh chìm chiếc tàu sân bay HMS Glorious của Anh và hai tàu khu trục hộ tống. Và ông ta (Lütjens) không đủ ảnh hưởng để thảo luận về quyết định này của mình với một sĩ quan cấp dưới cứng đầu (thuyền trưởng kỳ cựu Lindemann).
    Ngay cả khi ông biết rằng dù chưa thư? kết thúc chiếc Prince of Wales thì ông cũng không biết rằng mình có phải chiến đấu với chiếc King George V hay không, lúc này có lẽ Lütjens gặp khó khăn để ra quyết định. Bởi vì tiếp tục truy đuổi chiếc Prince of Wales thì hải đội Đức sẽ để lộ thêm vị trí và phải chịu hỏa lực cũng như ngư lôi tấn công từ các chiếc Norfolk và Suffolk. Ông không muốn liều lĩnh đánh cược con tàu và thuyền viên của mình vào một cơ hội rõ ràng bị cấm.
    Vào khoảng thời gian từ 0.6:19 đến 0.6:25 chiếc Suffolk bắn sáu loạt đạn theo hướng chiếc Bismarck vì sóng radar của nó nhầm lẫn chiếc Bismarck khi tiếp xúc với một chiếc máy bay. Nó thực sự ra khỏi phạm vi của các khẩu súng của cả chiếc Bismarck và chiếc Prinz Eugen tại thời điểm đó.
    Bất chấp khuyến cáo của Lindemann là nên trở về Bergen, Lütjens đã ra lệnh cho chiếc Bismarck quay đầu về phía cảng Saint-Nazaire Pháp. Mặc dù bờ biển Pháp xa hơn 600 dặm (970 km) so với Bergen, nhưng vùng biển Saint-Nazaire có đêm biển dài hơn và biển cũng rộng hơn do đó chiếc Bismarck dễ thoát khỏi những tầu đeo bám hơn, cộng với khả năng thu hút chúng vào một dòng U-Boat. Đây cũng là cơ hội để chiếc Bismarck sẵn sàng tấn công vào cạnh sườn của các tuyến đường thương mại của Anh một khi thiệt hại đã được sửa chữa, và với sự hỗ trợ tiềm năng của các tàu tuần dương thiết giáp Scharnhorst và Gneisenau. Cả hai chiếc tàu này hiện đang đóng tại Brest - Pháp từ cuối Chiến dịch Berlin hồi đầu năm đó nhưng cũng là được lưu giữ tại cảng để sửa chữa và đại tu. Trong khi Brest ở gần hơn Saint-Nazaire, nhưng nó cũng nằm trong phạm vi của máy bay ném bom Anh Royal Air Force.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:47 ngày 02/08/2010
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hậu quả của trận chiến
    Với cái chết của Phó Đô đốc Holland, quyền chỉ huy của chiếc Prince of Wales cũng như các chiếc Norfolk và Suffolk được chuyển sang cho Chuẩn Đô đốc Anh Frederic Wake-Walker lúc này đang ở trên chiếc kỳ hạm Norfolk. Nhận được mệnh lệnh là phải cầm chân chiếc Bismarck cho đến khi người Anh tập hợp đủ tàu chiến để có thể tiêu diệt được kẻ thù của mình. Ông ta có hai sự lựa chọn hoặc là tổ chức trận chiến mới với chiếc Bismarck hoặc bảo đảm rằng nó phải bị chặn lại và phải giao chiến với lực lượng của Đô đốc Tovey. Wake-Walker đã chọn giải pháp thứ hai, tiếp tục theo bóng tàu Đức. Hơn nữa nếu giao chiến, ông kết luận, thì chiếc Prince of Wales sẽ yếu thế hơn rất nhiều so với chiếc Bismarck và điều này cũng gây nguy hiểm cho các tàu tuần dương của ông, cộng với ông biết rằng Tovey đang trên đường tới. Ông ra lệnh cho chiếc Prince of Wales chạy theo chiếc Norfolk ở tốc độ cao nhất của nó để chiếc Norfolk không bị cô độc nếu bị tấn công. Lúc 07:57 chiếc Suffolk báo cáo rằng chiếc Bismarck đã giảm tốc độ và hình như có xuất hiện hư hỏng.
    Kể từ lúc chiếc Bismarck nhận phát bắn đầu tiên vào phần trước cu?a con tàu, tất cả sáu đội sửa chữa gồm 26 người của con tàu đã làm việc không nghỉ để sửa chữa những thiệt hại. Khi nhận được báo cáo rằng các chân vịt cánh quạt bên mạn phải có thể bị bênh lên khỏi mặt nước, Lindemann đã ra lệnh phải chặn nước ngập ở hai ngăn phía sau để khôi phục lại trọng tâm của con tàu. Sau đó ông ra lệnh cho các thợ lặn vào phần trước cu?a con tàu để lấy dầu các thùng nhiên liệu phía trước, đây là các thùng có chứa 1.000 tấn nhiên liệu cực kỳ cần thiết cho con tầu, đầu tiên là chiếc thùng ở gần lò hơi phía trước sau đó đến các thùng nhiên liệu phía sau bằng một đường ống tạm thời chạy qua tầng trên. Cả hai biện pháp này đều thất bại. Lindemann sau đó yêu cầu cho phép chiếc Bismarck chạy chậm lại đầu tiên để sửachữa phần đuôi sống tầu ở một bên còn bên kia thì phải cho hàn các bản vá từ bên trong để lấp các lỗ hổng trên phần thân con tàu ở phía trước. Lütjens lại từ chối một lần nữa mà không giải thích. Cuối cùng, viên đô đốc đã phải đồng ý để giảm tốc độ con tàu xuống còn 22 hải lý (41 km / h) để cho phép dựng một giàn giáo và vá chiếc lỗ thủng ở phòng lò hơi số 2 và phòng lò hơi phụ trợ để ngăn chặn sự thâm nhập ngày càng tăng của nước biển. Nỗ lực này cũng thất bại nốt, phòng nồi hơi số 2 đã phải bị đóng cửa và làm giảm tốc độ xuống còn 28 hải lý (52 km / h).
    Cùng với việc nước biển chảy vào thì dầu nhiên liệu cũng bị rò rỉ ra ngoài. Đô đốc Lütjens phải ra lệnh cho chiếc Prinz Eugen quay trở lại để xem xét, chiếc thảm dầu đủ rộng để bao phủ cả hai bên lằn của con tàu, nước biển có màu sắc của cầu vồng và có mùi dầu đậm - một dấu hiệu để truy tìm chiếc Bismarck.
    [​IMG]
    Hình vẽ chiếc Bismarck với lỗ hổng tướng ở phía trước do đạn pháo của chiếc Hood - phần bị bôi mờ
    Các thiệt hại của chiếc Bismarck ở thùng nhiên liệu phía trước cùng với một cơ hội bỏ lỡ để tiếp nhiên liệu tại Bergen lúc trước đó trong chuyến đi làm cho nó còn ít hơn 3.000 tấn nhiên liệu, không đủ để hoạt động một cách có hiệu quả để tấn công các đoàn công voa vượt Đại Tây Dương. Ngoài ra, yếu tố bất ngờ được xem là thiết yếu cho sự thành công của hoạt động này chắc chắn đã bị mất và Hải đội Đức vẫn tiếp tục bị theo dõi bởi các chiếc Suffolk, Norfolk và cuối cùng là chiếc Prince of Wales. Lütjens kết luận rằng ông ta thấy cần thiết để hủy bỏ nhiệm vụ của chiếc Bismarck và hướng về một nơi là vị trí thuận tiện để sửa chữa con tầu.
    Bất chấp khuyến cáo của Lindemann là nên trở về Bergen, Lütjens đã ra lệnh cho chiếc Bismarck quay đầu về phía cảng Saint-Nazaire Pháp. Mặc dù bờ biển Pháp xa hơn 600 dặm (970 km) so với Bergen, nhưng vùng biển Saint-Nazaire có đêm biển dài hơn và biển cũng rộng hơn do đó chiếc Bismarck dễ thoát khỏi những tầu đeo bám hơn, cộng với khả năng thu hút chúng vào một dòng U-Boat. Đây cũng là cơ hội để chiếc Bismarck sẵn sàng tấn công vào cạnh sườn của các tuyến đường thương mại của Anh một khi thiệt hại đã được sửa chữa, và với sự hỗ trợ tiềm năng của các tàu tuần dương thiết giáp Scharnhorst và Gneisenau. Cả hai chiếc tàu này hiện đang đóng tại Brest - Pháp từ cuối Chiến dịch Berlin hồi đầu năm đó nhưng cũng là được lưu giữ tại cảng để sửa chữa và đại tu. Trong khi Brest ở gần hơn Saint-Nazaire, nhưng nó cũng nằm trong phạm vi của máy bay ném bom Anh Royal Air Force.
    Lütjens cho tách chiếc Prinz Eugen vốn không bị hư hại ra để bắt đầu đánh phá một mình. Chiếc tuần dương hạm này đi xa hơn về phía nam và tiến vào Đại Tây Dương, nơi nó được tiếp nhiên liệu từ một tàu chở dầu trên biển. Nó cũng có vấn đề về động cơ và phải từ bỏ nhiệm vụ đánh phá tuyến đường vận tải của nó mà không đánh chìm được bất kỳ tàu hàng nào và trở về Brest
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:58 ngày 02/08/2010
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Phản ứng
    Tại Đức
    Tin tức về quyết định của Lütjens đã đến Berlin, tại Wilhelmshaven (một hải cảng ở hạ Xắc xông Đức) và Paris như một tiếng sét ngang tai. Một trận bão các cuộc điện thoại khẩn cấp trên toàn lãnh bị Đức chiếm đóng ở châu Âu. Trong khi Bộ hải quân ở Berlin rất hài lòng với thành công của Lütjens thì họ lại phải kiềm chế bởi tin tức về thiệt hại của chiếc Bismarck và quyết định để cho nó quay về nước Pháp. Đại Đô đốc Raeder chưa rõ liệu dự định của Lütjens là cho nó chạy tới St Nazaire ngay lập tức hay sau khi xua đuổi hết những kẻ bám theo và tiếp dầu ở giữa Đại Tây Dương. Raeder ngay lập tức hội ý với tham mưu trưởng của mình, Đô đốc Otto Schniewind, người lần lượt gọi điện thoại cho Đô đốc Rolf Carls chỉ huy của Nhóm phía Bắc (Group North ) tại Wilhemshaven. Carls đã soạn thảo một tin nhắn bảo Lütjens hãy đến Đức nhưng vẫn chưa kịp gửi nó. Schniewind chỉ ra rằng vào buổi trưa khi mà Lütjens vượt qua đường ranh giới giữa Bắc và Nam Hebrides Greenland tức là đã vượt qua khỏi hoạt động kiểm soát của nhóm Bắc và đã nằm trong sự kiểm soát của nhóm Tây, vì vậy, quyết định gọi Lütjens quay lại của Carls không còn hiệu lực. Một cuộc gọi tiếp theo đến chỉ huy của West Group, Đô đốc Alfred Saalwächter, đã tiết lộ rằng ông này không có kế hoạch gọi Lütjens về và rằng ông cảm thấy đó là một quyết định cần được thảo luận giữa Schniewind và Raeder.
    Raeder lại một lần nữa tung ra một lệnh thu hồi, ông ta nói với Schniewind họ không biết đủ thông tin về tình hình hiện tại và là người có những thông tin tốt nhất sẽ chính là Lütjens. Sau đó ông ta gọi điện thoại cho Hitler lúc này đang ở tại Obersalzberg trong Bavarian Alps. Hitler nhận được tin chiếc Hood bị đánh chìm một cách lạnh lùng và không tỏ ra niềm vui chiến thắng hay bất cứ hành vi nào khác. Sau khi nghe báo cáo của Raeder, ông ta quay sang những người đang đứng với ông và bày tỏ những suy nghĩ cá nhân của mình:
    " Nếu bây giờ các tuần dương hạm của Anh tiếp tục bám đuổi và Lütjens đã đánh chìm chiếc Hood và gần như làm tê liệt một chiếc khác mà đây lại là chiếc tầu chiến mới và nó (chiếc Prince of Wales) đang gặp vấn đề với các khẩu súng của mình trong chiến đấu vậy tại sao anh ta không nhấn chìm nó đi? Tại sao anh ta không cố gắng để thoát ra khỏi đó hoặc tại sao anh ta không quay lại? "
    Tin tức của sự kiện chiếc Hood được đón nhận nhiệt tình hơn khi đến tai Tiến sĩ Joseph Goebbels Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền. Chiều tối hôm đó tin này đã được phát sóng trên toàn quốc kèm theo khẩu hiệu "Chúng ta diễu hành chống lại nước Anh" và những hành động tuyên truyền khác. Công chúng Đức được thưởng thức những tin tức vui như Không quân Đức chiến thắng trước Hải quân Hoàng gia ở ngoài khơi Crete, và lấy sự kiện chiếc Hood bị đánh chìm làm nguồn cảm hứng.
    Tại Anh
    Công chúng của nước Anh đã bị sốc khi biết rằng chiếc tàu chiến điển hình nhất của họ và hơn 1.400 thành viên thủy thủ đoàn đã nổ tung một cách đột ngột. Bộ Hải quân đã huy động mọi tàu chiến có sẵn tại Đại Tây Dương để săn lùng và tiêu diệt chiếc Bismarck. Lực lượng Hải quân Hoàng gia đã theo đuổi, chặn đánh chiếc Bismarck và chiếc tàu chiến của Đức đã bị đánh chìm vào sáng ngày 27 tháng 5 năm 1941.
    Sau đó là việc tòa án quân sự xét sử Chuẩn Đô đốc Wake-Walker và thuyền trưởng John Leach của chiếc Prince of Wales. Quan điểm quả tòa án đã phán quyết rằng họ đã sai lầm không tiếp tục cuộc chiến với chiếc Bismarck sau khi chiếc Hood bị đánh chìm. John Tovey chỉ huy trưởng của Home Fleet đã bị chỉ trích một cách kịch liệt. Một hàng rào sau đó đã được dựng lên giữa Tovey và cấp trên của ông ta, Đô đốc Sir Dudley Pound. Tovey đã nói rằng hai sĩ quan đã hành động một cách chính xác, không gây nguy hiểm cho tàu của họ một cách vô ích và bảo đảm rằng những con tàu của Đức vẫn bị theo dõi. Hơn nữa súng chính của chiếc Prince of Wales đã nhiều lần bị trục trặc làm nó không thể đối đầu với chiếc Bismarck. Tovey đe dọa sẽ từ chức và xuất hiện ở nhiều phiên tòa án để bảo vệ những người bạn và bảo vệ những nhân chứng. Sau đó không có tin gì thêm về vụ luận tội.
    Một Ủy ban của Anh nhanh chóng điều tra nguyên nhân gây ra vụ nổ của chiếc Hood và đưa ra một bản báo cáo. Sau khi những lời chỉ trích rằng cuộc điều tra ban đầu đã không ghi lại tất cả các bằng chứng sẵn có, một Ủy ban thứ hai tiến hành điều tra rộng rãi hơn về vụ chiếc Hood , và kiểm tra tính dễ tổn thương của các tàu chiến lớn của Anh vẫn còn phục vụ để đưa ra ánh sáng những nguyên nhân của vụ nổ có thể xảy ra. Cũng giống như cuộc điều tra đầu tiên nó kết luận rằng một phát đạn 380 mm được bắn từ chiếc Bismarck đã gây ra sự bùng nổ của kho đạn dược ở phía sau của chiếc Hood. Kết luận này dẫn đến một số lượng lớn các tàu chiến Anh cần phải được sửa chữa cùng với gia tăng các lớp giáp bảo vệ cho các kho đạn dược của chúng và một số cải tiến liên quan khác.
    Nhiều sử gia về hải quân và nhà văn đã phân tích trận đánh của chiếc Bismarck và một trong những tranh cãi nhiều nhất là sự lựa chọn Đô đốc Lütjens để tiếp tục tiến vào Đại Tây Dương hơn là tiếp tục chiến đấu (để tiêu diệt chiếc Prince of Wales). Là một người có tính cách cá nhân mạnh mẽ, Lütjens không bao giờ giải thích mệnh lệnh của ông ?o không theo đuổi chiếc Prince of Wales?.
    Đến đây thì Trận chiến eo biển Đan Mạch đã kết thúc nhưng Trận chiến truy lùng chiếc Bismarck lại mới chỉ bắt đầu mời các bác tiếp tục đón xem
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:37 ngày 02/08/2010
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận chiến cuối cùng của chiếc Bismarck
    [​IMG]
    Ảnh chiếc Bismarck khi được chụp từ đằng trước, trông nó đồ sộ như một tòa nhà chung cư. Tầu chiến của người Đức có một nguyên lý khác với của người Anh: Đó là đánh độ lớn của nòng súng và tốc độ để lấy độ bền hay khả năng tồn tại của con tầu
    Tóm tắt các thông tin chính
    Ngày xảy ra: 26-27 tháng năm 1941
    Địa điểm: Đại tây dương
    Kết quả: Đồng Minh chiến thắng
    Các bên tham chiến
    Vương quốc Anh
    Canada
    Australia
    Ba Lan
    Kháng chiến Pháp
    Chỉ huy
    John Tovey
    Sức mạnh
    2 tàu sân bay
    3 tàu thiết giáp
    4 tàu tuần dương
    7 tàu khu trục
    Thương vong
    1 tàu khu trục bị đánh chìm
    49 người chết
    Đức
    Chỉ huy
    Günther Lütjens ?
    Sức mạnh
    1 thiết giáp hạm
    Thương vong
    1 thiết giáp hạm bị đánh chìm
    2.200 người chết
    110 người bị bắt
    49 người chết
    2.200 người chết
    110 bị bắt
    [​IMG]
    Ảnh Đô đốc Günther Lütjens (1889-> 1941) tư lệnh hạm đội Đức, người trực tiếp chỉ huy chiến dịch đánh phá tầu hàng của Đồng minh trên chiếc Bismarck, các quyết định của ông trong trận này dù đúng, dù sai ông vẫn nhận được nhiều sự kính phục và chân trọng thậm chí là từ đối phương
    [​IMG]
    Ảnh thuyền trưởng kỳ cựu Ernst Lindemann ( 1894 ?"> 1941) của chiếc Bismarck, nếu Đô đốc Lütjens nghe theo ý kiến của ông thì số phận của con tầu có thể đã hoàn toàn khác, chí ít thì nó cũng nhấn theo chiếc Prince of Wales với nó
    [​IMG]
    Ảnh Đô đốc Tovey người chỉ huy cuộc săn lùng chiếc Bismarck trên chiếc thiết giáp hạm King George V, và ông này đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách đầy may mắn
    [​IMG]
    Ảnh Phó Đô đốc Lancelot Holland người đã tử trận cùng chiếc Tuần dương hạm thiết giáp Hood - niềm tự hào của nước Anh, và là nguyên nhân chính dẫn đến sự trả thù khốc liệt vào chiếc Bismarck
    Trận chiến cuối cùng của chiếc thiết giáp hạm Bismarck của Đức đã diễn ra tại biển Đại Tây Dương ở khoảng cách 300 hải lý ( 560 km ) về phía tây của thành phố Brest nước Pháp, ngày 26 -> 27 tháng 5 năm 1941. Mặc dù đây là một trận đánh quyết định giữa các tầu chủ lực nó đã không được đặt tên một cách chính thức.
    Trận đánh được coi là một phần tiếp theo của Trận eo biển Đan Mạch ngày 24 tháng 5 1941 , trong đó chiếc Bismarck và chiếc tầu mà nó hộ tống ?" chiếc Prinz Eugen đã đánh chìm chiếc tàu tuần dương chủ lực HMS Hood và đánh hỏng chiếc thiết giáp hạm Prince of Wales buộc nó phải tháo chạy . Sau trận chiến này chiếc Bismarck truy đuổi trong hơn hai ngày bởi các tàu và máy bay của Hải quân và Không quân Hoàng gia. Cuối cùng vào tối ngày 26 tháng 5 năm 1941, chiếc bánh lái của nó đã bị làm cho tê liệt bởi một đợt tấn công của một Máy bay phóng ngư lôi và vào sáng hôm sau nó bị tấn công bởi rất nhiều tầu chiến của đối phương và bị đánh chìm. Không có tàu Anh nào bị đánh chìm trong trận chiến này, nhưng chiếc tàu khu trục HMS Mashona bị đánh chìm bởi máy bay ném bom của Đức trong lúc thu quân tiếp sau đó.
    Tổng quan trận hải chiến
    Trong Trận eo biển Đan Mạch thùng nhiên liệu của chiếc Bismarck bị hư hại và ý định của nó là tiếp cận cảng Brest để sửa chữa. Chiếc tầu đồng hành của nó, chiếc Prinz Eugen, đã được để lại để tiếp tục tiến vào Đại Tây Dương. Trận chiến bắt đầu sau khi chiếc Bismarck vốn đã bị đeo bám sít sao bởi lực lượng tầu chiến Anh (chiếc Prince of Wales và các tàu tuần dương hạng nặng Norfolk và Suffolk) và bị phát hiện bởi một chiếc máy bay tuần tra của Anh vào chiều ngày 26 tháng 5 năm 1941. Trận đánh bao gồm bốn giai đoạn chính. Giai đoạn đầu bao gồm các cuộc không kích của máy bay phóng ngư lôi cất cánh từ chiếc tàu sân bay Ark Royal của Anh mà một trong những chiếc máy bay này đã làm cho chiếc Bismarck vốn lúc này đã bị thương lại thêm kẹt bánh lái của nó. Giai đoạn thứ hai là sự dõi và quấy nhiễu chiếc Bismarck trong đêm bởi các khu trục hạm của Anh, nhưng không gây được bất kỳ thiệt hại nghiêm trọng cho con tàu. Giai đoạn thứ ba là một cuộc tấn công của các tàu thiết giáp Anh ?" chiếc King George V và chiếc Rodney, các chiếc này vẫn tiếp tục được hỗ trợ bởi các tàu tuần dương vào buổi sáng ngày 27 . Sau khoảng 90 phút chiến đấu chiếc Bismarck bị đánh chìm bởi những ảnh hưởng kết hợp của hàng loạt đạn nổ , ngư lôi bắn trúng và và bị tự đánh đắm một cách có chủ ý (để khỏi rơi vào tay đối phương). Ở phía người Anh chiếc thiết giáp hạm Rodney bị hư hại ở gần đoạn giữa tầu và do vụ nổ của một khẩu súng của chính nó. Các tàu chiến của Anh đã vớt được 111 người sống sót từ chiếc Bismarck trước khi bị buộc phải rút lui để lại hàng trăm người cho số phận của họ vì có sự xuất hiện của một tầu ngầm Đức (có nguồn tin rằng đây là một sự trả thù của người Anh cho cái chết của hơn 1.400 thủy thủ trên chiếc Hood bởi vì theo thông lệ quốc tế thì họ phải vớt những người đắm tầu bất kể là thuộc phe nào). Trong giai đoạn cuối cùng khi người Anh thu hồi những con tàu tham gia trận đánh họ đã bị tấn công bởi các máy bay của Không quân Đức, Kết quả là sự mất mát của chiếc tàu khu trục HMS Mashona, và 1 chiếc tàu U-Boat của Đức kịp thời xuất tại hiện trường và cứu thêm được năm người sống sót nữa.
    Nguyên nhân của trận đánh
    Cay cú để tra? thù cho việc chiếc HMS Hood niềm tự hào của Hải quân Anh bị đánh chìm trong Trận eo biển Đan Mạch người Anh đã tung ra tất cả các lực lượng sẵn có để săn lùng bằng được chiếc Bismarck. Chiếc thiết giáp hạm cũ HMSRamillies thuộc lớp Revenge được tách ra từ phía đông nam đảo Greenland nhiệm vụ đoàn và nhận được lệnh chuyển hướng để đánh chặn chiếc Bismarck nếu nó nỗ lực tấn công các tuyến đường biển ngoài khơi Bắc Mỹ.
    Chiếc thiết giáp hạm Prince of Wales và các tàu tuần dương Norfolk và Suffolk vẫn còn trong khu vực này và cố gắng theo đuôi tàu Đức. Một lực lượng của Anh bao gồm chiếc thiết giáp hạm King George V, chiếc tàu sân bay Victorious và các tàu khu trục hộ tống của chúng đã xuất phát từ Scapa Flow trước khi chiếc Hood bị đánh chìm. Chiếc thiết giáp hạm Rodney được tách ra khỏi nhiệm vụ hộ tống vào ngày 24 để tham gia đoàn săn lùng.
    Trong buổi tối đầu tiên - ngày 24 tháng 5 năm 1941 một cuộc tấn công đã được thực hiện bởi một nhóm nhỏ các máy bay Swordfish phóng ngư lôi hai tầng cánh của Phi đội 825 Không quân thuộc Hải quân dưới sự chỉ huy của Eugene Esmonde từ tàu sân bay HMSVictorious. Đợt tấn công này đã trúng đích nhưng chỉ gây ra một thiệt hại nhẹ đến giáp vành đai của chiếc Bismarck.
    Trong một khoảng thời gian dài chiếc Bismarck vẫn nằm trong quan sát tầm xa của người Anh. Vào khoảng 03:00 ngày 25 tháng 5 chiếc tàu này đã cố lẩn trốn các đối thủ của nó bằng cách chạy zig - zag và thực hiện một cú ngoặt gần 45 độ theo chiều kim đồng hồ của của nó để trốn thoát về phía đông và sau đó lại chạy về phía đông nam. Dấu vết đã bị mất trong vòng bốn giờ, tuy nhiên bởi vì khả năng đáng sợ của radar của người Anh cho nên người Đức đã không thể giữ được vận may của mình. Vì lý do vẫn còn chưa rõ ràng, Đô đốc Lütjens đã cho truyền tin bằng radio trong vòng nửa giờ về Tổng hành dinh, và sóng liên lạc này đã bị chặn lại, do đó nó cho phép người Anh có cơ sở để tìm ra nơi ẩn náu của con tầu. Tuy nhiên một lỗi lầm trong việc xác định địa đồ của chiếc Bismarck đã được tiến hành trên chiếc tàu HMS King George V làm cho việc theo đuổi chiếc tầu của người Đức bị mất chính xác và làm cho cuộc đuổi bắt xoay chiều quá xa về phía Bắc. Vì thế chiếc Bismarck đã có thể có đủ thời gian trong các ngày 25/26 tháng 5 để chạy tới bờ biển nước Pháp mà không bị ngăn cản và tại đây nó sẽ nhận được sự bảo vệ của không quân và được hộ tống bởi các tàu khu trục Đức. Mặc dù việc thiếu hụt nhiên liệu cũng đang trở thành một mối quan tâm lớn.
    Người Anh đột nhiên lại có một sự may mắn trong ngày 26 tháng 5. Vào lúc buổi sáng giữa 01 máy bay trinh sát Catalina của Phi đội 209 thuộc lực lượng Tuần duyên của Không quân Hoàng gia, vốn đang bay qua Đại Tây Dương từ căn cứ của nó tại Lough Erne tại Bắc Ireland đã bay qua Donegal Corridor, một hành lang nhỏ bí mật vốn được cung cấp bởi chính phủ Ailen (Ailen là nước trung lập), đã phát hiện thấy chiếc Bismarck (qua một vết dầu loang từ thùng nhiên liệu bị hư hỏng của con tàu ) và báo cáo vị trí của nó đến Bộ ha?i quân. Kể từ đó vị trí tàu của con tầu Đức đã bị người Anh phát hiện, mặc dù đối thủ đã chở nên chậm chạp một cách đáng kể nhưng các đơn vị tầu hạng nặng của Anh hy vọng sẽ có thể tấn công nó ở bên ngoài phạm vi bảo vệ của máy bay Đức. Mọi hy vọng của người Anh bây giờ được đặt vào lực lượng H, đó chính là chiếc tàu sân bay HMS Ark Royal, chiếc HMS Renown được chế tạo từ Thế chiến thứ nhất và tàu tuần dương HMSSheffield. Nhóm tàu chiến này được chỉ huy bởi Đô đốc James Somerville đã chuyển hướng từ phía bắc Gibraltar.
    Trong lúc hoàng hôn và trong điều kiện thời tiết xấu một cách khủng khiếp, những chiếc Swordfish xuất phát từ chiếc TSB HMS Ark Royal đã phát động một đợt tấn công . Đợt tấn công đầu tiên nhắm nhầm mục tiêu vào chiếc Sheffield lúc này được tách ra khỏi lực lượng H để đeo bám trặt trẽ chiếc Bismarck. Mặc dù bị mất một khoảng thời gian quý báu vì sự cố này, người Anh đã phát hiện được lỗi các từ kíp nổ được gắn vào các quả ngư lôi dùng để phóng vào chiếc Sheffield và trong cuộc tấn công sau đó vào chiếc Bismarck chúng đã được thay thế bằng những thiết kế mới có thể phát nổ ngay khi tiếp xúc. Bất chấp ngày đã tàn quyết định tấn công lần nữa vẫn được tung ra. Cuộc tấn công đã được tiến hành trong phần lớn là bóng tối, vào khoảng 21:00. Một quả ngư lôi bắn trúng và làm kẹt chiếc bánh lái đơn của chiếc Bismarckvà 15 thiết bị lái và chiếc bánh răng nghiêng 15 độ ở mạn bên trái. Kết quả của đợt không kích này là làm cho con tầu chỉ có thể di chuyển theo một vòng tròn lớn. Những nỗ lực sửa chữa của thủy thủ đoàn để cố gắng làm cho chiếc bánh lái trở lại 0 độ nhưng bây giờ con tàu thuyền lại bị chuyển hướng tới và lao lại gần các chiếc King George V và Rodney, Hai tầu thiết giáp thuộc hạm đội Home Fleet đang theo đuổi chiếc Bismarck từ phía tây. Chiếc tàu chiến lớn nhất và mạnh nhất thế giới đang làm nhiệm vụ (đúng ra là còn sau chiếc Yamato của Nhật Bản) lúc đó trở nên giống như một con vịt trói chân bởi một chiếc máy bay cổ hai tầng cánh. Sau những nỗ lực lớn để sửa chữa chiếc bánh lái bị kẹt, vị chỉ huy hạm đội (Đô đốc Lütjens) cuối cùng đã thừa nhận là vào lúc này không thể xác định vị trí của chiếc Bismarck trong một vài tin nhắn về trụ sở hải quân. Lütjens hứa rằng con tàu sẽ chiến đấu cho đến khi phát đạn cuối cùng của nó được sử dụng. Chiếc Bismarck chỉ có thể tiếp tục di chuyển bằng cách điều chỉnh tốc độ một cách tương đối của trục bánh lái hình cánh quạt.
    [​IMG]
    Tranh vẽ đợt tấn công những chiếc Swordfish xuất phát từ chiếc TSB HMS Ark Royal đã làm hỏng chiếc bánh lái của chiếc Bismarck và làm nó không thể chạy thoát
    Lúc 23:40 , ngày 26 tháng 5, Lütjens cho gửi một tin nhắn đến Group West, ?o con tàu đã không thể điều khiển được nữa?. Chúng tôi sẽ chiến đấu sẽ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, Quốc trưởng muôn năm.
    Giây phút cuối cùng của chiếc Bismarck
    Sáng hôm thứ ba ngày 27 tháng 5 năm 1941 bầu trời có màu xám xịt, sóng biển rất dữ dội và gió cũng thổi rất mạnh từ phía Tây bắc. Bởi vì có gió hướng Tây bắc, Đô đốc Tovey đã kết luận rằng một cuộc tấn công trên hướng gió ( windward) vào chiếc Bismarck là điều không thuận lợi. Ông quyết định chọn phương án tiếp cận ở một vị trí phía Tây bắc. Tạo điều kiện cho đối phương tiếp tục chạy về phía bắc, ông cho triển khai ở phía nam trên một hướng đối diện ở một khoảng cách chừng 15.000 yard. Chiếc Bismarck được nhìn thấy ở hướng 118 độ và ở khoảng cách 25.000 yard.
    [​IMG]
    Chiếc Bismarck trong cơn bão đạn của người Anh
    Các chiếc Rodney và King George V đã tiến đến gần chiếc Bismarck theo một dòng ngang, đối phương của họ được chiếu sáng bởi ánh nắng mặt trời vào buổi sáng. Chiếc Rodney tiến về phía bắc để hướngg súng của nó bắn vào chiều dọc của chiếc Bismarck, Trong khi chiếc King George V áp vào phía bên. Họ đã nổ súng ngay trước lúc 09:00. Chiếc Bismarck cũng cố bắn trả nhưng không có kả năng để dẫn bắn một cách chính xác và một loạt các hư hại ở bên mạn trái đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính chính xác của các phát bắn của nó. Tốc độ thấp dưới bảy hải lý cũng làm nó trở thành một mục tiêu dễ dàng và nó đã bị bắn trúng nhiều lần bởi hỏa lực của các tàu tuần dương hạng nặng HMSNorfolk và Dorsetshire được tăng cường. Một loạt đạn phá hủy đài kiểm soát ở phía trước và giết chết hầu hết các sĩ quan cấp cao . Trong vòng nửa tiếng đồng hồ súng của chiếc Bismarck đã bắt đầu câm lặng và nó thậm chí còn chìm xuống thấp hơn trong mực nước. Chiếc Rodney lúc này vào gần point-blank range (khoảng 3 hải lý) để bắn vào phần thượng tầng cu?a ta?u trong khi Chiếc King George V cũng tiến vào gần hơn nữa và nổt súng vào chiếc Bismarck từ một góc thẳng đứng để đạn có khả năng xuyên nhập vào sàn tầu sâu hơn.
    Cờ của chiếc Bismarck tiếp tục tung bay trong gió. Không có dấu hiệu của sự đầu hàng, mặc dù một cuộc chiến không đối xứng đã xảy ra, người Anh đã miễn cưỡng rời khỏi chiếc Bismarck. Nguồn nhiên liệu và nguồn cung cấp đạn dược của nó đã cạn, đây là một điều cho thấy nó trở nên kiệt sức trong một trận chiến để đánh chìm một đơn vị tầu chiến tương tự trong một cuộc chiến cân bằng. Tuy nhiên có một điều trở nên rõ ràng rằng đối phương của nó không thể tiếp cận vào mạn bên trái, các chiếc Rodney và King George V cùng các tàu khu trục đã được thu hồi về cảng nhà. Chiếc Norfolk đã phải sử dụng đến quả ngư lôi cuối của nó, chiếc Dorsetshire phải bắn ra bốn quả ngư lôi và những quả ngư lôi này có thể đủ khả năng để nhấn chiếc Bismarck ở cự ly tương đối ngắn. Mặc dù các cấu trúc của con tàu đã gần như bị hoàn toàn bị phá hủy nhưng động cơ của nó vẫn còn hoạt động và thân tàu vẫn vang lên những âm thanh của động cơ vì vậy có một nguy cơ lớn là nó sẽ bị bắt sống, thuyền trưởng Lindemann ra lệnh đánh đắm và sau đó bỏ tàu (các bác hãy để ý đến độ bền của tầu chiến Đức). Hầu hết các thành viên của thủy thủ đoàn nhẩy xuống nước nhưng chỉ có vài thủy thủ từ các phòng động cơ ở phía dưới còn sống để nhẩy ra ngoài.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 10:34 ngày 04/08/2010
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiếc Bismarck đã chìm theo những con sóng vào lúc 10:39 giờ sáng ngày hôm đó. Không biết số phận bi thảm của con tàu nhóm Phía Tây có căn cứ chỉ huy ở nước Đức tiếp tục phát hành tín hiệu tới chiếc Bismarck trong vòng một số giờ, cho đến khi tờ báo Reuters đưa tin tức từ nước Anh rằng con tàu đã bị đánh chìm. Tại Anh, Hạ nghị viện đã được thông báo về sự kiện này vào buổi chiều ngày hôm đó. Các chiếc tầu chiến Dorsetshire và Maori đã cố gắng để cứu những người sống sót nhưng một chiếc Ta?u ngầm cu?a Đức đã gây báo động làm chúng phải rút lui khỏi hiện trường sau khi đã chỉ cứu 110 thủy thủ của chiếc Bismarck và bỏ lại phần lớn trong số 2.200 thủy thủ của chiếc Bismarck cho biển cả. Sáng hôm sau chiếc U- 74 được phái đi để tìm kiếm nhật ký hải trình của chiếc Bismarck (và đã được nghe tiếng ồn ào của vụ chìm tầu từ xa ), và chiếc tầu thời tiết của Đức - Sachsenwald đã cứu thêm năm người sống sót .
    Sau khi chiếc Bismarck bị đánh chìm Đô đốc John Tovey đã nói " chiếc Bismarck đã có tinh thần hiệp sỹ khi chấp nhận trận chiến trong một tư thế không hề cân xứng trong những ngày cuối của Hải quân Đế quốc Đức và nó đã chìm xuống với mầu cờ của nó "Trong năm 1960. Đạo diễn Johnny Horton đã tìm cách dàn dựng lại trận đánh này trong phim "đánh chìm chiếc Bismarck ".
    Hậu quả của trận đánh
    Sau trận chiến các tàu chiến Anh trở về London với những người sống sót của chiếc Bismarck. Sau một thời gian dài thẩm vấn và tra hỏi những người sống sót đã dành phần còn lại của thời gian cuộc chiến như là những tù nhân.
    Những tàu chiến tham gia vào trận đánh này
    Gần một trăm chiếc tầu chiến các loại đã được triển khai để truy đuổi và tấn công hoặc để bảo vệ chiếc Bismarck:
    Phe Trục
    ? Tàu tuần dương hạng nặng Prinz Eugen của Đức
    ? Các tàu khu trục Hans Lody (Z - 10 ), Friedrich Eckoldt (Z - 16 ), và Z- 23 của Đức.
    ? Các tàu ngầm Đức U- 46, U- 48, U- 66, U- 73, U- 74, U- 93, U- 94, U- 98, U- 108, U- 138, U- 552, U- 556, và U- 557.
    ? Các tàu ngầm Ý Barbarigo và Ghilieri.
    ? Thời tiết tàu Đức Sachsenwald, Lauenburg, và Freese.
    ? Các tàu chở dầu của Đức Belchen, Egerland, Esso Hamburg, Friedrich Breme, Heide, Lohingen, Weisenburg, và Wollin.
    ? Tàu quét thủy lôi số 5 của Đức.
    Phe Đồng minh
    ? Các thiết giáp hạm của Anh HMSKing George V, Prince of Wales, Ramillies, Revenge, Rodney, và Nelson.
    ? Các tầu tuần dương thiết giáp của Anh HMS King George V, Prince of Wales, Ramillies
    ? Các tàu sân bay của Anh HMS Hood, Repulse và Renown
    ? Các tàu tuần dương hạng nặng của Anh HMSSuffolk, Norfolk, Dorsetshire, London; và HM***eter, với đoàn WS- 8B .
    ? Các tuần dương hạm hạng nhẹ của Anh HMS Kenya, Galatea, Aurora, Neptune, Hermione, Edinburgh, Manchester, Arethusa, Birmingham, Sheffield; và HMS Cairo, với đoàn WS- 8B .
    ? Các tàu khu trục của Anh HMS Achates, Antelope, Anthony, Echo, Somali, Eskimo, Jupiter, Electra, Icarus, Active, Inglefield, Intrepid, Lance, Legion, Punjabi, Windsor, Mashona, Cossack, Sikh, Zulu, Maori, Tartar, Faulknor, Foresight, Forester, Foxhound, Fury, Sherwood và Hesperus
    ? Các tàu ngầm của Anh HMS H44, Uproar, Sealion, Seawolf, Tigris, Sturgeon, Severn, and Pandora.
    ? Các tàu khu trục của Canada HMCSAssiniboine, HMCSSaguena, và HMCSColumbia
    ? Tầu ngầm Minerve của lực lượng kháng chiến Pháp
    ? Chiếc tàu khu trục của Úc HMASNestor
    ? Chiếc tàu khu trục của Ba Lan ORP Piorun
    Lực lượng trung lập
    ? Tàu tuần dương hạng nặng của Tây Ban Nha Canarias ( để cố gắng cứu hộ một số người còn sống sót từ chiếc Bismarck)
    ? Chiếc cảnh sát biển của Mỹ Modoc
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:34 ngày 04/08/2010
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận chiến Narvik
    Trận chiến Narvik nổ ra từ ngày 09 tháng 4 cho đến ngày 08 tháng 6 năm 1940 như là một trận chiến hải quân ở Ofotfjord ( một vịnh nhỏ ở biển Na Uy ) và những trận đánh ở vùng núi non xung quanh thành phố Narvik phía bắc Na Uy và nó cũng là một phần của Chiến dịch Na Uy và của Thế chiến thứ hai.
    Hai trận hải chiến diễn ra ở trong vịnh Ofotfjord vào ngày 10 tháng 4 và ngày 13 tháng 4 là những trận chiếc giữa Hải quân Hoàng gia Anh (RN) và Hải quân Đức (Kriegsmarine), Trong lúc một chiến dịch trên bộ kéo dài hai tháng của các lực lượng Na Uy, Pháp, Anh, và Ba Lan để chiến đấu chống lại lính sơn cước Đức và Áo, các thủy binh Đức từ các con tầu bị đắm và lính nhảy dù Đức ( Fallschirmjäger) thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn 1, sư đoàn 7 Flieger. Narvik đã cung cấp một cảng đóng băng ở vùng Bắc Đại Tây Dương để vận chuyển quặng sắt bằng đường sắt từ Kiruna - Thụy Điển. Cả hai phe trong cuộc chiến đã tỏ ra rất quan tâm trong việc đảm bảo nguồn cung cấp quặng sắt này cho chính mình và cắt nguồn cung cấp tới kẻ thù, chính vì lý do này mà đã xảy ra các trận chiến quy mô lớn đầu tiên trong Thế chiến thứ hai kể từ khi kết thúc cuộc xâm lược Ba Lan.
    Trước khi xảy ra cuộc xâm lược của người Đức, người Anh đã coi Narvik như là một điểm để có thể đổ bộ một đoàn quân viễn chinh để giúp Phần Lan trong Chiến tranh mùa đông. Đoàn quân viễn chinh này cũng có thể nắm quyền kiểm soát các mỏ quặng ở Thụy Điển và Baltic cho lực lượng Đồng Minh. Các chính trị gia Pháp cũng muốn bắt đầu một mặt trận thứ hai càng xa nước Pháp càng tốt.
    Nhóm I rời Bremerhaven ngày 06 tháng 4, nó bao gồm mười khu trục hạm của Đức là các tầu thuộc lớp 1934A và 1936 ( các tầu Georg Thiele, Wolfgang Zenker, Bernd von Arnim, Erich Giese, Erich Koellner, Diether von Roeder, Hans Lüdemann, Hermann Künne, Wilhelm Heidkamp (flagship) và chiếc Anton Schmitt, lực lượng này được chỉ huy bởi Thiếu tướng hải quân Friedrich Bonte. Mỗi chiếc trong số các tàu khu trục chở khoảng 200 binh sĩ ( tổng số 1.900 lính sơn cước Áo (Gebirgsjäger) và trung đoàn sơn cước số 139 thuộc sư đoàn 3 sơn cước chỉ huy bởi tướng Eduard Dietl). Các khu trục hạm chở lính được hộ tống trong phần lớn thời gian bởi các chiếc tàu tuần dương chủ lực Scharnhorst và Gneisenau.
    Vào sáng sớm ngày 9 tháng tư, các tàu khu trục của nhóm I đã đi qua Vestfjord và đến Ofotfjord để hướng vào Narvik trong sương mù và tuyết rơi nặng. Tại Ofotfjord họ bắt giữ ba tàu tuần tra Na Uy (các chiếc Senja, Michael Sars và Kelt). Trước khi bị bắt chiếc Kelt đã cố gắng để gửi tin nhắn đến chiếc tàu bảo vệ ven biển HNoMS Norge để cảnh báo các chỉ huy của chiếc tàu hải quân Na Uy.Các chiếc tàu Đức Wolfgang Zenker, Erich Koellner và Hermann Kunne cho binh sĩ của họ đổ bộ an toàn lên Herjangsfjord (Một phần của Ofotfjord ) để chiếm lấy cơ sở cung cấp hậu cần của một trung đoàn Na Uy tại Elvegårdsmoen. Các chiếc Hans Ludemann và Hermann Künne cũng đã đổ bộ quân của họ để tấn công vào các pháo đài Na Uy gần đó (nhưng hóa ra các pháo đài này lại không tồn tại). Chiếc Diether von Roeder ở lại Ofotfjord để đảm bảo việc kiểm soát mặt biển của Đức. Chiếc Erich Giese bị trì hoãn do sự cố ở động cơ và không tham gia vào lực lượng chính trong một khoảng thời gian.
    Lực lượng chính để bảo vệ Narvik là hai tàu ven biển ?" các chiếc Eidsvold và Norge. Do đã được cảnh báo bởi chiếc Kelt, cả hai tàu Na Uy đều sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu: các khẩu súng đã được nạp và các phao cứu sinh được phát cho thủy thủ đoàn. Khoảng 04:15 , người Đức phát hiện ra chiếc Eidsvold và chiếc này ngay lập tức báo hiệu cho các tàu khu trục hàng đầu của Đức bằng đèn tín hiệu. Khi người Đức không trả lời các tín hiệu, một phát súng cảnh báo đã được bắn qua mũi tầu của họ.
    Gerlach đã cố gắng thuyết phục Willoch rằng người Đức đến như bạn bè, nhưng người Na Uy phải bàn giao tàu chiến của họ cho lực lượng quân đội Đức. Thuyền trưởng Willoch yêu cầu cần thêm thời gian để tham khảo ý kiến với chỉ huy của ông, thuyền trưởng Per Askim - chỉ huy của chiếc Norge. Yêu cầu này bị từ chối bởi người Đức, nhưng trong khi Willoch đang nói chuyện với viên sĩ quan Đức thì nhân viên điện đài trên chiếc Eidsvold đã báo cáo các sự kiện này cho Askim. Askim ngay lập tức có câu trả lời cho yêu cầu của người Đức và ra lệnh cho Willoch cùng chiếc Eidsvold chuẩn bị nổ súng. Willoch đáp lại; "Tôi sẽ tấn công " Trong lúc này chiếc tàu khu trục của Đức Wilhelm Heidkamp ở vị trí cách đó có 700 mét ( 770 yard ) ở phía mạn bên trái của chiếc Eidsvold và chuẩn bị để phóng ngư lôi vào chiếc tàu Na Uy.
    Gerlach đã cố gắng một lần nữa để thuyết phục Willoch đầu hàng , nhưng Willoch từ chối. Khi Gerlach rời khỏi chiếc Eidsvold ông ta liền bắn một phát pháo hiệu mầu đỏ ký hiệu rằng người Na Uy dự định sẽ chiến đấu. Tại thời điểm này, thuyền trưởng Willoch hét lên : " Pa plass Ved kanonene. Na slåss skal vi, gutter ! " (" Mọi người, chúng ta sẽ chiến đấu, các cậu bé ! "). Chiếc Eidsvold chuyển hướng đối mặt với chiếc tàu khu trục gần nhất và tăng tốc, thu hẹp khoảng cách tới chiếc Wilhelm Heidkamp xuống còn 300 mét ( 330 yard ) trong khi viên sỹ quan pháo thủ ra lệnh cho khẩu đội súng ở mạn trái (ba khẩu 15 cm ) chuẩn bị nổ súng.
    Người Đức lo sợ rằng chiếc Eidsvold có thể sẽ đâm vào các tàu khu trục, họ liền bắn bốn quả ngư lôi từ chiếc Wilhelm Heidkamp vào con tàu cũ. Hai trong số các quả ngư lôi bắn trúng mũi trước của con tầu. Kho đạn bắt lửa và chiếc Eidsvold của Nauy bị nổ tung thành hai mảnh. Phần phía trước của con tàu bị chìm trong tích tắc phần đuôi tàu chìm trong vài phút sau đó khi chiếc chân vịt cánh quạt vẫn quay. Vào khoảng 4:37 nó đã chìm với 175 thủy thủ Na Uy thiệt mạng trong nước giá lạnh kể cả thuyền trưởng Willoch, chỉ còn tám người sống sót.
    Sâu hơn bên trong fjord, tiếng nổ được nghe thấy bởi chiếc tàu Norge nhưng họ không thể thấy được cái gì cho đến khi hai tàu khu trục của Đức đột nhiên xuất hiện ra khỏi bóng tối và thuyền trưởng Per Askim của chiếc Norge đã cho lệnh nổ súng vào 04:45 . Bốn phát đạn được bắn từ các khẩu súng 21 cm (một khẩu từ phía trước và ba khẩu súng từ phía sau ) cùng với bảy hoặc tám viên đạn từ một khẩu súng 15 cm ở mạn phải bắn vào chiếc tàu khu trục của Đức - Bernd von Arnim, ở một phạm vi khoảng 800 mét. Do điều kiện thời tiết rất xấu nên ống ngắm của các khẩu súng đã trở nên không chính xác: loạt đạn đầu tiên bị mất tầm so với các mục tiêu và những loạt kế tiếp lại bị quá tầm.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:33 ngày 04/08/2010
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    ( Trận Narvik tiếp theo)
    Các tàu khu trục của Đức chờ cho đến khi họ đến được bến tàu trước khi nổ súng bắn trả. Chiếc Bernd von Armin cũng bắt đầu phát hỏa khẩu 12,7 cm ( 5 inch ) cùng với các khẩu súng máy của nó nhưng thời tiết xấu cũng tạo ra vấn đề với người Đức. Các tàu khu trục cùng bắn ba loạt hai quả ngư lôi nhau. Hai loạt bắn đầu tiên bị trượt nhưng loạt cuối cùng đã bắn trúng phần giữa thân tầu của chiếc Norge và nó bị chìm trong vòng chưa đầy một phút. 90 thành viên thủy thủ đoàn được cứu sống, nhưng 101 người khác đã bỏ mạng trong một trận chiến kéo dài chưa đến 20 phút. Việc tiêu diệt chiếc Norge báo hiệu sự kết thúc sự kháng cự của người Na Uy tại cảng.
    Cùng buổi sáng tàu Đức triển khai tấn công vào bốn tàu hơi nước của Na Uy đang thả neo tại Narvik; đó là các chiếc 4.285 g.r.t. Cate B, 1.712 g.r.t. Eldrid, 1.758 g.r.t. Haalegg và 4.306 g.r.t. Saphir. Ngoài các tàu Na Uy bốn tàu trung lập nước ngoài cũng có mặt; một chiếc GRT 951 hơi nước của Hà Lan ?" chiếc Bernisse, và ba tàu hơi nước Thụy Điển, chiếc Boden 4.264 g.r.t., chiếc Oxelosund 5.613 g.r.t. và chiếc Strassa 5.603 g.r.t. Cũng như các tàu trung lập trong chiến tranh bên trong Narvik, đang thả neo tại cùng một cảng. Người Anh có năm tàu hơi nước trong cảng; chiếc 6.582 GRT Blythmoor, chiếc g.r.t. 5.141 Mersington Court, chiếc g.r.t. 4.304 North Cornwall, chiếc g.r.t. 5.378 Riverton và chiếc 4.887 g.r.t. Romanby. Khi hạm đội Đức chiếm đóng Narvik có 11 tàu buôn hơi nước của Đức tại thành phố cảng này; đó là các chiếc 6.388 GRT Aachen, chiếc g.r.t. 5.398 Altona, chiếc g.r.t. 4.902 Bockenheim, chiếc g.r.t. 5.386 Hein Hoyer, chiếc g.r.t. 4.879 Martha Henrich Fisser, chiếc g.r.t. 8.096 Neuenfels, chiếc g.r.t. 5.806 Odin , chiếc g.r.t. 7.849 Lippe, chiếc g.r.t. 4.339 Frielinghaus 5.881 g, chiếc.r.t.Planet và chiếc 11.776 g.r.t. tàu chở dầu/ bảo dưỡng Jan Wellem. Chiếc Jan Wellem là một tầu đánh cá voi chuyển đổi, nó chờ đợi sự xuất hiện của các tàu chiến của Đức mà nó được giao nhiệm vụ tiếp nhiên liệu. Làm việc trong cảng là hai chiếc tầu kéo Thụy Điển ?" chiếc Diana ( 213 tấn) và chiếc Styrbjörn ( 167 tấn). Khi tàu khu trục của Đức xâm nhập vào cảng thuyền trưởng của chiếc Bockenheim đã cho rằng các tàu chiến xâm nhập là của người Anh và ra lệnh đánh đắm tàu của mình. Trong tổng số 25 tàu quặng đang thả neo tại Narvik khi bắt đầu nổ ra cuộc chiến thì 10 chiếc trong đó là của người Đức.
    Các tàu khu trục của Đức bây giờ đã cạn nhiên liệu và chỉ có một tàu chở nhiên liệu hỗ trợ (chiếc 11.776 GRT Jan Wellem đã xuất phát để đến Narvik theo một số nguồn tin từ căn cứ bí mật của hải quân Đức như căn cứ Nord tại Zapadnaya Litsa tại Liên Xô, nơi nó đã lập căn cứ từ ngày 04 tháng 2 năm 1940. Một số người khác nữa lại cho thấy rằng nó rời Murmansk vào buổi tối ngày 6 tháng 4 và Căn cứ Nord thậm chí không bao giờ được thành lập. Nó xuất hiện ở ngoài khơi Narvik từ phía bắc vào ngày 08 tháng 4 và bị chặn lại bởi một tàu tuần tra Na Uy ?" chiếc Kvitøy. Chiếc Jan Wellem được phép nhập cảnh vào Narvik theo lệnh của hải quân vùng của Na Uy, nơi nó đã bị kiểm tra. Thuyền trưởng của nó tuyên bố rằng nó đang chở 8.500 tấn dầu nhiên liệu và 8.098 thùng thực phẩm quy định và rằng nó đang trên con đường của mình để đến nước Đức. Một chiếc tàu chở dầu thứ hai ?" chiếc Kattegat 6.031 tấn đến Na Uy từ thành phố cảng Wilhelmshaven đã bị đánh chìm trong Glomfjord vào tối 09 tháng 4. Chiếc Kattegat đã bị chặn lại bởi tầu bảo vệ thủy sản của Na Uy ?" chiếc Nordkapp, chiếc tàu Na Uy đầu tiên cố gắng để bắt sống chiếc tàu chở dầu, nhưng do phần lớn thủy thủ đoàn của Đức không thể kiểm soát được con tầu để đến được Bodo, họ đã đánh chìm chiếc Kattegat bằng cách bắn bốn phát đạn 47mm vào phần dưới mực nước của chiếc tàu chở dầu. Chiếc Kattegat đã bị chậm không đến được Narvik trong một khoảng thời gian do hoạt động thả thủy lôi của Anh vào ngày 08 tháng 4 ở ngoài khơi Na Uy. Chiếc tàu chở dầu thứ ba - Skagerrak cũng đã xuất phát đến Na Uy để hỗ trợ lực lượng đổ bộ của Đức tại Trondheim, nhưng nó đã bị chặn lại bởi chiếc tàu tuần dương Anh - HMS Suffolk ngày 14 tháng 4, sau khi nó nhận lệnh chuyển hướng từ bộ tư lệnh hải quân Đức để chờ đợi ở một vị trí trên biển. Khi chiếc tàu chiến của Anh cố gắng để bắt sống chiếc Skagerrak thủy thủ đoàn của nó liền tự đánh đắm tại vị trí 68 ° 15N 02 ° 00 E68.25°N 2°E. Cả hai chiếc Kattegat và Skagerrak là những tàu chị em, đã bị theo dõi tại Kopervik bởi tàu phóng lôi Na Uy ?" chiếc Stegg vào ngày 5 và 7 tháng 4 tương ứng. Thuyền trưởng của chiếc Kattegat nói với người Na Uy rằng ông đã được hướng dẫn để đến Narvik theo mệnh lệnh và thuyền trưởng của chiếc Skagerrak lại tuyên bố Murmansk là điểm đến của họ, và việc kiểm tra cho thấy rằng cả hai tàu chở dầu đã chở đầy dầu nhiên liệu. Chiếc Skagerrak cũng chở theo 165 tấn lương thực, số lương thực này được tuyên bố là nguồn cung cấp cho các tàu buôn của Đức. Các thùng hàng được dán nhãn thực phẩm Wehrmacht. Theo kế hoạch các tàu khu trục của Đức dự định được tiếp nhiên liệu bởi hai tàu chở dầu ?" các chiếc Kattegat và Jan Wellem ?" và nhận được khoảng 600 tấn dầu nhiên liệu. Đội tàu này sau đó lên đường trở lại nước Đức vào tối 09 tháng 4. Kế hoạch này đã không thành công vì chỉ có chiếc Jan Wellem là đến được Narvik. Công việc tiếp dầu với chỉ một tàu chở dầu đã gây ra những khó khăn, chỉ có hai khu trục hạm có thể được tiếp nhiên liệu một cách đồng thời và làm tiêu tốn mất từ bảy đến tám tiếng đồng hồ. Khi vào đến bên trong Narvik các tàu khu trục Đức bị cạn hầu hết số nhiên liệu của họ. Thực tế thì chiếc Jan Wellem chỉ có hệ thống sắp xếp tiếp nhiên liệu được cải tiến (vì nó nguyên thủy là tầu săn cá voi) và thiết bị bơm kém làm cho việctiếp nhiên liệu chở nên khó khăn hơn. Trong khi hai khu trục hạm đang được tiếp nhiên liệu trong cùng một khoảng thời gian, chiếc thứ ba đang canh trừng tại fjord, bảy chiếc còn lại tản ra xung quanh khu vực ở gần đó. Vào lúc 04:00 ngày 10 tháng 4 năm 1940 chiếc Jan Wellem đã cố gắng để tiếp đầy nhiên liệu cho ba tàu khu trục của Đức và đang trong quá trình tiếp nhiên liệu cho hai chiếc nữa.
    Trong khi đó lực lượng tầu chiếc Anh cũng đang cố gắng để tấn công Kriegsmarine, nhưng trong đa số trường hợp đã không thành công. Ngày 08 tháng 4, tàu khu trục lớp G của Anh ?" chiếc HMS Glowworm đã tấn công Tàu tuần dương hạng nặng Admiral Hipper và hai khu trục hạm, tuy nó bị đánh đắm nhưng cũng đâm được và làm hư hại chiếc Hipper trong trận chiến. Ngày 9 tháng 4, chiếc tuần dương hạm chủ lực HMS Renown bắn qua lại nhiều loạt Hải pháo với các tàu tuần dương của Đức ?" các chiếc Scharnhorst và Gneisenau, các chiếc này có nhiệm vụ hỗ trợ các tàu khu trục, và gây thiệt hại nhẹ cho chiếc Gneisenau. Nhiệm vụ chính của các tàu khu trục đã hoàn thành vì họ đã thành công trong việc đổ bộ đội quân xâm lược .
    Trận hải chiến đầu tiên ở Narvik
    Tóm tắt trận đánh
    Ngày 10 tháng 4 năm 1940
    Nơi Narvik, Na Uy
    Kết quả Anh chiến thắng
    Các bên tham chiến
    Vương quốc Anh
    Chỉ huy
    Bernard Warburton -Lee ?
    Sức mạnh
    5 tàu khu trục
    Thương vong
    2 khu trục hạm bị đánh chìm
    1 tàu khu trục bị hư hại nặng
    Không rõ số thương vong về nhân sự
    Đức
    Chỉ huy
    Friedrich Bonte ?
    Sức mạnh
    10 tàu khu trục
    Thương vong
    2 khu trục hạm bị đánh chìm
    1 tàu cung cấp đạn dược bị đánh chìm
    6 tàu chở hàng bị đánh chìm
    4 tàu khu trục bị hư hỏng
    163 thương vong
    Ngày hôm sau cuộc xâm lược của Đức, Hải quân Hoàng gia đã có cơ hội để đánh bại Kriegsmarine . Đội tầu Khu trục số 2 dưới sự chỉ huy của thiếu tướng Hải quân Bernard Warburton -Lee bao gồm năm tàu khu trục lớp H - các chiếc HMS Hardy (Kỳ hạm), Hotspur, Havock, Hunter và Hostile ( tàu khu trục lớp H của Anh nhỏ hơn so với khu trục hạm của Đức) đã tiến vào fjord vào sáng sớm. Các tàu khu trục của Đức ?" chiếc Hermann Künne và Hans Lüdemann đang cùng thả neo với chiếc tàu chở dầu Jan Wellem và tiếp nhiên liệu khi các tàu khu trục Anh bắt đầu tấn công vào lúc 04:30. Con tàu bỏ túi của Đức (Diether von Roeder) đang quay mạn trái của nó để tiếp nhiên liệu và lúc này đội tàu của Anh tiến vào Narvik, họ tấn công một cách bất ngờ vào một lực lượng Đức ở lối vào bến cảng và đánh chìm hai tàu khu trục Wilhelm Heidkamp ( giết chết thiếu tướng Hải quân Bonte ) và Anton Schmidt, làm bị thương nặng nề chiếc Diether von Roeder và gây thiệt hại ít hơn cho hai chiếc khác nữa. Họ cũng bắn vào quân đổ bộ của Đức ở trên bờ, nhưng những tầu của Anh không có lực lượng đổ bộ trên tàu và do đó phải quay về. Trước khi các tàu khu trục của Anh rời cảng thì chiếc Hostile bắn ngư lôi nó vào các tàu chở hàng ở trong cảng. Tổng số mười một tàu buôn (sáu của Đức, một của Anh , hai của Thụy Điển và hai của Na Uy ) đã bị đánh chìm trong đợt tấn công của Anh vào cảng.
    Các đội tàu của Anh sau đó đã tấn công ba tàu khu trục khác của Đức (các chiếc Wolfgang Zenker, Erich Koellner và Erich Giese) được chỉ huy bởi Commander Erich Bey đang tiến lên từ Herjangsfjord, và sau đó là thêm hai chiếc nữa (các chiếc Georg Thiele và Bernd von Arnim) dưới quyền chỉ huy của Commander Fritz Berger đến từ Ballangen Bay. Trong trận chiến tiếp theo hai tàu khu trục của Anh đã bị đánh chìm: đó là chiếc HMS Hardy chỉ huy đội tầu, nó phải cập vào bãi biển do lửa cháy to và chiếc HMS Hunter bị trúng ngư lôi và chìm. Chiếc thứ ba - HMS Hotspur cũng bị hư hại nặng nề bởi một quả ngư lôi. Chiếc HMS Hotspur và các khu trục hạm còn lại khác của Anh rời bỏ chiến trường sau khi làm hư hại chiếc Georg Thiele. Các tàu khu trục của Đức bây giờ thiếu nhiên liệu và đạn dược đã không thể đuổi theo và các tàu của Anh tiếp tục đánh chìm chiếc tàu Rauenfels 8.460 tấn chở đạn dược mà họ đã gặp trên đường ra khỏi fjord. Chẳng bao lâu lực lượng hải quân Đức đã bị chặn bởi quân tiếp viện của Anh, bao gồm cả chiếc tàu tuần dương HMS Penelope. Trong đêm ngày 11-> ngày 12 tháng 4 , trong khi vận động ở bến cảng Narvik, các chiếc Erich Koellner và Wolfgang Zenker bị mắc cạn. Chiếc Wolfgang Zenker bị hư hỏng chân vịt cánh quạt của nó và bị giới hạn tốc độ xuống 20 hải lý mỗi giờ. Chiếc Erich Koellner đã bị hư hỏng nặng hơn nhiều - vì vậy người Đức lên kế hoạch khi nó đã được sửa chữa đủ để di chuyển và neo nó tại Tarstad trong cùng một cách tận dụng chiếc Diether von Roeder - như là những pháo thuyền bảo vệ bất động.
    Khi tàu khu trục Anh rời Vestfjord bên ngoài Narvik, hai tàu ngầm của Đức - các chiếc U- 25 và U- 51 bắn ngư lôi vào họ, nhưng những quả ngư lôi của Đức vào thời điểm đó có vấn đề nghiêm trọng với các hệ thống kíp nổ từ tính của chúng - có thể do các vĩ độ cao ở phía Bắc: tất cả các đợt tấn công đều thất bại và tất cả đã không phát nổ hoặc phát nổ trước khi tới được mục tiêu của chúng.
    Cả hai chỉ huy của lực lượng hải quân của các bên - phía Đức: thiếu tướng Friedrich Bonte (trên chiếc Wilhelm Heidkamp) và chỉ huy của Anh, thiếu tướng Bernard Warburton -Lee (trên chiếc Hardy) đã đều bị giết trong khi chiến đấu. Warburton -Lee đã được truy tặng Huân chương Victoria Cross, Bonte nhận được huân chương Hiệp sỹ chữ thập sắt.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 21:12 ngày 18/08/2010
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận hải chiến thứ hai ở Narvik
    Tóm tắt trận đánh
    Ngày Ngày 13 tháng 4 năm 1940
    Nơi Narvik, Na Uy
    Kết quả Anh chiến thắng ( người Đức bị xóa sổ một nửa số tầu khu trục của mình)
    Các bên tham chiến
    Vương quốc Anh
    Chỉ huy
    William Whitworth
    Sức mạnh
    1 thiết giáp hạm
    9 tàu khu trục
    một số ít máy bay
    Thương vong
    3 tàu khu trục bị hư hỏng
    28 bị giết
    55 người bị thương
    Đức
    Chỉ huy
    Erich Bey
    Sức mạnh
    8 tàu khu trục
    2 tầu U-Boat
    Thương vong
    8 tàu khu trục bị đánh chìm hoặc tự đánh đắm
    1 U-Boat bị đánh chìm
    1028 thiệt mạng
    67 người bị thương
    Hải quân Hoàng gia cho rằng đánh bại quân Đức ở Narvik là điều bắt buộc, nó có ý nghĩa cả về mặt tinh thần lẫn mục đích chiến lược do đó Phó Đô đốc William Whitworth đã được gửi đến cùng với chiếc thiết giáp hạm HMS Warspite (các bác lưu ý là thiết giáp hạm đối đầu với khu trục hạm nha) và chín tàu khu trục ; bốn chiếc lớp Tribal ( các chiếc HMS Bedouin, Cozak, Punjabi, Eskimo) và năm chiếc khác ( HMS Kimberley, Hero, Icarus, Forester và Foxhound) , kèm theo các máy bay từ tàu sân bay HMS Furious. Những lực lượng này đến Ofotfjord ngày 13 tháng 4 và nhìn thấy 8 tàu khu trục còn lại của Đức lúc này dưới sự chỉ huy của Fregattenkapitän Commander (thuyền trưởng Frigate) Erich Bey và lúc này chúng hầu như bị mắc kẹt vì thiếu nhiên liệu và thiếu đạn dược.
    Trước trận, chiếc Warspite tung ra máy bay của mình bằng máy phóng (chiếc Fairey Swordfish số L 9.767 ) và sau đó nó thả bom và đánh chìm chiếc tầu ngầm U-64 lúc này đang thả neo trong Herjangsfjord gần Bjerkvik. Hầu hết thủy thủ đoàn đều sống sót và được cứu bởi lính sơn cước Đức. Đây là chiếc U-Boat đầu tiên cu?a đức bị đánh chìm bởi máy bay trong Thế Chiến II, và là trường hợp duy nhất một chiếc máy bay phóng từ tàu chiến lại đánh chìm một tầu U-Boat.
    Trong trận chiến tiếp theo, ba trong số các tàu khu trục của Đức bị đánh chìm bởi chiếc HMS Warspite và các tàu hộ tống nó, và năm chiếc khác bị đánh đắm bởi các đội thủy thủ của chúng khi họ đã hết nhiên liệu và đạn dược. Bị đánh chìm đầu tiên là chiếc Erich Koellner khi nó đang cố gắng phục kích vào lực lượng Đồng Minh nhưng nó phát hiện bởi chiếc máy bay Fairey Swordfish của chiếc Warspite và sau đó nó bị trúng ngư lôi và đạn pháo từ chiếc thiết giáp hạm và các tàu khu trục hộ tống.
    Sau đó các chiếc tầu khu trục còn lại của Đức - Wolfgang Zenker, Bernd von Arnim, Hans Ludemann và Hermann Künne tấn công vào lực lượng Anh , nhưng chỉ có thể làm thiệt hại nhẹ HMS Bedouin. máy bay từ chiếc TSB HMS Furious của Anh đã cố gắng để tấn công vào các tàu khu trục của Đức nhưng không thành công và bị bắn rơi hai chiếc. Chiếc Wolfgang Zenker đã cố gắng để phóng ngư lôi vào chiếc Warspite.
    Cuối cùng, khi các tàu khu trục của Đức đã cạn đạn dược, họ rút lui trừ chiếc Hermann Künne vì không nhận được mệnh lệnh. Hermann Künne bị truy sát bởi sự bám đuôi của chiếc HMS Eskimo nhưng nó không bị trúng phát đạn nào. Cạn đạn dược nhưng không bị hư hại chiếc Hermann Künne bị đánh đắm bởi thủy thủ đoàn của nó trong Trollvika tại Herjangsfjord. Sau khi tháo nước vào con tàu, thủy thủ đoàn đã cài bom chìm trên tàu và cố gắng đánh chìm nó trong vùng nước nông của Trollvika. Chiếc Eskimo vẫn còn theo sát và nó bắn ra một quả ngư lôi trúng chiếc Hermann Künne làm cho nó bốc cháy. Dù bom chìm của Đức hay ngư lôi được bắn từ chiếc Eskimo là nguyên nhân của vụ nổ thì không ai có thể xác định. Chiếc Eskimo khi quay trở lại lại trúng phục kích của chiếc Georg Thiele và Hans Ludemann và bị bắn tung mất cái mũi tầu của nó nhưng vẫn còn sống sót. Các chiếc Diether von Roeder và Erich Giese, cả hai đều có vấn đề với động cơ nhưng vẫn bắn vào lực lượng tầu Anh trong khi được neo ở cảng (đây là hai tầu được chuyển đổi làm các ụ pháo phòng thủ cố định), gây hư hại cho các chiếc HMS Punjabi và Cozak, Nhưng cả hai bị đánh chìm trước khi chúng có thể gây ra hư hại thêm nữa. Đó là những tầu chiến cuối cùng của Đức bị đánh chìm trong chiến đấu và những tầu tàu khu trục của Đức còn lại tự đánh đắm ngay sau đó. Trong số các tàu Đức chỉ còn có chiếc tàu ngầm U- 51 là sống sót trong khu vực cảng.
    Các khẩu đội pháo bờ biển cũng bị hư hỏng nặng do súng của chiếc Warspite. Về phía Đồng Minh, thiệt hại của chiếc HMS Eskimo làm nó phải ở lại Na Uy cho đến khi 31 tháng 5 năm 1940. Tàu ngầm Đức một lần nữa bị thất bại khi các chiếc U- 46 và U- 48 bắn ngư lôi vào chiếc HMS Warspite khi nó đang khởi hành vào ngày 14 tháng 4 .
    Người Đức mất hơn 1.000 binh lính và các tàu khu trục Hermann Künne, Wolfgang Zenker, Erich Koellner, Georg Thiele, Bernd von Arnim, Erich Giese, Hans Lüdemann và Diether von Roeder, ngoài ra còn mất thêm chiếc tầu ngầm U- 64.
    Nhiều người Đức đã bị bắn chết khi bị đắm tàu bởi pháo binh và súng máy Anh, còn khoảng 2.600 người sống sót được tổ chức thành một đơn vị lính thủy đánh bộ có tên là Gebirgsmarine và chiến đấu bên cạnh đơn vị 139 Gebirgsjägerregiment trong trận chiến trên bộ tiếp theo. Mặc dù không thật sự phù hợp để chiến đấu trong địa hình miền núi quanh Narvik các thủy thủ của các con tàu đắm đã sử dụng hai khẩu súng 10,5 cm và 11 súng phòng không được vớt từ các con tàu bị đánh chìm trong trận hải chiến và tiến hành các hoạt động phòng thủ. Các thủy thủ này còn được vũ trang từ số vũ khí dự trữ bị tịch thu tại căn cứ Elvegårdsmoen của quân đội Na Uy, số vũ khí này bao gồm hơn 8.000 súng trường Krag - Jørgensen và súng máy 315 để dành cho việc trang bị cho các đơn vị quân đội Na Uy trong vùng Narvik.
    Các hoạt động sau trận hải chiến Narvik
    Sau trận hải chiến Narvik, cảng và các vùng xung quanh khu vực cảng vẫn nằm trong tay người Đức vì không có lực lượng Đồng Minh nào sẵn sàng đổ bộ lên đó. Hoạt động hải quân ở giai đoạn này chỉ giới hạn là để bắn phá lên bờ vì Narvik không phải là một mục tiêu chính của lực lượng Đồng minh.
    Trong số những sự kiện khác, các khu trục hạm của Balan ?" các chiếc ORP Grom, ORP Burza và ORP B,yskawica tham gia vào các hoạt động tấn công này, trong đó chiếc Grom bị đánh chìm bởi máy bay Đức vào ngày 4 tháng 5 năm 1940.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:58 ngày 19/08/2010
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận chiến trên đất liền
    Tóm tắt
    Ngày 9 tháng 4 -> 8 tháng 6 năm 1940
    Nơi Narvik, Na Uy
    Kết quả Đức chiến thắng sau khi Đồng Minh tháo chạy
    Các bên tham chiến
    Đồng minh
    Na Uy
    Vương quốc Anh
    Pháp
    Ba Lan
    Chỉ huy
    Carl Gustav Fleischer
    William Boyle, 12 Earl của Cork
    Zygmunt Bohusz - Szyszko
    Raoul Magrin - Vernerey
    Sức mạnh
    Sư đoàn 6 Na Uy
    Bốn tiểu đoàn Anh
    Ba tiểu đoàn thuộc quân đoàn Chasseurs alpins Pháp
    Hai tiểu đoàn của Bán lữ đoàn Lê dương số 13 Pháp
    Bốn tiểu đoàn của Lữ đoàn Ba Lan độc lập
    Tổng số: 24.500 người
    Đức
    Chỉ huy
    Eduard Dietl
    Sức mạnh
    5.600 binh sỹ bao gồm:
    2.000 Gebirgsjägers (chủ yếu là người Áo)
    2.600 thủy thủ và
    1.000 lính dù Fallschirmjägers
    Không rõ số thương vong của hai bên
    Trong thời gian Chiến dịch Na Uy, Narvik và vùng lân cận của nó có những trận chiến đáng kể bắt đầu từ ngày 09 tháng 4 giữa các lực lượng Đức và Na Uy, sau đó là giữa lực lượng Đồng Minh với người Đức, các trận chiến được tiến hành bởi Sư đoàn 6 Na Uy của Quân đội Na Uy cùng với một quân đoàn viễn chinh Đồng minh cho đến ngày 9 tháng 6 năm 1940. Không giống như các chiến dịch ở miền nam Na Uy, quân Đồng Minh tại Narvik ở thời điểm cuối cùng còn đông hơn cả quân đội Na Uy. Có tổng cộng năm quốc gia tham chiến. Từ ngày 5 tháng 5 -> 10 tháng 5. Trận chiến tại khu vực Narvik chỉ là một phần rất nhỏ của cuộc chiến trên bộ trong Thế chiến thứ hai. Lúc bắt đầu, cảnh ngộ của vị chỉ huy Đức - Dietl là không được tốt cho lắm: ông chỉ có xấp xỉ 2.000 binh lính. Sau khi các tàu khu trục của Đức bị đánh chìm, tuy nhiên khoảng 2.600 thủy thủ Đức đã tham gia cuộc chiến trên bộ. Một toán lính thiện chiến của Đức gồm 290 người giả làm nhân viên y tế vượt qua Thụy Điển để tăng viện cho họ. Trong suốt 3-> 4 tuần sau đó người Đức đã được tăng viện bởi khoảng 1.000 lính dù được thả qua Bjørnefjell, do đó nâng tổng số người Đức lên khoảng hơn 5.000 người. Cảnh ngộ và triển vọng của họ bị lên voi xuống chó rất nhiều lần. Hitler trong tâm trạng nặng nề (vì bị mất một nửa số tầu khu trục) và được báo cáo là có nhiều dao động và ông ta đã dự tính nhiều lần tới việc. Toàn bộ hoạt động của chiến dịch trên bộ được kiểm soát trực tiếp từ Bộ chỉ huy Tối cao Đức ở Berlin.
    Lực lượng Na Uy dưới sự chỉ huy của tướng Carl Gustav Fleischer cuối cùng cũng lên đến 8->10,000 người sau một vài tuần. Tổng số quân Đồng Minh trong chiến dịch, trong và xung quanh Narvik đã lên tới 24.500 người.
    Giai đoạn đầu của cuộc xâm lược đã được đánh dấu bởi các lợi thế về tính bất ngờ của người Đức. quân đội Na Uy ở phía bắc đất nước này đã được tập trung để canh phòng và giữ tính trung lập trong mùa đông 1939/1940 vì vậy họ đã được huấn luyện cùng nhau. Trong các ngày 09-25 tháng 4, lực lượng Na Uy mắc phải ba thảm họa. Trước tiên, lực lượng bảo vệ Narvik đã không thể chặn được người Đức do viên sĩ quan chỉ huy - Đại tá Konrad Sundlo từ chối chiến đấu chống lại quân xâm lược, thảm họa thứ hai khoảng 200 binh sĩ từ các đơn vị đồn trú ở Narvik những người đã trốn thoát để khỏi bị bắt tù binh đã khóa tuyến đường sắt đi Thụy Điển đã bị tấn công bất ngờ khi đang nghỉ ngơi tại Bjørnefjell (có thể là do lính dù đức) và hầu hết những người này bị bắt làm tù binh, thảm họa thứ ba, cái gọi là " tiểu đoàn Trønder" được gửi đến để tổ chức phòng thủ Gratangsbotn đã bị tấn công bất ngờ khi đang ở trong trang trại. Những thảm họa này phá hủy tinh thần của các binh sỹ Nauy và còn có hiệu quả đến tận phần còn lại của chiến dịch.
    Do áp lực của quân Na Uy và những khó khăn trong việc đảm bảo cung cấp cho các toán quân đóng ở phía trước người Đức buộc phải rời bỏ Gratangsbotn và rút khỏi các cứ điểm Lapphaugen và thung lũng Gratangsdalen sau trận đánh Gratangen. Trong những ngày đầu tháng, người Na Uy bắt đầu một bước tiến về phía nam hướng tới Narvik. Một điều trở nên rõ ràng rằng quân Đồng Minh sẽ mở cuộc tấn công chủ yếu vào chính Narvik và vào giữa tháng 5 quân Na Uy đổi hướng tiến về phía Bjørnefjell.
    Người Anh xuất hiện đầu tiên và thiết lập sở chỉ huy tại Harstad vào ngày 14 tháng 4 . Trong những ngày sau đó ba tiểu đoàn lính Anh đã được triển khai chủ yếu ở Sjøvegan, Skånland (Nơi mà một căn cứ hải quân của Anh được thành lập ) và tại Bogen. Sau đó họ đã được triển khai ở phía nam Ofotfjord tại Ballangen và Håkvik. Cũng trong tháng đó quân Anh đã rút khỏi hầu hết các khu vực quanh Narvik và triển khai lại về phía nam của Nordland để chặn bước tiến của người Đức ở đó.
    Quân Anh ban đầu được tăng cường vào ngày 28 tháng 4 bởi một lực lượng viễn chinh Pháp do tướng Antoine Béthouart chỉ huy. Bọn này gồm ba tiểu đoàn của quân đoàn Alpine và hai tiểu đoàn của Bán lữ đoàn Lê dương 13 (Bán lữ đoàn lê dương số 13 này đã gây không biết bao nhiêu tội ác với nhân dân Đông dương - và cuối cùng chúng đã phải đền tội tại đồi Him Lam - ĐBP) được triển khai ở cả hai phía bắc và phía nam của Ofotfjord, nhưng sau đó phía bắc là khu vực hoạt động chính của người Pháp. Bốn tiểu đoàn Ba Lan đến vào ngày 09 tháng 5. Đầu tiên họ được triển khai ở phía bắc của Ofotfjord nhưng sau đó lại được triển khai lại ở vùng phía nam của fjord. Vào đầu tháng 6 họ đã thành lập lữ đoàn Sơn cước Ba Lan độc lập dưới sự chỉ huy của Zygmunt Bohusz - Szyszko.
    Thêm vào đó quân Đồng minh gặp khó khăn trong việc quyết định phương án nào là tốt nhất để chiếm lại Narvik và tuyến đường sắt chở quặng sắt. Không có sự chỉ huy thống nhất cho quân Đồng Minh tại Narvik: người Na Uy và quân Đồng minh có những sự riêng biệt về hệ thống chỉ huy và sự hợp tác giữa họ không phải luôn luôn là trơn tru. Ngay cả trong quân Anh giữa các chỉ huy của Quân đội và Hải quân( Thiếu tướng J. Mackesy Pierse và Đô đốc William Boyle) cũng có những khó khăn trong việc hợp tác: Boyle ủng hộ một cuộc tấn công nhanh chóng và trực tiếp từ biển vào trong khi Mackesy chủ trương một cách tiếp cận thận trọng từ hai cánh của Ofotfjord. Cuối cùng chỉ huy Hải quân Anh ?" tướng Boyle nắm quyền tổng chỉ huy quân Đồng Minh.
    Trong tuần thứ hai của tháng đó người Na Uy tiến lên để tấn công quân Đức ở phía đông Gratangseidet đây là mặt trận quan trọng nhất về phía mặt trước của Narvik. Ngoài ra trên sườn bên phải của quân Na Uy, quân Pháp tiến lên qua thung lũng núi cao Laberg và họ được hỗ trợ bởi một đại đội lính trượt tuyết người Na Uy. Ở phía nam Đồng Minh không có nhiều các đợt tấn công và ở phía bắc của Ofotfjord họ không tiến hành bất kỳ hàng động nào. Người Na Uy tiếp tục các đợt tấn công ở vùng núi non của họ và vào giữa tháng Đồng Minh đã có một sáng kiến mới và đạt được những thắng lợi đáng kể. Cả hai Paris và London đã hết kiên nhẫn với sự tiến bộ chậm chạp tại Narvik và viên chỉ huy người Pháp - Béthouart đã gây áp lực để có nhiều hành động hơn nữa.
    Phương án tấn công thận trọng trên bộ đã bị huỷ bỏ và một cuộc tấn công đổ bộ đã được tiến hành vào lúc nửa đêm khoảng ngày 12 tháng 5. Cuộc tấn công này được hướng vào Bjerkvik và được chuẩn bị trước bởi một đợt bắn phá từ tàu chiến hải quân Anh có căn cứ tại Herjangsfjord. Sau đó các lính Lê dương người nước ngoài của Pháp được đưa lên bờ và được hỗ trợ bởi năm chiếc xe tăng hạng nhẹ của Pháp. Người Pháp đã chiếm được các cứ điểm Bjerkvik, Elvegårdsmoen và tiến theo hướng đông bắc đến nơi mà người Đức tháo chạy và tiến về phía nam dọc theo phía đông của Herjangsfjord. Kế hoạch này cũng yêu cầu quân Ba Lan tiến về phía Bjerkvik từ trên bộ ở phía tây của fjord, nhưng do địa hình đợt tiến quân của họ bị trì hoãn và họ đã không đến trước khi chiếm được Bjerkvik. Một phần của kế hoạch còn là để quân Pháp và Na Uy tiến từ phía bắc để khóa quân Đức vào một chiếc hộp, nhưng vấn đề hợp tác giữa các chỉ huy người Na Uy và Pháp là không tốt và tạo ra một khe hở mà qua đó người Đức đã trốn thoát . Mặc dù vậy quân Đồng Minh đã dọn được một đường dẫn về phía bắc của Narvik và họ đã lên kế hoạch để tấn công Rombaksfjord.
    Một lần nữa cuộc tấn công bị đình trệ trong khi quân Đồng minh cố chờ sự hỗ trợ đầy đủ của không quân từ Bardufoss. Lúc 23:40 ngày 28 tháng 5 một trận pháo kích của hải pháo cực kỳ dữ dội bắt đầu từ phía bắc. Hai tiểu đoàn Pháp và một tiểu đoàn Na Uy được vận chuyển qua Rombaksfjord và tiến về Narvik từ phía bắc. Ở phía nam các tiểu đoàn Ba Lan tiến đến Ankenes và bên trong Beisfjord. Xà lan đổ bộ được sử dụng tối đa và đã đổ được 290 binh lính và đám này không được tăng viện trong vòng 45 phút. Các binh sĩ đổ bộ đầu tiên nhanh chóng tìm chỗ trú ẩn tại Ornes trong thời gian các lực lượng còn lại của Pháp và Na Uy tiếp tục tiếp đất. Quân Pháp di chuyển về phía tây thành phố và hướng về phía đông dọc theo đường sắt. Na Uy chuyển hướng về phía núi Taraldsvik đi vòng quanh và chuyển xuống phía thành phố. Các chỉ huy Đức quyết định sơ tán trước 7:00 và bố trí dọc theo Beisfjord. Đây là chiến thắng lớn đầu tiên của Đồng minh trên bộ.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:47 ngày 19/08/2010
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chiến dịch Alphabet
    Dường như bây giờ chỉ là vấn đề thời gian để người Đức phải đầu hàng. Họ bị gây áp lực từ phía bắc bởi người Na Uy, từ phía tây của người Pháp và từ phía tây nam bởi người Ba Lan. Dường như Bjørnefjell sẽ là cứ điểm cuối cùng của người Đức, nhưng những sự kiện ở những nơi khác tại châu Âu đã ra tay cứu họ. London đã bí mật quyết định sơ tán quân của mình vào ngày 24 tháng 5 và điều này càng trở nên rõ ràng trong những ngày sau. Đêm ngày 24/25 trong tháng, Lord Cork nhận được lệnh rút lui, nhưng để nghi binh che mắt quân Đức, các chỉ huy Đồng minh đã nhất trí rằng phải tổ chức một cuộc tấn công vào Narvik để rút lui và cho phép phá huỷ cảng quặng sắt.
    Chính phủ và các chỉ huy Na Uy những người đầu tiên nhận được tin này vào đầu tháng 6 và họ phản ứng với sự hoài nghi và cay đắng. Người Na Uy vẫn còn nuôi hy vọng rằng một mình họ có thể đánh bại người Đức và đến cuối ngày 5 tháng 6 một trong hai lữ đoàn Na Uy được lệnh tấn công. Chính phủ Na Uy cũng khám phá một khả năng tạo ra một môi trường trung lập nhưng vùng Bắc Na Uy thì lại tự do. Kế hoạch này là vô ích và ngày 7 tháng 6 vua và chính phủ Na Uy đã được sơ tán đến Anh. Tất cả quân Đồng Minh đã được sơ tán từ Narvik giữa 04 tháng 6 và ngày 8 tháng 6 năm 1940.
    Ba tàu chở khách Ba Lan ?" các chiếc MS Sobieski, MS Batory và MS Chrobry đã tham gia vào các hoạt động sơ tán. Chiếc Chrobry bị đánh chìm vào tháng 14/15 bởi máy bay ném bom của Đức. Vào ngày 8 tháng 6 tướng Dietl chiếm lại Narvik và ngày 10 tháng 6 lực lượng Na Uy cuối cùng đầu hàng.
    Chiến dịch Juno
    Ngày 07 tháng 6, chiếc tàu sân bay Anh HMS Glorious, đã lấy trên tàu 10 chiếc Gloster Gladiators và 8 chiếc Hawker Hurricane từ Phi đội số 46 RAF và Phi đội số 263 RAF thuộc Không quân Hoàng gia. Việc sơ tán chúng từ các căn cứ trên mặt đất để giữ cho chúng khỏi bị phá hủy trong cuộc di tản này. Chiếc Glorious đoàn rời khỏi đoàn công voa lớn để hành trình một cách độc lập. Ngày hôm sau trong khi quá cảnh qua Biển Na Uy để trở về Scapa Flow, chiếc tàu sân bay và hai tàu hộ tống nó - các tàu khu trục HMS Acasta và HMS Ardent đã bị chặn bởi các tàu tuần dương chủ lực của Đức ?" các chiếc Scharnhorst và Gneisenau. Cả hai chiếc tàu sân bay và các tàu hộ tống bị đánh chìm với tổn thất lên tới hơn 1.500 người.
    Chiếc Scharnhorst đã bị thiệt hại bởi một ngư lôi từ Acasta, và cả hai tàu Đức bị trúng một đạn pháo ở cỡ nòng trung bình. Các thiệt hại với tàu của Đức đủ để làm cho nó phải quay về nghỉ ngơi ở Trondheim, việc này cho phép đoàn công voa di tản qua khu vực này một cách an toàn sau ngày hôm đó.
    Hậu quả
    Cuộc tấn công của Đồng Minh bắt đầu một cách từ từ. Không giống như người Đức, họ không có một mục tiêu rõ ràng khi chiến đấu tại Na Uy và do đó các chiến dịch không có một sự chỉ đạo thống nhất và thiếu tính quyết đoán. Người Anh đã soạn thảo kế hoạch đổ bộ lên Narvik trước khi cuộc xâm lược Đức diễn ra và binh lính rồi vật tư đã thậm chí được chất lên tàu khi họ thực hiện các hoạt động khai thác mỏ của họ ngày 08 tháng 4. Nhưng chúng đã được dỡ xuống một cách vội vàng khi tàu của Đức được phát hiện ở hướng Bắc. Người Anh suy đoán rằng các tàu chiến của Đức đã cố gắng để đột nhập vào Đại Tây Dương để tránh bị mắc kẹt tại các cảng của Đức. Sau lý do này người Anh muốn tất cả các tàu của họ phải sẵn để đánh chặn tầu chiến của Đức. Những rắc rối hậu quả của sự nhầm lẫn này làm cho tiến độ bị trì hoãn hàng tuần: quân lính và vật tư được chuyển tới Na Uy một cách riêng rẽ mà không có các hành động dọn dẹp đích đến và mệnh lệnh được thay đổi một cách liên tục trong quá trình tiến hành chiến dịch. Đó dường như là phe đồng minh đã nhầm lẫn do có nhiều vịnh nhỏ hẹp và không thể quyết định được nơi nào là địa điểm tốt nhất để bắt đầu. Ngoài ra người Anh , Pháp và Ba Lan cũng mong muốn nhanh chóng làm giảm gánh nặng cho các đơn vị khác.
    Tuyết lạnh là một kẻ thù chung cho tất cả các lực lượng tại Narvik, nhưng hầu hết các bên thuộc phe đồng minh chuẩn bị quá kém cho vấn đề này. Na Uy là lực lượng duy nhất trang bị đầy đủ các ván trượt và có thể sử dụng chúng một cách thành thạo. Người Anh đã cố gắng để sử dụng ván trượt nhưng phần lớn binh sỹ của họ chưa qua đào tạo và nguồn cung cấp lại khan hiếm. Các thủy thủ Đức cũng phải đối mặt với các vấn đề tương tự. Ngay cả đối với các chuyên gia núi người Đức và Pháp cũng chỉ có một vài đơn vị được trang bị ván trượt. Các đơn vị thuộc lữ đoàn sơn cước Ba Lan trong thực tế không được đào tạo để chiến đấu ở vùng rùng núi.
    Hầu hết binh lính chưa trải nghiệm qua trận chiến lớn. Một số các chuyên gia leo núi Đức đã tham gia vào cuộc xâm lược Ba Lan và một số lính dù được thả qua Bjørnefjell đã chiến đấu ở Hà Lan. Một số lính Lê dương người nước ngoài của Pháp đến trực tiếp từ những cuộc chiến ở Bắc Phi và hầu hết các sĩ quan và binh lính Ba Lan là những người đã tham gia vào công việc phòng thủ Ba Lan, thậm chí một số còn chiến đấu trong Nội chiến Tây Ban Nha và có động lực cao.
    Lực lượng Đồng Minh chiếm ưu thế trên không và trên biển cho đến giai đoạn cuối cùng của chiến dịch này nhưng đã không tận dụng được ưu thế này.
    Người Đức bị thua trong trận chiến hải quân nhưng họ lại đạt được mục đích chính của chiến dịch của họ - thành công trong cuộc xâm lược và chiếm đóng Na Uy (nếu 10 tầu khu trục của Đức không bị đắm thì có lẽ họ không có đủ lực lượng để giữ Narvik).
    Xung quanh Narvik tổn thất của hải quân Đức là rất cao: họ mất 10 tàu khu trục ( một nửa trong số toàn bộ lực lượng tàu khu trục của họ), một trong những tàu ngầm và nhiều tàu hỗ trợ. Để đổi lại họ đã đánh chìm hai khu trục hạm của Đồng Minh và đánh bị thương một số chiếc khác. Lý do cho thất bại này là người Đức không có kế hoạch rút các tàu khu trục về để nghỉ ngơi một cách nhanh chóng ngay cả trong trường hợp họ đã có đầy đủ vật tư. Thiết sót này cùng với đặc điểm thiết kế của tàu khu trục của Đức: mặc dù chúng có kích thước tương đối lớn và trang bị vũ khí tương đối mạnh, họ lại không có đủ dự trữ nhiên liệu và đạn dược tương ứng.
    Mặt khác người Anh trong khi có được một chiến thắng không thể chối cãi của hải quân tại vùng này đã chẳng có bất cứ một sự chuẩn bị nào để tiến hành các hoạt động đổ bộ. Điều này cho phép quân Đức củng cố chỗ đứng chân của họ tại Na Uy và việc tiến hành các cuộc đổ bộ sau đó của quân Đồng minh vào Narvik trở nên khó khăn hơn.
    Một số hình ảnh về trận chiến Narvik
    [​IMG]
    Bản đồ trận hải chiến Narvik lần 1 và lần 2 tại Na Uy từ ngày 10 -> 13 tháng 4 năm 1940
    [​IMG]
    Ảnh chụp cảng Narvik trong thời gian chiến tranh thế giới thứ II
    [​IMG]
    Lính Đức bị lính Ba Lan bắt tù binh trong trận Narvik
    [​IMG]
    Tầu lượn Donier mà người Đức dùng để đổ bộ lính dù xuống Narvik
    [​IMG]
    Lính sơn cước Đức thuộc đơn vị Gebirgsjägerregiment tham gia trận Narvik - họ được tuyển từ những người Âo sống ở vùng núi cao
    [​IMG]
    Lính Na uy đối thủ của mấy bác sơn cước Đức, mấy bác này đang sài một khẩu sơn pháo 75 mm ( hè hè lính sơn cước thì phải dùng sơn pháo chứ đúng ko ạ)
    [​IMG]
    Ảnh lính Đồng minh sau khi đã xuống được tầu để về Anh sau trận Narvik, hú vía thoát chết nên bác nào bác nấy cười phớ lớ
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:35 ngày 19/08/2010

Chia sẻ trang này