1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Nhật Bản phản công

    Chiếc Hiryū là chiếc tàu sân bay của Nhật Bản còn sống sót duy nhất, nó lãng phí thời gian vào việc phản công. Làn sóng đầu tiên của các máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản làm hư hỏng nặng chiếc Yorktown với ba quả bom thả trúng làm dập tắt lò hơi của nó, làm nó không thể di chuyển nhưng các đội kiểm soát thiệt hại của nó đã vá của mình lên để có hiệu quả ( trong khoảng một giờ ) trong khi làn sóng thứ hai của máy bay ném bom phóng ngư lôi nhầm nó là một tàu sân bay không bị hư hại. Mặc dù Nhật Bản hy vọng tạo được tỷ lệ cân bằng bằng cách loại bỏ hai tàu sân bay với hai cuộc tấn công, chiếc Yorktown thu hút cả hai cuộc tấn công của Nhật Bản, làn sóng thứ hai nhầm lẫn khi cho rằng chiếc Yorktown đã bị đánh chìm và rằng họ đã tấn công chiếc Enterprise. Sau hai quả ngư lôi bắn trúng chiếc Yorktown bị hoàn toàn bị mất điện và bị nghiêng khoảng 26 ° về bên trái và loại nó ra khỏi chiến đấu, và buộc Đô đốc Fletcher phải cho di chuyển nhân viên của mình để sang chỉ huy ở tàu tuần dương hạng nặng Astoria. Cả hai tàu sân bay thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 16 của Spruance đã không bị hư hại.


    Tin tức về hai cuộc tấn công với các báo cáo rằng mỗi đợt đánh chìm một tàu sân Mỹ, tinh thần trong Kido butai cải thiện rất nhiều. Tất cả những chiếc máy bay còn của nó đã được thu hồi trên tàu Hiryū, nơi họ chuẩn bị cho một cuộc tấn công chống lại những gì được cho là chiếc tàu sân bay duy nhất còn lại của Hoa kỳ.

    Cuối buổi chiều, một máy bay trinh sát từ chiếc Yorktown phát hiện vị trí của chiếc Hiryū, lập tức chiếc Enterprise khởi động một cuộc tấn công cuối cùng bằng máy bay ném bom bổ nhào (gồm cả 10 chiếc máy bay ném bom từ Yorktown). Đợt tấn công này tạo ra một đòn chết người làm cho chiếc Hiryū phát nổ, dù nó được bảo vệ bởi một nắp mạnh của hơn một chục máy bay tiêm kích Zero . Phó Đô đốc Yamaguchi đã chọn để chìm xuống cùng với con tầu của mình khi nó chìm vào ngày 05 tháng 6, và bắt Nhật bản phải trả giá bằng những thủy thủ tầu sân bay có lẽ là tốt nhất của nó. Cuộc tấn công của chiếc Hornet được phát động vào cuối ngày vì một lỗi truyền tin đã tập trung vào các tàu hộ tống còn lại nhưng không bắn trúng bất kỳ chiếc tầu nào.

    Khi bóng tối đổ xuống hai bên đối địch đã và thực hiện kế hoạch dự kiến để tiếp tục hành động. Đô đốc Fletcher buộc phải từ bỏ chiếc Yorktown và cảm thấy ông không thể điều hành từ một tuần dương hạm, ông liền nhường quyền chỉ huy hoạt động lại cho Spruance. Spruance biết Hoa Kỳ đã giành được một chiến thắng vĩ đại , nhưng vẫn không chắc chắn về những lực lượng còn lại của Nhật Bản và xác định phải làm gì để bảo vệ cả hai tàu sân bay của ông tại Midway. Để hỗ trợ các phi-công của ông, những người được tung ra ở tầm xa cực đại, ông tiếp tục áp sát chặt chẽ với Nagumo vào lúc ban ngày, và tiếp tục như vậy khi đêm xuống. Lo sợ một cuộc chạm trán ban đêm với các lực lượng mặt Nhật Bản có thể xảy ra, Spruance thay đổi hướng đi và rút lui về phía đông, quay lưng lại phía tây về phía đối phương lúc nửa đêm.

    Về phần mình, Yamamoto ban đầu đã quyết định tiếp tục tham gia trận đánh và gửi lực lượng bề mặt còn lại của mình về phía đông để tìm kiếm các tàu sân bay Mỹ. Đồng thời , một lực lượng tàu tuần dương làm nhiệm vụ oanh kích được tách ra để bắn phá các hòn đảo. Các lực lượng tầu chiến bề mặt của Nhật Bản không tạo được bất cứ tiếp xúc nào với người Mỹ do quyết định của Spruance là chạy về phía đông, và Yamamoto ra lệnh cho tất cả các lực lượng quay về phía tây.

    Các máy bay trinh sát tìm kiếm của người Mỹ thất bại trong việc phát hiện các lực lượng đặc nhiệm đã rút ra khỏi trận đánh của Nhật Bản vào ngày 05 tháng 6. Một cuộc tấn công chiều bị bỏ lỡ vì không thể phát hiện ra lực lượng chính của Yamamoto và thất bại trong việc bắn trúng vào một tàu khu trục Nhật Bản lạc khỏi đội hình. Các máy bay tấn công quay trở lại các tàu sân bay sau khi lúc mặt trời lặn, khiến Spruance phải ra lệnh cho các chiếc Enterprise và Hornet bật đèn searchlight để hỗ trợ chúng hạ cánh.

    Lúc 02:15 ngày 5 / 6 tháng sáu, chiếc Tambor (tầu ngầm ) dưới sự chỉ huy của John Murphy, ở khoảng 90 hải lý ( 100 mi ; 170 km) về phía tây của Midway, tiến hành đợt tấn công thứ hai của lực lượng tàu ngầm và đã có đóng góp lớn cho kết quả của trận đánh. Nhìn thấy một số tàu ông (cùng với exec của mình, Ray Spruance , Jr ) không thể nhận dạng chúng (và lo rằng họ có thể là quân nhà, do đó ông đã không nổ súng ), nhưng báo cáo sự hiện diện của họ, và bỏ qua hướng đi của họ. Tin này đã đến chỗ Đô đốc Robert English - Tư lệnh lực lượng tàu ngầm, Hạm đội Thái Bình Dương (COMSUBPAC), và ông ta thông báo cho Nimitz, cấp trên của Spruance. Không xác định được chính xác vị trí của Lực lượng chính của Yamamoto ( một vấn đề dai dẳng kể từ khi PBYs đã nhìn thấy đầu tiên của Nhật Bản ) , Spruance coi đây là đội quân xâm lược. Do đó, ông quyết định chuyển tới và trặn đứng nó ở khoảng 100 hải lý ( 120 mi ; 190 km) về phía đông bắc Midway; sự kiện này làm thất vọng nỗ lực của Yamamoto và đêm qua đi mà không có bất kỳ sự va chạm nào giữa các lực lượng đối địch.

    Trên thực tế, nhóm này đã bắn phá của Yamamoto gồm bốn tuần dương hạm và hai tàu khu trục, vào lúc 2:55 bị buộc phải ra khỏi trận chiến ở phía tây với phần còn lại của lực lượng của mình. Chiếc Tambor bị nhìn thấy vào khoảng thời gian này, các con tầu của Nhật chuyển hướng để tránh nó làm các chiếc MogamiMikuma va chạm với nhau gây thiệt hại nghiêm trọng đến phần mũi của chiếc Mogami, phần lớn trong số 18 chiếc tầu ngầm được triển khai cho trận chiến đã xuất hiện. Vào lúc 4:12 bầu trời đã đủ sáng cho Murphy phân biệt được số tàu trên là của Nhật Bản, do đó tiếp tục nổi lên ở bề mặt là một mối nguy hiểm và ông lặn xuống để tiếp cận đối phương để triển khai cuộc tấn công. Việc này đã không thành công và vào khoảng 6:00 cuối cùng ông ta đã báo cáo với Spruance rằng có hai tàu tuần dương lớp Mogami ở hướng Tây, lúc này khoảng cách giữa chúng và Spruance ít nhất là khoảng 100 hải lý ( 190 km). Spruance rất may mắn là đã không theo đuổi vì nếu làm như thế thì ông đã gặp phải đội tàu hạng nặng của Yamamoto, bao gồm cả chiếc Yamato, trong bóng tối thì các tàu tuần dương của ông sẽ bị đè bẹp và các tàu sân bay của ông thì trở nên vô dụng. ( Tại thời điểm đó , chỉ có Fleed Air Arm của Anh có khả năng triển khai hoạt động tàu sân bay ban đêm. )

    Trong hai ngày sau trận Midway thì các tàu sân bay của Spruance tung ra một số cuộc tấn công liên tiếp chống lại các tầu đi lạc đội hình. Chiếc Mikuma cuối cùng đã bị đánh chìm bởi một chiếc máy bay Dauntless, trong khi chiếc Mogami bị thiệt hại nặng nhưng vẫn sống sót trở về cảng nhà để sửa chữa. Đại úy Richard E. Fleming, một phi-công Hải quân được truy tặng Huân chương Danh dự cho cuộc tấn công của mình vào chiếc Mikuma . Một phi-công Hải quân khác - Lofton Henderson, thiệt mạng trong khi dẫn đầu phi đội của mình tấn công vào các tàu sân bay Nhật Bản và trở thành phi-công hải quân đầu tiên bị thiệt mạng trong trận chiến, ông được vinh danh bằng cách đặt tên của ông cho sân bay ở Guadalcanal vào tháng 8 năm 1942. (Hoá ra sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal là lấy theo tên bác này - ở đây mấy tháng sau lại tiếp tục diễn ra những trận đánh vô tiền khoáng hậu giữa Hoa kỳ và Nhật bản)

    Trong khi đó, các nỗ lực cứu hộ chiếc Yorktown được cố gắng và nó được kéo đi bởi chiếc USS Vireo, cho đến cuối chiều ngày 6 tháng Sáu thì chiếc Yorktown lại bị bắn trúng hai quả ngư lôi từ chiếc I- 168. Chỉ có một vài thương vong trên tàu Yorktown, vì hầu hết các thủy thủ đoàn đã được sơ tán nhưng một ngư lôi thứ ba từ salvo này cũng bắn trúng và đánh chìm chiếc tàu khu trục USSHammann vốn được dùng để cung cấp năng lượng bổ sung cho chiếc Yorktown. Chiếc Hammann bị vỡ làm hai mảnh với tổn thất mạng sống của 80 lính thủy. Hầu hết những người này chết là do bom săn ngầm của con tầu nổ. Chiếc Yorktown vẫn còn cố nán lại cho đến sau 05:00 ngày 7 Tháng 6 mới chịu ngủm.

    Thương vong


    Vào lúc trận đánh kết thúc 3,057 lính Nhật bản đã chết. Bốn chiếc tầu sân bay đã đắm và thương vong của từng chiếc là: chiếc Akagi 267 người; chiếc Kaga: 811 người, chiếc Hiryu: 392 người; chiếc Soryu: 711 người, tổng cộng 2,081 người trên các TSB. Chiếc tầu tuần dương Mikuma (chìm): 700 người; và chiếc Mogami (bị hỏng nặng): 92 người tổng cộng thương vong của các tầu tuần dương là 792 người.

    Ngoài ra các tầu khu trục Arashio (bị ném bom): 35 người; và Asashio (bị oanh tạc bởi không quân): 21 người; các chiếc này đều bị tấn công khi hộ tống các chiếc tầu tuần dương bị thương. Các thủy phi cơ bị mất trên các chiếc tầu tuần dương, chiếc Chikuma: 3; chiếc Tone: 2. Bị giết chết trên boong các tầu khu trục Tanikaze: 11 người; Arashi: 1 người; Kazagumo: 1 người; và chiếc tầu chở dầu hạm đội Akebono Maru: 10 người; làm tăng thêm 23 thương vong nữa.

    Hậu quả của trận đánh



    Sau khi giành được một chiến thắng rõ ràng và việc truy kích trở nên quá nguy hiểm khi ở gần đảo Wake, các lực lượng của Mỹ đã rút ra khỏi trận chiến. Sử gia quân sự Samuel E. Morison đã viết vào năm 1949 rằng Spruance đã bị chỉ trích nhiều vì đã không truy đuổi các lực lượng Nhật Bản rút lui và cho phép hạm đội bề mặt Nhật Bản thoát đi một cách an toàn. Clay Blair (một sử gia phương Tây) lập luận vào năm 1975 rằng Spruance bị sức ép lớn, ông đã không thể cho cất cánh những chiếc máy bay của mình sau lúc mặt trờii lặn và các tuần dương hạm hộ tống của ông sẽ bị choáng ngợp bởi các tầu chiến bề mặt lớn hơn và mạnh hơn rất nhiều của Yamamoto, bao gồm cả chiếc Yamato. Và với việc ông đã bị mất gần hết các máy bay phóng ngư lôi người ta nghi ngờ rằng lúc đó liệu các máy bay của ông sẽ tấn công chống các tàu chiến một cách có hiệu quả.

    Nhật Bản mất bốn trong số sáu tàu sân bay hạm đội của mình, cũng như số lượng lớn các phi-công được đào tạo, trận này cũng kết thúc việc Nhật Bản mở rộng ảnh hưởng tại Thái Bình Dương. Chỉ còn các tàu sân bay ShōkakuZuikaku là phù hợp cho các hoạt động tấn công. Các tàu sân bay khác của Nhật Bản như các chiếc Ryūjō, JunyoHiYo, là những tàu tốc độ tương đối chậm nên hiệu quả bị hạn chế

    Hải quân Nhật Bản đã có được một số bài học từ trận Midway: các thủ tục mới được thông qua , ttheo đó họ để những máy bay đã được tiếp nhiên liệu và tái vũ trang trên sàn đáp hơn là để trong hanggar, và các sử lý các đường nhiên liệu không sử dụng đến. Các tàu sân bay mới đang được chế tạo được thiết kế lại có hai thang máy cho sàn đáp và các thiết bị chữa cháy mới. Nhiều thành viên mới của các TSB được đào tạo để kiểm soát thiệt hại và kỹ thuật chống cháy, mặc dù việc mất các chiếc Shōkaku, HiyōTaihō (trong những trận tiếp theo) cho thấy vẫn còn những vấn đề trong kỹ thuật kiểm soát thiệt hại. Các phi-công được đào tạo một cách nhanh chóng, tuy nhiên với sự suy giảm chất lượng đào tạo, ngày càng có nhiều phi-công thiếu kinh nghiệm được bổ sung cho các đơn vị tiền tuyến, trong khi những cựu binh - những người còn lại sau trận Midway và chiến dịch quần đảo Solomon đã bị buộc phải chia sẻ một khối lượng công việc tăng trong các điều kiện ngày càng tuyệt vọng. Kết quả là các đội bay của Hải quân Nhật Bản tiếp tục giảm về chất lượng và khả năng chiến đấu.

    Ngày 10 tháng 6, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đưa tin đến hội nghị hoạch định quân sự một bức tranh không đầy đủ về kết quả của trận đánh, trong nước Nhật mức độ thiệt hại thực sự (của trận Midway) là một bí mật quân sự không được công bố cho tất cả các thành viên. Nhật Bản đã công bố thông tin về một chiến thắng vĩ đại. Chỉ có một vài người ví dụ như Nhật Hoàng Hirohito được thông báo chính xác về những thiệt hại của tầu sân bay và phi-công. Vì vậy các nhà hoạch định quân sự vẫn tiếp tục tin rằng các hạm đội của họ vẫn khỏe mạnh và an toàn trong một thời gian ngắn nữa.

    Trong chuyến trở lại của Hạm đội Nhật bản đến Hashirajima vào ngày 14 tháng Sáu những người bị thương ngay lập tức được chuyển đến các bệnh viện Hải quân, phần lớn được phân loại như là “ những bệnh nhân bí mật” phải nằm ở những chỗ cô lập và bị cách ly khỏi những bệnh nhân khác và người nhà của họ để chặn đứng việc thông tin bí mật về trận thất bại lớn bị lan truyền rộng rãi ra công chúng. Những sỹ quan và thủy thủ còn lại được nhanh chóng phân vào những đơn vị khác của hạm đội, mà không có cơ hội để gặp gỡ gia đình và bạn bè, phần lớn được chuyển bằng tầu biển đến các đơn vị ở Nam Thái Bình Dương nơi mà rất nhiều người trong số họ sẽ chết. Nhưng ngược lại thì không một sỹ quan chỉ huy nào hoặc nhân sự nào của Hạm đội Liên hợp bị kỷ luật vì thua trận, như Nagumo được chuyển sang để chỉ huy một lực lượng tầu sân bay mới. (thực tế thì bác này bị đày lên đảo Saipan và tử trận ở đó mà)


    Cáo buộc về tội phạm chiến tranh


    Ba phi-công Mỹ, Hoa tiêu Wesley Osmus (phi-công của chiếc Yorktown), Hoa tiêu Frank O'Flaherty (phi-công, củachiếc Enterprise) và Thợ máy của Không quân Mate BF (hoặc BP ) Gaido ( người phụ trách Radio - xạ thủ của SBD OFlaherty ) bị bắt bởi phía Nhật Bản trong thời gian trận chiến. Osmus bị giam giữ trên chiếc tàu khu trục Arashi, và OFlaherty cùng Gaido trên tàu tuần dương Nagara (Hoặc tàu khu trục Makigumo, theo các nguồn khác nhau), và sau này có những cáo buộc rằng họ đã bị giết. Báo cáo của Đô đốc Nagumo thông báo rằng Hoa tiêu Osmus " Anh ta đã chết vào ngày 06 tháng 6 và được chôn cất trên biển ". Nagumo ghi nhận được bảy thông tin, bao gồm cả sức mạnh của đối phương, nhưng không đề cập đến cái chết của OFlaherty hoặc Gaido. Sau chiến tranh, lời khai của các sĩ quan hải quân Nhật Bản đã tiết lộ rằng, sau khi bị thẩm vấn và như là một phản ứng trước sự mất mát của các tàu sân bay Nhật Bản, OFlaherty và Gaido đã bị trói và ném qua sàn tầu với các vật nặng được gắn vào chân của họ.



    Tác động cuả trận đánh



    trận đánh Midway thường được gọi là " bước ngoặt của cuộc chiến Thái Bình Dương ". Tuy nhiên, người Nhật vẫn tiếp tục cố gắng để tiến tại Nam Thái Bình Dương, và phải mất nhiều tháng nữa thì Hoa Kỳ mới chuyển được từ một trạng thái cân bằng hải quân sang chiếm được ưu thế ngày càng rõ ràng, vì vậy bản thân trận Midway không thay đổi hướng của cuộc chiến với một ý nghĩa tương tự như các trận Salamis hoặc Tsushima. Tuy nhiên, trận Midway là trận chiến thắng lớn đầu tiên của Đồng Minh trong cuộc chiến chống người Nhật và cùng với Trận biển Coral không phân thắng bại trước đó, nó thì mạch gần sáng kiến chiến lược của Nhật Bản và cướp mất khả năng tấn công của họ. Nó mở đường cho các chiến dịch sau này ở xung quanh các Quần đảo SolomonGuadalcanal, những chiến dịch mà Đồng minh thắng thế sau những trận chiến tiêu hao trong một thời gian dài với những vũ khí kết hợp và bắt đầu các cuộc phản công trong Chiến tranh Thái Bình Dương.

    Trận chiến cho thấy giá trị của các nỗ lực và đào tạo trong việc tìm cách phá mật mã Hải quân từ thời trước chiến tranh. Những nỗ lực này vẫn được tiếp tục và được mở rộng khắp trong cả hai cuộc chiến tranh ở chiến trường Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Người Mỹ đã thu được rất nhiều thành công quan trọng. Ví dụ như vụ bắn hạ máy bay của Đô đốc Yamamoto chỉ có thể làm được do phá được mật mã của Hải quân Nhật bản.

    Vài tác giả đã viết rằng những thiệt hại nặng nề về tầu sân bay và các đội bay kỳ cựu tại trận Midway đã vĩnh viễn làm suy yếu Hải quân Đế chế Nhật bản. Tuy nhiên Parshall và Tully (các nhà nghiên cứu), đã chỉ ra rằng sự mất mát của những phi-công kỳ cựu, dù là rất nặng (khoảng 110 người chỉ chiếm dưới 25% số phi-công trong cả bốn chiếc tầu sân bay), nói chung đã không crippling lực lượng Không quân thuộc Hải quân Nhật bản: Hải quân Nhật bản có khoảng 2,000 phi-công trên tàu sân bay với chất lượng cao vào lúc bắt đầu của cuộc chiến Thái Bình Dương. Một vài tháng sau trận Midway, JNAF ( Japanese Navy Air Force - Không quân thuộc Hải quân Nhật bản) lại phải chịu đựng những thương vong tương tự trong cả hai trận đánh, trận Eastern Solomon và trận Santa Cruz, và trong những trận đánh này, cùng với sự tiêu hao của các phi-công kỳ cựu trong chiến dịch Solomons campaign, hơn là trong trận Midway, đây chính là chất xúc tác cho sự xuống dốc nhanh chóng của năng lực chiến đấu của các đội bay. Tuy nhiên, sự mất mát của bốn chiếc tầu sân bay hạm đội và hơn 40% kỹ thuật viên và thợ máy được đào tạo ở trình độ cao của các tầu sân bay, cộng với sự mất mát của những kỹ thuật viên chủ chốt trên sàn đáp và thợ lặn, và sự mất mát của những kiến thức được hệ thống có trong những đội bay được đào tạo với chất lượng cực cao, là một đòn giáng mạnh vào hạm đội tầu sân bay của Nhật bản. Sự mất mát của các tầu sân bay có nghĩa là chỉ còn lại các chiếc ShōkakuZuikaku cho những hoạt động tấn công. Với những chiếc tầu sân bay khác của Nhật bản, chiếc Taihō là chiếc tầu sân bay hạm đội duy nhất có giá trị để hoạt động cùng với các chiếc ShōkakuZuikaku, trong khi các chiếc Ryūjō, JunyoHiyō là những con tầu hạng hai, và chúng bị giới hạn hiệu quả một cách tương đối. Vào thời gian của Trận chiến biển Philippine, trong khi Nhật Bản đã phần nào xây dựng lại được lực lượng tàu sân bay của họ, thì phần lớn những chiếc máy bay lại được điều khiển bởi các phi-công thiếu kinh nghiệm nên nó không còn là một lực lượng mạnh nổi bật như trước trận Midway .

    Trong cùng một khoảng thời gian, khi Hải quân Nhật bản đóng mới ba chiếc tầu sân bay thì Hải quân Mỹ đã đưa vào sử dụng hơn hai chục tầu sân bay hạm đội, tàu sân bay hạm đội hạng nhẹ, và rất nhiều tầu sân bay hộ tống. Vào năm 1942, Hoa Kỳ đang trong quá trình của ba năm phát triển một chương trình đóng tàu được uỷ quyền theo Đạo luật Vinson thứ nhì - dự định để xây dựng một lực lượng hải quân lớn hơn của Nhật Bản (nên họ chỉ việc chuyển đổi các thân tầu tuần dương, tầu chở dầu ... đang đóng dở sang chế tạo tầu sân bay là ổn). Phần lớn các phi-công USN (United States Navy) sống sót trong trận Midway và những trận đánh tiếp theo của năm 1942, không giống như các đồng nghiệp Nhật Bản của họ, được liên kết đưa vào trong những chương trình đào tạo, Hoa kỳ đã có thể phát triển một số lượng lớn các phi-công có tay nghề để bổ sung cho lợi thế của họ về các nguồn lực trong lĩnh vực tàu chiến và máy bay.
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận hải chiến đảo Salvo - trong loạt trận chiến đảo Guadalcanal



    Tóm tắt trận đánh



    Thời gian: Ngày 08 -> 09 tháng Tám, 1942Địa đểm: Vùng lân cận đảo Savo Island, Quần đảo Solomon <TR class=imageattach style=[/IMG]Kết quả: Nhật Bản chiến thắng




    Các bên tham chiến


    Lực lượng Đồng minh:
    Hoa Kỳ
    Australia


    Chỉ huy
    Richmond K. Turner
    Victor Crutchley


    Sức mạnh

    6 tàu tuần dương hạng nặng,
    2 tuần dương hạm hạng nhẹ,
    15 tàu khu trục


    Thương vong

    4 tàu tuần dương hạng nặng bị đánh chìm,
    1 Tàu tuần dương hạng nặng bị hư hỏng,
    2 tàu khu trục bị hư hỏng,
    1.077 lính thiệt mạng



    Đế quốc Nhật Bản


    Chỉ huy
    Isoroku Yamamoto
    Gunichi Mikawa


    Sức mạnh
    5 tàu tuần dương hạng nặng,
    2 tuần dương hạm hạng nhẹ,
    1 tàu khu trục


    Thương vong
    3 tàu tuần dương bị hư hỏng ở mức độ trung bình,
    58 lính thiệt mạng






    Trận chiến đảo Savo, còn được gọi là Trận đảo Savo và trong các nguồn của Nhật Bản là Trận biển Solomon, một trận hải chiến của Chiến trường Thái Bình Dương - một phần của Chiến tranh thế giới II, giữa Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Đồng minh lực lượng hải quân . Trận đánh diễn ra vào tháng tám Ngày 08-09 , 1942 và là hải quân lớn đầu tiên tham gia của chiến dịch Guadalcanal.

    Để đối phó với việc quân Đồng minh đổ bộ vào phía đông Quần đảo Solomon, Phó Đô đốc Gunichi Mikawa đưa lực lượng đặc nhiệm của mình gồm bảy tuần dương hạm và một tàu khu trục xuống New Georgia Sound (Còn được gọi là " Slot ") từ các căn cứ của Nhật Bản tại New BritainNew Ireland để tấn công hạm đội đổ bộ của Đồng Minh và lực lượng hộ tống của nó. Lực lượng hộ tống bao gồm tám tuần dương hạm và mười lăm khu trục dưới sự chỉ huy của Chuẩn đô đốc hải quân Anh Victor CrutchleyVC, nhưng chỉ có năm tàu tuần dương và bảy tàu khu trục đã tham gia vào trận chiến. Mikawa tấn công bất ngờ và đánh tan lực lượng Đồng Minh, đánh chìm một tàu tuần dương Úc và ba tàu tuần dương Mỹ, trong khi ngược lại chỉ bị thiệt hại nhẹ. Lực lượng của Mikawa ngay lập tức nghỉ ngơi sau trận chiến mà không tiến hành cố gắng để tiêu diệt các tàu vận tải hỗ trợ đổ bộ của quân Đồng minh.



    [​IMG]
    Bản đồ trận đánh đảo Salvo ngày 08 -> 09 tháng Tám, 1942



    Phần còn lại của lực lượng tàu chiến hộ tống và tầu đổ bộ Đồng Minh rút khỏi quần đảo Solomon, tạm trao quyền kiểm soát của các vùng biển xung quanh Guadalcanal vào tay người Nhật Bản. lực lượng Đồng minh đã đổ bộ được lên đảo Guadalcanal và gần đó chỉ mới hai ngày trước. Việc rút hạm đội đi làm cho lực lượng đổ bộ ở trong một tình hình bấp bênh, vì hầu như không đủ vật tư, thiết bị, và thực phẩm để giữ vị trí đầu cầu ở bờ biển. Mikawa đã thất bại trong viếc tiêu diệt các tầu vận tải chở quân đổ bộ của Đồng Minh khi ông có cơ hội, thực tế đã chứng minh đây là một sai lầm chiến lược rất quan trọng của Nhật Bản vì nó cho phép lực lượng Đồng Minh duy trì chỗ đứng của mình tại Guadalcanal và cuối cùng chiến thắng chiến dịch này.



    Bối cảnh trận đánh


    Hoạt động tại Guadalcanal


    Vào ngày 07 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh (chủ yếu là Mỹ ) đã đổ bộ lên Guadalcanal , Tulagi, và Quần đảo Florida trong Quần đảo Solomon. Cuộc đổ bộ trên các đảo đã có nghĩa làđể ngăn chặn việc Nhật Bản sử dụng những hòn đảo này như là căn cứ để đe dọa các tuyến đường cung cấp giữa Mỹ và Australia, và đảm bảo rằng các hòn đảo này sẽ là điểm bắt đầu cho một chiến dịch với mục tiêu cuối cùng của cô lập các căn cứ lớn của Nhật Bản tại Rabaul trong khi hỗ trợ chiến dịch New Guinea của Đồng minh. Cuộc đổ bộ bắt đầu chiến dịch Guadalcanal kéo dài trong sáu tháng dài.

    Chỉ huy chung của lực lượng hải quân Đồng Minh trong Guadalcanal và Tulagi là Phó Đô đốc Hoa kỳ Frank Jack Fletcher. Ông cũng chỉ huy nhóm tàu sân bay đặc nhiệm cung cấp yểm trợ trên không . Chuẩn Đô đốc hải quân Richmond K. Turner chỉ huy hạm đội đổ bộ đã vận chuyển 16.000 quân Đồng Minh đến Guadalcanal và Tulagi. Cũng theo hộ tống lực lượng của Turner là lực lượng của Đô đốc Anh Victor Crutchley gồm tám tàu tuần dương, mười lăm tàu khu trục và năm tàu quét mìn. Lực lượng này là để bảo vệ tàu của Turner và cung cấp hỗ trợ bằng súng hải quân cho cuộc đổ bộ. Crutchley chỉ huy lực lượng của ông - chủ yếu là các tàu Mỹ từ chiếc Kỳ hạm của mình - Tàu tuần dương hạng nặng Úc - HMAS Australia.

    Cuộc đổ bộ của quân đồng minh đã làm Nhật Bản bị bất ngờ. Đồng minh đã chiếm được Tulagi và các đảo nhỏ gần đó như Gavutu và Tanambogo và chiếc sân bay được xây dựng trên đảo Guadalcanal vào lúc mặt trời lặn ngày 08 tháng 8. Ngày 07 tháng 8 và ngày 08 tháng 8, máy bay Nhật có căn cứ tại Rabaul tấn công các lực lượng đổ bộ của quân Đồng minh nhiều lần, làm cháy chiếc tàu vận tải Mỹ George F. Elliott (sau đó bị chìm sau) và làm hư hại nặng chiếc tàu khu trục Jarvis. Trong cuộc không kích, người Nhật bị mất 36 máy bay, trong khi Hoa Kỳ bị mất 19 máy bay, bao gồm 14 máy bay tiêm kích trên tàu sân bay.

    Quan tâm đến thiệt hại của lực lượng máy bay chiến đấu trên tàu sân bay của mình, lo lắng về mối đe dọa với tàu sân bay của ông từ các cuộc tấn công không kích ra tăng của Nhật Bản, và lo lắng về mức nhiên liệu của tàu của mình, Fletcher thông báo rằng ông sẽ rút lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay của mình vào tối 08 tháng Tám .

    Một số sử gia cho rằng tình hình về nhiên liệu của Fletcher nói chung không ở mức độ quá quan trọng nhưng Fletcher ngụ ý rằng đó là để biện minh cho việc mình rút khỏi khu vực chiến đấu. Người viết tiểu sử của Fletcher cho rằng Fletcher kết luận rằng cuộc đổ bộ là một thành công và không có mục tiêu quan trọng nào nữa để sử dụng lực lượng hỗ trợ gần có trong tay. Nhưng ông ta quan tâm đến sự mất mát của 21 máy bay tiêm kích trên tàu sân bay của mình, và ông đánh giá rằng các tàu sân bay của ông bị đe dọa bởi các cuộc tấn công – của máy bay phóng ngư lôi và muốn tiếp nhiên liệu trước khi lực lượng hải quân Nhật Bản đến, ông rút quân sau khi đã cảnh báo trước đó cho Turner và Vandegrift. Tuy nhiên Turner lại vẫn tin rằng Fletcher phải hiểu rằng ông ta phải cung cấp yểm trợ trên không cho đến khi tất cả các tàu vận tải đã bốc dỡ xong vào ngày 09 tháng 8.

    Mặc dù việc dỡ hàng chậm hơn so với kế hoạch, Turner đã ra quyết định rằng nếu không có yểm trợ trên không từ các tàu sân bay, ông sẽ phải thu hồi con tàu của mình từ Guadalcanal. Ông có kế hoạch bốc dỡ càng nhiều càng tốt vào ban đêm và khởi hành vào ngày hôm sau.


    Nhật Bản phản ứng



    Không chuẩn bị trước cho các hoạt động của Đồng Minh tại Guadalcanal, phản ứng ban đầu của Nhật Bản bao gồm các hoạt động không kích và cố gắng tăng cường quân tiếp viện. Mikawa - chỉ huy của Hạm đội thứ tám mới được thành lập của Nhật bản đặt sở chỉ huy tại Rabaul, đã cho trất 519 lính hải quân trên hai tàu vận tải và gửi chúng tới Guadalcanal vào ngày 7 tháng 8. Tuy nhiên, khi người Nhật biết được rằng các lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal mạnh được báo cáo hơn ban đầu rất nhiều, các tàu vận tải được gọi quay lại.

    Mikawa cũng tập hợp tất cả các tàu chiến có sẵn trong khu vực này để tấn công lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal. Tại Rabaul là tàu tuần dương hạng nặng Chōkai (Kỳ hạm của Mikawa ), các tàu tuần dương hạng nhẹ TenryūYubaritàu khu trụcYunagi. Trên đường từ Kavieng bốn tàu tuần dương hạng nặng của Đơn vị số 6 tầu tuần dương dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aritomo Goto gồm các chiếc: Aoba, Furutaka, Kako, và Kinugasa.

    Hải quân Nhật đã được đào tạo rộng rãi về chiến thuật chiến đấu ban đêm từ trước chiến tranh, một sự kiện mà phe đồng minh đã hề không biết. Mikawa hy vọng tấn công lực lượng hải quân Đồng Minh ở ngoài khơi Guadalcanal và Tulagi vào đêm 08 tháng 8 và 09 tháng Tám, khi ông có thể sử dụng kỹ năng chiến đấu ban đêm của mình trong khi tránh được các cuộc tấn công từ máy bay Đồng Minh – vì máy bay thời đó không thể hoạt động hiệu quả vào ban đêm. Các tầu chiến của Mikawa hẹn gặp trên biển gần Cape St George vào tối ngày 07 Tháng 8 và sau đó quay đầu về hướng đông -đông nam.


    Trận đánh


    Khúc dạo đầu

    Mikawa quyết định đưa hạm đội của mình về phía bắc Buka Island và sau đó đi xuống bờ biển phía đông Bougainville. Hạm đội sẽ tạm dừng phía đông Kieta sáu giờ vào buổi sáng ngày 08 tháng 8 . ( Việc này sẽ tránh cho các cuộc không kích ban ngày cuối cùng vào họ trong khi tiếp cận đến Guadalcanal. ) Sau đó, họ sẽ tiến theo dọc theo con kênh nguy hiểm được gọi là " Slot " với hy vọng rằng không có máy bay Đồng minh nào nhìn thấy họ trong ánh sáng mờ dần. Tuy nhiên, hạm đội Nhật Bản đã bị nhìn thấy ở St George Channel, nơi đội hình cột của họ gần như xông thẳng vào chiếc USS S- 38 ( tầu ngầm Mỹ) đang nằm trong địa điểm phục kích. Khoảng cách đã là quá gần để bắn ngư lôi, nhưng thuyền trưởng của nó, Trung úy Chỉ huy HG Munson đã truyền qua sóng Radio: " hai tàu khu trục và ba tàu lớn hơn không rõ loại đang hướng về một bốn không ở tốc độ cao dặm về phía tây của Cape ST. George - nv TWO DESTROYERS AND THREE LARGER SHIPS OF UNKNOWN TYPE HEADING ONE FOUR ZERO TRUE AT HIGH SPEED EIGHT MILES WEST OF CAPE ST. GEORGE "

    Khi đến Bougainville, Mikawa cho tản các tàu của mình ra trên một diện tích rộng để tổ chức đội hình cho lực lượng của mình và phóng ra bốn chiếc thủy phi cơ từ tuần dương hạm của mình để trinh sát về các tàu Đồng Minh ở phía nam quần đảo Solomons.

    Lúc 10:20 và 11:10, các tàu của ông bị phát hiện bởi máy bay trinh sát của Hudson Úc có căn cứ tại Milne Bay New Guinea. Đầu tiên Hudson nhầm họ là " ba tàu tuần dương, ba tàu khu trục và hai tầu chở thầu thủy phi cơ ". (Lưu ý : Một vài nguồn tin cho rằng đội bay đầu tiên của chiếc Hudson đã xác định các tàu đối phương một cách chính xác nhưng, thành phần lực lượng của đối phương đã bị thay đổi từ báo cáo của đội bay khi tới tay các sĩ quan tình báo tại Milne Bay) đội bay của Hudson cố gắng báo cáo những gì quan sát được cho trạm thu phát của Đồng minh tại Fall River, New Guinea. Không nhận được phản hồi, họ trở về lúc 12:42 để đảm bảo rằng báo cáo đã được nhận càng sớm càng tốt . Đội bay Hudson thứ hai cũng không thể báo cáo nhìn họ quan sát được bằng sóng radio, nhưng đã hoàn thành chuyến tuần tra của mình và hạ cánh tại Milne Bay lúc 15:00. Họ báo cáo là nhìn thấy "hai tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và một loại không rõ " . Vì lý do nào không rõ các báo cáo này không được chuyển đến hạm đội Đồng Minh ở ngoài khơi Guadalcanal cho đến 18:45 và 21:30 tương ứng ngày 08 tháng 8.

    Các thủy phi cơ của Mikawa quay về vào lúc 12:00 và báo cáo rằng hai nhóm tàu Đồng Minh, một đang ở ngoài khơi Guadalcanal và một khác đang ở ngoài khơi Tulagi. Ông cho hợp tàu chiến của mình lại và bắt đầu tiến về phía Guadalcanal, đi vào Slot đoạn ở gần Choiseul vào lúc 16:00 ngày 8 tháng Tám. Mikawa truyền kế hoạch chiến đấu sau đây sang các tàu chiến của mình: " chúng ta sẽ xông lên từ thướng S. (phía nam) của Savo Island và bắn ngư lôi vào lực lượng chính của kẻ thù đang buông neo ở phía trước của Guadalcanal; sau đó chúng ta sẽ hướng về khu vực Tulagi để bắn pháo và phóng ngư lôi vào chúng. Sau đó chúng ta sẽ rút về phía bắc của đảo Savo."



    [​IMG]
    Bản đồ lộ trình hành quân của Lực lượng của Mikawa tại Trận đảo Salvo


    Lực lượng của Mikawa chạy xuống Slot mà không bị phát hiện bởi các lực lượng của Đồng Minh. Turner yêu cầu Đô đốc Hoa kỳ John S. McCain, Sr (à bố của đồng chí McCain ứng cử viên tổng thống Hoa kỳ và là khách xịn của KS Hilton Hà nội những năm 1960 đây mà) -chỉ huy lực lượng không quân Đồng Minh trong khu vực Nam Thái Bình Dương, tiến hành trinh sát thêm trên bầu trời Slot vào buổi chiều ngày 08 tháng 8. Tuy nhiên, vì lý do gì đó không thể giải thích được, McCain đã không ra lệnh tiến hành nhiệm vụ này và không hề thông báo lại cho Turner rằng họ đã không tiến hành. Như vậy Turner tin tưởng một cách nhầm lẫn rằng Slot được quan sát bởi Đồng Minh trong suốt cả ngày.



    [​IMG]
    Bố trí lực lượng của Đồng minh tại đảo Salvo

    Để bảo vệ các tàu vận tải bốc dỡ hàng vào ban đêm, Crutchley chia lực lượng tàu chiến của quân đồng minh thành ba nhóm. Một nhóm " phía Nam ", bao gồm các tuần dương hạm Úc HMAS Australia và HMAS Canberra, tàu tuần dương USS Chicago, và tàu khu trục USS Patterson, USS Bagley, tuần tra giữa Lunga Point và Savo Island để chặn lối vào giữa đảo và Savo Cape Esperance trong Guadalcanal. Một nhóm " phía Bắc " bao gồm các tuần dương hạm USS Vincennes, USS Astoria và USS Quincy, và các tàu khu trục USS Helm và USS Wilson, tiến hành tuần tra theo hình hộp chữ nhật giữa nơi thả neo Tulagi và Savo Island để bảo vệ đoạn giữa đảo Savo và Florida Island. Một nhóm nữa " phía Đông " bao gồm các tuần dương hạm USS San Juan và HMAS Hobart và hai tàu khu trục Mỹ canh gác lối vào phía đông eo biển giữa Florida và quần đảo Guadalcanal. Crutchley đặt hai tàu khu trục Mỹ có trang bị radar ở phía tây của đảo Savo để cung cấp các cảnh báo sớm đối với bất kỳ sự tiếp cận nào của tàu Nhật Bản. Chiếc tàu khu trục USS Ralph Talbot tuần tra đoạn phía Bắc và chiếc tàu khu trục USS Blue tuần tra đoạn phía nam với một khoảng cách 12-30 km ( 80-20 dặm Anh) theo một mô hình tuần tra mà không có sự phối hợp. Tại thời điểm này quân Đồng minh vẫn không biết về tất cả các hạn chế của các radar nguyên thủy trên tầu của họ, chẳng hạn như hiệu quả của radar có thể bị giảm đi bởi có rất nhiều suy hao vì sự hiện diện của các khối đất gần đó. Cảnh giác với mối đe dọa tiềm năng từ các tàu ngầm Nhật đến các tàu vận tải, Crutchley đặt bảy tàu khu trục còn lại của mình tạo sự bảo vệ xung quanh hai tầu vận tải đang thả neo.


    Các thủy thủ của tàu Đồng Minh đã mệt mỏi sau hai ngày kể từ ngày liên tục có báo động và các hoạt động trong việc hỗ trợ cuộc đổ bộ. Ngoài ra, thời tiết rất nóng và ẩm, gây mệt mỏi hơn nữa và trong ghi chép của Samuel Eliot Morison ( cựu Chuẩn Đô Đốc Hải quân Hoa kỳ) " làm cho các thủy thủ mệt mỏi chở nên lỏng lẻo " Đáp lại là hầu hết các tàu chiến của Crutchley đều ở trong tình trạng " Điều kiện II " trong đêm ngày 08 Tháng 8 , có nghĩa rằng một nửa các đội thủy thủ thi hành công vụ trong khi nửa kia nghỉ ngơi, hoặc là trong giường của họ hoặc gần các trạm chiến đấu của họ.

    Quan trọng hơn, Mikawa không có yểm trợ trên không và ông tin rằng các tàu sân bay Mỹ vẫn còn trong khu vực (thực ra các tầu của Fletcher đã chuồn ). Mikawa có lẽ đã biết rằng Hải quân Nhật không còn chế tạo được các tàu tuần dương hạng nặng nữa và do đó sẽ không thể thay thế bất kỳ những gì mà ông tin rằng ông có thể bị mất bởi các cuộc tấn công không kích ngày hôm sau nếu ông vẫn còn ở gần Guadalcanal. Ông không biết rằng các tàu sân bay Mỹ đã rút khỏi khu vực chiến đấu và sẽ không thể có một mối đe dọa vào ngày hôm sau. Mặc dù một số nhân viên của Mikawa kêu gọi một cuộc tấn công vào các tàu vận tải của Đồng minh, có một sự đồng thuận trong việc rút ra khỏi khu vực chiến đấu. Do đó lúc 2:20 Mikawa ra lệnh cho các tàu của mình rút ra để nghỉ ngơi.
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    (Trận hải chiến đảo Salvo - tiếp theo)

    Vào buổi tối, Turner mở một hội nghị trên tàu của ông ở ngoài khơi Guadalcanal với Crutchley và Chuẩn Đô đốc Alexander A. Vandegrift để thảo luận về sự ra đi của các tàu sân bay của Fletcher và kết quả của lịch trình thu hồi các tàu vận tải . Lúc 20:55 , Crutchley rời chiếc Australia ở nhóm phía Nam để tham dự hội nghị, giao nhiệm vụ cho Captain Howard D. Bode của chiếc Chicago phụ trách nhóm phía Nam. Crutchley đã không thông báo cho các chỉ huy của nhóm tàu tuần dương khác về sự vắng mặt của mình, tạo ra những khiếm khuyết nữa trong việc sắp xếp thứ tự mệnh lệnh. Bode bị đánh thức từ giấc ngủ của mình trong cabin, đã quyết định không đặt tàu của mình vào vị trí lãnh đạo của nhóm tầu phía nam, nơi theo truyền thống gianh cho tàu biển cao cấp và đi ngủ tiếp. Tại hội nghị, Turner, Crutchley và Vandegrift thảo luận về các báo cáo của đội bay của các thủy phi cơ Hudson – Úc ngày hôm trước đó. Họ quyết định rằng đây sẽ không phải là mối đe dọa trong đêm đó, bởi vì tầu chở thủy phi cơ thường không tham gia vào các hành động bề mặt (thường chỉ dùng cho hoạt động trinh sát). Vandegrift nói rằng ông sẽ cần phải kiểm tra tình hình bốc dỡ của các tàu vận tải tại Tulagi trước khi đề xuất thời gian thu hồi cho các tàu vận tải, và ông rời lúc nửa đêm để tiến hành thanh tra. Crutchley chọn cách không trở lại với chiếc Australia của nhóm phía Nam, thay vào đó là cho tàu của ông đậu ngay bên ngoài các tầu vận chuyển ở Guadalcanal mà không thông báo của cho các chỉ huy khác của Đồng minh về ý định hoặc vị trí của ông ta.

    Khi lực lượng của Mikawa đến gần khu vực Guadalcanal, người Nhật phóng ra ba chiếc thủy phi cơ cho một hoạt động trinh sát cuối cùng về các tàu Đồng Minh và để cung cấp nguồn chiếu sáng bằng cách thả pháo sáng cho trận chiến sắp tới. Mặc dù một số tàu của Đồng Minh đã nghe và / hoặc quan sát thấy một hoặc nhiều trong số những thủy phi cơ này, bắt đầu từ 23:45 ngày 8 Tháng 8 , không ai trong số họ có thể lý giải được rằng sự hiện diện của các máy bay không rõ nguồn gốc trong khu vực là một mối đe dọa quân sự, và không có một báo cáo về những gì được thấy đến Crutchley hoặc Turner.

    Lực lượng của Mikawa tiếp cận theo đội hình một cột duy nhất có chiều dài khoảng 3 km ( 2 dặm) đi đầu là chiếc Chōkai sau đó là các chiếc Aoba, Kako, Kinugasa, Furutaka, Tenryū, Yubari, và Yunagi. Vào khoảng thời gian giữa 0:44-00:54 ngày 09 tháng Tám, bộ phận cảnh giới ở của tàu Mikawa phát hiện chiếc Blue khoảng 9 km ( 5,5 dặm ) về phía trước của cột tầu Nhật Bản. <FONT class=imageattach face=[/IMG]Trận đánh phía nam của đảo Savo


    Để tránh chiếc Blue, Mikawa thay đổi hướng đi để vượt qua phía bắc đảo Savo. Ông cũng ra lệnh cho tàu của mình chạy chậm đi ở tốc độ 22 knots ( 41 km / h), để giảm bớt tiếng ồn có thể làm cho tàu của ông trở nên rõ hơn. Bốn phút sau, bộ phận cảnh giới của Mikawa dò thám thấy chiếc Ralph Talbot ở khoảng cách 16 km ( 10 dặm) hoặc một chiếc tầu schooner ( một loại tầu buồm ) không rõ quốc tịch. Các tàu của Nhật Bản đã tổ chức lại hướng đi của họ trong khi nhắm hơn 50 khẩu súng vào chiếc Blue, sẵn sàng nổ súng nếu có dấu hiệu đầu tiên rằng chiếc Blue đã nhận ra chúng. Khi chiếc Blue ở gần hơn 2 km ( 1 dặm ) từ lực lượng Mikawa, nó đột ngột đảo ngược hướng đi và kết thúc chuyến tuần tra của nó và bỏ đi, dường như nó không biết gì về đội hình cột dài của tàu Nhật Bản di chuyển gần nó. Thấy rằng tàu của ông vẫn không bị phát hiện, Mikawa quay trở lại hướng về phía nam của đảo Savo và tốc độ tăng, đầu tiên là 26 knots ( 48 km / h), và sau đó đến 30 knots ( 56 km / h). Lúc 01:25, Mikawa ra lệnh cho các tàu của mình hoạt động một cách độc lập với chiếc kỳ hạm của mình và lúc 01:31 ông đưa ra một mệnh lệnh " Tất cả các tầu - tấn công "


    Tại thời điểm này chiếc Yunagi tách ra từ cột tầu Nhật Bản và đi hướng ngược lại, có lẽ vì nó bị mất tầm nhìn bởi các tàu khác của Nhật Bản ở trước cô, hoặc có lẽ nó được yêu cầu để cung cấp bảo vệ " phía sau " cho lực lượng của Mikawa. Một phút sau, cảnh giới của Nhật Bản nhìn thấy một chiến hạm ở mạn bên trái. Đây là tàu khu trục Jarvis bị hư hại nặng ngày hôm trước và lúc đó đang khởi hành đến Guadalcanal để được sửa chữa tại Úc. Chiếc Jarvis có nhìn thấy các tàu của Nhật Bản hay không là điều không ai biết vì chiếc radio của nó đã bị phá huỷ. Chiếc Furutaka phóng ngư lôi vào chiếc Jarvis nhưng tất cả đều trượt. Các tàu của Nhật Bản đã vượt qua chiếc Jarvis gần 1.100 mét, đủ gần để các sỹ quan trên chiếc Tenryū nhìn thấy trên sàn của chiếc tàu khu trục này không có bất kỳ của thủy thủ nào di chuyển. Nếu chiếc Jarvis đã nhận biết được có các tàu Nhật Bản đi ngang qua, nó đã không có bất kỳ phản ứng nào đáng chú ý. (Giống như một con tầu ma)



    Hai phút sau khi nhìn thấy chiếc Jarvis, bộ phận cảnh giới Nhật Bản lại nhìn thấy các tàu khu trục và tuần dương hạm của Đồng minh của nhóm phía Nam ở khoảng cách 12.500 mét, bị hắt bóng từ ánh sáng của chiếc George F. Elliotbị đốt cháy. Một vài phút sau đó, vào khoảng 01:38, các tàu tuần dương Nhật bắt đầu bắn ra các loạt ngư lôi vào lực lượng Đồng Minh ở phía Nam. Cùng trong một khoảng thời gian, bộ phận cảnh giới trên chiếc Chōkai đã phát hiện ra các tàu của lực lượng phía Bắc của Đồng Minh ở khoảng 16 km ( 10 dặm). Chiếc Chōkai quay sang bên phải để đối mặt với mối đe dọa mới và phần còn lại của cột tầu Nhật Bản theo sau trong khi vẫn chuẩn bị để tấn công lực lượng tàu Đồng Minh phía Nam bằng súng.

    Tại thời điểm mà chiếc Patterson nhìn thấy các tàu của Nhật Bản và bắt đầu chiến đấu, các thủy phi cơ Nhật Bản, theo lệnh của Mikawa đã thả pháo sáng trên không một cách trực tiếp bỏ qua các chiếc CanberraChicago. Chiếc Canberra phản ứng ngay lập tức, với việc Thuyền trưởng Frank Getting ra lệnh tăng tốc độ, đảo ngược hướng về mạn bên trái để giữ chiếc Canberra nằm ở giữa các tầu của Nhật Bản và các tàu vận tải của Đồng Minh và cho nổ súng của mình vào bất kỳ mục tiêu nào có thể quan sát được. Chưa đầy một phút sau khi chiếc Canberra nhắm súng vào các tầu Nhật Bản và nổ súng, các chiếc ChōkaiFurutaka nổ súng vào nó và bắn trúng nhiều phát đạn trong vòng vài giây. Các chiếc AobaKako cũng tham gia tấn công bằng súng và trong vòng ba phút tiếp theo Chiếc Canberra đã bị trúng đến 24 phát đạn cỡ lớn. Phát đạn đầu giết sĩ quan xạ kích của nó, làm cho Getting bị thương nặng và phá hủy cả hai phòng nồi hơi, làm mất điện toàn bộ con tàu trước khi chiếc Canberra có thể nổ bất kỳ khẩu súng nào của mình bất kỳ hoặc truyền đạt một lời cảnh báo cho các tàu Đồng Minh. Chiếc tàu tuần dương này bị thả trôi cho đến khi dừng lại, bốc lửa và bị nghiêng 5 -> 10 độ về mạn phải và không thể ngăn chặn các vụ cháy hoặc bơm ra khỏi khoang ngập nước vì thiếu điện. Kể từ khi tất cả các tàu Nhật ở phía bên trái chiếc Canberra, thiệt hại của bên mạn phải của con tàu bắt nguồn từ hoặc là đạn bắn tầm thấp xuyên qua bên mạn trái và làm nước chảy vào bên mạn phải, hoặc từ một hoặc hai quả ngư lôi số bắn trúng phía bên mạn phải. Nếu ngư lôi bắn trúng chiếc Canberra về phía mạn phải, thì có thể quả ngư lôi này được phóng từ một con tàu của quân Đồng minh ở gần đó và tại thời điểm này trong số các tàu khu trục Mỹ, chiếc Bagley là con tàu duy nhất ở bên cạnh của chiếc tàu tuần dương của Úc và đã bắn ra những quả ngư lôi trong những phút trước đó.

    Thủy thủ đoàn của chiếc Chicago quan sát thấy con tàu của mình bị chiếu sáng bằng pháo sáng thả từ trên không và chiếc Canberra bất ngờ xoay ngang trước mặt họ, đã cảnh báo và đánh thức Thuyền Bode từ " một giấc ngủ ngon ". Bode ra lệnh dùng súng 5 inch ( 127 mm) bắn về phía mạn phải của cột tầu Nhật Bản, nhưng đạn pháo đã không chặn được quân Nhật. Lúc 01:47, một ngư lôi có lẽ từ chiếc Kako bắn trúng vào mũi chiếc Chicago tạo ra một chấn động trong suốt con tàu và làm hỏng bộ phận chỉ huy bắn của khẩu đội súng chính. Một ngư lôi thứ hai bắn trúng nhưng không phát nổ và một phát đạn bắn túng cột buồm chính của chiếc tuần dương hạm giết chết hai thủy thủ. Chiếc Chicago chạy về phía tây khoảng 40 phút, để lại phía sau nó đoàn tầu vận tải mà nó được giao nhiệm vụ bảo vệ. Chiếc tuần dương hạm này nổ khẩu đội súng phụ của nó vào các con tàu trong cột tầu của Nhật Bản và có thể đã bắn trúng chiếc Tenryū, gây thiệt hại nhẹ. Bode đã không cố gắng để triển khai kiểm soát bất kỳ con tàu Đồng minh nào khác trong nhóm phía Nam, trong đó ông ta vẫn còn là chỉ huy về kỹ thuật. Quan trọng hơn, Bode đã không có nỗ lực nào để cảnh báo bất kỳ tàu Đồng minh nào khác trong khu vực Guadalcanal khi tàu của ông ta quay đầu ra khỏi khu vực chiến đấu.


    Trong thời gian này, chiếc Patterson tham gia vào một cuộc đấu súng với cột tàu của Nhật Bản. Chiếc Patterson phải nhận một phát đạn vào phía đuôi, gây thiệt hại ở mức vừa phải và giết chết 10 thành viên thủy thủ đoàn. Chiếc Patterson tiếp tục đuổi theo và nổ súng vào các tàu của Nhật Bản và có thể có đã bắn trúng chiếc Kinugasa gây thiệt hại ở mức vừa phải. Chiếc Patterson sau đó bị mất tầm nhìn với cột tầu Nhật Bản vì nó hướng đầu về phía đông bắc dọc theo bờ phía đông của đảo Savo. Chiếc Bagley chiếc mà thủy thủ đoàn của nó nhìn thấy ngay các tầu Nhật Bản chỉ sau các chiếc PattersonCanberra, xoay vòng xung quanh mạn trái trước khi bắn ngư lôi đại về hướng cột tầu Nhật Bản – lúc này đang biến mất một cách nhanh chóng; một hoặc hai quả ngư lôi trong số đó có thể đã bắn trúng chiếc Canberra. Chiếc Bagley không còn đóng vai trò gì hơn nữa trong trận chiến. Chiếc Yunagi bắn một vài phát súng nhưng không gây được hư hại gì vào chiếc Jarvis trước khi nó thoát khỏi khu vực chiến đấu ở phía tây với ý định gia nhập cột tầu Nhật Bản ở phía bắc và phía tây đảo Savo.

    Lúc 01:44, các tàu của Mikawa hướng về phía nhóm phía Bắc của lực lượng Đồng Minh, các chiếc TenryūYubari tách ra từ phần còn lại của cột tầu Nhật Bản và lấy hướng đi về phía tây. Chiếc Furutaka, Hoặc vì một vấn đề về động cơ hoặc để tránh một cú va chạm có thể xảy ra với chiếc Canberra đã chay theo sau các chiếc YubariTenryū. Do đó, lực lượng Đồng minh ở phía bắc đã bị bao vây và tấn công từ hai phía.

    Thủy thủ ở đài chỉ huy của chiếc Astoria đã gọi tới general quarters ( một nơi để báo hiệu cho các thuyền viên để chuẩn bị cho trận đánh trên tàu chiến) khi họ nhìn thấy các pháo sáng ở phía nam của đảo Savo, khoảng 01:49. Lúc 01:52, ngay sau khi tầu Nhật Bản xuất hiện và đạn pháo bắt đầu rơi xuống quanh con tàu, đội chỉ huy bắn của súng chính của chiếc Astoria phát hiện các tàu tuần dương Nhật Bản và cho nổ súng. Thuyền trưởng của chiếc Astoriabị đánh thức để đưa con tàu của mình vào chiến đấu đã vội vã đến đài chỉ huy và ra lệnh ngừng bắn vì sợ rằng tàu của ông có thể sẽ bắn vào lực lượng quân nhà. Khi thấy đạn tiếp tục rơi xung quanh tàu của mình, viên thuyền trưởng ra lệnh tiếp tục bắn chậm hơn một phút sau đó. Tuy nhiên chiếc Chōkai đã tiến vào phạm vi xạ kích hiệu quả và chiếc Astoria đã nhanh chóng trúng nhiều phát đạn và bốc cháy. Từ 02:00 đến 02:15 các chiếc Aoba, Kinugasa, và Kako tham gia tấn công cùng chiếc Chōkai để tấn công chiếc Astoria, phá hủy phòng động cơ con chiếc tàu tuần dương này và làm cho nửa tàu bốc cháy. Lúc 02:16 , một trong những tháp súng chính còn lại của chiếc Astoria bắn vào đèn rọi của chiếc Kinugasa nhưng lại trượt qua và trúng vào tháp pháo phía trước của chiếc Chōka làm cho tháp súng này bị loại khỏi vòng chiến và gây thiệt hại vừa phải cho con tàu.




    [​IMG]
    Bản đồ trận đánh ở phía Bắc đảo Salvo, lực lượng của Đô đốc Mikawa tách ra làm hai bán đội và đánh chìm các tầu Mỹ


    Chiếc Quincy cũng nhìn thấy những quả pháo sáng trên nhóm tàu phía Nam, nó cũng đã nhận được cảnh báo của chiếc Patterson và chỉ nghe general quarters và lời cảnh báo thực sự chỉ đến khi nhìn thấy các searchlights từ cột tầu Nhật Bản khi chúng xuất hiện. Thuyền trưởng của chiếc Quincy ra lệnh cho bắt đầu bắn nhưng đội pháo thủ vẫn chưa sẵn sàng. Trong vòng vài phút, Chiếc Quincy bị mắc vào giữa một làn đạn bắn chéo cánh sẻ của các chiếc Aoba, Furutaka, và Tenryū, và trúng đạn rồi bốc cháy. Thuyền trưởng của chiếc thuyền trưởng ra lệnh cho tàu tuần dương của mình tấn công vào cột phía đông của Nhật Bản, nhưng khi đang tính quay sang làm như vậy thì chiếc Quincy bị đánh trúng hai quả ngư lôi từ chiếc Tenryū gây thiệt hại nghiêm trọng. Chiếc Quincy cố gắng để nổ một vài loạt súng chính, một trong số những phát đạn đó trúng vào phòng biểu đồ phòng 6 mét ( 20 ft) của Đô đốc Mikawa trên chiếc Chōkai và giết chết hoặc làm bị thương 36 người mặc dù Mikawa đã không bị thương. Lúc 02:10 đạn pháo làm chết hoặc bị thương gần như tất cả các thủy thủ trên đài chỉ huy của chiếc Quincy bao gồm cả viên thuyền trưởng. Lúc 02:16, chiếc tàu tuần dương này đã trúng thêm một quả ngư lôi từ chiếc Aoba và tất cả các khẩu súng còn lại của con tàu đều câm lặng. Sĩ quan phụ tá xạ kích của chiếc Quincy được gửi đến đài chỉ huy để xin hướng dẫn đã báo cáo về những gì ông tìm thấy:


    Chiếc Quincy chìm vào lúc 02:38.

    Khi các chiếc Quincy, AstoriaVincennes cũng nhìn thấy các pháo sáng trên không ở phía nam và hơn nữa họ đã thực sự quan sát thấy ánh lửa đạn từ cuộc tấn công ở phía Nam. Lúc 1:50, khi các tàu tuần dương Mỹ được chiếu sáng bởi các đèn searchlight Nhật Bản, Chiếc Vincennes đã do dự khi nổ súng vì tin rằng đèn rọi vào tàu có thể là từ tầu bạn bè. Ngay sau đó, chiếc Kako nổ súng vào chiếc Vincennes làm nó phản ứng bằng súng của riêng mình tại lúc 01:53. Khi chiếc Vincennes bắt đầu bị bắn trúng và gây ra thiệt hại, chỉ huy của của nó - Thuyền trưởng Hoa kỳ Frederick L. Riefkohl - đã ra lệnh tăng tốc độ lên 25 knots ( 46 km / h ), nhưng ngay sau đó lúc 1:55 hai quả ngư lôi từ chiếc Chōkai đã bắn trúng gây thiệt hại nặng. Chiếc Kinugasa lúc này gia nhập cùng chiếc Kako để bắn phá chiếc Vincennes. Chiếc Vincennes bắn được một trong những phát đạn vào chiếc Kinugasa gây thiệt hại ở mức trung bình đến động cơ của nó. Phần còn lại của tàu Nhật Bản cũng đã bắn vào chiếc Vincennes đến 74 phát và vào lúc 2:03 một quả ngư lôi lại tiếp tục bắn trúng nó, lần này là từ chiếc Yubari. Với tất cả các phòng nồi hơi bị phá hủy, chiếc Vincennes phải dừng lại bốc cháy " ở khắp mọi nơi "và nghiêng về bên trái. Lúc 02:16, Riefkohl ra lệnh cho thủy thủ đoàn bỏ tàu và chiếc Vincennes chìm lúc 02:50.


    Trong thời gian trận đánh các khu trục hạm Mỹ HelmWilson cố gắng bắn vào tàu của Nhật Bản. Cả hai tàu khu trục ngắm bắn vào tàu tuần dương của Mikawa trong thời gian ngắn nhưng không gây được thiệt hại và cũng không phải nhận thiệt hại nào cho bản thân



    [​IMG]
    Bản đồ cho thấy hướng đột nhập và ly khai trận chiến của lực lượng Nhật Bản trong trận đảo Salvo


    Quyết định của Mikawa


    Vào lúc 2:16 cột tầu Nhật Bản ngừng bắn vào lực lượng Đồng Minh ở phía Bắc khi họ chuyển ra khỏi phạm vi xung quanh phía bắc của đảo Savo. Chiếc Ralph Talbot gặp phải các chiếc Furutaka, Tenryū, và Yubari khi họ ra khỏi đảo. Các tàu khu trục Nhật Bản định vị chiếc tầu của Hoa Kỳ bằng đèn searchlights và bắn vào nó vài lần bằng súng gây thiệt hại nặng, nhưng chiếc Ralph Talbot đã trốn vào một cơn mưa gần đó và các tàu của Nhật Bản để nó lại phía sau.

    Quan trọng hơn là Mikawa không có yểm trợ trên không và ông tin rằng các tàu sân bay Mỹ vẫn còn trong khu vực (thực ra các tầu của Fletcher đã chuồn ). Mikawa có lẽ đã biết rằng Hải quân Nhật không còn chế tạo được các tàu tuần dương hạng nặng nữa và do đó sẽ không thể thay thế bất kỳ những gì mà ông tin rằng ông có thể bị mất bởi các cuộc tấn công không kích ngày hôm sau nếu ông vẫn còn ở gần Guadalcanal. Ông không biết rằng các tàu sân bay Mỹ đã rút khỏi khu vực chiến đấu và sẽ không thể có một mối đe dọa vào ngày hôm sau. Mặc dù một số nhân viên của Mikawa kêu gọi một cuộc tấn công vào các tàu vận tải của Đồng minh, có một sự đồng thuận trong việc rút ra khỏi khu vực chiến đấu. Do đó lúc 2:20 Mikawa ra lệnh cho các tàu của mình rút ra để nghỉ ngơi.



    Hậu quả của trận đánh


    Lúc 04:00 ngày 09 tháng 8 chiếc Patterson đến bên cạnh chiếc Canberra để hỗ trợ chiếc tàu tuần dương trong cuộc chiến để dập tắt các đám cháy của nó. Vào lúc 05:00 có vẻ như là các đám cháy đã gần như được quyền kiểm soát, nhưng Turner - người tại thời điểm này dự định cho thu hồi tất cả các tàu Đồng Minh vào lúc 06:30, đã ra lệnh phải đánh đắm con tàu nó không thể đi cùng với hạm đội. Sau khi những người sống sót được chuyển sang tàu khác, các tàu khu trục USS Selfridge và USS Ellet đánh chìm chiếc Canberra bằng ngư lôi và súng.

    Sau đó vào sáng ngày 09 tháng Tám Phó Đô đốc Vandegrift khuyên Turner rằng ông ta cần bốc dỡ thêm vật tư từ các tàu vận tải trước khi họ rút lui. Vì vậy, Turner cho hoãn việc rút tàu của mình cho đến giữa buổi chiều. Trong lúc chờ đợi, thủy thủ đoàn của chiếc Astoria đã cố gắng để cứu con tàu đắm của họ. Tuy nhiên chiếc Astoria bốc cháy và cuối cùng trở nên hoàn toàn ra khỏi tầm kiểm soát và con tàu bị chìm lúc 12:15.

    Sáng ngày 9 tháng 8 , một tầu gác bờ biển của Úc tại Bougainville truyền qua sóng vô tuyến một lời cảnh báo về một cuộc không kích của Nhật Bản đang trên đường từ Rabaul. Các đội tầu vận tải của đồng minh đã phải ngừng việc bốc dỡ một thời gian nhưng sau đó họ bị bối rối khi không thấy đợt không kích được thực hiện. Lực lượng Đồng minh đã không phát hiện ra cho đến sau khi chiến tranh kết thúc rằng đợt không kích này thay vì tập trung vào họ lại nhằm vào chiếc Jarvis ở (con tàu ma he he) phía nam Guadalcanal, và đánh chìm nó với tất cả thủy thủ đoàn. Tất cả các tàu vận tải và tàu chiến của Đồng Minh đã rời khu vực Guadalcanal vào lúc mặt trời lặn ngày 09 tháng 8.

    Trong cuối buổi tối ngày 09 tháng 8, Mikawa trên chiếc Chōkai ra lệnh cho bốn chiếc tàu tuần dương của Đơn vị 6 tầu tuần dương trở về căn cứ của họ tại Kavieng. Lúc 08:10 ngày 10 tháng tám, chiếc Kako bị trúng ngư lôi và bị đánh chìm bởi chiếc tàu ngầm USS S 44 ở khoảng cách 110 km ( 70 dặm ) tới điểm đến của nó. Ba tuần dương hạm Nhật Bản khác đã vớt được tất cả chỉ trừ có 71 thuyền viên của nó và tiến vào Kavieng.

    Kể từ thời gian xảy ra trận đánh cho đến một vài tháng sau đó, gần như tất cả các nguồn cung cấp và quân tiếp viện của Đồng minh gửi đến Guadalcanal đều được chở bằng tàu vận tải trong các đoàn côngvoa nhỏ, chủ yếu là trong giờ còn có ánh sáng ban ngày để máy bay Đồng Minh từ New Hebrides và sân bay Henderson Field và bất kỳ tàu sân bay nào có sẵn bay có thể yểm trợ cho họ. Trong thời gian này, lực lượng Đồng Minh ở Guadalcanal đã nhận được đạn dược và các quy định vừa đủ để bám trụ trước các đợt phản kích của Nhật Bản để nhằm chiếm lại các hòn đảo.

    Mặc dù họ bị thất bại trong trận này Đồng minh cuối cùng đã chiến thắng trong trận chiến tại Guadalcanal, một bước tiến quan trọng để mở ra những thất bại cuối cùng của Nhật Bản. Nếu Mikawa chọn chấp nhận mạo hiểm các tàu của mình để tiêu diệt các tàu vận tải Đồng Minh vào sáng ngày 09 tháng 8, ông có thể đã kết thúc chiến dịch Guadalcanal vào lúc nó mới được khởi đầu và tiến trình của cuộc ở chiến phía Nam Thái Bình Dương có thể sẽ có nhiều đổi khác. Mặc dù các tàu chiến của Đồng minh ở Guadalcanal đêm đó đã hoàn toàn bị đánh tan họ vẫn hoàn thành nhiệm vụ của họ là bảo vệ các tàu vận tải quan trọng khỏi bị tiêu diệt. Rất nhiều trong số các con tàu vận tải này được sử dụng nhiều lần để vận chuyển các nguồn cung cấp quan trọng và tiếp viện cho lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal trong các tháng kế tiếp. Quyết định của Mikawa không tiêu diệt các tàu vận tải Đồng Minh khi ông có cơ hội sẽ được chứng minh là một sai lầm chiến lược rất quan trọng của Nhật Bản.

    Một Ủy ban điều tra chính thức của Hải quân Hoa Kỳ được gọi là Ủy ban điều tra Hepburn được thành lập, sau đó chuẩn bị một báo cáo về trận chiến. Ủy ban đã phỏng vấn hầu hết các sĩ quan cao cấp của Đồng minh có tham gia vào trận chiến trong vài tháng bắt đầu từ tháng 12 năm 1942. Bản báo cáo đề nghị chính thức khiển trách đối với một sĩ quan: Thuyền trưởng Howard D. Bode. Báo cáo đưa ra những chỉ trích ngắn gọn và chính thức tới các sĩ quan khác của Đồng minh, trong đó có Đô đốc Fletcher, Turner, McCain, Crutchley và Thuyền trưởng Riefkohl. Vị trí của Turner, Crutchley và McCain dường như không bị ảnh hưởng bởi những thất bại hay những sai lầm mà họ đã đóng góp vào. Tuy nhiên Riefkohl không bao giờ còn được chỉ huy tàu chiến một lần nữa. Thuyền trưởng Bode sau khi biết rằng báo cáo có những cáo trạng đặc biệt quan trọng cho hành động của mình đã tự sát tại khu căn hộ của mình tại Balboa, Vùng Kênh đào Panama vào ngày 19 tháng 4 năm 1943 và chết vào ngày hôm sau. Crutchley được chuyển sang lực lượng Legion of Merit (chức Tổng Tư lệnh ) trong tháng 9 năm 1944. Đô đốc Yamamoto tỏ dấu hiệu chúc mừng chiến thắng của Mikawa và nêu rõ " Đánh giá cao sự chiến đấu dũng cảm và vượt qua khó khăn của cá nhân trong tổ chức của ngài, tôi hy vọng ngài có thể mở rộng và khai thác chiến thắng của ngài và ngài nên cố gắng hết sức để hỗ trợ các lực lượng trên bộ của quân đội Hoàng gia lúc này đang tham gia vào một trận chiến tuyệt vọng. " Mặc dù sau đó khi trở nên rõ ràng rằng Mikawa đã bỏ lỡ một cơ hội để tiêu diệt các tàu vận tải của Đồng Minh, ông đã mạnh mẽ chỉ trích người thuộc cấp của mình. Đô đốc Turner sau đó đánh giá lý do tại sao quân của ông lại bị đánh bại trong trận chiến:

    "




    Hải quân Hoa kỳ vẫn còn bị ám ảnh bởi một cảm giác mạnh mẽ về mặt kỹ thuật và tinh thần vượt trội của Hải quân đối phương. Mặc dù có nhiều bằng chứng cho khả năng của kẻ thù, hầu hết các sĩ quan và binh sỹ của chúng ta đã tỏ ra coi thường kẻ thù và cảm thấy mình sẽ chiến thắng một cách chắc chắn trong tất cả các trận chiến trong bất kỳ trường hợp nào. Kết quả ròng của tất cả điều này là một tâm lý thờ ơ chết người được gây ra bởi một sự tự tin nhưng lại không sẵn sàng (cho chiến đấu), và một sự chấp nhận các tiêu chuẩn thông thường của ứng sử thời bình. Tôi tin rằng yếu tố tâm lý này là một nguyên nhân gây ra thất bại của chúng ta, thậm chí còn quan trọng hơn cả yếu tố bất ngờ.




    "







    Sử gia Richard B. Frank cho biết thêm rằng " tâm lý thờ ơ này sẽ không bị xua đi hoàn toàn nếu không bị thổi thêm vài luồng gió ( niềm tự hào của Hải quân Hoa Kỳ ) xung quanh Guadalcanal, nhưng sau trận Savo Hoa Kỳ đã mang chính nó (tự hào của HQ - HK) lên boong tàu và chuẩn bị cho trận chiến hoang dã nhất lịch sử của họ "

    Daniel H. Galvin Jr , một nạn nhân của chiếc tầu đắm USS Quincy viết rằng : " Trong gần 40 năm những thủy thủ [ của ] chiếc Quincy tổ chức nhiều lễ kỷ niệm cho sự mất mát của 389 người cùng tầu - và xấu hổ về mất mát này. " Tuy nhiên, vì sự Tự do của luật Thông tin, các sử gia đã có thể khám phá ra những sự thật liên quan đến " Trận chiến đảo Savo " Galvin viết rằng những gì kết tủa lên thất bại là việc Fletcher ra khỏi khu vực này và không chuyển giao trách nhiệm cho bất cứ ai. Ngoài ra các đồng minh Úc, những người biết về việc tàu chiến Nhật đang tiến lại gần đã không thông báo cho người Mỹ.
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận hải chiến Đông Solomon - trận đấu tầu sân bay thứ ba

    Tóm tắt trận đánh


    Thời gian: Ngày 24 -> 25 tháng 8 năm 1942
    Địa điểm: Phía bắc Quần đảo Santa Isabel, Solomon
    Kết quả: Đồng Minh chiến thắng

    Các bên tham chiến


    Lực lượng Đồng minh bao gồm:
    Hoa Kỳ,
    Australia

    Chỉ huy

    Robert Ghormley
    Frank Jack Fletcher

    Sức mạnh

    2 tàu sân bay hạm đội,
    1 tàu thiết giáp,
    4 tàu tuần dương,
    11 tàu khu trục,
    176 máy bay

    Tổn thất

    1 tàu sân bay bị hư hỏng nặng ,
    25 máy bay bị phá hủy,
    90 lính thiệt mạng

    Đế quốc Nhật Bản

    Chỉ huy

    Isoroku Yamamoto
    Chūichi Nagumo

    Sức mạnh
    2 tàu sân bay hạm đội,
    1 tàu sân bay hạng nhẹ,
    2 tàu thiết giáp,
    16 tàu tuần dương ,
    25 tàu khu trục ,
    1 tầu chở thủy phi cơ,
    4 tàu tuần tra,
    3 tầu vận tải,
    171-177 máy bay

    Tổn thất

    1 tàu sân bay hạng nhẹ chìm,
    1 tàu khu trục chìm,
    1 tầu vận tải bị đánh đắm,
    1 tàu tuần dương chìm,
    1 tầu chở thủy phi cơ bị hư hỏng nặng ,
    75 máy bay bị phá hủy,
    hơn 290 lính bị giết


    Trận Hải chiến Đông Solomons ( còn được gọi là Trận quần đảo Stewart và theo nguồn tài liệu của Nhật Bản là trận chiến biển Solomon lần thứ hai, diễn ra vào ngày 24 tháng 8 năm 1942 - 25 tháng 8 năm 1942 và là trận chiến tầu sân bay trong chiến tranh Thái Bình Dương, một phần của Chiến tranh Thế giới II và là trận chiến hai chính thứ hai giữa Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến dịch Guadalcanal. Cũng giống như tại các trận Coral Sea và Midway, các tàu chiến của hai bên đối địch không bao giờ nằm trong tầm nhìn của nhau. Thay vào đó tất cả các cuộc tấn công được thực hiện bởi máy bay cất cánh từ tàu sân bay hoặc trên mặt đất.






    [​IMG]
    Bản đồ trận Hải chiến Đông Solomons ngày 24 -> 25 tháng 8 năm 1942 giữ lực lượng Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Đế quốc Nhật Bản

    Sau khi bị gây nhiều thiệt hại từ các cuộc tấn công không kích, các tầu chiến bề mặt của Hải quân từ cả hai phía Hoa Kỳ và Nhật Bản đều rút khỏi khu vực chiến đấu mà không bên nào đảm bảo rằng họ giành được một chiến thắng rõ ràng. Tuy nhiên, Mỹ và đồng minh đạt được lợi thế chiến thuật và chiến lược. Thiệt hại của Nhật Bản thì lớn hơn bao gồm hàng chục máy bay và các đội bay đầy kinh nghiệm của họ. Ngoài ra, việc chuyển quân tiếp viện Nhật Bản cho Guadalcanal bị trì hoãn và cuối cùng phải được chuyển bằng tàu chiến chứ không phải là bằng tàu vận tải, và tạo thêm thời gian cho quân Đồng minh để chuẩn bị cho những trận phản công và ngăn ngừa phía Nhật Bản chuyển lên bờ pháo hạng nặng, đạn dược, và các vật tư chiến tranh khác.



    Bối cảnh trận đánh

    Vào ngày 07 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh (chủ yếu là Mỹ ) đã đổ bộ lên Guadalcanal , Tulagi, và Quần đảo Florida trong Quần đảo Solomon. Cuộc đổ bộ trên các đảo đã có nghĩa làđể ngăn chặn việc Nhật Bản sử dụng những hòn đảo này như là căn cứ để đe dọa các tuyến đường cung cấp giữa Mỹ và Australia, và đảm bảo rằng các hòn đảo này sẽ là điểm bắt đầu cho một chiến dịch với mục tiêu cuối cùng của cô lập các căn cứ lớn của Nhật Bản tại Rabaul trong khi hỗ trợ chiến dịch New Guinea của Đồng minh. Cuộc đổ bộ bắt đầu chiến dịch Guadalcanal kéo dài trong sáu tháng dài.

    Cuộc đổ bộ của Đồng Minh đã trực tiếp hỗ trợ bởi ba tàu sân bay Mỹ lực lượng đặc nhiệm: TF 11 (USS Saratoga) , TF 16 ( USS Enterprise) , và TF 18 (USS Wasp), những nhóm máy bay tương ứng của chúng và các chiến hạm nổi hỗ trợ, bao gồm cả một tàu thiết giáp, các tàu tuần dương, và tàu khu trục. Chỉ huy tổng thể của ba lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay trên là Phó Đô đốc Frank Jack Fletcher người đặt sở chỉ huy trên chiếc TSB kỳ hạm USS Saratoga. Những chiếc máy bay từ ba chiếc tầu sân bay cung cấp yểm trợ trên không tầm gần cho lực lượng đổ bộ của Đồng minh và bảo vệ họ chống lại các cuộc không kích của máy bay Nhật Bản xuất phát từ Rabaul. Sau khi đổ bộ thành công, họ vẫn tiếp tục ở lại khu vực phía nam Thái Bình Dương để bảo vệ các tuyến đường liên lạc giữa các căn cứ chính của đồng minh tại New Caledonia và Espiritu Santo, hỗ trợ lực lượng trên bộ của Đồng Minh tại Guadalcanal và Tulagi để chống lại bất kỳ đợt phản công của Nhật Bản, để che chở cho các hoạt động vận chuyển của tàu chở đồ cung cấp cho Guadalcanal và tấn công và phá hủy bất cứ tàu chiến Nhật Bản nào đi vào trong vùng này.

    Từ ngày 15 tháng 8 đến ngày 20 tháng 8, các tàu sân bay Mỹ đã cung cấp các máy bay tiêm kích và máy bay ném bom cho sân bay Henderson mới được xây dựng xong trên đảo Guadalcanal. Sân bay Henderson và các máy bay ở sân bay này đã sớm bắt đầu có tác dụng vào việc ngăn chặn vận chuyển lực lượng của Nhật Bản tại quần đảo Solomon và tiêu hao lực lượng không quân Nhật Bản trong khu vực Nam Thái Bình Dương. Trong thực tế, việc Đồng minh kiểm soát được sân bay Henderson đã trở thành yếu tố quan trọng toàn bộ cuộc chiến Guadalcanal.

    Khi lực lượng Đồng Minh bắt đầu tấn công bất ngờ tại quần đảo Solomon, Hải quân ( dưới sự chỉ huy của Đô đốc Isoroku Yamamoto) và Lục quân Nhật Bản chuẩn bị một cuộc phản công với mục tiêu là đẩy lực lượng Đồng minh ra khỏi Guadalcanal và Tulagi . Trận phản công này được gọi là chiến dịch Ka (Ka đến từ các âm tiết đầu tiên Guadalcanal theo cách phát âm của người Nhật Bản) và Hải quân có một mục tiêu bổ sung là phá hủy lực lượng tàu chiến của Đồng Minh tại khu vực Nam Thái Bình Dương, đặc biệt là các tàu sân bay Mỹ.

    Trận đánh




    [​IMG]
    Bản đồ vị trí các trận đánh ở quần đảo Guadalcanal trong đó có trận Hải chiến Đông Solomons



    Khúc dạo đầu

    Một đoàn côngvoa chở 1.411 binh lính Nhật Bản từ trung đoàn " Ichiki " cùng với hàng trăm lính hải quân từ Lực lượng Đổ bộ Đặc nhiệm ( Special Naval Landing Force ) Yokosuka số 5, trên ba tàu vận tải chậm rời căn cứ chính của Nhật Bản tại Truk ( Chuuk ) vào ngày 16 và hướng về phía Guadalcanal. Công việc vận chuyển được bảo vệ bởi tàu tuần dương hạng nhẹ Jintsu cùng với tám tàu khu trục và bốn tàu tuần tra do Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka ( trên chiếc kỳ hạm Jintsu) chỉ huy. Xuất phát từ Rabaul cũng với nhiệm vụ bảo vệ đoàn côngvoa này như là một " Lực lượng Bảo vệ Tầm gần - Close Cover force " gồm bốn tàu tuần dương hạng nặng từ Hạm đội 8, dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa. Đây là những tàu tuần dương đã đánh bại một lực lượng Hải quân bề mặt của Đồng minh ở Trận chiến đảo Savo. Tanaka lên kế hoạch đổ bộ quân từ đoàn côngvoa của ông lên đảo Guadalcanal vào ngày 24.

    Ngày 21 tháng Tám, phần còn lại của lực lượng hải quân Ka của Nhật Bản rời Truk, hướng đến phía nam quần đảo Solomon. Những con tàu này về cơ bản được chia thành ba nhóm: nhóm "Lực lượng Chính - Main Body " gồm các tàu sân bay Nhật Bản ShōkakuZuikaku cùng tầu sân bay hạng nhẹ Ryūjō, cộng với một lực lượng tầu hộ tống gồm một tàu tuần dương hạng nặng và tám tàu khu trục, chỉ huy bởi Phó Đô đốc Chuichi Nagumo trên chiếc Shōkaku; nhóm " Lực lượng Tiên phong - Vanguard Force " bao gồm hai thiết giáp hạm, ba tàu tuần dương hạng nặng, một tàu tuần dương hạng nhẹ và ba tàu khu trục, được chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Hiroaki Abe, nhóm "Lực lượng Xung kích - Advanced Force " gồm có năm tàu tuần dương hạng nặng, một tàu tuần dương hạng nhẹ, sáu tàu khu trục và một tàu sân bay thủy phi cơ (Chitose) được chỉ huy bởi Phó Đô đốc Nobutake Kondo. Cuối cùng là một lực lượng khoảng 100 máy bay ném bom máy bay chiến đấu , và máy bay trinh sát trên đất liền Hải quân Nhật có căn cứ tại Rabaul và các đảo gần đó đã vị trí để hỗ trợ cho chiến dịch. Lực lượng chính của Nagumo chọn vị trí của mình ở đằng sau lực lượng tiên phong và xung kích để dễ dàng hơn trong việc tránh né máy bay trinh sát của Mỹ.

    Theo kế hoạch Ka người Nhật quyết một lần nữa dò ra các tàu sân bay Mỹ bằng máy bay trinh sát hoặc một trong các tầu bề mặt của Nhật Bản, các tầu sân bay của Nagumo ngay lập tức sẽ khởi động một lực lượng tấn công để tiêu diệt chúng. Một khi các tàu sân bay Mỹ bị phá hủy hoặc bị hư hại, các lực lượng Tiên phong của Abe và Xung kích của Kondo sẽ tiến đến gần và phá hủy phần còn lại của lực lượng hải quân Đồng Minh trong một trận triến của các tàu chiến bề mặt. Lực lượng hải quân Nhật Bản sau đó sẽ tấn công để loại bỏ sân bay Henderson Field bằng việc bắn phá, trong khi tung ra các cuộc đổ bộ của các binh sĩ quân đội Nhật Bản để chiếm lại Guadalcanal và Tulagi.

    Để đối phó với một trận đánh trên bộ bất ngờ giữa Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trên đảo Guadalcanal và lực lượng của Nhật Bản vào các ngày 19 -> 20 tháng Tám, lực lượng tầu sân bay đặc nhiệm Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của Fletcher quay đầu ngược trở lại Guadalcanal từ vị trí của họ ở 400 dặm (640 km) về phía nam vào ngày 21 tháng Tám. Các tàu sân bay Mỹ có mục đích là hỗ trợ cho thủy quân lục chiến bảo vệ sân bay Henderson và để chiến đấu tiêu diệt bất kỳ lực lượng hải quân Nhật Bản nào đến để hỗ trợ cho Lục quân Nhật Bản trong cuộc chiến trên bộ ở trên đảo Guadalcanal.

    Cả lực lượng hải quân Đồng minh lẫn Nhật Bản tiếp tục hướng đầu vào nhau vào ngày 22 tháng Tám. Mặc dù cả hai bên đều đã tiến hành tăng cường nỗ lực cường trinh sát bằng máy bay, không bên nào đã phát hiện ra đối phương. Bởi vì bị mất đi ít nhất một máy bay trinh sát của họ ( bị bắn rơi bởi máy bay từ chiếc Enterprise trước khi nó có thể gửi một báo cáo qua sóng vô tuyến), người Nhật Bản nghi ngờ rằng có tàu sân bay Mỹ trong khu vực này. tuy nhiên, Tuy nhiên người Mỹ lại không biết về cách bố trí và sức mạnh của lực lượng tàu chiến bề mặt Nhật Bản đang tiếp cận.

    Lúc 09:50 ngày 23 tháng 8, một máy bay PBY Catalina của Mỹ tại Ndeni trong đảo Santa Cruz Islands nhìn thấy đoàn côngvoa của Tanaka. Bởi vì lúc đó là cuối buổi chiều, nên nó không nhìn thấy các tàu Nhật Bản khác nữa, hai đội máy bay thuộc các lực lượng tấn công từ Saratoga và sân bay Henderson cất cánh để tấn công đoàn côngvoa của Tanaka . Tuy nhiên Tanaka biết rằng một cuộc tấn công sẽ đến chỗ của mình sau khi nhìn thấy chiếc Catalina đảo hướng và rời khỏi khu vực, nên ông cho lẩn tránh các máy bay. Sau khi Tanaka báo cáo lên cấp trên rằng ông đã bị mất một khoảng thời gian vì phải quay về phía bắc để tránh các cuộc không kích của Đồng Minh, việc đổ bộ của Lục quân trên các tầu của lên đảo Guadalcanal phải bị trì hoãn đến ngày 25 tháng Tám. Vào lúc 18:23 ngày 23 tháng 8, không có tàu sân bay Nhật được nhìn thấy và không có thông tin tình báo mới báo cáo về sự hiện diện của họ trong khu vực, Fletcher tách chiếc Wasp, vốn nhận được quá ít nhiên liệu, và phần còn lại của TF18 cho chuyến đi hai ngày về phía nam hướng vào đảo Efate Island để tiếp nhiên liệu. Vì vậy chiếc Wasp và các tàu chiến hộ tống của nó đã bị lỡ dịp tham gia trận chiến sắp tới.

    Trận chiến tầu sân bay ngày 24 tháng tám

    Tại 1:45 vào ngày 24, Nagumo ra lệnh cho Chuẩn Đô đốc Chūichi Hara cùng với chiếc tầu sân bay hạng nhẹ Ryūjō, cùng với tàu tuần dương hạng nặng Tone và các tàu khu trục AmatsukazeTokitsukaze tiến về phía trước lực lượng chính của Nhật Bản và gửi một lực lượng máy bay tấn công vào sân bay Henderson vào lúc rạng đông. Sứ mạng của chiếc Ryūjō có là để đáp ứng cao nhất yêu cầu từ Nishizo Tsukahara, chỉ huy hải quân ở Rabaul, đòi hỏi sự trợ giúp từ Hạm đội Liên hợp để loại bỏ Henderson Field. Nhiệm vụ này cũng có thể là dự định của Nagumo như là một mồi nhử để chuyển hướng sự chú ý của Hoa kỳ để phần còn lại của lực lượng Nhật Bản có thể tiếp cận lực lượng hải quân Hoa kỳ mà không bị phát hiện cũng như để giúp cung cấp yểm trợ trên không để bảo vệ cho đoàn côngvoa của Tanaka. Hầu hết các máy bay trên các tầu sân bay ShōkakuZuikaku đã sẵn sàng để khởi động ngay lập tức nếu vị trí của các tàu sân bay Mỹ được tìm thấy. Giữa 05:55 và 06:30, các tàu sân bay Hoa kỳ (chủ yếu là chiếc Enterprise), được tăng cường bởi chiếc Catalinas từ Ndeni, cũng phóng máy bay trinh sát của nó lên để tìm kiếm lực lượng hải quân Nhật Bản.


    Tại 09:35, một chiếc Catalina đã lần đầu tiên nhìn thấy lực lượng của chiếc Ryūjō. Một số máy bay trinh sát khác của lực lượng của tàu sân bay Hoa kỳ cũng nhìn thấy chiếc Ryūjō và các tàu của Kondo và Mikawa muộn hơn trong buổi sáng ngày hôm đó. Trong suốt buổi sáng và đầu buổi chiều, máy bay Mỹ cũng nhìn thấy máy bay một số và tàu ngầm trinh sát Nhật Bản, việc này làm cho Fletcher tin rằng người Nhật biết nơi tàu sân bay của ông ở chỗ nào, nhưng thực sự lại không phải như vậy. Tuy nhiên, Fletcher lại do dự trong việc tung ra một cuộc tấn công vào nhóm của chiếc Ryūjō cho đến khi chắc chắn là không có tàu sân bay khác của Nhật bản trong khu vực. Cuối cùng do không có xác nhận về sự hiện diện hay địa điểm của các tầu sân bay khác của Nhật, Fletcher đã phát động một cuộc tấn công của 38 máy bay từ chiếc Saratoga vào lúc 13:40 để tấn công nhóm của chiếc Ryūjō. Tuy nhiên, ông vẫn giữ lại một số máy bay của cả hai tàu sân bay Mỹ để sẵn sàng trong trường hợp có bất kỳ tàu sân bay của Nhật nào được nhìn thấy.

    Lúc 12:20, chiếc Ryūjō tung ra sáu máy bay ném bom "Kate " và 15 máy bay chiến đấu A6M Zero để tấn công sân bay Henderson kết hợp với một cuộc tấn công của 24 máy bay ném bom " Betty " và 14 máy bay chiến đấu từ Rabaul Zero. Tuy nhiên các máy bay Ryūjō lại không biết rằng là những máy bay từ Rabaul đã gặp phải thời tiết xấu và phải quay về căn cứ của họ lúc 11:30. Các máy bay của chiếc Ryūjō bị phát hiện trên radar của chiếc Saratoga khi chúng bay đến Guadalcanal, đây là căn cứ để người Mỹ định vị chính xác hơn vị trí của con tàu của họ cho các cuộc tấn công sắp xảy ra của Hoa kỳ. Các máy bay của chiếc Ryūjō đến Henderson Field ở lúc 14:23, và hỗn chiến với máy bay tiêm kích của Henderson Field (thành viên của Cactus Air Force) trong khi ném bom chiếc sân bay. Trong đợt tấn công này có ba chiếc Kate, ba chiếc Zero và ba máy bay chiến đấu Mỹ bị bắn rơi và không có thiệt hại đáng kể đã được gây ra cho Henderson Field.

    Vào lúc 14:25, một máy bay trinh sát Nhật Bản từ chiếc tuần dương hạm Chikuma đã nhìn thấy các tàu sân bay Mỹ. Mặc dù chiếc máy bay này bị bắn rơi, báo cáo của nó vẫn được truyền đi kịp thời và Nagumo ngay lập tức ra lệnh cho các lực lượng tấn công của ông cất cánh từ các chiếc ShōkakuZuikaku. Làn sóng máy bay đầu tiên gồm 27 máy bay ném bom bổ nhào " Val " và 15 chiếc Zero đã cất cánh vào lúc 14:50 và hướng tới các chiếc Enterprise và Saratoga. Đồng thời hai máy bay trinh sát của Hoa kỳ cuối cùng đã nhìn thấy lực lượng chính của Nhật bản. Tuy nhiên, do vấn đề về việc truyền thông, những báo cáo về những gì được quan sát đã không bao giờ đến được tới Fletcher. Hai máy bay trinh sát Mỹ đã cố gắng tấn công chiếc Shōkaku trước khi rời khỏi khu vực nhưng chỉ gây thiệt hại không đáng kể. Một làn sóng thứ hai gồm 27 chiếc Val và chín chiếc Zero đã được tung ra bởi các tàu sân bay Nhật lúc 16:00 và đi về phía Nam hướng tới các tàu sân bay Mỹ. Lực lượng Tiên phong của Abe cũng lao về phía trước nơi dự đoán sẽ gặp được các tàu Mỹ để tổ chức một trận chiến bề mặt sau khi đêm xuống.

    Đồng thời trong lúc này lực lượng tấn công từ chiếc Saratoga đến nơi và bắt đầu cuộc tấn công của chúng vào chiếc Ryūjō, đánh chúng nó từ 3-5 quả bom hoặc cũng có thể là một quả ngư lôi và giết chết 120 thủy thủ. Chiếc này bị hư hỏng nặng và thủy thủ đoàn của nó phải rời bỏ rơi con tàu khi đêm xuống và nó bị đã đánh chìm ngay sau đó. Các chiếc AmatsukazeTokitsukaze đến để giải cứu những người sống sót của Ryūjō cũng như các đội bay từ lực lượng tấn công của nó quay trở lại, những người này phải hạ cánh máy bay của họ xuống biển ở gần đó. Trong thời gian này một số máy bay ném bom B -17 Hoa Kỳ tiếp tục tấn công làm tê liệt chiếc Ryūjō nhưng không gây thiệt hại thêm. Sau khi các hoạt động cứu hộ đã hoàn thành, cả hai tàu khu trục Nhật Bản và chiếc Tone tái gia nhập lực lượng chính của Nagumo.

    Vào lúc 16:02 trong lúc vẫn chờ đợi một báo cáo dứt khoát về vị trí của các tàu sân bay hạm đội của Nhật Bản, radar của các tàu sân bay Mỹ đã phát hiện làn sóng đầu tiên của các máy bay tấn công Nhật Bản. Năm mươi ba máy bay chiến đấu F4F Wildcat từ hai tàu sân bay Mỹ được chỉ huy bởi radar được tung ra để đối đầu với những kẻ tấn công. Tuy nhiên lại có vấn đề trong việc truyền thông, và hạn chế của radar trong khả năng xác định máy bay, thủ tục kiểm soát ban đầu, và hiệu quả của các máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản bởi máy bay chiến đấu Zero hộ tống của họ đã ngăn chặn tất cả, nhưng một vài trong số các máy bay chiến đấu Mỹ đã tấn công được các máy bay Val trước khi chúng bắt đầu cuộc tấn công vào các tàu sân bay Mỹ. Ngay trước khi các máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản bắt đầu các cuộc tấn công của họ, các chiếc EnterpriseSaratoga đã kịp dọn sạch sàn của chúng cho các hoạt động chiến đấu sắp xảy ra bằng cách tung ra các máy bay mà chúng đang có để sẵn sàng trong trường hợp các tàu sân bay hạm đội Nhật Bản được tìm thấy. Những chiếc máy bay này được biết là đã bay về phía bắc và tấn công bất cứ thứ gì họ có thể tìm thấy, hoặc phải lượn vòng tròn bên ngoài khu vực chiến đấu, cho đến khi chúng có thể trở về an toàn.

    Vào lúc 16:29, các máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản bắt đầu các cuộc tấn công của chúng. Mặc dù một số chiếc đã cố gắng lập đội hình để tấn công chiếc Saratoga, họ nhanh chóng quay trở lại gần chiếc tàu sân bay Enterprise. Vì vậy Enterprise là mục tiêu của gần như toàn bộ cuộc tấn công từ trên không của Nhật Bản. Một số chiếc Wildcat theo những chiếc Vals để tấn công chúng bất chấp súng phòng không bắn dữ dội từ chiếc Enterprise và các tàu chiến hộ tống nó trong một cố gắng tuyệt vọng để phá vỡ cuộc tấn công của chúng. Có đến bốn chiếc Wildcats bị bắn hạ bởi hỏa lực phòng không của Mỹ, và cũng từng đó chiếc Val bị bắn hạ.

    Do hỏa lực phòng không hiệu quả từ các tàu chiến Mỹ, cộng với khả năng cơ động tránh bom, những quả bom từ chín chiếc Val đầu tiên bị đều bị trượt khỏi chiếc Enterprise. Tuy nhiên vào lúc 16:44, một quả bom nổ chậm xuyên thép xuyên qua sàn dáp gần phía sau chiếc thang máy và xuyên qua ba chiếc sàn trước khi phát nổ bên dưới mực nước, làm chết 35 người và làm bị thương thêm 70 người nữa. Nước biển chảy vào làm chiếc Enterprisehơi bị nghiêng đi, nhưng nó không làm ảnh hưởng quá nhiều đến thân tầu còn khá nguyên vẹn.

    Chỉ 30 giây sau, những chiếc máy bay Val lại thả một loạt bom nữa chỉ cách 15 feet (4,5 m ) từ nơi quả bom đầu tiên được thả trúng. Quả bom này nổ tung gây bốc cháy và tạo ra một vụ nổ lớn thứ hai từ một trong những thùng thuốc súng của một khẩu đội súng 5 inch ở gần đó, giết chết 35 pháo thủ của đội súng này và bắt đầu gây ra một đám cháy lớn.

    Khoảng một phút sau, lúc 16:46, quả bom thứ ba và là quả cuối cùng đánh trúng chiếc Enterprisetrên phía trước sàn đáp của nơi hai quả bom đầu tiên đã đánh vào. Quả bom này phát nổ khi tiếp xúc với sàn tầu tạo ra một lỗ hổng 10 foot (3 m ) ở boong tàu nhưng không gây thiệt hại hơn nữa. Bốn Vals sau đó tản ra từ các cuộc tấn công vào Enterprise để tấn công chiếc tàu thiết giáp North Carolina của Mỹ, nhưng tất cả các quả bom của chúng đều trượt mục tiêu và tất cả bốn chiếc Val này đã bị bắn rơi bởi súng phòng không và máy bay chiến đấu Mỹ. Vụ tấn công kết thúc vào lúc16:48 và các máy bay còn sống sót của Nhật tập hợp lại trong các nhóm nhỏ và trở lại tàu của mình.

    Cả hai bên đều nghĩ rằng họ đã gây ra thiệt hại lớn hơn cho đối phương. Phía Mỹ tuyên bố đã bắn hạ 70 máy bay Nhật Bản, mặc dù thực tế Nhật Bản chỉ có 42 chiếc, trong đợt tấn công này Nhật bản mất 25 máy bay với tất cả mọi nguyên nhân, và hầu hết các phi hành đoàn của những chiếc máy bay bị mất đã không được thu hồi hay giải cứu. Người Nhật về phần mình tin tưởng một cách nhầm lẫn rằng họ đã đánh hỏng nặng hai tàu sân bay Mỹ thay vì chỉ một chiếc. Mỹ bị mất sáu máy bay trong trận chiến này với hầu hết các phi-công được cứu sống.
    Mặc dù chiếc Enterprisebị hư hỏng nặng và bị cháy, các đội kiểm soát thiệt hại của nó có thể sửa chữa đủ để tàu để tiếp tục các hoạt động bay vào lúc 17:46, chỉ một giờ sau khi trận đánh kết thúc. Vào lúc 18:05, các lực lượng tấn công của chiếc Saratoga trở lại sau khi đánh chìm chiếc Ryūjō và hạ cánh mà không có sự cố gì lớn. Làn sóng thứ hai của các máy bay Nhật Bản tiếp cận các tàu sân bay Mỹ vào lúc 18:15 nhưng không thể xác định vị trí đội hình tầu Mỹ vì vấn đề truyền tin và phải trở về tàu sân bay của chúng mà không thể tấn công bất kỳ tàu Mỹ nào, và mất năm máy bay trong quá trình bay từ các rủi ro khác nhau. Hầu hết các máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ ngay trước khi làn sóng đầu tiên của máy bay Nhật tấn công đã không tìm thấy bất cứ mục tiêu. Tuy nhiên năm chiếc TBF Avenger từ chiếc Saratoga đã nhìn thấy lực lượng xung kích của Kondo và tấn công tầu chở thủy phi - cơ Chitose, ném trúng hai quả bom làm hư hỏng nặng chiếc tàu không được bọc giáp này. Những chiếc máy bay xuất phát từ các TSB Hoakỳ này hoặc là hạ cánh tại sân bay Henderson hoặc đã có thể trở lại tàu sân bay của họ sau hoàng hôn. Các tàu chiến Mỹ đã lui ra nghỉ ở phía nam để ra khỏi phạm vi tiếp cận của bất kỳ tàu chiến Nhật Bản nào.

    Trong thực tế, lực lượng tiên phong của Abe và lực lượng xung kích của Kondo đã chạy xuống phía Nam để cố gắng tìm lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay Hoa kỳ để tổ chức một trận chiến bề mặt, nhưng họ phải quay lại vào lúc nửa đêm mà không gặp được các tàu chiến Hoa Kỳ. Lực lượng chính của Nagumo đã bị thiệt hại nặng về máy bay trong trận đánh này cộng với còn quá ít nhiên liệu nên cũng phải rút lui về phía bắc.



    Diễn biến của ngày 25 tháng Tám

    Tin rằng hai tàu sân bay Mỹ đã phải ra khỏi trận chiến với những thiệt hại nặng nề, đoàn công voa được tăng cường của Tanaka lại hướng về phía Guadalcanal và lúc 08:00 ngày 25 tháng 8 họ đã ở trong vòng 150 dặm (240 km) ở cách điểm đến của họ. Tại thời điểm này, đoàn tầu của Tanaka tăng cường bởi năm tàu khu trục đã nã pháo vào sân bay Henderson Field vào đêm trước nhưng chỉ gây thiệt hại nhẹ. Vào lúc 08:05 ngày 18 máy bay Mỹ từ sân bay Henderson tấn công đoàn công voa của Tanaka, gây thiệt hại nặng nề cho chiếc Jintsu, giết chết 24 thuyền viên và làm cho Tanaka bất tỉnh. Con tầu vận tải quân Kinryu Maru cũng bị đánh trúng và cuối cùng bị chìm. Chiếc tàu khu trục của Nhật Bản Mutsuki phải đi vào gần chiếc Kinryu Maru để cứu các thủy thủ sót, nó cũng bị tấn công bởi bốn chiếc B -17 của Mỹ cất cánh từ Espiritu Santo, các máy bay này đã ném năm quả bom trúng hoặc xung quanh chiếc Mutsuki làm chiếc này đắm ngay lập tức. Sau khi hồi tỉnh lại và bìng yên vô sự nhưng Tanaka vẫn chuyển sang chiếc tàu khu trục Kagero và gửi chiếc Jintsu trở lại Truk và đưa đoàn côngvoa đến căn cứ của Nhật Bản trong đảo Shortland.

    Cả Nhật Bản và Mỹ đều chọn cách rút hoàn toàn tàu chiến của họ khỏi khu vực này và kết thúc cuộc chiến. Lực lượng hải quân Nhật vẫn còn nán lại gần quần đảo phía Bắc, trong phạm vi của các máy bay Mỹ có căn cứ tại sân bay Henderson, trước khi cuối cùng phải trở về Truk vào tháng 5.


    Hậu quả của trận đánh

    Cuộc chiến thường được coi là dù ít hay nhiều là một chiến thắng chiến thuật và thậm chí là chiến lược cho Hoa Kỳ vì người Nhật bị mất nhiều tầu chiến, máy bay, và phi-công và đội binh tiếp viện của Nhật Bản tới Guadalcanal bị trì hoãn. Tổng hợp ý nghĩa của cuộc chiến, nhà sử gia quân sự Richard B. Frank đã công bố,

    Trận chiến Đông Solomons không còn nghi ngờ gì nữa là một chiến thắng của Mỹ, nhưng nó có ít kết quả trong dài hạn, ngoài việc gây tiêu hao nhiều hơn nữa cho số phi-công tàu sân bay được đào tạo tốt của Nhật Bản. Quân tiếp viện (của Nhật Bản ) không thể được vận chuyển bằng tầu vận tải chạy tốc độ chậm đến Guadalcanal mà phải được vận chuyển bằng phương tiện khác.

    Mỹ chỉ mất bảy thành viên đội bay trong trận chiến. Tuy nhiên người Nhật bị mất tới 61 phi-công kỳ cựu, những người mà Nhật Bản gặp rất nhiều khó khăn để thay thế vì khối lượng hạn do chế thể chế hoá trong các chương trình đào tạo các phi-công hải quân của họ và không có một trữ lượng các phi-công được đào tạo tốt. Các binh sỹ trong đoàn côngvoa của Tanaka sau đó được xếp lên các tàu khu trục tại đảo Shortland và chuyển từng phần, mà không có hầu hết các trang bị vũ khí nặng của họ để bắt đầu trận đánh Guadalcanal ngày 29 tháng 8 năm 1942.

    Nhấn mạnh giá trị chiến lược của Sân bay Henderson Field, trong một nỗ lực tăng cường riêng biệt, tàu khu trục của Nhật Bản Asagiri bị đánh chìm và hai tàu khu trục Nhật Bản khác bị hư hỏng nặng vào ngày 28 tháng Tám, ở khoảng cách 70 dặm ( 130 km ) về phía bắc Guadalcanal trong "The Slot" bởi các máy bay Mỹ có căn cứ tại sân bay này. Trận chiến của hòn đảo đã giải quyết một bế tắc kéo dài hai tháng, và chỉ bị ngắt quãng bởi một trận chiến trên bộ khốc liệt ở Edsons Ridge vào ngày 13 và một trận chiến bề mặt lớn của hải quân ở Cape Esperance vào đầu tháng Mười.

    Chiếc Enterprise phải đi đến Trân Châu Cảng để có các sửa chữa lớn và được hoàn thành vào ngày 15 tháng 10 năm 1942. Nó trở về Nam Thái Bình Dương vào ngày 24, chỉ vừa kịp thời gian cho Trận chiến quần đảo Cruz Santa, đây là trận trận tái đấu của nó với các chiếc ShōkakuZuikaku.
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận hải chiến quần đảo Santa Cruz – trận đấu tầu sân bay thứ tư




    Thời gian: Ngày 25 -> 27 Tháng 10 , 1942 Santa Cruz,[/FONT] Solomon[/COLOR]
    Kết quả: Nhật Bản chiến thắng chiến thuật


    Các bên tham chiến


    Hoa Kỳ


    Chỉ huy
    William Halsey , Jr,
    Thomas C. Kinkaid


    Sức mạnh
    2 tàu sân bay,
    1 tàu chiến ,
    6 tuần dương hạm ,
    14 tầu khu trục,
    136 máy bay


    Thương vong
    1 tàu sân bay bị đánh chìm,
    1 tàu khu trục bị đánh chìm,
    1 tàu sân bay bị hư hại nặng ,
    2 khu trục hạm bị hư hại nặng,



    Đế quốc Nhật Bản


    Chỉ huy
    Isoroku Yamamoto,
    Nobutake Kondo


    Sức mạnh
    4 tàu sân bay,
    4 tàu thiết giáp,
    10 tàu tuần dương ,
    22 tầu khu trục,
    199 máy bay


    Thương vong
    2 tàu sân bay bị hư hại nặng ,
    1 tuần dương hạm bị hư hại nặng ,
    99 máy bay bị phá hủy
    400-500 người chết






















































    Trận chiến quần đảo Santa Cruz, Ngày 26 Tháng 10 năm 1942, đôi khi được gọi là Trận Santa Cruz hoặc theo nguồn của Nhật Bản là Trận chiến Nam Thái Bình Dương, là tàu trận chiến tầu sân bay thứ tư của chiến tranh Thái Bình Dương, một phần của Chiến tranh thế giới II và là trận chiến lớn thứ tư giữa Hải quân Hoa KỳHải quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến dịch Guadalcanal – một chiến dịch kéo dài và có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong các trận đánh tương tự như Coral Sea, Midway và Đông Solomon, chiếc tầu chiến của hai bên đối địch hiếm khi nằm trong phạm vi quan sát trực quan của nhau. Thay vào đó, gần như tất cả các cuộc tấn công của cả hai bên đều được tạo ra bởi máy bay trên các tầu sân bay hoặc máy bay cất cánh từ đất liền.

    Trong một nỗ lực để đuổi lực lượng Đồng minh ra khỏi Guadalcanal và các đảo gần đó và kết thúc các bế tắc đã tồn tại từ tháng chín năm 1942, Lục quân Đế quốc Nhật Bản lên kế hoạch một cuộc tấn công trên trên bộ lớn ở Guadalcanal vào ngày 20 -> ngày 25 tháng 10 năm 1942. Để hỗ trợ cuộc tấn công này, và với hy vọng lực lượng hải quân Đồng Minh sẽ tham chiến, tàu sân bay Nhật và chiếc tầu chiến lớn khác di chuyển vào một vị trí gần phía nam Quần đảo Solomon. Từ vị trí này lực lượng hải quân Nhật Bản hy vọng sẽ tấn công và đánh bại một cách triệt để bất kỳ lực lượng hải quân nào của Đồng minh (chủ yếu là Mỹ), đặc biệt là lực lượng tàu sân bay để đáp lại cuộc tấn công trên bộ. Lực lượng hải quân Đồng Minh cũng hy vọng việc giao chiến với lực lượng hải quân Nhật Bản trong trận chiến, cùng với mục tiêu là phá vỡ bế tắc và kiên quyết đánh bại kẻ thù của họ.

    Cuộc tấn công trên bộ của Nhật Bản vào Guadalcanal bị đánh bại bởi lực lượng trên bộ của Đồng Minh trong Trận Henderson Field. Tuy nhiên, tàu chiến hải quân và máy bay từ hai đối thủ đã đối đầu với nhau vào buổi sáng ngày 26 tháng 10 năm 1942 ở phía bắc Santa Cruz đảo. Sau khi trao đổi những cuộc tấn công không kích vào các tầu sân bay của nhau, tầu chiến bề mặt của Đồng Minh đã bị buộc phải rút lui khỏi khu vực chiến đấu với sự mất mát của một tàu sân bay bị đánh chìm và một chiếc khác bị hư hỏng nặng. Một lực lượng tàu sân bay Nhật tham gia trận chiến, tuy nhiên họ cũng không thể tiếp tục cuộc chiến vì tổn thất của máy bay và phi-công quá cao với thiệt hại đáng kể cho hai tàu sân bay. Mặc dù là một chiến thắng chiến thuật rõ ràng cho Nhật Bản về tàu bị đánh chìm và hư hỏng, nhưng những mất mát không thể thay thế của các đội bay kỳ cựu của Nhật Bản đã tạo ra một lợi thế lâu dài có ý nghĩa chiến lược của Đồng Minh, mà số phi-công thiệt mạng trong trận này là tương đối thấp. Như vậy, nó được coi là một chiến thắng Pyrrhic (chiến thắng chiến thuật nhưng phải trả giá rất đắt - Pyrrhic vua của Macedonia đã chiến thắng quân La Mã nhiều lần cho đến lúc thua) của Nhật Bản và kết quả là các tầu sân bay Nhật Bản không còn phát huy vai trò quan trọng hơn nữa trong chiến dịch Guadalcanal mà chiến thắng cuối cùng thuộc về Đồng Minh .


    Bối cảnh trận đánh


    Vào ngày 07 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh (chủ yếu là Mỹ ) đã đổ bộ lên Guadalcanal , Tulagi, và Quần đảo Florida trong Quần đảo Solomon. Cuộc đổ bộ trên các đảo đã có nghĩa làđể ngăn chặn việc Nhật Bản sử dụng những hòn đảo này như là căn cứ để đe dọa các tuyến đường cung cấp giữa Mỹ và Australia, và đảm bảo rằng các hòn đảo này sẽ là điểm bắt đầu cho một chiến dịch với mục tiêu cuối cùng của nó lập các căn cứ lớn của Nhật Bản tại Rabaul trong khi hỗ trợ chiến dịch New Guinea của Đồng minh. Cuộc đổ bộ bắt đầu chiến dịch Guadalcanal kéo dài trong sáu tháng.


    Sau Trận Đông Solomons trận mà tàu sân bay USSEnterprise đã bị hư hỏng nặng và buộc phải đi đến Trân Châu Cảng, Hawaii để sửa chữa lớn trong một tháng, ba tàu sân bay Mỹ của lực lượng đặc nhiệm vẫn còn ở khu vực Nam Thái Bình Dương. Lực lượng đặc nhiệm bao gồm chiếc tầu sân bay Wasp, Saratoga, và Hornet cộng với các nhóm Không lực tương ứng và chiếc tầu chiến hộ tống của chúng, bao gồm cả tàu thiết giáp, tàu tuần dươngtầu khu trục, và chủ yếu là đang đóng quân giữa các đảo Solomon và New Hebrides (Vanuatu). Tại vị trí này, chiếc tầu sân bay được giao nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường liên lạc giữa các căn cứ chính của quân Đồng minh tại New CaledoniaEspiritu Santo, hỗ trợ lực lượng trên bộ của Đồng Minh tại Guadalcanal và Tulagi chống lại bất kỳ trận phản nóng nào của Nhật Bản, bao gồm các những chuyến tàu chở đồ cung cấp cho Guadalcanal, tấn công và phá hủy bất cứ tàu chiến Nhật Bản nào, đặc biệt là tàu sân bay đi vào khu vực này.

    Diện tích đại dương nơi mà lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay Mỹ hoạt động được gọi là "Torpedo Junction " bởi lực lượng Mỹ vì mật độ cao của tàu ngầm Nhật Bản trong khu vực này. Ngày 31 tháng 8 chiếc Saratoga bị trúng ngư lôi của tàu ngầm Nhật Bản – chiếc I- 26 và bị loại
    khỏi vòng chiến trong ba tháng để sửa chữa. Ngày 14 tháng Chín, Chiếc Wasp bị bắn trúng ba quả ngư lôi từ tàu ngầm Nhật Bản – chiếc I- 19 trong khi tăng cường hỗ trợ cho một đoàn côngvoa tiếp viện đến Guadalcanal và gần như tham gia tấn công vào hai tàu sân bay Nhật – các chiêc ShōkakuZuikaku ( chiếc Wasp đã rút lui ngay trước khi rơi vào phạm vi hoạt động của nhữn chiếc máy bay của hai đối thủ Nhật bản ). Với viêc bị mất điên bởi những thiệt hại từ ngư, các đội Kiểm soát thiệt hại của chiếc Wasp đã không thể dập tắt các đám cháy lớn tiếp theo, và nó đã bị bỏ lại và bị đánh đắm.

    Mặc dù Hoa Kỳ hiện lúc đó chỉ có một tàu sân bay hoạt động (chiếc Hornet) ở Nam Thái Bình Dương, Đồng Minh vẫn duy trì ưu thế trên không ở phía nam quần đảo Solomon vì các máy bay của họ có căn cứ ở sân bay Henderson Field trên đảo Guadalcanal. Tuy nhiên, khi đêm xuống và máy bay không thể hoạt động có hiệu quả, người Nhật có thể hoạt động tàu của họ hầu như xung quanh Guadalcanal. Do đó một stalemate trong trận chiến Guadalcanal được triển khai, với việc các nước Đồng Minh tiến hành cung cấp vật tư, quân tiếp viện đến Guadalcanal vào ban ngày, Nhật bản cung cấp vật tư và quân tiếp viện từ tàu chiến ( được gọi là "Tokyo Express" bởi Đồng Minh ) vào ban đêm và không bên nào có thể cung cấp đủ quân số để đảo bảo đảm một lợi thế quyết định. Đến giữa tháng Mười, cả hai bên có một số quân gần tương đương ở trên đảo. Bế tắc này đã bị gián đoạn một thời gian ngắn bởi hai trận chiến lớn của chiếc tầu hải quân. Vào đêm ngày 11-12 tháng Mười, một lực lượng tầu chiến của Hoa Kỳ đã chặn và đánh bại một lực lượng tàu chiến Nhật Bản được tung ra để bắn phá sân bay Henderson Field ở Trận Cape Esperance. Nhưng chỉ hai đêm sau đó, một lực lượng Nhật Bản bao gồm các chiến hạm HarunaKongō bắn phá thành công sân bay Henderson Field, phá hủy hầu hết các máy bay Mỹ và thiệt hại nghiêm trọng về cơ sở hạ tầng của sân bay này. Mặc dù vẫn còn hoạt động được đôi chút, phải mất vài tuần để sân bay này có thể phục hồi lại các thiệt hại và thay thế các máy bay bị phá hủy.

    Tại thời điểm này , Mỹ thực hiện hai bước để cố gắng phá vỡ bế tắc trong trận chiến Guadalcanal. Trước tiên, việc sửa chữa chiếc Enterprise được giải quyết nhanh để nó có thể trở về Nam Thái Bình Dương càng sớm càng tốt. Ngày 10 tháng Mười, chiếc Enterprise nhận được các nhóm Không lực mới của mình; ngày 16 tháng 10, nó đã rời Trân Châu Cảng và ngày 23 tháng 10, nó trở lại Nam Thái Bình Dương và gặp chiếc Hornet và phần còn lại của lực lượng hải quân Đồng Minh ở Nam Thái Bình Dương vào ngày 24 tháng 10 ở khoảng cách 273 hải lý ( 506km; 314của tôi) về phía đông bắc Espiritu Santo.

    Thứ hai, ngày 18 tháng 10, Đô đốcChester Nimitz, Tổng tư lệnh lực lượng Đồng Minh ở Thái Bình Dương, đã thay thế Phó Đô đốcRobert L. Ghormley bằng Phó Đô đốc William Halsey, Jr như là chỉ huy trưởng của Khu vực Nam Thái Bình Dương: vị trí chỉ huy của lực lượng Đồng
    Minh tham gia vào chiến dịch Solomon Islands. Nimitz cảm thấy rằng Ghormley đã trở nên quá thiển cận và bi quan để lãnh đạo lực lượng Đồng minh một cách có hiệu quả trong cuộc chiến Guadalcanal. Halsey được báo cáo là được tôn trọng trong toàn hạm đội của hải quân Hoa Kỳ như là một " chiến binh " Sau khi được chỉ định làm chỉ huy, ngay lập tức Halsey bắt đầu lập kế hoạch để thu hút lực lượng hải quân Nhật Bản vào một trận chiến, bằng văn bản cho Nimitz " tôi phải bắt đầu ném găng tay gần như ngay lập tức NV - I had to begin throwing punches almost immediately " ( theo kiểu các hiệp sỹ thời trung cổ thích ném găng để thách đấu vật nhau)

    Hạm đội Liên hợp Nhật bản cũng đang tìm cách thu hút lực lượng hải quân Đồng Minh vào những gì được hy vọng sẽ là một trận đánh quyết định. Hai tàu sân bay hạm đội, các chiếc HiyōJunyō cộng với một tàu sân bay hạng nhẹ - chiếc Zuihō, đến các căn cứ chính của hải quân Nhật Bản ở Truk từ Nhật Bản vào đầu tháng 10 và hội binh với chiếc tầu sân bay ShōkakuZuikaku. Với năm tàu sân bay được trang bị đầy đủ các nhóm Không lực, cộng với nhiều thiết giáp hạm, tuần dương hạm và tàu khu trục của họ, Hạm đội Liên hợp Nhật Bản được chỉ huy bởi Đô đốc Isoroku Yamamoto, tin tưởng rằng họ có thể rửa nhục cho thất bại của họ trong trận Midway. Ngoài một vài cuộc tấn công bằng không lực vào sân bay Henderson Field vào tháng Mười, chiếc tầu sân bay Nhật Bản và tàu chiến hộ tống của họ ở lại trong các trận chiến Guadalcanal ở khu vực phía tây bắc của Quần đảo Solomon, chờ đợi một cơ hội để tiếp cận và tấn công chiếc tầu sân bay Mỹ. Với việc kế hoạch chính tiếp theo của Lục quân Nhật bản là cuộc tấn công trên trên bộ vào lực lượng Đồng Minh ở Guadalcanal được bắt đầu vào ngày 20 tháng 10, tàu chiến của Yamamoto bắt đầu vào vị trí của mình ở phía quần đảo Solomon để hỗ trợ cuộc tấn công của Lục quân trên đảo Guadalcanal và để sẵn sàng tấn công bất kỳ tầu Đồng Minh nào (chủ yếu là tầu Mỹ), đặc biệt là tàu sân bay, khi chúng tiếp cận để hỗ trợ phòng thủ cho Đồng minh trên đảo Guadalcanal. Người Nhật tin rằng lực lượng Hải quân Hoa Kỳ có khả năng ở quanh quẩn khu vực đảo Solomons vì họ đã đọc được một bài báo của United Press ngày 20 tháng 10 nói rằng Hải quân Hoa Kỳ đang chuẩn bị cho một trận chiến không quân trên biển lớn ở Nam Thái Bình Dương.

    Trận đánh


    Khúc dạo đầu

    Từ 20 tháng -> 25 tháng 10, lực lượng trên bộ của Nhật Bản ở Guadalcanal cố gắng để chiếm sân bay Henderson Field với một cuộc tấn công quy mô lớn chống lại quân đội Mỹ bảo vệ sân bay . Tuy nhiên, cuộc tấn công bị đánh bại với thương vong nặng nề cho người Nhật trong thời gian Trận Henderson Field.

    Nhận được tin không chính xác rằng các binh sĩ quân đội Nhật đã thành công trong việc chiếm giữ Henderson Field, một lực lượng tàu chiến Nhật Bản tiếp cận đảo Guadalcanal vào buổi sáng ngày 25 tháng 10 để cung cấp hỗ trợ thêm cho cuộc tấn công của Lục quân. Máy bay từ Henderson Field tấn công đoàn côngvoa trong suốt cả ngày, đánh chìm chiếc tuần dương hạng nhẹYura và làm hư hại chiếc tầu khu trục Akizuki.

    Mặc dù thất bại của cuộc tấn công trên bộ của Nhật Bản và sự mất mát của chiếc Yura, phần còn lại của Hạm đội liên hợp tiếp tục được điều động đến gần phía nam quần đảo Solomon vào ngày 25 tháng Mười với hy vọng gặp phải lực lượng hải quân Đồng Minh trong một trận chiến. Lực lượng hải quân Nhật Bản bao gồm bốn tàu sân bay, vì Chiếc Hiyō bị một tai nạn hỏa hoạn gây nhiều thiệt hại vào ngày 22 tháng 10 làm nó bị buộc phải quay trở lại Truk để sửa chữa. Lực lượng hải quân Nhật Bản được chia thành ba nhóm: "Xung kích - Vanguarded" gồm chiếc Junyō cộng với hai tàu thiết giáp, bốn tàu tuần dương hạng nặng, một tàu tuần dương hạng nhẹ và 10 khu trục hạm, được chỉ huy bởi Phó Đô đốcNobutake Kondo trong chiếc tuần dương hạm hạng nặng Atago; nhóm "Lực lượng chính - Main Body " bao gồm các tàu sân bay Shōkaku, ZuikakuZuihō cộng với một tàu tuần dương hạng nặng và tám tàu khu trục được chỉ huy bởi Phó Đô đốcChuichi Nagumo trong Tàu sân bay Shōkaku; nhóm " Vanguard " gồm có hai thiết giáp hạm, ba tuần dương hạm hạng nặng, một tàu tuần dương hạng nhẹ và bảy tàu khu trục được chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Hiroaki Abe trong Thiết giáp hạm Hiei. Ngoài việc chỉ huy lực lượng Vanguarded, Kondo đóng vai trò người chỉ huy chung của cả ba lực lượng .

    Về phía Mỹ, nhóm hoạt động của các chiếc HornetEnterprise làm việc dưới sự chỉ huy chung của Chuẩn Đô đốc Thomas Kinkaid đi xuôi xuống quanh ở phía bắc của quần đảo Santa Cruz ngày 25 tháng 10 để tìm kiếm lực lượng hải quân Nhật Bản. Các tầu chiến Mỹ được triển khai thành hai nhóm tàu sân bay riêng biệt, mỗi nhóm lấy một trong hai chiếc Hornet hoặc Enterprise làm trung tâm và tách rời nhau khoảng 10 hải lý ( 19 km ; 12 mi). Lực lượng Hoa Kỳ gồm có 2 tàu sân bay (các chiếc Enterprise Hornet) , 1 tàu thiết giáp (chiếc South Dakota ), 6 tàu tuần dương (USSPortland( CA- 33 ), USSSan Juan( CL - 54 ), USSNorthampton( CA- 26 ), USSPensacola( CA- 24 ), USSSan Diego( CL - 53 ), USSJuneau( CL - 52 ), và 14 khu trục hạm. Một thủy phi cơ PBY Catalina có căn cứ tại đảo Santa Cruz đã định vị được lực lượng tầu sân bay chính của người Nhật vào lúc 11:03. Tuy nhiên, những chiếc tầu sân bay Nhật Bản đã ở khoảng cách 355 hải lý ( 657 km ; 409 mi) từ lực lượng Hoa Kỳ, chỉ vượt ra ngoài phạm vi của tầu sân bay. Kinkaid hy vọng tiến lại gần để có thể thực hiện một cuộc tấn công trong ngày hôm đó và chạy về phía các tầu sân bay Nhật Bản với tốc độ tối đa và lúc 14:25, cho phát động một lực lượng tấn công gồm 23 chiếc máy bay. Tuy nhiên Nhật Bản biết rằng họ đã bị phát hiện bởi máy bay Mỹ và không biết vị trí của chiếc tầu sân bay Mỹ nên đã quay về phía bắc để ra khỏi phạm vi của máy bay trên tàu sân bay Mỹ. Do đó lực lượng tấn công của chiếc tầu sân bay Mỹ phải quay trở lại tầu của họ mà không tìm thấy hoặc tấn công bất cứ chiếc tầu chiến nào của Nhật Bản.


    Hoạt động của tàu sân bay ngày 26 tháng 10 : cuộc tấn công đầu tiên

    Lúc 02:50 ngày 26 Tháng 10, lực lượng hải quân Nhật đảo ngược hướng và lực lượng hải quân của hai đối thủ từ xa đã tiến lại gần nhau cho đến khi họ chỉ cách nhau có 200 hải lý ( 370 km ; 230 dặm ) vào lúc 05:00. Cả hai bên đều tung ra các máy bay trinh sát tìm kiếm và chuẩn bị cho số máy bay còn lại để tấn công ngay sau khi xác định được vị trí của phía bên kia. Mặc dù một thủy phi cơ PBY Catalina có trang bị radar nhìn thấy những chiếc tầu sân bay Nhật vào lúc 03:10, báo cáo đã không đến được Kinkaid cho đến trước 05:12 . Vì vậy tin rằng các tầu Nhật đã có thể thay đổi vị trí trong hai giờ cuối cùng, ông quyết định giữ lại và chỉ tung ra một lực lượng tấn công cho đến khi ông nhận được thêm thông tin về vị trí hiện hành của các tầu Nhật Bản.

    Lúc 06:45, một máy bay trinh sát của Mỹ nhìn thấy các tầu sân bay của Lực lượng chính của Nagumo. Lúc 06:58, một máy bay trinh sát Nhật Bản báo cáo vị trí của lực lượng đặc nhiệm của chiếc Hornet. Cả hai bên quyết là người đầu tiên tấn công kẻ khác. Người Nhật đã là người đầu tiên khi tung ra lực lượng tấn công của họ với 64 máy bay, bao gồm máy bay ném bom bổ nhào 21 Aichi D3A, máy bay phóng ngư lôi20 Nakajima B5N, máy bay chiến đấu 21 Zero, và hai máy bay chỉ huy và kiểm soát Nakajima B5N trên đường hướng tới chiếc Hornet vào lúc 07:40. Cũng tại 7:40, hai máy bay trinh sát Hoa Kỳ SBD Dauntless nhìn thấy các tầu sân bay Nhật Bản tiến đến gần chiếc Zuihō. Khi các máy bay tuần tra không chiến (CAP ) của Nhật bản đang mải đuổi theo một chiếc máy bay trinh sát Mỹ khác, hai chiếc máy bay này của Mỹ đã có thể tiếp cận và thả hai quả bom của họ vào chiếc Zuihō, gây thiệt hại nặng cho chiếc sàn đáp và ngăn chặn việc các máy bay của Nhật hạ cánh được xuống tầu sân bay của họ.

    Trong khi đó, Kondo ra lệnh cho lực lượng Vanguard của Abe tiến nhanh về phía trước để cố gắng đánh chặn và tấn công vào các tầu chiến Mỹ. Kondo cũng ra lệnh cho Lực lượng Advance của mình tiến lên với tốc độ tối đa để có thể cùng với các máy bay của chiếc Junyō tham gia vào các cuộc tấn công vào chiếc tầu Mỹ. Lúc 08:10, tàu sân bay Shōkaku tung ra một làn sóng thứ hai của các máy bay tấn công bao gồm 19 máy bay ném bom bổ nhào và tám chiếc Zero và tầu sân bay Zuikaku tung ra 16 máy bay phóng ngư lôi vào lúc 08:40. Vì vậy đến lúc 9:10 người Nhật đã có 110 máy bay đang trên đường tấn công các tầu sân bay Mỹ.

    Các máy bay tấn công Hoa Kỳ sau khoảng 20 phút so với phía Nhật Bản. Tin tưởng rằng một cuộc tấn công nhanh thì hiệu quả hơn một cuộc tấn công đồng loạt - massed attacked, các máy bay Mỹ bay trong các nhóm nhỏ để tiến đên vị trí của tầu Nhật Bản thay vì tạo thành một lực lượng tấn công lớn. Nhóm đầu tiên bao gồm 15 máy bay ném bom bổ nhào SBD , sáu máy bay phóng ngư lôi TBF Avenger và tám máy bay tiêm kích F4F Wildcat, do Trung tá R. Eation từ chiếc Hornet, đang trên đường khoảng vào lúc 08:00. Một nhóm thứ hai gồm ba chiếc SBD, bảy chiếc TBFs và tám chiếc Wildcats từ chiếc Enterprise đã cất cánh vào lúc 08:10. Một nhóm thứ ba bao gồm chín chiếc SBD, tám chiếc TBF và bảy chiếc Wildcats cất cánh từ chiếc Hornet cất cánh vào lúc 08:20

    Lúc 08:40, các máy bay của hai bên đối địch đánh xà quần (Dogfight) trong tầm nhìn của nhau. 9 chiếc Zero từ chiếc Zuihō tấn công bất ngờ vào nhóm máy bay của chiếc Enterprise, tấn công các máy bay leo từ ngoài của mặt trời. Kết quả của trận Dogfight là bốn chiếc Zero, ba chiếc Wildcat và hai chiếc TBF bị bắn rơi thêm với hai chiếc TBF và một chiếc Wildcat bị thiệt hại nặng nề buộc phải quay trở về chiếc Enterprise.

    Lúc 08:50, nhóm máy bay tấn công của Hoa kỳ được hình thành từ chiếc Hornet phát hiện bốn tàu chiến từ lực lượng Vanguard của Abe. Lao qua họ những máy bay Mỹ lại tiếp tục nhìn thấy các tầu sân bay Nhật Bản và chuẩn bị tấn công. Ba chiếc Zero từ chiếc Zuihō tấn công vào đội hình các chiếc Wildcat, đuổi chúng ra xa khỏi các máy bay ném bom mà họ được giao phải bảo vệ. Do đó các máy bay ném bom bổ nhào trong nhóm đầu tiên khởi xướng các cuộc tấn công của họ mà không có máy bay tiêm kích hộ tống . Hai mươi chiếc Zero từ chiếc tầu sân bay Nhật tấn công đội hình các chiếc SBD và bắn hạ bốn chiếc trong số họ. 11 chiếc SBD còn lại bắt đầu cuộc tấn công bổ nhào của chúng vào chiếc Tàu sân bay Shōkaku lúc 09:27, ném trúng nó từ 3-> 6 quả bom, phá hủy sàn đáp và gây thiệt hại nghiêm trọng cho phần bên trong của con tàu. 11 chiếc SBD này cuối cùng bị vuột tầm mắt chiếc Tàu sân bay Shōkaku và thay vào đó chúng bỏ bom của mình vào chiếc khu trục Nhật Bản Teruzuki đang ở đó, gây thiệt hại những thiệt hại nhỏ. Sáu chiếc TBF trong lực lượng tấn công đầu tiên, tách ra từ nhóm tấn công của họ và không tìm thấy các tầu sân bay Nhật Bản và cuối cùng phải quay trở về chiếc Hornet. Trên đường về, họ tấn công chiếc tầu tuần dương hạng nặng của Nhật BảnTone, tất cả các quả ngư lôi của họ đều bị trượt mục tiêu.

    Các máy bay TBF trong đội hình tấn công thứ hai của Hoa Kỳ xuất phát từ chiếc TSB Enterprise đã không thể xác định vị trí các tầu sân bay Nhật Bản và thay vào đó chúng tấn công vào chiếc tàu tuần dương hạng nặng của Nhật Bản – chiếc Suzuya của lực lượng Vanguard dưới sự chỉ huy của Abe, nhưng không gây ra được thiệt hại nào. Vào khoảng cùng thời điểm này đội hình tấn công thứ ba được hình thành từ chiếc Hornet tìm thấy các tàu của Abe và tấn công chiếc tầu tuần dương hạng nặng của Nhật Bản Chikuma., bắn trúng nó với hai quả bom £ 1.000 ( 450 kg) và gây thiệt hại nặng. Ba chiếc SBD của chiếc Enterprise đến sau lúc đó và cũng tiếp tục tấn công chiếc Chikuma, gây thiệt hại nhiều hơn nữa với một quả bom thả trúng và hai quả thả suýt soát trúng. Cuối cùng tám chiếc TBF từ nhóm tấn công thứ ba lao tới và tấn công chiếc tầu Chikuma đang tỏa khói, Bắn trúng được một trong rất nhiều quả bom được thả xuống chiếc Chikuma, chiếc này được hộ tống bởi hai tàu khu trục, rút lui khỏi trận chiến và quay đầu theo hướng Truk để sửa chữa.

    Lực lượng tàu sân bay Mỹ nhận được thông tin từ các máy bay tấn công bên ngoài của họ lúc 08:30 rằng các máy bay tấn công của Nhật bản đang hướng vào họ. Lúc 08:52 , chỉ huy của lực lượng máy bay tấn công Nhật Bản quan sát thấy lực lượng đặc nhiệm của chiếc Hornet ( lực lượng đặc nhiệm của chiếc Enterprise đã ẩn dưới một đám mưa lớn) và triển khai máy bay của mình để chuẩn bị tấn công. Lúc 8:55 , chiếc tầu sân bay Mỹ phát hiện ra những máy bay đang tiếp cận của Nhật Bản bằng radar ở khoảng cách 35 hải lý ( 65 km ; 40 dặm) và bắt đầu tung ra 37 máy bay tiêm kích Wildcat trong lực lượng máy bay CAP của mình để tấn công các máy bay của Nhật Bản đang bay đến. Tuy nhiên, vì vấn đề truyền thông tin, những sai lầm của trung tâm điều khiển máy bay tiêm kích Mỹ và thủ tục kiểm soát ban đầu đã ngăn chặn tất cả, nhưng một vài trong số các máy bay chiến đấu Mỹ đã gặp được và tấn công các máy bay Nhật trước khi chúng bắt đầu cuộc tấn công vào chiếc Hornet. Mặc dù các máy bay CAP của Mỹ đã có thể bắn hạ nhiều máy bay ném bom bổ nhào nhiều, hầu hết các máy bay Nhật Bản bắt đầu các cuộc tấn công của họ tương đối unmolested bởi máy bay chiến đấu Mỹ.

    Lúc 9:09, súng phòng không của chiếc Hornet và trên tàu chiến hộ tống nó nổ súng và bắn chặn hiệu quả 20 máy bay phóng ngư lôi Nhật Bản, 16 máy bay ném bom bổ nhào còn lại bắt đầu cuộc tấn công của chúng vào chiếc tàu sân bay. Lúc 09:12, một máy bay ném bom bổ nhào ném được một quả bom 551 lb ( 250 kg) bán xuyên giáp ( Semi - armor – piercing ) trúng vào vào sàn đáp của chiếc Hornet, bên kia hòn đảo xuyên qua ba sàn tầu trước khi phát nổ giết chết 60 người. Những giây sau một quả bom £ 534 ( 242 kg) "land" bomb được thả trúng sàn đáp nổ tung và tác động tạo ra một lỗ rộng 11 ft ( 3,4 m) cũng như giết chết 30 người. Một phút sau hoặc lâu hơn, một quả bom thứ ba được thả trúng chiếc Hornetgần nơi quả bom đầu tiên được thả trúng, cũng xuyên qua ba sàn tầu trước khi phát nổ , gây thiệt hại nghiêm trọng nhưng không có thiệt hại trực tiếp về nhân mạng. Lúc 09:14 , một máy bay ném bom bổ nhào bị bắn trúng và bị hư hỏng do súng phòng không bắn trực tiếp chiếc Hornet. Chiếc máy bay bị thương này đã lao vào stack (ống khói) của chiếc Hornet, nhiên liệu của máy bay bị đốt cháy lan qua sàn tín hiệu.

    Đồng thời khi các máy bay ném bom bổ nhào đang tấn công, các máy bay phóng ngư lôi cũng tiếp cận chiếc Hornet từ hai hướng khác nhau. Mặc dù bị thiệt hại nặng nề từ súng phòng không các máy bay phóng ngư lôi bắn hai quả ngư lôi trúng vào chiếc Hornet từ lúc 9:13-09:17 làm hỏng động cơ của nó. Chiếc Hornet bị thả trôi một lúc rồi dừng lại, một máy bay ném bom bổ nhào của Nhật Bản bị thương cố gắng tiếp cận và cố ý đâm vào phía bên của chiếc tàu sân bay và tạo ra một đám cháy gần kho cung cấp nhiên liệu máy bay chính của con tàu. Lúc 09:20, các máy bay còn lại của Nhật Bản bỏ đi, để lại chiếc Hornet ngắc ngoải trong nước biển và bốc cháy. Hai mươi lăm máy bay Nhật Bản và sáu máy bay Mỹ đã bị phá hủy trong cuộc tấn công đầu tiên vào chiếc Hornet.

    Với sự hỗ trợ của các máy cứu hỏa từ ba tàu khu trục hộ tống, các đám cháy trên chiếc Hornet đã được kiểm soát lúc 10:00. Người bị thương được sơ tán từ chiếc tầu sân bay, và một cố gắng nữa được thực hiện bởi chiếc tàu tuần dương Northampton để kéo chiếc Hornet ra xa khỏi khu vực chiến đấu. Tuy nhiên, nỗ lực để buộc các dây cáp để kéo nó đòi hỏi phải mất một khoảng thời gian, và sóng tấn công của nhiều máy bay Nhật đã được tung đến đó.

    Hoạt động của các tàu sân bay ngày 26 tháng 10: sau hoạt động tấn công đầu tiên

    Bắt đầu từ 09:30, nhiều máy bay tiêm kích CAP và trinh sát từ hai tầu sân bay bị hư hại và cạn kiệt trở về và hạ cánh xuống tầu sân bay Enterprise. Tuy nhiên, với chiếc sàn đáp đã hết chỗ và làn sóng thứ hai của máy bay Nhật Bản bị phát hiện trên radar lúc 09:30, chiếc Enterprisephải cho ngừng hoạt động hạ cánh lúc 10:00. Các máy bay cạn kiệt nhiên liệu sau đó phải hạ cánh xuống biển và các khu trục hạm hộ tống của tàu sân bay này phải tiến hàng giải cứu các đội bay. Một trong những máy bay hạ cánh kiểu này, một chiếc TBF của lực lượng tấn công Hoa kỳ cất cánh từ chiếc Enterprise bị hư hỏng trước đó đã bị tấn công bởi máy bay Zero của chiếc Zuihō, đã bị rơi xuống nước gần chiếc tầu khu trục USS Porter. Khi tàu khu trục giải cứu đội bay của chiếc TBF này, quả ngư lôi của chiếc TBF này đã mất điều khiển rồi tấn công vào chiếc Porter và phát nổ, gây thiệt hại nặng nề và giết chết 15 thủy thủ. Sau đó chỉ huy lực lượng đặc nhiệm phải ra lệnh cho đánh đắm chiếc tàu khu trục này, thủy thủ đoàn được cứu bởi chiếc tàu khu trục USS Shaw rồi sau đó đánh chìm chiếc Porter bằng súng.

    Khi làn sóng đầu tiên của các máy bay tấn công Nhật Bản đã bắt đầu trở về tàu sân bay nhà từ cuộc tấn công của họ vào chiếc Hornet, một trong số này phát hiện ra Lực lượng đặc nhiệm của chiếc Enterprise và báo cáo về vị trí của chiếc tàu sân bay này. Do đó các máy bay trong đợt tấn công thứ hai của Nhật Bản tin rằng chiếc Hornet đã chìm nên chuyển hướng các cuộc tấn công của họ vào Lực lượng đặc nhiệm của chiếc Enterprise bắt đầu lúc 10:08. Một lần nữa các máy bay CAP Mỹ đánh chặn và gây rắc rối cho các máy bay Nhật trước khi họ tấn công chiếc Enterprise, chỉ hai trong số 19 chiếc máy bay ném bom bổ nhào của họ tấn công được vào chiếc tàu sân bay. Cuộc tấn công đồng thời phải vượt qua lưới lửa phòng không được cường của chiếc Enterprise và các tàu chiến hộ tống nó, các máy bay ném bom này thả trúng chiếc tàu sân bay hai quả bom £ 551 ( 250 kg) ở các vị trí rất gần với nhau, gây thiệt hại nặng cho chiếc tàu sân bay và làm kẹt chiếc thang máy phía trước của con tầu. Mười hai trong số 19 máy bay ném bom đã bị tiêu diệt trong cuộc tấn công này.

    Hai mươi phút sau, 16 chiếc máy bay phóng ngư lôi từ chiếc Zuikaku đến và chia ra tấn công chiếc Enterprise. Một nhóm các máy bay phóng ngư lôi bị tấn công bởi hai chiếc CAP Wildcats và bắn hạ ba làm hư hỏng một chiếc thứ tư. Đang bốc cháy chiếc máy bay thứ tư bị bắn hỏng cố đâm vào chiếc tàu khu trục Smith, làm chiếc tầu này bốc cháy và giết chết 57 thủy thủ đoàn. Chiếc tầu khu trục lái vào gần chiếc tầu phun nước Wake của chiếc tầu thiết giáp South Dakota để chiếc này giúp dập tắt các đám cháy và sau đó trở lại vị trí chiến đấu, và bắn các khẩu súng phòng không còn lại của nó vào các máy bay phóng ngư lôi đang tiếp tục tấn công.

    Các máy bay phóng ngư lôi còn lại tấn công các chiếc Enterprise, South Dakota, và tàu tuần dương Portland, nhưng tất cả các quả ngư lôi của họ bị trượt mục tiêu hoặc bị chặn bởi các Leah MYMP ( thiết bị để kích nổ ngư lôi - không rõ về chi tiết lắm) nhưng không gây thiệt hại. Cuộc tấn công kéo dài tới lúc 10:53 với chín trong số 16 máy bay phóng ngư lôi bị bắn hạ. Sau khi dập tắt hầu hết các đám cháy trên tàu lúc 11:15 chiếc Enterprise mở lại sàn đáp để bắt đầu đón những máy bay trở về từ cuộc tấn công vào buổi sáng của Hoa kỳ vào lực lượng tàu chiến của Nhật Bản. Tuy nhiên chỉ có một vài chiếc máy bay đã hạ cánh được trước khi làn sóng tiếp theo của máy bay tấn công Nhật Bản đến nơi và bắt đầu cuộc tấn công của họ vào chiếc Enterprise, buộc chiếc này phải đình chỉ hoạt động hạ cánh.
    (còn tiếp)
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    ( Trận Hải chiến Santa Cruz tiếp theo và hết)
    Giữa 09:05 và 09:14, chiếc Junyō tiến vào vị trí cách 280 hải lý ( 520 km) so với chiếc tầu sân bay Mỹ và phát động một cuộc tấn công của bao gồm 17 máy bay ném bom bổ nhào và 12 chiếc Zero. Khi lực lượng chính và lực lượng Advanced của Nhật Bản cơ động và nhập lại làm một, chiếc Junyō đã sẵn sàng cho cuộc tấn công tiếp theo. Vaò lúc 11:21 , các máy bay của chiếc Junyō đến nơi và bổ nhào vào lực lượng đặc biệt của chiếc ffice:smarttags" />Enterprise. Các máy bay ném bom bổ nhào tiếp tục thả được một quả bom vào gần giữa chiếc Enterpris, gây nhiều thiệt hại hơn và thả được một trong những quả bom khác vào các chiếc tầu thiết giáp South Dakota và tàu tuần dương San Juan, gây thiệt hại ở mức vừa phải cho cả hai con tàu. Mười một trong số 17 máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản đã bị phá hủy trong cuộc tấn công này.

    Lúc 11:35 , Kinkaid quyết định thu hồi chiếc Enterprise và tàu hộ tống của nó từ chiến trường, kể từ khi chiếc Hornet hoàn toàn bị loại khỏi vòng chiến, chiếc Enterprise bị hư hỏng nặng và surmising ( chính xác ) nhưng người Nhật Bản lại có 1-2 tàu sân bay không bị hư hại trong khu vực này. Ông chỉ thị cho lực lượng đặc nhiệm của chiếc Hornet rút ra ngay sau khi họ có thể. Giữa 11:39 và 13:22, chiếc Enterprise thu hồi được 57 chiếc máy bay trong số 73 chiếc mà nó tung ra đầu từ trận chiến. Các máy bay Mỹ còn lại phải hạ cánh xuống biển và các đội bay của họ được giải cứu bởi các tàu chiến hộ tống. Enterprisevà chuẩn bị theo dõi cuộc tấn công. Các sĩ quan không quân trê chiếc Junyō mô tả sự trở lại của nhóm tấn công đầu tiên của chiếc tàu sân bay :

    "


    Chúng tôi tìm kiếm trên bầu trời với nhiều lo âu. Chỉ có một vài chiếc máy bay vật vờ trên không trung so với hàng sà số đã được tung ra vài giờ trước đó ... Các máy bay hạ cánh và đậu so le trên boong tàu, từng chiếc máy bay tiêm kích và máy bay ném bom oanh tạc ... Các phi-công leo xuống từ buồng lái chật hẹp với những mệt mỏi của họ, họ nói về những vị trí không thể tin nổi, về bầu trời dầy đặc những đạn phòng không.

    "




    Lúc 13:00, lực lượng của Kondo tiến lên và cùng với lực lượng tàu chiến Vanguard của Abe hướng đầu trực tiếp tới vị trí cuối cùng được báo cáo là có lực lượng tầu sân bay đặc nhiệm của Hoa Kỳ và tăng tốc độ để cố gắng đánh chặn chúng cho một trận đánh tàu chiến bề mặt bằng súng. Các chiếc tầu sân bay ZuihōShōkaku cùng với Nagumo vẫn còn trên tàu rút lui khỏi khu vực chiến đấu, để lại Chuẩn Đô đốc Kakuji Kakuta phụ trách lực lượng máy bay của các chiếc ZuikakuJunyō. Lúc 13:06, chiếc Junyō phát động cuộc tấn công thứ hai gồm bảy máy bay phóng ngư lôi và tám chiếc Zero và chiếc Zuikaku phát động cuộc tấn công thứ ba gồm bảy chiếc máy bay phóng ngư lôi, hai máy bay ném bom bổ nhào và năm chiếc Zero. Lúc 15:35 chiếc Junyō phát động lực lượng tấn công cuối cùng của Nhật Bản trong ngày, bao gồm bốn máy bay ném bom và sáu chiếc Zero.

    Sau khi một số vấn đề kỹ thuật, chiếc Northampton cuối cùng bắt đầu từ từ kéo chiếc Hornet ra khỏi khu vực chiến đấu vào lúc 14:45. Ngoài ra, thủy thủ đoàn của chiếc Hornet được trên verge của việc khôi phục một phần điện năng cho chiếc tàu. Tuy nhiên, lúc 15:20, đợt máy bay tấn công thứ hai của chiếc Junyō đến nơi và tấn công vào chiếc tầu sân bay hầu như không còn phản ứng này. Lúc 15:23, một ngư lôi tấn công vào chiếc Hornet, phá hủy hệ thống sửa chữa điện năng gây ra ngập lụt và nghiêng 14 độ. Khi không có điện để bơm nước ra người Mỹ phải chấp nhận là không thể cứu được chiếc Hornet và thủy thủ đoàn của con tàu đã rời bỏ nó. Cuộc tấn công thứ ba từ chiếc Zuikaku tấn công chiếc Hornet trong lúc này nhấn chìm con tàu với vài quả bom. Tất cả các thuyền viên của chiếc Hornet rời tầu vào lúc 16:27. Cuộc tấn công cuối cùng của Nhật Bản trong ngày bỏ thêm một vài quả bom nữa vào chiếc thân tầu đang chìm vào lúc 17:20.

    Các tầu khu trục MustinAnderson đã nhận được lệnh phaỉ đánh chìm chiếc Hornet bằng súng và ngư lôi trong khi phần còn lại của các tàu chiến Mỹ thoát ra khỏi trận đánh ở phía đông nam để có được ra khỏi phạm vi của hạm đội của Kondo và Abe đang tiến tới. Chỉ cách lực lượng hải quân Nhật 20 phút tiến quân, hai khu trục hạm Hoa Kỳ phải bỏ thân của chiếc Hornet đanh cháy vào lúc 20:40 . Khi phần còn lại trong số các tầu chiến của Kondo và Abe đến vị trí của chiếc Hornet vào lúc 22:20, họ quyết định rằng nó nó đã quá tệ để chiếm làm chiến lợi phẩm. Các tầu khu trục MakigumoAkigumo sau đó đã thành toàn cho chiếc Hornet bằng bốn quả ngư lôi 24 inch ( 610 mm). vào lúc 0.1:35 ngày 27 tháng 10 năm 1942, cuối cùng nó đã bị đánh chìm ở vị trí xấp xỉ 08° /  / -8.633; 166.717. Một số vụ tấn công đêm được tiến hành do những chiếc thủy phi cơ Catalina được trang bị radar vào các chiếc JunyōTeruzuki, biết được rằng các tàu chiến Hoa Kỳ đã bắt đầu những cuộc rút lui của họ khỏi khu vực này, cộng với dường như vấn đề nhiên liệu cũng là một vấn đề quan trọng làm cho người Nhật Bản phải xem xét lại liệu có nên đuổi theo các tầu chiến Mỹ nữa hay không. Sau khi được tiếp nhiên liệu ở gần phía bắc quần đảo Solomon, các con tàu quay về căn cứ chính của họ tại Truk vào ngày 30 tháng Mười. Trong thời gian các tầu Mỹ rút ra từ khu vực trận chiến tới Espiritu Santo và New Caledonia, chiếc tầu thiết giáp South Dakota đã gặp phải chiếc tàu khu trục Mahan và làm hư hại nặng chiếc tầu khu trục xấu số này.


    Hậu quả


    Việc mất chiếc Hornet là một đòn nặng cho lực lượng Đồng minh tại Nam Thái Bình Dương, chỉ còn lại một chiếc tàu sân bay của Đồng Minh còn hoạt động mặc dù bị hư hỏng trong toàn bộ mặt trận Thái Bình Dương. Tuy nhiên chiếc Enterprise sau khi được sửa chữa tạm thời tại New Caledonia và mặc dù vẫn còn hơi bị hư hỏng đã trở về khu vực phía Nam quần đảo Solomons chỉ hai tuần sau đó để hỗ trợ lực lượng Đồng Minh trong suốt trận Hải chiến Guadalcanal, nó đã đóng một vai trò quan trọng và trở thành nhân tố quyết định cho chiến thắng của hải quân Hoa kỳ trong toàn bộ cuộc chiến Guadalcanal.

    Mặc dù đây là một chiến thắng chiến thuật của người Nhật về việc chiếc tàu sân bay Hornet bị đánh chìm, lực lượng hải quân Nhật Bản phải trả một giá quá cao. Hai chiếc tàu sân bay bị hư hại và buộc phải quay trở lại Nhật Bản để sửa chữa và refitting. Sau khi sửa chữa chiếc Zuihō quay trở lại Truk vào cuối tháng 1 năm 1943. Chiếc tàu sân bay Shōkaku đã được sửa chữa cho đến khi tháng 3 năm 1943 và đã không thể quay trở lại chiến tuyến cho đến tháng 7 năm 1943, khi nó được đoàn tụ với chiếc Zuikaku tại Truk.

    Tuy nhiên thiệt hại đáng kể nhất của Hải quân Nhật Bản lại ở các đội bay. Mỹ chỉ bị mất 26 phi-công trong trận chiến. Nhưng người Nhật bị mất đến 148 phi-công bao gồm hai viên chỉ huy các nhóm máy bay ném bom bổ nhào, và ba chỉ huy của các đội máy bay phóng ngư lôi và 18 chỉ huy của các bộ phận khác. 49% số các đội bay của máy bay phóng ngư lôi Nhật Bản tham gia vào trận chiến đã thiệt mạng cùng với 39 % thành viên của các đội lái máy bay ném bom bổ nhào và 20% các phi-công chiến đấu. Sự mất mát của các phi-công Nhật Bản tại trận Santa Cruz cao hơn những mất mát của họ trong ba trận chiến tàu sân bay trước đó tại Coral Sea ( 90 người ), Midway ( 110 người ) và Đông Solomon ( 61 người). Đến cuối trận Santa Cruz ít nhất 409 trong số 765 phi-công ưu tú của các tàu sân bay Nhật Bản từng tham gia Trận Trân Châu Cảng đã chết trận. Các phi-công Nhật Bản đã hy sinh quá nhiều làm cho các chiếc tầu sân bay ZuikakuHiyō tuy không hề bị hư hại cũng buộc phải quay trở lại Nhật Bản vì sự khan hiếm các phi-công được đào tạo cho các nhóm Không lực của họ. Đô đốc Nagumo, bị cách chức chỉ huy lực lượng tầu sân bay ngay sau khi trận chiến kết thúc và được tái bố trí ở nhiệm vụ tại bờ biển của Nhật Bản, đã nói , " Trận đánh này là một chiến thắng chiến thuật, nhưng một mất mát chiến lược cho Nhật Bản. Tính đến các ưu thế lớn về khả năng của nền công nghiệp của đối phương của chúng ta, chúng ta phải chiến thắng mọi trận chiến một cách áp đảo. Trận đánh mới nhất này tiếc thay lại không phải là một chiến thắng áp đảo "

    Vì mất quá nhiều phi-công kỳ cựu của các tàu sân bay và không có cách gì để nhanh chóng để thay thế họ bởi vì năng lực hạn chế của thể chế trong các chương trình đào tạo phi-công hải quân của mình và không có một số lượng trữ lượng các phi-công được đào tạo, Nhật Bản bị mất cơ hội chiến lược của mình để đánh bại lực lượng tàu sân bay hải quân Đồng Minh trong một trận chiến quyết định trước khi nền công nghiệp của Hoa kỳ đạt được những mục tiêu ngoài tầm với. Mặc dù họ trở về được Truk vào mùa hè năm 1943, các tầu sân bay Nhật Bản không còn tiếp tục đóng vai trò tấn công trong chiến dịch quyết định – chiến dịch Quần đảo Solomon. Nhà sử gia Eric Hammel tóm tắt ý nghĩa của trận chiến quần đảo Santa Cruz là "Santa Cruz là một chiến thắng của Nhật Bản, nhưng chiến thắng này đã bắt Nhật Bản phải trả bằng những thứ tốt nhất cuối cùng của mình vốn được hy vọng để giành chiến thắng trong cuộc chiến – NV Santa Cruz was a Japanese victory. That victory cost Japan her last best hope to win the war "
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hải chiến Guadalcanal<FONT class=imageattach face=[/IMG]


    Ngày 12 -> 15 tháng 11 năm 1942
    Guadalcanal, Quần đảo Solomon
    Mỗi bên thắng một trận chiến thuật
    Hoa Kỳ chiến thắng chiến lược



    Các bên tham chiến


    Hoa Kỳ


    Chỉ huy


    William Halsey , Jr
    Daniel Callaghan
    Norman Scott
    A. Lee Willis




    Sức mạnh
    1 tàu sân bay,
    2 tàu chiến,
    5 tàu tuần dương,
    12 tàu khu trục


    Thương vong

    2 tàu tuần dương ,
    7 tàu khu trục bị đánh chìm,
    36 máy bay bị phá hủy ,
    1.732 thiệt mạng



    Đế quốc Nhật Bản


    Chỉ huy
    Isoroku Yamamoto
    Hiroaki Abe
    Nobutake Kondo
    Raizo Tanaka



    Sức mạnh
    2 thiết giáp hạm,
    8 tàu tuần dương ,
    16 tàu khu trục



    Thương vong
    2 thiết giáp hạm,
    1 tuần dương hạm ,
    3 tàu khu trục,
    11 tàu vận tải bị đánh chìm,
    64 máy bay bị phá hủy ,
    1.900 thiệt mạng



    Trận Hải chiến Guadalcanal, đôi khi còn được gọi là Trận chiến thứ ba và thứ tư của đảo Savo trong loạt Trận hải chiến ở quần đảo Solomons, Trận đánh thứ sáu ngày 13, hoặc, trong theo các nguồn Nhật Bản là trận chiến biển Solomon lần Thứ ba, diễn ra từ ngày 12 tháng 11 đến ngày 15 tháng 11 năm 1942 và là trận chiến quyết định trong một loạt trận hải chiến giữa Lực lương Hải quân Đồng minh (Chủ yếu là Hoa Kỳ) và lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến dịch Guadalcanal kéo dài nhiều tháng trời tại Quần đảo Solomon trong Chiến tranh thế giới II. Trận chiến là một kết hợp của cả những đợt xung đột bằng Không quân và Hải quân trên biển trong bốn ngày ở gần Guadalcanal và có liên quan đến một nỗ lực nhằm tăng cường tiếp viện cho lực lượng Lục quân Nhật Bản trên hòn đảo này. Trận đánh này được đặc biệt chú ý vì liền một lúc có hai đô đốc của Hải quân Hoa Kỳ tử trận trong một trận chiến.

    Lực lượng Đồng Minh, chủ yếu là quân Mỹ, đã đổ bộ lên Guadalcanal vào ngày 07 tháng tám năm 1942 và chiếm được một chiếc sân bay sau này được đặt tên là Henderson Field, Đó là một sân bay được xây dựng bởi quân đội Nhật Bản. Một vài nỗ lực tiếp theo của Lục quân và Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bằng cách sử dụng quân tiếp viện được gửi đến Guadalcanal bằng tàu thủy để tái chiếm sân bay đã không thành công. Vào đầu tháng 11 năm 1942, Nhật Bản đã tổ chức ột đoàn tầu vận tải chở 7.000 lính bộ binh và trang thiết bị của họ đến Guadalcanal để cố gắng một lần nữa chiếm lại sân bay. Một số lực lượng tàu chiến Nhật Bản cũng được giao nhiệm vụ bắn phá sân bay Henderson Field với mục tiêu là tiêu diệt máy bay Đồng Minh, những chiếc máy bay này có thể tạo ra mối đe dọa cho đoàn tầu vận tải. Làm theo nỗ lực của người Nhật, quân đội Mỹ cũng phát động một cuộc tấn công bằng máy bay và tàu chiến .

    Kết quả của trận chiến là cả hai bên đều mất nhiều tàu chiến ở trận đánh vào ban đêm cực kỳ khốc liệt, Hoa Kỳ bị thiệt hại nhiều hơn so với thiệt hại của Nhật Bản. Tuy nhiên Hoa Kỳ đã thành công trong việc chống trả những nỗ lực của Nhật Bản để bắn phá sân bay Henderson bằng thiết giáp hạm. Các đợt không kích của máy bay Đồng Minh cũng đã đánh chìm hầu hết các tàu vận tải chở quân của Nhật Bản và ngăn chặn phần lớn các trang thiết bị của quân Nhật đến được Guadalcanal. Do đó trận chiến này lại trở thành cố gắng lớn cuối cùng của Nhật Bản để đẩy bật lực lượng Đồng Minh ra khỏi Guadalcanal và gần đó là Tulagi, kết quả đây là một chiến thắng chiến lược của Mỹ và đồng và quyết định kết quả cuối cùng của chiến dịch Guadalcanal trong thế lợi có lợi cho họ.



    Bối cảnh



    Chiến dịch sáu tháng Guadalcanal bắt đầu ngày 07 tháng 8 năm 1942, khi lực lượng Đồng Minh (chủ yếu là Mỹ) đổ bộ lên Guadalcanal , Tulagi , và Quần đảo Florida trong Quần đảo Solomon, lúc còn là một thuộc địa của Vương quốc Anh. Các cuộc đổ bộ có ý nghĩa để từ chặn không cho người Nhật sử dụng các đảo này như là căn cứ để đe dọa tuyến đường cung cấp giữa Hoa Kỳ và Australia, và lấy chúng làm những cứ điểm để bắt đầu cho một chiến dịch để loại bỏ căn cứ quân sự chính của Đế quốc Nhật Bản tại Rabaul và hỗ trợ chiến dịch New Guinea của Đồng Minh. Người Nhật đã chiếm Tulagi vào tháng 5 năm 1942 và bắt đầu xây dựng một sân bay trên đảo Guadalcanal vào tháng 6 năm 1942.

    Bởi lúc mặt trời lặn ngày 08 tháng tám , các 11.000 quân Đồng Minh chiếm được Tulagi, Các đảo nhỏ gần đó, và sân bay Nhật Bản được xây dựng ở Lunga Point trên đảo Guadalcanal (sau này đổi tên thành Henderson Field ) . Máy bay của quân đồng minh hoạt động ngoài Henderson đã được gọi là "Không quân xương rồng" ( CAF ) sau khi tên mã của Đồng Minh cho Guadalcanal. Để bảo vệ sân bay , Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ thiết lập một vành đai phòng thủ quanh Lunga điểm thêm quân tiếp viện . trong hai tháng tới tăng số lượng quân đội Mỹ ở Lunga Point cho hơn 20.000 lính.]

    Đáp lại Tổng hành dinh Đế quốc Nhật đã giao cho Tập đoàn quân số 17 Lục quân Đế quốc Nhật Bản, một lực lượng tương đương cỡ quân đoàn có sở chỉ huy tại căn cứ Rabaul và dưới sự chỉ huy của Trung tướng Harukichi Hyakutake, với nhiệm vụ chiếm lại Guadalcanal. Các đơn vị của Quân đội 17 bắt đầu đến Guadalcanal vào ngày 19 tháng 8 và cố gắng đuổi lực lượng Đồng Minh ra khỏi hòn đảo.

    Vì các mối đe dọa của máy bay CAF tại Henderson Field, người Nhật đã không thể sử dụng các tàu vận tải lớn tốc độ chậm để gửi binh lính và đồ cung cấp cho hòn đảo. Thay vào đó, họ phải sử dụng tầu chiến có căn cứ tại Rabaul và Quần đảo Shortland để chuyển quân. Các tàu chiến của Nhật, chủ yếu là tàu tuần dương hạng nhẹ hay tàu khu trục từ Hạm đội thứ tám dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốcGunichi Mikawa, thường có khả năng tiến hành các chuyến đi vòng xuống "the Slot" để đến Guadalcanal và quay trở lại trong một đêm duy nhất, do đó giảm thiểu rủi ro bị không kích. Tuy nhiên chuyển quân theo cách này làm cho họ không thể chuyển được hầu hết các trang thiết bị nặng và đồ cung cấp cho binh sỹ, chẳng hạn như pháo hạng nặng, xe cộ và đồ ăn cùng đạn dược đến được Guadalcanal. Các tàu chiến cao tốc chạy đến Guadalcanal trong suốt chiến dịch và bắt đầu được gọi là "Tốc hành Tokyo - Tokyo Express" bởi lực lượng Đồng Minh và " Chuột Vận tải - Rat Transportation " bởi người Nhật.


    Cố gắng đầu tiên của Nhật Bản để lấy lại Henderson Field đã thất bại khi một lực lượng 917 binh sỹ bị đánh bại vào ngày 21 tháng 8 trong Trận Tenaru. Các nỗ lực tiếp theo đã diễn ra từ ngày 12 tháng 9 tới ngày 14 tháng 9 bởi 6.000 binh sỹ dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Kiyotake Kawaguchi tại đã hoàn toàn thất bại trong Trận Ridge of Edson.

    Trong tháng Mười, người Nhật một lần nữa cố gắng để chiếm lại Henderson Field bằng cách gửi một quân đoàn có quân số 15.000 người chủ yếu là từ 2 sư đoàn bộ binh đến Guadalcanal. Ngoài việc chuyển quân và thiết bị của họ qua Tokyo Express, người Nhật cũng đã thành công trong việc tung ra một trong những đoàn tàu vận tải lớn và chậm hơn. Việc gửi đoàn tầu vận tải lớn một cách thành công là do một đợt bắn phá ban đêm vào sân bay Henderson Field bởi hai tàu chiến vào 14 tháng 10 làm hư hại nặng đường băng của sân bay, phá hủy một nửa số máy bay của lực lượng CAF và đốt cháy hầu hết các thùng nhiên liệu máy bay có sẵn. Mặc dù bị thiệt hại nhân lực ở sân bay Henderson đã có thể khôi phục lại hai đường băng để phục vụ và thay thế máy bay và nhiên liệu được giao tới, từng bước khôi phục lại CAF đến mức trước khi nó bị bắn phá trong vài tuần tới.

    Cố gắng tiếp theo của Nhật Bản để chiếm lại đảo với quân tiếp viện diễn ra từ ngày 20 -> 26 tháng Mười và bị đánh bại với tổn thất nặng nề trong Trận Henderson Field. Đồng thời, Đô đốc Isoroku Yamamoto ( người chỉ huy của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản) đã đánh bại lực lượng hải quân Hoa Kỳ trong Trận đảo Santa Cruz, đuổi họ (lực lượng tầu sân bay Hoa kỳ) ra khỏi khu vực này. Tuy nhiên các tàu sân bay Nhật, cũng bị buộc phải rút lui vì những thiệt hại của tàu sân bay và các đội bay của họ. Sau đó, tàu của Yamamoto trở về căn cứ chính của họ tại Truk trong đảo Micronesia, nơi ông có trụ sở chính của mình và Rabaul trong khi ba chiếc tàu sân bay trở về Nhật Bản để sửa chữa và refitting.

    Quân đội Nhật Bản lên kế hoạch cho một cuộc tấn công vào Guadalcanal vào tháng 11 năm 1942, nhưng thêm quân tiếp viện là điều cần thiết trước khi hoạt động có thể tiến hành. Lục quân yêu cầu sự trợ giúp từ Yamamoto để cung cấp quân tiếp viện cần thiết cho hòn đảo và để hỗ trợ kế hoạch tấn công của họ vào lực lượng Đồng Minh bảo vệ sân bay Henderson Field. Để hỗ trợ các nỗ lực tăng cường tiếp viện, Yamamoto cung cấp 11 tàu vận tải lớn để chở 7.000 binh lính lục quân đội từ sư đoàn bộ binh 38, đạn dược, thực phẩm và trang thiết bị nặng từ Rabaul đến Guadalcanal. Ông cũng gửi một lực lượng tàu chiến hỗ trợ từ Truk vào ngày 09 tháng 11 bao gồm cả hai thiết giáp hạm. Hai thiết giáp hạm – các chiếc HieiKirishima, được trang bị đạn pháo phân mảnh đặc biệt, đã bắn phá Henderson Field vào đêm ngày 12 -> 13 tháng 11 và phá hủy nó và những chiếc máy bay đóng ở đó để cho phép tàu vận tải hạng nặng chạy chậm đến được Guadalcanal và bốc dỡ hàng hóa một cách an toàn vào ngày hôm sau. Lực lượng tàu chiến được chỉ huy từ chiếc Hiei bởi Phó Đô đốc Hiroaki Abe mới được thăng trong thời gian gần đây.

    Vì các mối đe dọa thường xuyên bởi máy bay và tàu chiến Nhật Bản, dường như cũng rất khó khăn cho lực lượng Đồng Minh để tiếp viện cho lực lượng của họ trên Guadalcanal , những người thường xuyên bị tấn công từ lực lượng mặt đất và trên biển của Nhật Bản trong khu vực. Vào đầu tháng 11 năm 1942, tình báo Đồng Minh biết được rằng người Nhật đang chuẩn bị một lần nữa để cố gắng chiếm lại Henderson Field. Do đó người Mỹ đã gửi Lực lượng Đặc nhiệm 67, một lực lượng tăng cường và đoàn tầu chở quân tiếp viện, được chia thành hai nhóm và chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Richmond K. Turner, cho Guadalcanal vào ngày 11 tháng 11. Các tàu cung cấp được bảo vệ bởi hai nhóm đặc nhiệm, được chỉ huy bởi các Chuẩn đô đốc Daniel J. CallaghanNorman Scott, và máy bay từ Henderson Field trên đảo Guadalcanal. Các tàu vận tải đã bị tấn công nhiều lần vào ngày 11 và 12 tháng 11 ở gần Guadalcanal bởi máy bay Nhật có căn cứ tại Buin , Bougainville, trong đảo Solomons nhưng phần lớn hàng đã được dỡ xuống mà không bị thiệt hại nghiêm trọng. Mười hai chiếc máy bay Nhật bị bắn rơi súng phòng không từ tàu Mỹ hoặc bằng Máy bay tiêm kích bay từ sân bay Henderson Field.


    Trận Hải chiến Guadalcanal đầu tiên ngày 13 tháng 11

    Khúc dạo đầu

    Lực lượng tàu chiến của Abe tập hợp ở khoảng cách 70 dặm ( 110 km) về phía bắc của eo biển và tiến tới Guadalcanal vào ngày 12 tháng 11 với thời gian đến đích dự kiến cho các tàu chiến vào buổi sáng sớm ngày 13 tháng 11. Đoàn tàu vận tải đến chậm hơn và được 12 khu trục hạm hộ tống, dưới sự chỉ huy của Raizo Tanaka đã bắt đầu hành trình của nó xuống "the Slot" (New Georgia Sound ) từ Shortlands với thời gian ước tính để đến Guadalcanal trong đêm ngày 13 tháng 11. Ngoài hai tàu thiết giáp, lực lượng của Abe bao gồm tàu tuần dương hạng nhẹNagara và 11 tàu khu trục: các chiếc Samidare, Murasame, Asagumo, Teruzuki, Amatsukaze, Yukikaze, Ikazuchi, Inazuma, Akatsuki, HarusameYudachi. Thêm ba tàu khu trục ( các chiếc Shigure, Shiratsuyu, và Yugure) sẽ cung cấp một lực lượng bảo vệ phía sau trong đảo Russell trong khi Abe tiến vào "Ironbottom Sound" ở ngoài khơi bờ biển phía bắc Guadalcanal. Máy bay trinh sát Hoa kỳ phát hiện các tiếp cận của tàu Nhật Bản và đã gửi một cảnh báo vào đến sở chỉ huy Đồng Minh. Vì đã được cảnh báo, Turner tách tất cả các tàu chiến đấu có thể sử dụng được ra để bảo vệ lực lượng tầu chở quân ở bờ biển khỏi các cuộc tấn công của hải quân Nhật Bản và dự kiến để đổ bộ họ và ra lệnh cho các tàu cung cấp ở Guadalcanal khởi hành vào đầu buổi tối ngày 12 tháng 11. Callaghan mới chỉ lên chức sỹ quan cao cấp mới vài ngày nếu so với Scott – người có kinh nghiệm hơn, và được giao nhiệm vụ chỉ huy tổng thể. Callaghan chuẩn bị lực lượng của mình để ứng chiến với các tầu chiến Nhật Bản vào ban đêm trong eo biển. lực lượng của ông bao gồm hai tàu tuần dương hạng nặng (các chiếc San FranciscoPortland), ba tuần dương hạm hạng nhẹ ( các chiếc Helena, Juneau, và Atlanta) , và tám tàu khu trục: các chiếc Cushing, Laffey, Sterett, O'Bannon, Aaron Ward, Barton, Monssen, và Fletcher. Đô đốc Callaghan chỉ huy từ chiếc San Francisco.

    Trên đường họ đến Guadalcanal, lực lượng Nhật Bản đã đi qua một cơn mưa lớn và dữ dội, trong một đội hình phức tạp cộng với một số mệnh lệnh khó hiểu từ Abe, phân chia thành đội hình nhiều nhóm. Lực lượng Hoa Kỳ di chuyển trong đội hình một cột duy nhất ở xung quanh Ironbottom Sound, với các tàu khu trục ở phía trước và phía sau chiếc cột, và các tàu tuần dương ở trung tâm. Năm tàu có lắp các radar SG tầm xa và hiện đại, Nhưng Callaghan không triển khai chiếc nào trong số chúng ở phần phía trước của cột tầu, và cũng không hề chọn cho mình một trong số chúng làm kỳ hạm. Callaghan đã không đưa ra một kế hoạch chiến đấu để chỉ huy các con tầu của mình.


    Hành động


    Vào khoảng 01:25 ngày 13 tháng 11, trong bóng tối đen gần như mực vì thời tiết xấu và mặt trăng tối tăm, các tàu của lực lượng Nhật Bản tiến vào eo biển ở giữa Savo Island và Guadalcanal và chuẩn bị để bắn phá Henderson Field. Một số tàu Mỹ phát hiện các tàu của Nhật Bản trên radar, bắt đầu khoảng 01:24 , nhưng có khó khăn trong việc chuyển thông tin này tớiCallaghan vì có vấn đề xảy ra với thiết bị vô tuyến và thiếu kỷ luật liên quan đến thủ tục thông tin liên lạc của họ. Vài phút sau, cả hai lực lượng nhìn thấy nhau bằng trực quan trong cùng một lúc, nhưng cả Abe và Callaghan đều do dự để ra lệnh cho tàu của họ hành động. Abe dường như rất ngạc nhiên bởi sự gần kề của tàu Mỹ và không thể quyết định nếu ông muốn rút lui trong giây lát để cho các chiến hạm của mình có thời gian đổi từ đạn phá sang đạn chống tàu hoặc tiếp tục đi. Ông quyết định tiếp tục đi. Callaghan dường như có ý định cố gắng qua T của Nhật Bản, như Scott đã thực hiện tại Cape Esperance, Nhưng bối rối bởi những thông tin không đầy đủ, ông đã được tiếp chiến, cộng với thực tế là đội hình của Nhật Bản bao gồm một số nhóm phân tán, ông đã tung ra một số mệnh lệnh khó hiểu về sự di chuyển của các con tàu. Đội hình của các con tàu Mỹ bắt đầu rã rời từng phần, rõ ràng hơn nữa để trì hoãn lệnh của Callaghan bắt đầu cho nổ súng khi ông đã cố gắng để xác định và sắp xếp lại vị trí của các tàu của mình. Trong khi đó, cả hai đội hình của lực lượng bắt đầu pha lộn với nhau làm cho cá nhân những người chỉ huy tàu của cả hai phía đều lo lắng chờ đợi sự cho phép để nổ súng.

    Lúc 01:48, các chiếc AkatsukiHiei bật các đèn searchlight lớn và sáng lên và thấy chiếc Atlanta chỉ cách có 3.000 yard ( 2,7 km) gần point- blank range cho các pháo hải quân hạng nặng. Một số tàu của cả hai bên tự phát nổ súng vào nhau. Nhận ra rằng lực lượng của ông đã gần như bị bao quanh bởi các tàu Nhật Bản, Callaghan đã ra lệnh , " Tầu ở vị trí số lẻ nổ súng mạn phải, tầu ở vị trí số chẵn nổ súng mạn trái " sau đó hầu hết các tàu còn lại của Hoa Kỳ đã nổ súng, mặc dù một số đã phải nhanh chóng thay đổi các mục tiêu của họ để thực hiện theo lệnh của Callaghan. Khi tàu của hai bên xen kẽ lẫn nhau, họ đánh nhau trong một cận chiến hoàn toàn bối rối và hỗn loạn ở khoảng cách gần. Sau đó, một sĩ quan trên chiếc Monssen tả nó giống như nó là " một brawl barroom sau khi đèn đã được bắn ra "

    Ít nhất sáu chiếc tầu của Mỹ, bao gồm các chiếc Laffey, O'Bannon, Atlanta, San Francisco, Portland, và Helena đã bắn vào chiếc Akatsuki, vì chiếc này đã thu hút sự chú ý đến mình bằng các đèn rọi chiếu sáng của nó. Chiếc Akatsuki bị bắn trúng nhiều lần và nổ tung lên rồi chìm trong vòng vài phút.

    Có lẽ vì nó là chiếc tàu tuần dương dẫn đầu trong đội hình tàu Hoa Kỳ, chiếc Atlanta là mục tiêu của súng và ngư lôi từ một số tàu của Nhật Bản, có thể bao gồm các chiếc Nagara, Inazuma, và Ikazuchi thêm vào với chiếc Akatsuki. Những phát súng gây ra thiệt hại nặng cho chiếc Atlanta , và một quả ngư lội Type 93 băn trúng máy phát điện của nó. Chiếc Atlanta trôi dạt vào làn đạn của chiếc San Francisco, chiếc này vô tình bắn vào chiếc Atlanta gây thiệt hại lớn hơn nữa và giết chết Đô đốc Scott cùng nhiều thành viên thủy thủ đoàn. Chiếc Atlanta mất điện năng nên không thể phát hỏa các khẩu súng của nó, bị mất kiểm soát và trôi dạt ra khỏi trận chiến khi mà các tàu của Nhật Bản vượt qua nó. Tàu khu trục Hoa kỳ - chiếc Cushing cũng một bị rơi vào giữa làn đạn bắn chéo cánh sẻ của một số tàu khu trục Nhật Bản và có lẽ là của cả chiếc Nagara nữa. Nó cũng bị bắn trúng và trở nên bất động.

    Chiếc Hiei, với chín đèn dọi cực sáng của mình có kích thước rất lớn, và có hướng đi trực tiếp của nó qua đội hình của tầu chiến Mỹ, đã trở thành trọng tâm của nhiều khẩu súng từ rất nhiều tàu Mỹ. Chiếc Laffey đã đi quá gần chiếc Hiei và chúng suýt bị va chạm ở khoảng cách 20 feet ( 6,1 m). Chiếc Hiei không thể hạ thấp các khẩu đội súng chính hoặc thậm chí súng phụ của mình xuống thấp đủ để bắn vào chiếc Laffey, Nhưng chiếc Laffey lại có thể bắn vào phần thượng tầng của chiếc Hiei với súng 5 - inch ( 130 mm) và súng máy, gây thiệt hại nặng nề đến phần thượng tầng và đài chỉ huy của chiếc Hiei, làm bị thương Đô đốc Abe và giết chết viên sỹ quan tham mưu trưởng của ông. Đô đốc Abe sau đó bị giới hạn trong khả năng của mình để trực tiếp chỉ huy tàu của ông cho phần còn lại của trận chiến. Các chiếc SterettO'Bannon tương tự bắn một vài loạt đạn vào phần thượng tầng của chiếc Hiei từ cự ly gần và có lẽ đã bắn một hoặc hai quả ngư lôi vào phần thân của nó, tạo ra cho chiếc Hiei những thiệt hại lớn hơn nữa trước khi cả hai chiếc khu trục hạm này chạy thoát vào bóng tối.

    Không thể nổ các khẩu đội súng chính hoặc súng phụ của mình vào ba chiếc tàu khu trục gây rắc rối rất nhiều cho nó, thay vào đó chiếc Hiei tập trung vào chiếc San Francisco đang đi ngang qua nó và chỉ cách 2.500 yard ( 2,3 km). Cùng với các chiếc Kirishima, InazumaIkazuchi, Bốn chiếc tàu chiến đã bắn rất nhiều loạt đạn trúng vào chiếc San Francisco, vô hiệu hoá hệ thống chỉ huy kiểm soát của nó và giết chết Đô đốc Callaghan, thuyền trưởng Cassin Young cùng hầu hết các nhân viên đài chỉ huy . Các loạt đạn đầu từ các chiếc HieiKirishima gồm cả đạn bắn phá phân mảnh đặc biệt (được dự định để pháo kích chiếc sân bay), đã giảm thiệt hại cho phần bên trong của chiếc San Francisco và có thể đã cứu nó khỏi bị đánh chìm ngay lập tức. Không chờ đợi một cuộc chiến Tàu đối tàu nên các thuyền viên của hai tàu chiến Nhật Bản phải mất vài phút để chuyển sang đạn xuyên giáp (armor - piercing). Tuy nhiên, chiếc San Francisco đã trở nên gần như bất lực để tự bảo vệ mình và cố gắng để chuồn ra khỏi trận cận chiến này. Tuy nhiên nó cũng đã bắn được ít nhất một phát đạn vào khu vực bánh lái của chiếc Hiei trong khi bắn qua lại, làm nó bị ngập nước và làm hỏng máy phát điện, khả năng cơ động của chiếc Hiei bị hạn chế. Chiếc Helena theo sau chiếc San Francisco để cố và bảo vệ nó khỏi bị phá hủy hơn nữa.

    Hai trong số các tàu khu trục Mỹ đã gặp một sự cố đột ngột. Hoặc chiếc Nagara hoặc các tàu khu trục TeruzukiYukikaze đã nhả đạn vào chiếc Cushing đang trôi dạt và phá hủy tất cả các hệ thống kiểm soát của nó. Không thể chiến đấu được nữa, Thủy thủ đoàn cuae chiếc Cushing phải bỏ rơi con tàu. Chiếc Cushing bị chìm nhiều giờ sau đó. Chiếc Laffey, thoát ra khỏi chiếc Hiei lại gặp phải các chiếc Asagumo, Murasame, Samidare và có lẽ là cả chiếc Teruzuki. Các tàu khu trục Nhật Bản bắn chiếc Laffey bằng súng và sau đó nhấn chìm nó bằng một quả ngư lôi, quả ngư lôi này phá vỡ sống thuyền của nó. Một vài phút sau đám cháy đã lan đến kho đạn dược của nó và nổ tung lên rồi và chìm.

    Chiếc Portland, sau khi giúp đánh chìm chiếc Akatsuki bị bắn trúng một ngư lôi từ chiếc Inazuma hoặc chiếc Ikazuchi, Gây thiệt hại nặng cho phần đuôi của nó và buộc nó phải chạy theo một vòng tròn. Sau khi hoàn tất vòng đầu tiên của nó, nó đã có thể bắn bốn loạt đạn vào chiếc Hiei nhưng về cuối trận cũng không tạo thêm một phần nhỏ đóng góp nào trong trận chiến.

    Các chiếc YudachiAmatsukaze tấn công một cách độc lập vào năm tàu phía sau của đội hình tàu Hoa Kỳ. Hai quả ngư lôi phóng từ chiếc Amatsukaze trúng vào chiếc Barton, làm nó đắm ngay lập tức với sự mất mát nặng nề về nhân mạng. chiếc Yudachi bắn trúng chiếc Juneau bằng một ngư lôi làm nó bất động, phá vỡ lườn tàu của nó, và làm chấn động các hệ thống kiểm soát của nó. Sau đó chiếc Juneau quay đầu về phía đông và từ từ bò ra khỏi khu vực chiến đấu.

    Chiếc Monssen tránh được xác tàu của chiếc Barton và nghiêng ngó tìm mục tiêu. Nó đã bị chú ý bởi các chiếc Asagumo, Murasame, và Samidare những chiếc mới phá hủy chiếc Laffey. Chúng bắn phủ đầu chiếc Monssen bằng súng gây hư hại nghiêm trọng cho nó và buộc thủy thủ đoàn phải rời bỏ con tàu, nó bị chìm chỉ ít phút sau đó.


    Chiếc Amatsukaze tiếp cận chiếc San Francisco với mục đích ban phát một phát đạn ân huệ cho nó. Tuy nhiên trong khi tập trung vào chiếc San Francisco, chiếc Amatsukaze đã không được thông báo về sự xuất hiện của chiếc Helena, chiếc này đã bắn tất cả các khẩu pháo mạn tầu (broadsides) vào chiếc Amatsukaze từ cự ly gần và loại nó ra khỏi trận chiến. Chiếc Amatsukaze bị hư hỏng nặng và phải thoát ra trong sự che phủ của một màn khói trong khi chiếc Helena bị phân tâm bởi một cuộc tấn công của các chiếc Asagumo, MurasameSamidare.

    Các chiếc Aaron WardSterett tìm kiếm mục tiêu một cách độc lập, cả hai đều nhìn thấy chiếc Yudachi, chiếc mới xuất hiện mà không biết có sự tiếp cận của hai tàu khu trục Mỹ. Cả hai tàu Mỹ bắn vào chiếc Yudachi đồng thời bằng súng và ngư lôi, làm hư hại nặng chiếc tàu khu trục này và buộc thủy thủ đoàn phải rời bỏ con tàu. Tuy nhiên chiếc tàu này không chìm ngay lập tức. Tiếp tục trên con đường của mình, chiếc Sterett bất ngờ bị phục kích bởi chiếc Teruzuki, bị hư hại nặng và buộc phải rút khỏi khu vực chiến đấu ở phía đông. Chiếc Aaron Ward bị thương trong trận đấu mặt – đối – mặt với chiếc Kirishima, chiếc tàu khu trục bị thiệt hại nặng. Nó cũng đã cố gắng ra khỏi trận chiến ở phía đông nhưng ngay lập tức phải dừng lại và bất động bởi các động cơ đã bị hỏng.

    Sau gần 40 phút của một trận cận chiến dữ dội đến mức tàn bạo, hai bên đều bị mất liên lạc và phải chấm dứt trận đánh vào lúc 02:26 sau khi Abe và thuyền trưởng Gilbert Hoover ( thuyền trưởng của chiếc Helena và là sĩ quan cao cấp của Mỹ còn sống sót ở thời điểm này) đã ra lệnh các lực lượng của mình thu quân. Đô đốc Abe vẫn còn một thiết giáp hạm (chiếc Kirishima), một tàu tuần dương hạng nhẹ (chiếc Nagara) và bốn tàu khu trục (các chiếc Asagumo, Teruzuki, YukikazeHarusame) với những thiệt hại chỉ ở mức nhẹ và bốn tàu khu trục (các chiếc Inazuma, Ikazuchi, Murasame, và Samidare) với những thiệt hại ở mức vừa phải. Hoa Kỳ chỉ còn lại một tuần dương hạm hạng nhẹ (chiếc Helena) và một tàu khu trục (chiếc Fletcher) là vẫn còn có khả năng kháng cự có hiệu quả. Mặc dù vậy dường như Abe đã không nhận ra rằng, con đường để ông ta tiến lên bắn phá sân bay Henderson Field và tiêu diệt nốt lực lượng hải quân Mỹ trong khu vực, mở đường cho việc chuyển quân và vật tư để đổ bộ một cách an toàn xuống Guadalcanal đã được dọn sạch.

    Tuy nhiên, tại thời điểm này rất quan trọng này Abe lại chọn phương án từ bỏ nhiệm vụ và rời khu vực. Một số phỏng đoán cho lý do tại sao ông ta lại quyết định này. Phần lớn đạn dược đặc biệt để bắn phá đã được sử dụng trong trận chiến. Nếu việc bắn phá để tiêu diệt chiếc sân bay không thành công, sau đó các tàu chiến của ông sẽ dễ bị tấn công lúc bình minh bởi máy bay của CAF. Chấn thương của ông và cái chết của một số nhân viên của ông trong chiến đấu có thể đã ảnh hưởng đến tinh thần của Abe. Có lẽ ông cũng không chắc chắn về số lượng tàu Mỹ vẫn còn có khả năng chiến đấu là nhiều hay ít và vì những vấn đề về việc truyền tin với các hư hỏng của chiếc Hiei. Hơn nữa các tàu của ông đã bị phân tán và phải mất một thời gian để tập hợp lại và trấn chỉnh đội hình để tấn công sân bay Henderson Field và tàn dư của lực lượng tàu chiến Mỹ. Vì lý do gì đó mà Abe lại ra lệnh buông tha và rút lui cho các tàu chiến của mình, mặc dù các chiếc YukikazeTeruzuki còn ở đằng sau để hỗ trợ cho Hiei. Chiếc Samidare nhặt những người sống sót từ chiếc Yudachi lúc 03:00 trước khi gia nhập các tàu Nhật Bản khác để quay ra nghỉ ở phía bắc.

    Hậu quả


    Lúc 03:00 ngày 13 Tháng 11, Đô đốc Yamamoto cho hoãn kế hoạch đổ bộ của các tàu vận tải sau đó quay chở lại Shortlands để chờ lệnh mới hơn nữa. Bình minh lên cho thấy ba chiếc tầu Nhật bị trọng trương (các chiếc Hiei, Yudachi, và Amatsukaze) và ba tàu chiến Mỹ bị trọng trương (Portland, Atlanta, và Aaron Ward) trong vùng lân cận chung quanh đảo Savo Island. Chiếc Amatsukaze bị tấn công bởi máy bay ném bom bổ nhào Mỹ nhưng không bị thiệt hại thêm khi nó hướng đến Truk và cuối cùng trở về hoạt động sau nhiều tháng sau đó. Chiếc thân tầu bị bỏ lại của chiếc Yudachi bị đánh chìm bởi chiếc Portland, súng của nó vẫn còn làm việc bất chấp những thiệt hại khác của con tàu. Chiếc tàu kéo Bobolink chạy loanh quanh ở Ironbottom Sound trong suốt ngày 13 tháng 11 để hỗ trợ những tàu Mỹ bị hư hỏng, cứu những thủy thủ Mỹ sống sót đang bơi trong nước và báo cáo, chụp hình các nạn nhân Nhật Bản đang nổi trên mặt nước.

    Chiếc Hiei bị tấn công liên tục bởi các máy bay phóng ngư lôi TBF Avenger của Thủy quân lục chiến từ Henderson Field, và các máy bay ném bom bổ nhào TBF và SBD Dauntless từ chiếc Enterprise vốn đã khởi hành từ Nouméa ngày 11 tháng 11 và máy bay ném bom B- 17 Flying Fortress của Không lực Lục quân Hoa Kỳ - Nhóm máy bay ném bom hạng nặng số 11 từ Espiritu Santo. Abe và nhân viên của mình phải chuyển sang chiếc Yukikaze lúc 08:15. Chiếc Kirishima được lệnh của Abe để kéo theo chiếc Hiei, và được hộ tống bởi chiếc Nagara và các tàu khu trục của nó, nhưng cố gắng bị hủy bỏ vì mối đe dọa tấn công từ tàu ngầm và giá trị đi biển của chiếc Hiei ngày càng giảm. Sau khi phải nhận những thiệt hại hơn nữa từ các cuộc không kích chiếc Hiei chìm ở phía tây bắc của đảo Savo, có lẽ sau khi bị đánh đắm bởi các thủy thủ đoàn còn lại của nó vào buổi tối muộn của ngày 13 tháng 11.

    Các chiếc Portland, San Francisco, Aaron Ward, SterettO'Bannon cuối cùng có thể quay trở lại được khu vực cảng phía sau. Tuy nhiên chiếc Atlanta bị chìm gần Guadalcanal lúc 20:00 ngày 13 tháng 11. Xuất phát từ khu vực quần đảo Solomon với các chiếc San Francisco, Helena, SterretO'Bannon sau ngày hôm đó, chiếc Juneau bị phóng ngư lôi và đánh chìm bởi tàu ngầm Nhật Bản I- 26. Hơn 100 người của chiếc Juneau còn sống sót (trong tổng số thủy thủ đoàn 697 người ) phải ngắc ngoải trong đại dương trong tám ngày trước khi máy bay cứu hộ đến và cứu họ . Trong khi chờ cứu hộ có thêm 10 thành viên của thủy thủ đoàn chết vì thương tích của họ hoặc bởi các các yếu tố khác như tấn công cá mập. Trong số những người chết còn bao gồm car năm Anh em nhà Sullivan.

    Bởi vì sự lẫn lộn của trận cận chiến, người Mỹ tin rằng họ đã đánh chìm khoảng bảy tàu chiến Nhật Bản. Cùng với việc tầu chiến Nhật Bản rút lui làm cho nước Mỹ phải tin rằng tại thời điểm đó họ đã giành một chiến thắng quan trọng. Phải sau khi cuộc chiến kết thúc người Mỹ mới biết rằng họ đã phải chịu những gì được xem như là một thất bại chiến thuật nặng nề nhất.

    Tuy nhiên , hầu hết các nhà sử học đều đồng ý rằng, quyết định của Abe cho tầu chiến của ông rút lui trở lại này đã làm cho thất bại chiến thuật này của người Mỹ lại trở thành một chiến thắng chiến lược của họ ( thực chất người Nhật mắc sai lầm khi rút quân thôi chứ Mẽo đánh chác như vậy có gì mà tài nhỉ) vì sân bay Henderson Field vẫn hoạt động với các máy bay tấn công đã sẵn sàng để ngăn chặn đoàn tầu vận chuyển chậm từ Nhật Bản tiếp cận tới Guadalcanal với những hàng hoá quý giá của họ. Thêm nữa người Nhật đã mất một cơ hội để tiêu diệt hoàn toàn lực lượng hải quân Mỹ trong khu vực, một kết quả làm cho Hoa Kỳ, một quốc gia tương đối giàu tài nguyên phải mất một thời gian dài để phục hồi từ. Được biết điều này Đô đốc Yamamoto đã hết sức tức giận và ra lệnh cho thuyên chuyển Abe và sau này buộc ông phải nghỉ hưu và ra khỏi quân đội. Tuy nhiên có vẻ như là có thể Yamamoto đã giận giữ vì sự mất mát của một trong những tàu thiết giáp của mình (chiếc Hiei) hơn là ông (Abe) đã từ bỏ nhiệm vụ bảo đảm cho đoàn tầu vận tải đến được đích và không hoàn toàn tiêu diệt lực lượng Hoa Kỳ. Ngay trước buổi trưa Yamamoto đã ra lệnh cho Phó Đô đốc Nobutake Kondo, làm chỉ huy Hạm đội thứ hai tại Truk, để tạo thành một đơn vị bắn phá mới xung quanh chiếc Kirishima và tấn công vào sân bay Henderson Field vào đêm Ngày 14-Ngày 15 tháng 11.

    Bao gồm cả thủy thủ của chiếc Juneau, tổng thiệt hại của Mỹ trong trận chiến này là 1.439 người chết. Người Nhật bị thương vong khoảng 550-800. Phân tích tác động của trận đánh này, nhà sử gia quân sự Richard B. Frank công bố rằng:

    " Trận đánh này là một trận hải chiến giữ dội tầm gần và có nhiều nhầm lẫn trong chiến đấu. Nhưng kết quả của nó đã không quyết định được cục diện của toàn bộ cuộc chiến. Sự hy sinh của Callaghan và lực lượng đặc nhiệm của ông tạo ra được thời gian một đêm nghỉ ngơi cho sân bay Henderson Field. Cuộc đổ bộ quân tiếp viện lớn của Nhật Bản bị trì hoãn và cuối cùng thì các quan chức cấp cao của Hạm đội Liên hợp ( Nhật Bản ) không nghe được gì về nó nữa"

    Trận Hải chiến Guadalcanal lần thứ 2, ngày 14-> 15 tháng 11


    Khúc dạo đầu

    Lực lượng của Kondo có thể tiếp cận Guadalcanal qua eo biển Indispensable Strait khoảng nửa đêm ngày 14 tháng 11 vào một đêm trăng sáng ở mức vừa phải đã tạo ra một tầm nhìn ở mức trung bình khoảng 7 km ( 3,8 hải lý ). Lực lượng này bao gồm chiếc tầu thiết giáp Kirishima, các tàu tuần dương hạng nặng AtagoTakao, các tàu tuần dương hạng nhẹ NagaraSendai chín tàu khu trục, một số các tàu khu trục là những chiếc sống sót (cùng với các chiếc KirishimaNagara) trận đánh đêm đầu tiên ở hai ngày trước. Kondo cho treo cờ của mình trên chiếc tuần dương hạm Atago.

    Còn rất ít những tàu không bị hư hại, Đô đốc William Halsey, Jr, tách các thiết giáp hạm mới - các chiếc WashingtonSouth Dakota, từ nhóm hộ tống của chiếc Enterprise, cùng với bốn tàu khu trục là Lực lượng Đặc nhiệm 64 dưới sự chỉ huy của Đô đốc A. Lee Willis để bảo vệ Guadalcanal và sân bay Henderson Field. Đó là một lực lượng tập hợp một cách hổ lốn, các thiết giáp hạm chỉ hoạt động cùng nhau trong một vài ngày và bốn tàu hộ tống chúng đều đến từ bốn đơn vị khác nhau được lựa chọn đơn giản là vì chúng là những các tàu khu trục có sẵn và họ còn nhiều nhiên liệu nhất. Lực lượng Hoa Kỳ đến Ironbottom Sound trong buổi tối của ngày 14 tháng 11 và bắt đầu tuần tra xung quanh đảo Savo. Các tàu chiến Mỹ đã hình thành một đội hinh côt. cột với bốn chiếc tàu khu trục dẫn đầu, tiếp theo là chiếc Washington và chiếc South Dakota được để ở phía sau. Lúc 22:55 ngày 14 tháng 11, radar trên các chiếc South DakotaWashington bắt đầu phát hiện có tàu của Kondo đang tới gần ở khoảng cách 18.000 mét ( 20.000 yd ).

    Hành động

    Lực lượng của Kondo chia thành nhiều nhóm, một nhóm được chỉ huy bởi Shintaro Hashimoto và bao gồm chiếc Sendai và các tàu khu trục ShikinamiUranami ( "C "trên bản đồ) , quét dọc theo phía đông của đảo Savo và tàu khu trục Ayanami (" B "trên bản đồ) ngược quét xung quanh phía tây nam của đảo Savo để kiểm tra sự hiện diện của tàu Đồng Minh. Các tàu Nhật Bản phát hiện lực lượng của Lee khoảng 23:00 , mặc dù Kondo nhầm các thiết giáp hạm là tuần dương hạm. Kondo ra lệnh nhóm các tàu gồm chiếc Sendai cộng với Nagara và bốn tàu khu trục (vị trí " D "trên bản đồ) tiến lên tấn công và tiêu diệt lực lượng Mỹ ở trước khi ông đưa lực lượng bắn phá gồm chiếc Kirishima và các tuần dương hạm hạng nặng (vị trí "E "trên bản đồ ) tiến vào Ironbottom Sound. Các tàu Mỹ (vị trí "A" trên bản đồ) phát hiện ra lực lượng của chiếc Sendai trên radar nhưng không phát hiện ra các nhóm tầu khác của Nhật Bản. Sử dụng radar nhắm mục tiêu, hai tàu chiến Mỹ nổ súng vào nhóm Sendai lúc 23:17. Đô đốc Lee ra lệnh ngừng bắn khoảng năm phút sau đó sau khi radar hướng vào nhóm phía Bắc cho thấy chúng đã biến mất khỏi phạm vi radar của tàu của ông. Tuy nhiên các chiếc Sendai, UranamiShikinami đã không bị hư hại và vòng ra khỏi khu vực nguy hiểm.

    Trong khi đó bốn tàu khu trục của Mỹ trong đội hình đội tiên phong của Hoa Kỳ bắt đầu tấn công vào cả hai nhóm các tàu của AyanamiNagara vào lúc 23:22. Chiếc Nagara và chiếc khu trục hạm hộ tống nó trả lời rất có hiệu quả với các phát súng chính xác và ngư lôi và các tàu khu trục WalkePreston đã trúng đạn và bị chìm trong vòng 10 phút với sự mất mát nặng nề về nhân mạng. Chiếc tàu khu trục Benham bị thổi bay mất một phần mũi của nó bởi một quả ngư lôi và đã phải rút lui (nó bị chìm vào ngày hôm sau ), và chiếc tàu khu trục Gwin bị bắn trúng vào phòng động cơ của nó và bị loại ra khỏi cuộc chiến. Tuy nhiên, các tàu khu trục Mỹ đã hoàn thành sứ mệnh của họ như là screen cho các thiết giáp hạm, thu hút các hỏa lực ban đầu khi đối mặt với kẻ thù, mặc dù phải trả với một giá rất lớn. Lee ra lệnh cho các chiếc BenhamGwin quay ra nghỉ lúc 23:48.

    Chiếc Washington đi qua khu vực vẫn còn ngổn ngang các tàu khu trục Mỹ bị hư hỏng và chìm và bắn vào chiếc Ayanami với khẩu đội súng phụ của mình, làm cho nó bốc cháy. Theo sát ở phía sau chiếc South Dakota đột nhiên gặp một loạt các sự cố về điện, theo báo cáo thì trong thời gian sửa chữa khi kỹ sư trưởng của nó đóng một bộ ngắt mạch xuống và vi phạm các thủ tục an toàn , gây ra chập các mạch của nó..., làm cho radar , vô tuyến điện và hầu hết các khẩu đội súng của nó không thể hoạt động . Tuy nhiên nó tiếp tục theo chiếc Washington hướng tới phía tây của đảo Savo cho đến 23:35 khi chiếc Washington thay đổi hướng đi để vượt qua đến phía nam phía sau các tàu khu trục bị cháy. Chiếc South Dakota cố gắng đi theo nhưng đã phải chuyển sang bên phải để tránh chiếc Benham kết quả là con tàu bị hắt bóng bởi các đám cháy của chiếc khu trục hạm bị cháy và làm cho nó trở thành một mục tiêu gần hơn và dễ dàng hơn cho người Nhật.

    Nhận được báo cáo rằng các khu trục hạm Hoa Kỳ đã bị hủy diệt từ chiếc Ayanami và các tàu khác của ông ta, Kondo ra lệnh cho lực lượng bắn phá của ông tiến đến uadalcanal mà vẫn tin rằng lực lượng tàu chiến Mỹ đã bị đánh bại. Lực lượng của ông và hai tàu chiến Mỹ bây giờ hướng vào nhau.

    Gần như là một người mù và không thể sử dụng có hiệu quả các hệ thống vũ khí chính và phụ của nó, chiếc South Dakota bị chiếu sáng bởi các đèn searchlight và trở thành mục tiêu của súng và ngư lôi của hầu hết các tàu của lực lượng Nhật Bản bao gồm cả chiếc Kirishima, Bắt đầu khoảng 00:00 ngày 15 tháng 11. Mặc dù có thể bắn một vài phát đạn vào chiếc Kirishima, chiếc South Dakota đã phải nhận 25 phát đạn cỡ trung bình và một trong những phát đạn cỡ lớn, một số trong những phát đạn này đã không phát nổ, con tầu này hoàn toàn bị cắt đứt hệ thống thông tin liên lạc và hệ thống kiểm soát súng của mình, làm các phần của sàn phía trên của nó bốc cháy và buộc nó phải cố gắng để đi ra khỏi trận chiến. Tất cả các quả ngư lôi của Nhật Bản đều bị trượt. Đô đốc Lee sau đó đã mô tả hiệu quả cộng dồn của những thiệt hại được gây ra từ các khẩu súng Nhật làm cho chiếc South Dakota trở nên " làm cho một trong những tàu chiến mới của chúng tôi bị điếc, câm, mù và bất lực " thủy thủ đoàn của chiếc South Dakota có 39 người thiệt mạng và 59 người bị thương và nó quay đầu bỏ chạy lúc 00:17 khỏi trận chiến mà không thông báo cho Đô đốc Lee mặc dù bị quan sát bởi lực lượng cảnh giới của Kondo.

    Các tàu Nhật Bản tiếp tục tập trung hỏa lực của họ vào chiếc South Dakota và không phát hiện ra chiếc Washington đang tiếp cận đến trong vòng 9.000 yard ( 8,2 km). Chiếc Washington theo dõi một mục tiêu lớn (chiếc Kirishima) trong một khoảng thời gian nhưng không khai hỏa khi nó có cơ hội vì sợ bắn nhầm vào chiếc South Dakota. Chiếc Washington đã không thể theo dõi chuyển động của chiếc South Dakota vì nó đang ở trong một điểm mù trong radar của chiếc Washington và Lee không thể thông báo qua vô tuyến điện để xác nhận vị trí của nó. Khi quân Nhật bật đèn chiếu sáng và bắn vào chiếc South Dakota, tất cả những nghi ngờ trong việc phân biệt đich – ta đã được gỡ bỏ. Từ cự ly gần chiếc Washington nổ súng và nhanh chóng bắn vào chiếc Kirishima với ít nhất chín phát đạn từ khẩu đội súng chính và hầu như cứ bốn mươi giây lại một loạt đạn, gây thiệt hại nặng và làm con tầu bốc cháy. Chiếc Kirishima bị bắn trúng dưới mực nước và bánh lái bị kẹt, khiến nó xoay tròn về mạn trái và không thể tự kiểm soát được.

    Lúc 00:25, Kondo ra lệnh cho tất cả các tàu của mình rằng phải hội tụ lại và tiêu diệt bất kỳ của tàu Mỹ nào còn lại. Tuy nhiên các tàu của Nhật Bản vẫn không biết nơi chiếc Washington đang ẩn nấp và các tầu còn sống sót khác của Mỹ đã rời khu vực chiến đấu. Chiếc Washington được lệnh chuyển hướng xuôi gió tới phía tây bắc đảo Russell để thu hút các lực lượng Nhật ra khỏi Guadalcanal và có lẽ ra khỏi chiếc South Dakota vốn đã bị hư hỏng. Các tàu Nhật Bản cuối cùng đã nhìn thấy chiếc Washington và bắn ra một loạt ngư lôi tấn công nhưng do sự vận động hợp lý được chỉ đạo bởi thuyền trưởng của nó, chiếc Washington đã tránh được tất cả các quả ngư lôi và cũng tránh bị chạy mắc cạn ở vùng nước nông. Lúc này tin rằng đã dòn đường sạch sẽ cho các đoàn tầu vận tải tiếp tục đi đến Guadalcanal (nhưng dường như bất chấp cả sự đe dọa của một cuộc không kích vào buổi sáng ) Kondo đã ra lệnh cho tàu của mình còn lại cắt đứt liên lạc và ra nghỉ khỏi khu vực chiến sự vào khoảng 01:04 và hầu hết các tàu chiến Nhật Bản đã tuân thủ lệnh này vào lúc 01:30.

    Hậu quả

    Cả hai chiếc KirishimaAyanami bị đánh đắm và chìm bởi 03:25 ngày 15 tháng 11. Chiếc Uranami cứu những người sống sót từ chiếc Ayanami và các tàu khu trục Asagumo, Teruzuki, và Samidare cứu các thuyền viên còn lại từ chiếc Kirishima. Trong trận chiến 242 thủy thủ Mỹ và 249 thủy thủ Nhật Bản đã thiệt mạng. Trận đánh này là một trong hai trận đánh duy nhất của thiết giáp hạm - đối đầu – thiết giáp hạm trong toàn bộ chiến dịch Thái Bình Dương trong Thế chiến II, trận còn lại là trận Eo biển Surigao một phần của Trận chiến Vịnh Leyte.
    Bốn tàu vận tải cập vào bãi biển Nhật Bản Tassafaronga thuộc Guadalcanal vào lúc 04:00 ngày 15 tháng 11 và Tanaka và cùng các khu trục hạm hộ tống tách rời ra và chạy ngược lên The Slot để tới vùng nước an toàn hơn. Các tàu vận tải bị tấn công bắt đầu lúc 05:55 bởi máy bay Mỹ từ sân bay Henderson Field và các nơi khác và pháo binh của lực lượng trên bộ của Mỹ tại đảo Guadalcanal. Sau đó chiếc tàu khu trục Meade tiếp cận và nổ súng vào các tầu vận tải bên bãi biển và khu vực xung quanh. Những cuộc tấn công làm các tàu vận tải bốc cháy và phá hủy mọi thiết bị mà chúng chuyên chở do người Nhật đã không cố gắng để nhanh chóng bốc dỡ. Chỉ 2.000-3.000 binh lính đến được Guadalcanal nhưng hầu hết đạn dược và lương thực đã bị mất.

    Phản ứng của Yamamoto trước thất bại của Kondo trong việc phải hoàn thành sứ mệnh của mình là vô hiệu hóa sân bay Henderson Field và bảo đảm đổ bộ an toàn cho quân đội và nguồn cung cấp là khá nhẹ nhàng hơn so với phản ứng trước đó của ông vào Abe, có lẽ là vì uy tín về mặt chính trị của Hải quân Đế quốc Nhật bản. Kondo, người đang giữ vị trí chỉ huy thứ hai của Hạm đội liên hợp, là một thành viên của đội ngũ nhân sự cao cấp và là thành viên của " phe " thiết giáp hạm trong Hải quân Hoàng gia trong khi Abe chỉ là một chuyên viên chuyên nghiệp của tàu khu trục. Đô đốc Kondo không những không bị khiển trách hoặc bố trí lại, thay vào đó ông ta lại còn tiếp tục là chỉ huy của một trong những đội tàu lớn có căn cứ tại Truk.

    Tầm quan trọng

    Thất bại trong việc tăng cường cho Guadalcanal quân đội và nguồn cung cấp qua đoàn tầu vận tải đã ngăn chặn người Nhật Bản phát động một cuộc tấn công khác để chiếm lại sân bay Henderson Field. Sau đó Hải quân Nhật chỉ có thể cung cấp để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của binh lính và thay thế một vài lực lượng quân Nhật trên đảo Guadalcanal. Vì mối đe dọa tiếp tục từ máy bay Đồng Minh đặt tại sân bay Henderson Field, cộng tàu sân bay Hoa Kỳ với gần đó, người Nhật lại phải tiếp tục dựa vào việc giao hàng của lực lượng tàu chiến Tokyo Express của họ trên đảo Guadalcanal. Tuy nhiên, các vật tư thay thế vẫn không đủ để duy trì quân Nhật trên đảo, những người mà đến ngày 07 tháng 12 năm 1942, trung bình đã mất khoảng 50 lính mỗi ngày do suy dinh dưỡng, bệnh tật và từ các đợt tấn công trên bộ hoặc không kích của Đồng minh. Ngày 12 tháng 12 , Hải quân Nhật Bản đề xuất rằng nên phải từ bỏ Guadalcanal. Mặc dù ban đầu các nhà lãnh đạo Lục quân Nhật Bản đã phản đối, những người vẫn hy vọng rằng Guadalcanal cuối cùng có thể được chiếm lại từ tay quân Đồng Minh, Tổng hành dinh Đế quốc Nhật Bản, với sự chấp thuận của Nhật Hoàng vào ngày 31 tháng 12 năm 1942 đã đồng ý cho sơ tán tất cả các lực lượng Nhật Bản từ hòn đảo này và thành lập một tuyến phòng thủ mới cho đảo Solomons thuộc New Georgia.

    Do đó trận hải chiến Guadalcanal được coi là những nỗ lực lớn cuối cùng của Nhật Bản để giành quyền kiểm soát các vùng biển xung quanh Guadalcanal hoặc để chiếm lại hòn đảo. Ngược lại Hải quân Mỹ sau đó đã có thể tiếp viện cho của lực lượng họ tại Guadalcanal, bao gồm cả việc chuyển hai đơn vị mới đến đó vào cuối tháng 12 năm 1942. Không có khả năng loại bỏ sân bay Henderson Field, các nỗ lực của Nhật Bản đã không thành công trong việc ngăn chặn các bước tiến của quân đồng minh ở Guadalcanal. Kháng cự cuối cùng của Nhật bản trong chiến dịch Guadalcanal kết thúc vào ngày 9 tháng 2 năm 1943 với sự di tản thành công của hầu hết số quân Nhật còn sống sót ra khỏi hòn đảo này bởi chiến dịch Operation Ke của hải quân Nhật Bản. Dựa vào sự thành công của họ tại Guadalcanal và các nơi khác, quân Đồng minh tiếp tục các chiến dịch của họ để chống lại Nhật Bản và cuối cùng đã lên tới đỉnh điểm việc đánh bại người Nhật Bản và kết thúc Chiến tranh Thế giới II (Nếu không có quân Liên xô đánh bại đội quân Quan Đông và Hoa kỳ phải ném hai quả bom nguyên tử vào nước Nhật thì cũng còn khướt). Tổng thống Hoa kỳ Franklin Roosevelt, sau khi biết kết quả của trận đánh đã nhận xét " Nó có vẻ rằng bước ngoặt trong cuộc chiến này dù những gì đạt được là tối thiểu"

    Sử gia quân sự Eric Hammel đã tổng kết ý nghĩa của trận hải chiến Guadalcanal theo cách này:

    Ngày 12 tháng 11 năm 1942, Hải quân Đế quốc ( Nhật Bản ) có tàu tốt hơn và chiến thuật tốt hơn. Sau ngày 15 tháng 11 năm 1942 (ngày kết thúc trận hải chiến Guadalcanal), các nhà lãnh đạo của nó đã thất bại và nó không còn có chiến lược chiều sâu để đối mặt với Hải quân Hoa Kỳ lúc này đang phát triển và cải thiện cả về vũ khí lẫn chiến thuật một cách thần tốc. Trong khi người Nhật không bao giờ phục hồi lại được như xưa kể từ tháng 11 năm 1942, và Hải quân Hoa Kỳ luôn luôn trở nên mạnh hơn kể từ lúc này.

    Tướng Alexander Vandegrift, chỉ huy của quân đội Đồng Minh trên đảo Guadalcanal đã phát biểu với các thủy thủ, những người đã tham gia chiến đấu trong cuộc chiến :

    Chúng tôi tin rằng kẻ thù đã chắc chắn phải chịu một thất bại tan nát. Chúng tôi cảm ơn Đô đốc Kinkaid vì sự can thiệp của ông trong ngày hôm qua. Chúng tôi cảm ơn Lee vì những nỗ lực liên tục của ông đêm qua. Các máy bay của chúng tôi đã được bảo vệ trong sự tấn công không ngừng của kẻ thù. Tất cả những nỗ lực này được đánh giá cao cũng như tỏ lòng kính trọng lớn nhất của chúng tôi tới Callaghan, Scott (những Đô đốc Mỹ đã tử trận trong trận Hải chiến này ) và những binh sỹ của họ, những người đã hy sinh với lòng can đảm tuyệt vời trong một trận đánh mà cán cân lực lượng dường như vô vọng để đẩy trở lại các cuộc tấn công đầu tiên của kẻ thù và mở đường cho sự thành công tiếp theo…


    Các trận chiến Guadalcanal thực chất là những trận chiến của những tuyến đường tiếp vận, cả hai bên Mỹ và Nhật bản đều tìm cách tăng cường tiếp viện cho quân đội của mình đang đồn trú ở đảo Guadalcanal và tìm cách triệt hạ đối phương. Trong những trận này người Mỹ đã thể hiện sự yếu kém của mình trong những trận đánh đối hạm, nhưng họ cũng thể hiện được sự quyết tâm theo đuổi đến cùng. Người Nhật giỏi đánh trận nhưng toàn thiếu sáng suốt ( hoặc đen đủi ) vào những giây phút nhạy cảm. Cuối cùng thì người Mỹ đã thắng nhưng phải trả với giá hàng nghìn thủy thủ, người Nhật đã thua nhưng không ai dám chê bai họ cả.
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Tassafaronga

    Thời gian: Ngày 30 tháng 11 năm 1942
    Địa điểm: Ngoài khơi Tassafaronga, Guadalcanal
    Kết quả: Hải quân Đế quốc Nhật Bản chiến thắng chiến thuật



    Các bên tham chiến

    Hoa Kỳ

    Chỉ huy

    Carleton H. Wright

    Sức mạnh

    5 tuần dương hạm,
    4 khu trục

    Thương vong và thiệt hại

    1 tầu tuần dương chìm,
    3 tầu tuần dương hạm bị hư hại nặng,
    395 binh lính thiệt mạng


    Đế quốc Nhật Bản

    Chỉ huy

    Raizo Tanaka

    Sức mạnh

    8 tàu khu trục

    Thương vong và thiệt hại

    1 tàu khu trục chìm
    197 binh lính thiệt mạng



    .

    Sử dụng radar, các tàu chiến Hoa Kỳ đã nổ súng và đánh chìm một trong những khu trục hạm của Nhật Bản. Tuy nhiên Tanaka và phần còn lại của đội tàu của ông ta đã phản ứng nhanh chóng và phóng nhiều ngư lôi vào các tàu chiến Hoa Kỳ. Các ngư lôi Nhật Bản đã nhấn chìm một tàu tuần dương Hoa Kỳ và ba chiếc khác bị hư hại nặng. Kết quả này các tầu còn lại của Tanaka thoát ly an toàn mà không có thêm thiệt hại đáng kể, nhưng ông này không hoàn thành nhiệm vụ phân phối các nguồn cung cấp thực phẩm. Mặc dù đây là một thất bại chiến thuật nặng nề đối với Hải Quân Mỹ, cuộc chiến có ít tác động đến tầm chiến lược vì Hải Quân Nhật Bản đã không thể tận dụng lợi thế của chiến thắng này để hỗ trợ cho các nỗ lực của họ để đuổi lực lượng Đồng Minh ra khỏi Guadalcanal.

    Bối cảnh của trận đánh

    Chiến dịch Guadalcanal

    Chiến dịch Guadalcanal diễn ra trong sáu tháng bắt đầu từ 07 Tháng Tám năm 1942, khi quân Đồng minh (chủ yếu là Mỹ) đã đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi, và các đảo Florida ở quần đảo Solomon, thuộc địa của Vương quốc Anh. Cuộc đổ bộ có ý nghĩa phá bỏ kế hoạch của Nhật sử dụng các hòn đảo này như là căn cứ đe dọa các tuyến đường cung cấp giữa Mỹ và Úc, và bảo đảm chúng như là điểm bắt đầu cho một chiến dịch để cô lập các căn cứ quân sự lớn của đế quốc Nhật Bản tại Rabaul và hỗ trợ cho Đồng minh trong chiến dịch New Guinea. Người Nhật Bản đã chiếm Tulagi tháng 5 năm 1942 và bắt đầu xây dựng một sân bay trên Guadalcanal vào tháng Sáu năm 1942.

    Bằng các cuộc đổ bộ ban đêm vào ngày 08 tháng 8, 11.000 quân Đồng minh đã chiếm Tulagi, các đảo nhỏ gần đó và một sân bay được Nhật Bản xây dựng tại Lunga trên Guadalcanal (sau này đổi tên thành Henderson). Máy bay Đồng Minh hoạt động trên Henderson được gọi là "Cactus Air Force " (CAF). Để bảo vệ sân bay, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ thiết lập một vành đai bảo vệ xung quanh Lunga Point . Bổ sung quân tiếp viện trong hai tháng tới sau đó số lượng quân đội Hoa Kỳ tại Lunga Point lên tới hơn 20.000 người

    Để đối phó với các hành động của quân Đồng Minh, Tổng hành dinh quân đội Nhật Bản giao cho quân đoàn 17, một quân đoàn đóng ở Rabaul và dưới sự chỉ huy của Trung tướng Harukichi Hyakutake, nhiệm vụ chiếm lại Guadalcanal. Các đơn vị của Quân đoàn 17 đã bắt đầu đến ngày Guadalcanal ngày 19 tháng 8 và đẩy lực lượng Đồng Minh ra khỏi đảo.

    Bởi các mối đe dọa từ các máy bay CAF tại sân bay Henderson, người Nhật đã không thể sử dụng tàu vận tải to, chậm để chuyển quân và đồ cung cấp cho quân đội trên đảo. Thay vào đó, họ đã sử dụng tàu chiến ở căn cứ Rabaul và Shortlands. Các tàu chiến của Nhật Bản, tuần dương hạm hạng nhẹ hoặc khu trục từ hạm đội thứ tám dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa, thường tiến hành các chuyến đi vòng xuống "The Slot" đển Guadalcanal và trở lại chỉ trong một đêm, qua đó giảm thiểu nguy cơ bị CAF không kích. Chuyển quân theo cách này hầu hết các thiết bị nặng và vật tư cho chiến đấu, như pháo hạng nặng, xe cộ, và thức ăn và đạn dược, không được mang đến Guadalcanal cho binh lính. Các tàu chiến cao tốc chạy đến Guadalcanal trong suốt chiến dịch sau này được lực lượng Đồng Minh gọi là "Tokyo Express" và "Chuột Giao thông vận tải" của Nhật Bản.

    Sau nhiều lần Nhật Bản nỗ lực để tái chiếm SB Henderson và đẩy lực lượng Đồng Minh ra khỏi Guadalcanal vào khoảng giữa tháng 8 và tháng 11 năm 1942 không có kết quả. Những nỗ lực cuối cùng của Nhật Bản để bổ sung lực lượng đáng kể lên hòn đảo thất bại trong trận hải chiến Guadalcanal diễn ra từ ngày 12 ->15 tháng 11 năm 1942

    Ngày 26 tháng 11, Trung tướng Nhật Bản Hitoshi Imamura được lệnh thành lập và chỉ huy tập đoàn quân số VIII tại Rabaul. Tập đoàn quân mới bao gồm quân đoàn số 17 của Hyakutake đóng tại quần đảo Solomons và quân đoàn 18 tại New Guinea. Một trong những ưu tiên đầu tiên của Imamura khi nắm quyền chỉ huy là tiếp tục các nỗ lực để chiếm lại Henderson và Guadalcanal. Tuy nhiên cuộc tấn công của Đồng Minh tại Buna thuộc New Guinea đã thay đổi các ưu tiên của Imamura. Vì các nỗ lực của Đồng Minh để chiếm Buna được coi là một mối đe dọa nghiêm trọng hơn đến Rabaul, Imamura hoãn việc tăng cường lực lượng để chiếm lại Guadalcanal và tập trung vào phòng thủ cho New Guinea


    Khủng hoảng tiếp vận

    Do một loạt các mối đe dọa từ máy bay CAF, thuyền PT của Hải quân Hoa Kỳ đóng tại Tulagi, và chu kỳ trăng sáng, người Nhật phải chuyển sang sử dụng tàu ngầm để cung cấp đồ hậu cần cho quân của họ đang đóng trên Guadalcanal. Bắt đầu từ ngày 16 tháng 11 năm 1942 và liên tục trong ba tuần, 16 tàu ngầm của QH Nhật tiến hành vận chuyển đồ cung cấp, thực phẩm cho quân đóng trên đảo, mỗi chiếc tàu ngầm tiến hành một chuyến đi cho mỗi đêm. Mỗi tàu ngầm có thể cung cấp 20-30 tấn nhu yếu phẩm trong một ngày cho Quân đoàn 17, nhưng nhiệm vụ khó khăn là phải vận chuyển bằng tay số hàng này xuyên qua qua rừng già đển các đơn vị ở tiền tuyến để duy trì quân Nhật đóng trên đảo Guadalcanal . Đồng thời, người Nhật đã cố gắng thiết lập một chuỗi ba căn cứ trong trung tâm đảo Solomons cho phép tàu thuyền nhỏ để sử dụng chúng như các cảng đến phục vụ cho việc giao hàng tiếp vận cho Guadalcanal, nhưng không kích của Đồng Minh đã gây thiệt hại cho các căn cứ này, buộc người Nhật phải từ bỏ kế hoạch này.

    Ngày 26 tháng 11, Quân đoàn 17 thông báo cho Imamura rằng họ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng thực phẩm quan trọng. Một số đơn vị ở tiền tuyến đã không nhận được đồ tiếp tế trong sáu ngày và ngay cả những đơn vị đóng ở tuyến sau của quân đoàn chỉ nhận được trên một phần ba khẩu phần. Tình hình đã buộc Nhật Bản phải quay về sử dụng tàu khu trục để cung cấp nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội


    Nhân viên của Hạm đội thứ tám nghĩ ra một kế để giúp giảm thời gian bốc dỡ của tầu khu trục để cung cấp nhu yếu phẩm cho Guadalcanal. Dầu hoặc khí gas được rửa sạch trong các những chiếc thùng và chúng sẽ chứa đầy vật tư y tế và thực phẩm, với khoảng không đủ để cho chúng nổi, và được buộc bằng dây. Khi các tầu khu trục đến Guadalcanal họ sẽ thực hiện một cú quay đầu thật nhanh, những chiếc thùng sẽ được cắt rời và xuống , một người hoặc một thuyền con có thể bơi ra từ bờ biển và năm lấp một đầu sợi dây thừng và kéo nó vào bãi biển, nơi binh lính có thể lôi ra trong đó đồ nhu yếu phẩm

    Hạm đội thứ tám có đơn vị tăng cường cho Guadalcanal, có căn cứ tại đảo Shortland dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka, đã được Mikawa giao nhiệm vụ mang năm chuyến hàng đầu tiên sử dụng phương pháp dùng thùng để chứa đồ tiếp vận trong đêm 30 tháng 11. Đơn vị của Tanaka tập trung xung quanh tám tàu khu trục (Desron 2), với sáu khu trục hạm được chỉ định để mang 200-240 chiếc thùng có chứa các đồ cung cấp đến Tassafaronga thuộc Guadalcanal. Chiến hạm Naganami của Tanaka cùng với Takanami hoạt động như tầu hộ tống. Sáu chiến hạm mang thùng tiếp vận là các tàu khu trục Kuroshio, Oyashio, Kagero, Suzukaze, Kawakaze, và Makinami. Để giảm trọng lượng các tàu khu trục để các ngư lôi dự trữ Loại 93 ở lại Shortlands, mỗi tàu chỉ có tám ngư lôi, một quả cho mỗi ống phóng

    Sau trận chiến hải Guadalcanal, Phó Đô đốc William Halsey Hoa Kỳ, chỉ huy các lực lượng Đồng Minh ở Nam Thái Bình Dương, đã tổ chức lại các lực lượng hải quân Mỹ dưới sự chỉ huy của ông, vào ngày 24 Tháng 11, ông cho thành lập Task Force 67 (TF67) tại Espiritu Santo, bao gồm tàu tuần dương hạng nặng USS Minneapolis, New Orleans, Pensacola, và Northampton, tuần dương hạng nhẹ Honolulu, và bốn khu trục (Fletcher, Drayton, Maury, và Perkins). Chuẩn Đô đốc Carleton H. Wright thay thế Thomas Kinkaid chỉ huy TF67 ngày 28 tháng 11

    Sau khi nhận nhiệm vụ, Wright giới thiệu tóm tắt cho các chỉ huy tầu của ông về kế hoạch của ông đối với việc chiến đấu với Hải quân Nhật Bản trong tương lai, dự kiến về các trận đánh đêm quanh Guadalcanal. Kế hoạch mà ông đã soạn thảo cùng với đô đốc Kinkaid là tàu khu trục được trang bị radar tiến lên trước các tàu tuần dương, trinh sát và phóng ngư lôi tấn công một bất ngờ khi nhìn thấy tàu chiến của Nhật Bản, sau đó thoát ly khỏi khu vực giao chiến để cho các tàu tuần dương chiếm lĩnh vị trí và nổ súng. Các tàu tuần dương tham chiến bằng súng từ khoảng cách 10.000 yard (9.100 m) đến 12.000 yarrd (11.000 m). Các thủy phi cơ cất cánh từ các tầu TDH sẽ bay trinh sát và thả pháo sáng trong trận đánh

    Sau khi nhận nhiệm vụ, Wright giới thiệu tóm tắt cho các chỉ huy tầu của ông về kế hoạch của ông đối với việc chiến đấu với Hải quân Nhật Bản trong tương lai, dự kiến về các trận đánh đêm quanh Guadalcanal. Kế hoạch mà ông đã soạn thảo cùng với đô đốc Kinkaid là tàu khu trục được trang bị radar tiến lên trước các tàu tuần dương, trinh sát và phóng ngư lôi tấn công một cách bất ngờ khi nhìn thấy tàu chiến của Nhật Bản, sau đó thoát ly khỏi khu vực giao chiến để cho các tàu tuần dương chiếm lĩnh vị trí và nổ súng. Các tàu tuần dương tham chiến bằng súng từ khoảng cách 10.000 yarrd (9.100 m) đến 12.000 yarrd (11.000 m). Các thủy phi cơ cất cánh từ các tầu TDH sẽ bay trinh sát và thả pháo sáng trong trận đánh

    Ngày 29 tháng 11, tình báo Đồng Minh chặn và giải mã một thông điệp của Nhật Bản truyền cho quân đoàn 17 tại Guadalcanal cảnh báo cho họ về các chuyến hàng cung cấp từ Tanaka đang đến. Được thông báo về tin này, Halsey đã ra lệnh cho Wright chỉ huy TF67 để đánh chặn Tanaka ở ngoài khơi Guadalcanal. TF67 cùng với Wright trên chiếc kỳ hạm Minneapolis, rời Espiritu Santo với tốc độ 27 knots (31 mph, 50 km / h) ngay trước nửa đêm ngày 29 tháng 11 hành quân 580 dặm (930 km) đến Guadalcanal. Gần đến nơi lại có thêm tàu khu trục Lamson và Lardner đang trở về từ nhiệm vụ hộ tống một đoàn côngvoa đến Guadalcanal cũng được lệnh phải tham gia với TF67. Thiếu thời gian để thông báo cho các sĩ quan chỉ huy của các tàu khu trục mới tham gia kế hoạch chiến đấu của mình, Wright giao cho họ vị trí phía sau tàu tuần dương. Vào hồi 17:00 ngày 30 tháng 11, mỗi tuần dương hạm của Wright tung ra một thủy phi cơ đến Tulagi để thả pháo sáng cho trận chiến dự kiến đêm đó. Lúc 20:00, Wright đưa thủy đoàn của mình vào tham chiến

    Đội tầu của Tanaka rời Shortlands chỉ ngay sau nửa đêm ngày 30 Tháng Mười Một và đến Guadalcanal. Tanaka đã cố gắng né tránh máy bay trinh sát Đồng Minh bằng cách tiến thẳng về phía đông bắc qua eo biển Bougainville trước khi chuyển về phía đông nam và sau đó đi về phía Nam để đi vào eo biển<ST1:P</ST1:P<ST1:P</ST1:P. Paul Mason, một lính gác bờ biển người Úc đang gác tại phía nam Bougainville, báo cáo qua đài phát thanh sự di chuyển của đội tàu của Tanaka từ Shortland và tin nhắn này cũng đến được với Wright. Đồng thời, một máy bay trinh sát Nhật Bản phát hiện ra một đoàn tầu của Đồng Minh gần Guadalcanal và thông tin những gì đã nhìn thấy đến Tanaka, ông này nói với các chỉ huy tàu khu trục của mình, những người rất háo hức muốn có một trận đánh ban đêm, rằng "Trong trường hợp này, mọi nỗ lực tối đa sẽ được thực hiện để tiêu diệt kẻ thù mà không cần phải xuy nghĩ về vấn đề bốc dỡ đồ hậu cần "

    Trận đánh bắt đầu

    Lúc 21:40 ngày 30 tháng 11, tàu của Tanaka nhìn thấy Savo Island từ eo biển Indispensable. Các tàu Nhật đã hình thành tuyến chiến đấu dài khoảng 600 mét (660 yard), theo thứ tự là chiếc Takanami, Oyashio, Kuroshio, Kagero, Makinami, Naganami, Kawakaze, và Suzukaze. Tại thời điểm này, TF67 đang thâm nhập vào Lengo Channel trên đường đến Ironbottom Sound. tàu của Wright đã lập đội hình hàng dọc với đầu tiến là chiếc Fletcher sau đó là các chiếc Perkins, Maury, Drayton, Minneapolis, New Orleans, Pensacola, Honolulu, Northampton, Lamson, và Lardner. Bốn khu trục dẫn đầu các tàu tuần dương khoảng 4.000 yard (3.700 m) và các tàu tuần dương chạy khoảng 1.000 yards (910 m) theo từng phần

    Lúc 22:40, tàu của Tanaka đi qua phía nam của Savo khoảng 3 dặm (5 km) ngoài khơi Guadalcanal và chạy chậm lại tới 12 knots (14 mph, 22 km / h) khi đó họ tiếp cận các khu vực dỡ hàng. Takanami đã vào bến, cách bờ khoảng 1 dặm. Đồng thời, TF67 đã ra khỏi Lengo Channel tiến vào eo biển ở tốc độ 20 knots (23 mph, 37 km / h) theo hướng Savo Island. Khu trục hạm van của Wright chuyển tới một vị trí hơi gần tàu tuần dương. Bầu trời đêm không có trăng với tầm nhìn khoảng giữa 2 dặm (3 km) và 7 dặm (11 km). Vì biển cực kỳ yên ả which created a suction effect on their pontoons ?" đoạn này không dich được, thủy phi cơ trên các tuần dương hạm của Wright đã chậm trễ trong việc cất cánh tới cảng Tulagi, và chúng sẽ không thể trở thành một yếu tố trong trận đánh

    Lúc 23:06, đội tầu của Wright đã bắt đầu phát hiện tàu của Tanaka trên radar gần Cape Esperance cách Guadalcanal khoảng 23.000 yard (21.000 m). Tầu khu trục của Wright quay lại đội hình hàng dọc và nó vẫn tiếp tục dẫn đầu tiến phía Savo. Cùng lúc, các tàu của Tanaka không được trang bị radar, chia thành hai nhóm đang chuẩn bị để xô các thùng tiếp liệu từ bong xuống, các chiếc Naganami, Kawakaze, và Suzukaze thả đầu tiên. điểm họ thả gần Doma Reef trong khi Makinami, Kagero, Oyashio, và Kurashio đậu gần Tassafaronga gần đó. Lúc 23:12, Takanami bằng trực quan đã nhìn thấy đội hình tầu hình hàng dọc của Wright, điều này được nhanh chóng xác nhận bởi sự quan sát trên các tàu khác của Tanaka. Lúc 23:16, Tanaka đã ra lệnh dừng việc chuẩn bị xếp dỡ và "Tất cả các tầu tấn công"

    Diễn biến chính

    Lúc 23:14, các nhân viên tổng tài của tầu Fletcher qua hệ thống radar đã phát hiện ra chiếc Takanami và chiếc dẫn đầu của bốn tầu khu trục mang thùng hàng. Lúc 23:15, với khoảng cách 7.000 yard (6.400 m), Sỹ quan William M. Cole, chỉ huy nhóm tàu khu trục của Wright và thuyền trưởng tầu Fletcher liên lạc với Wright xin cho phép bắn ngư lôi. Wright đợi hai phút và sau đó trả lời, " Mục tiêu [tàu của Tanaka trên radar] hiện nay ngoài tầm bắn? Cole trả lời rằng trong phạm vi cho phép. Một hai phút trôi qua trước khi Wright trả lời cho phép khai hỏa. Trong khi đó, mục tiêu của các tầu khu trục Mỹ thoát ra khỏi tầm bắn tối ưu cận biên được thiết lập hướng vào vị trí mạn sườn tầu (the US destroyer's targets escaped from an optimum firing setup ahead to a marginal position passing abeam), làm cho ngư lôi của người Mỹ phải vượt một khoảng cách xa, gần vượt quá giới hạn hoạt động của nó. Lúc 23:20, các tầu Fletcher, Perkins, và Drayton bắn tổng cộng 20 quả ngư lôi Mark 15 hướng về các tàu của Tanaka . Chiếc Maury vì thiếu radar SG nên không giữ được liên lạc, không nổ súng

    Đồng thời, Wright ra lệnh cho đội tầu của ông nổ súng. Lúc 23:21, tầu Minneapolis bắn salvo đầu tiên của mình, các tuần dương hạm Mỹ khác nhanh chóng bắn theo. Bốn khu trục hạm của Cole bắn đạn lửa để soi sáng các mục tiêu như đã được hướng dẫn trước đó sau đó tăng tốc độ lên và chạy ra chỗ khác để nhường chỗ cho tàu tuần dương tham chiến

    Vì vị trí của nó gần nhất với đội tầu xếp hình dọc của Wright, Takanami là mục tiêu của hầu hết các phát súng đầu tiên của tầu Mỹ. Takanami bắn trả và chuẩn bị phóng cả tám ống ngư lôi của nó, nhưng nó nhanh chóng trúng nhiều đạn của tầu Mỹ, trong vòng bốn phút nó đã bốc cháy và bị vô hiệu hóa. Khi tầu Takanami bị phá hủy, những chiếc còn lại của đội tàu của Tanaka, gần như không để cho người Mỹ thấy, tăng tốc độ, vận động một cách khéo léo và chuẩn bị đáp trả cuộc tấn công của Mỹ. Tất cả các ngư lôi của người Mỹ đều bắn trượt

    Xem đó, người Mỹ đã biết trươc, chuẩn bị trước kỹ lưỡng để tấn công bất thình lình mà người Nhật vẫn nện cho họ te tua. người Nhật mới thực sự có kỹ năng chiến đấu trên biển nếu so với người Mỹ, nhưng rủi thay năng lực sản xuất của họ thua sút so với người Mỹ nên càng thắng trận chỉ càng làm người Nhật kéo dài thêm sự hấp hối thôi

    Chiếc kỳ hạm của Tanaka, Naganami, chạy đảo hướng mạn phải của nó, bắt đầu nổ súng và chìm trong một màn khói. Hai tàu tiếp theo ơ? phía sau, chiếc Kawakaze và Suzukaze, chạy đảo hướng tầu về phía mạn trái. Lúc 23:23, chiếc Suzukaze bắn 8 quả ngư lôi về hướng ánh lửa đầu nòng từ súng của tuần dương hạm của Wright, theo sau nó các chiếc Naganami và Kawakaze cũng bắn hết ổ tám quả ngư lôi vào khoảng lúc 23:32 và 23:33

    Trong khi đó, bốn tàu khu trục ở phần đầu đội hình cột của tầu chiến Nhật tiếp tục giữ nguyên hướng tiến về phía bờ biển Guadalcanal, điều đó cho phép các tuần dương hạm của Wright vượt qua vị trí đối diện. Sau khi tầu Takanami bị loại khỏi vòng chiến lúc 23:28, chiếc Kuroshio bắn bốn và Oyashio bắn 8 quả ngư lôi theo hướng đội hình cột của tầu của Wright sau đó đổi hướng và tăng tốc độ lên. Các tuần dương hạm của Wright vẫn duy trì trình tự và tốc độ giống nhau, lúc này 44 quả ngư lôi Nhật Bản lao vào hướng đi của họ

    Lúc 23:27 tầu Minneapolis bắn đến salvo thứ chín của nó và Wright chuẩn bị sẵn sàng để ra lệnh cho một sự thay đổi trong đội hình tầu của ông ta thì hai ngư lôi hoặc được phóng từ chiếc Suzukaze hoặc Takanami lao vào nửa phía trước của tầu Minneapolis. Một đầu đạn làm nổ các thùng dự trữ nhiên liệu máy bay ( chắc là của chiếc thủy phi cơ), vụ nổ lan sang một tháp pháo và một vụ nổ khác đánh sập ba trong số bốn phòng đốt lửa ( hoặc phòng bắn súng ?" nguyên văn firerooms) của con tàu này. Một nòng súng của một trong những tháp pháo bị gập xuống ở một góc 70 độ và con tàu bị mất điện và mất kiểm soát. Ba mươi bảy lính thủy bị giết

    Một ít phút sau, một quả ngư lôi đánh trúng chiếc New Orleans ngay dưới một tháp súng và đạn phát nổ phía trước của tàu và các thùng dự trữ nhiên liệu máy bay. Vụ nổ cắt đứt toàn bộ phần mũi của tàu này ở phía trước của hai tháp pháo. Mũi tầu vặn về phía bên trái thân tàu bị hư hại như nó đã bị vặn cực mạnh bởi đà của con tàu, và nó bị chìm ngay phía đuôi trái. Tất cả pháo thủ trong tháp súng một và hai đều chết, chiếc New Orleans bị buộc phải chạy bằng mạn phải và mất kiểm soát và cũng như hệ thống thông tin. Tổng cộng có 183 lính thủy bị thiệt mạng.

    Chiếc Pensacola chạy kế tiếp theo sau ơ? phía sau đội hình tuần dương. Nó quan sát thấy chiếc Minneapolis và New Orleans đã dính ngư lôi và đi chậm lại, Pensacola lái vượt qua chúng ở phía bên trái và sau đó, cũng rơi vào trường hợp giống như vậy. Lúc 23:39, Pensacola lĩnh trọn một quả ngư lôi vào dưới bong chính. Vụ nổ loang các đám cháy dầu ra phía trong và phía trên boong chính của tàu, giết chết 125 thủy thủ đoàn của tàu này. Các chỗ dính ngư lôi cách xa các trục chuyển động ở bên trái và tàu bị tùng bê lên 13-độ, nó bị mất thông tin, năng lượng và kiểm soát

    Ở phía sau của tầu Pensacola, thuyền trưởng của Honolulu đã chọn phương án để vượt qua chiếc Minneapolis và New Orleans ở mạn bên phải. Cùng lúc con tàu tăng tốc độ tới 30 knots (35 mph, 56 km / h), nhan chóng xoay vòng, và thành công trong việc vượt qua khu vực chiến sự mà không dính bất kỳ thiệt hại nào trong khi nó vẫn khai hỏa các khẩu đội súng chính vào các tầu khu trục Nhật Bản

    Chiếc tuần dương cuối cùng trong đội hình hàng dọc của Mỹ, chiếc Northampton theo sau chiếc Honolulu vượt qua các tuần dương hạm bị thương ở phía trước bằng mạn phải. Không giống như chiếc Honolulu, chiếc Northampton đã không tăng tốc độ hoặc cố gắng làm các động tác xoay vòng nào cả. Lúc 23:48 Northampton bị trúng hai quả ngư lôi của Kawakaze củai. Một quả đánh vào chỗ sâu dưới mực nước 10 feet (3 m) phía dưới buồng máy , bốn giây sau, quả thứ hai tiếp tục đánh vào phía sau tầu 40 feet (12 m). Sau khi buồng máy bị ngập nước, ba trong số bốn trục động cơ ngừng quay, và con tàu bị tùng bê lên 10 độ phía mạn trái và bốc cháy. Năm mươi người trong thủy thủ đoàn bị giết

    Các tàu cuối cùng trong đội hình hàng dọc của Wright là 2 chiếc Lamson và Lardner thất bại trong việc xác định vị trí bất kỳ mục tiêu nào để tấn công, sau đó chúng rút khỏi khu vực chiến sự từ phía đông sau khi bị bắn nhầm bởi súng máy từ chiếc New Orleans. Bốn chiếc tầu khu trục của Cole chạy vòng tròn xung quanh <ST1:P</ST1:P<ST1:P</ST1:Pvới tốc độ tối đa và định quay lại khu vực chiến sự, nhưng trận đánh đã kết thúc

    Trong khi đó, lúc 23:44 Tanaka đã ra lệnh tàu của mình để dừng trận đánh và rút ra từ khu vực chiến sự. Khi họ tiến về bờ biển Guadalcanal, các tầu Kuroshio và Kagero bắn thêm tám ngư lôi về phía tàu của Mỹ nhưng tất cả trượt. Trong lúc đó tầu Takanami không thể trả lời các cuộc gọi qua radio, Tanaka lệnh cho tầu Oyashio và Kuroshio đến để cứu hộ nó. Hai tầu khu trụ này nằm cạnh tàu cháy lúc 01:00 ngày 1 tháng 12, nhưng phải bỏ các nỗ lực cứu hộ sau khi phát hiện có các tàu chiến của Mỹ trong khu vực. Tầu Oyashio và Kuroshio nhanh chóng rời eo biển để tái tham gia các phần còn lại của đội tàu Tanaka để tiếp tục cuộc hành trình trở về Shortlands, nơi mà họ sẽ về an toàn sau đó 10 giờ. Chỉ có chiếc Takanami là tàu chiến Nhật Bản trúng đạn tầu Mỹ và bị hư hỏng nghiêm trọng trong trận đánh

    Kết quả trận đánh

    Những người còn sống sót của chiếc Takanami rời tàu lúc 01:30, nhưng một vụ nổ lớn giết chết nhiều người trong số họ khi đang bơi, bao gồm Toshio Shimizu chỉ huy trưởng đội tầu khu trục và Masami Ogura thuyền trưởng tàu Takanami. Chỉ 48 người sống sót trong thủy thủ đoàn 244 người đã tiếp cận bờ biển của đảo Guadalcanal và 19 người trong số họ đã bị bắt bởi người Mỹ

    Thủy thủ đoàn của chiếc Northampton đã không thể chứa nổi các vụ cháy của tàu và họ rời tầu lúc 01:30. Con tàu chìm lúc 03:04 khoảng 4 dặm ( 6 km) cách Doma Cove thuộc Guadalcanal. Tầu Fletcher, Drayton cứu được 773 người sống sót

    Các tầu Minneapolis, New Orleans, và Pensacola còn đủ sức để tiếp tục chạy được 19 dặm (31 km) đến Tulagi vào sáng ngày 1 tháng 12, nơi chúng đã bỏ neo được sửa chữa khẩn cấp. Các vụ cháy trên Pensacola kéo dài 12 giờ trước khi được dập tắt. Pensacola phải rời Tulagi tới cảng phía sau và sửa chữa thêm đến tận 06 Tháng 12. Sau khi tạm thời lắp mới phần mũi tầu, các tầu Minneapolis và New Orleans rời Tulagi đến Espiritu Santo hoặc Sydney, Úc vào ngày 12 tháng 12. Tất cả ba tàu tuần dương trên đều được yêu cầu sửa chữa lớn và lâu dài. Chiếc New Orleans quay trở lại phục vụ chiến đấu vào tháng Tám, Minneapolis vào tháng Chín, và Pensacola trong tháng 10 năm 1943

    Trận này đánh là một trong những thất bại tồi tệ nhất của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai. Nó được xếp thứ ba từ dưới lên chỉ sau Trận Trân Châu Cảng và trận Salvo<ST1:P</ST1:P<ST1:P</ST1:P. Trận này, cùng với các thiệt hại trong các trận Savo Island, Cape Esperance và trận Guadalcanal tạm thời làm cho Hải quân Mỹ chỉ còn 4 tuần dương hạm hạng nặng và 9 tuần dương hạm hạng nhẹ trên toàn khu vực biển Thái Bình Dương. Mặc dù thất bại trong trận đánh này, đô đốc Wright vẫn được trao Huân chương chữ thập Hải quân, một trong những phần thưởng cao nhất của quân đội Mỹ cho sự dũng cảm của ông này trong trận đánh ( theo ý kiến cá nhân em thì là dũng cảm vì đã mặt dày đứng ra nhận huân chương thì đúng hơn). Ông đã có những cố gắng để làm giảm nhẹ mức độ thiệt hại của lực lượng tầu chiến đặc nhiệm của mình. Đô đốc Wright trong các báo cáo của mình về trận đánh, đã tuyên bố rằng lực lượng của ông đã đánh chìm bốn tàu khu trục Nhật Bản và loại hai chiếc khác khỏi vòng chiến. Về phần Đô đốc Halsey, trong ý kiến của mình về báo cáo của Wright, đã đổ lỗi nguyên nhân thất bại trên cho chỉ huy Cole, ông này nói rằng tay chỉ huy trưởng đội tầu khu trục đã hạ lệnh cho bắn ngư lôi từ một khoảng cách quá lớn và không có hiệu quả, ngoài ra ông ta cần phải có các hành động trợ giúp các tàu tuần dương thay vì chạy lòng vòng xung quanh đảo Savo. Tanaka tuyên bố đã đánh chìm một tàu chiến và hai tuần dương hạm trong trận đánh

    Kết quả của trận đánh này dẫn tới các cuộc thảo luận trong Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ về những thay đổi trong học thuyết về chiến thuật và nhu cầu cho các cải tiến kỹ thuật, chẳng hạn như thuốc súng không phát ánh lửa khi bắn và cải tiến ngư lôi. Người Mỹ vẫn không biết gì về phạm vi và sức mạnh của ngư lôi Nhật Bản và hiệu quả của chiến thuật chiến đấu đêm của HQ Nhật Bản. Trong thực tế, Wright cho rằng các tàu của ông đã bị bắn hạ từ tàu ngầm vì khi ông quan sát vị trí các tàu của Tanaka, đã cho rằng " Các quả ngư lôi với tốc độ, khoảng cách ?" tương tự như người Mỹ có thì không thể tạo ra những thiệt hại như vây. Người Mỹ đã không nhận ra khả năng thực sự của kẻ thù từ ngư lôi cho đến chiến thuật đánh ban đêm của kẻ thù trên biển Thái Bình Dương đến tận năm 1943.

    Sau chiến tranh, Tanaka nói về chiến thắng của ông tại Tassafaronga, "Tôi đã nghe nói rằng các chuyên gia hải quân Mỹ ca ngợi lệnh của tôi trong trận đánh đó. Tôi không xứng đáng với danh dự này. Nó có được là nhờ trình độ thành thạo tuyệt vời và lòng tận tụy của những người lính thủy của tôi, những người đã thực sự tạo ra chiến thắng chiến thuật đó cho chúng tôi "

    Mặc dù thất bại trong trận đánh, HQ Mỹ đã ngăn cản được mục đích của Tanaka là cung cấp thực phẩm cực kỳ cần thiết tới Guadalcanal mặc dù phải trả một giá rất cao. Một nỗ lực thứ hai của Nhật Bản lập chuyến côngvoy chở hàng cung cấp bằng 10 tàu khu trục do Tanaka chỉ huy vào ngày 03 tháng 12 thành công trong việc thả 1.500 thùng hàng xuống Tassafaronga, nhưng máy bay Mỹ đã đánh chìm gần như tất cả, chỉ 310 thùng trong số chúng được kéo lên bờ ngày hôm sau. Ngày 07 Tháng 12 nỗ lực thứ ba của 12 tàu khu trục Nhật Bản bị đánh bật trở lại bởi tầu PT của Hoa Kỳ ngoài khơi Cape Esperance. Đêm tiếp theo, hai tầu PT của Mỹ đã phóng ngư lôi và đánh chìm tàu ngầm I-3 của Nhật khi nó đang cố gắng tiếp cận để cung cấp nhu yếu phẩm cho Guadalcanal. Căn cứ vào các khó khăn, mất mát trong việc cố gắng cung cấp thực phẩm đến đảo Guadalcanal, Hải quân Nhật Bản thông báo cho tướng Imamura vào ngày Ngày 08 tháng 12 rằng họ phải ngừng tất cả các tầu khu trục chở hàng Guadalcanal ngay lập tức. Sau khi Imamura kháng nghị, hải quân đã đồng ý cho thêm một chuyến hàng nữa đến đảo Guadalcanal

    Những nỗ lực cuối cùng để cung cấp thực phẩm đến Guadalcanal bởi các tầu khu trục vào năm 1942 vẫn dưới sự chỉ huy của đô đốc Tanaka vào đêm 11 tháng 12 bao gồm 11 tàu khu trục. Năm tầu PT của Mỹ đã chạm tán với kỳ hạm Teruzuki của Tanaka ở ngoài khơi Guadalcanal và phóng ngư lôi, gây 1 số thiệt hại cho tầu khu trục này và làm bị thương Tanaka. Sau đó Tanaka chuyển sang chiếc Naganami, tầu Teruzuki đã bị đánh đắm. Chỉ có 220 thùng hàng trong tổng số 1.200 thùng được vận chuyển trong đêm đó đã được thu thập bởi binh lính của quân đội Nhật Bản trên bờ. Tanaka sau đó đã nhận được thuyên chuyển và chuyển về Nhật Bản vào ngày 29 tháng 12 Năm 1942. Đến đây trận hải chiến Tassafaronga hoàn toàn chấm dứt.




    Có sáu trận đấu tầu sân bay trong lịch sử hải chiến
    Trận biển Coral Sea
    Trận đảo Midway
    Trận Đông Solomon

    Trận quần đảo Santa Cruz
    Trận biển Philippin
    Trận vịnh Layte
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận chiến biển Philippines - trận đấu tầu sân bay thứ năm

    tóm tắt trận đánh



    Thời gian: Ngày 19 -> 20 tháng 6 năm 1944
    Địa điểm: Biển Philippine Sea
    Kết quả: Mỹ chiến thắng Quyết định

    Các bên tham chiến

    Hạm đội 5 Hải quân Hoa Kỳ

    Chỉ huy

    Raymond A. Spruance

    Sức mạnh
    7 tàu sân bay hạm đội,
    8 tàu sân bay hạng nhẹ,
    7 thiết giáp hạm,
    79 tàu khác,
    28 tàu ngầm ,
    956 máy bay

    Tổn thất
    123 máy bay bị phá hủy (khoảng 80 chiếc có phi hành đoàn sống sót )

    Hạm đội Liên hợp Hải quân Đế quốc Nhật Bản

    Chỉ huy
    Jisaburō Ozawa
    Kakuji Kakuta


    Sức mạnh
    5 tàu sân bay hạm đội,
    4 tàu sân nay hạng nhẹ,
    5 tàu thiết giáp,
    43 tàu khác,
    450 máy bay trên tàu sân bay,
    300 máy bay trên đất liền

    Tổn thất
    3 tàu sân bay bị đánh chìm ,
    2 tàu sân bay bị đánh chìm,
    khoảng 600 máy bay bị phá hủy,
    6 tàu khác bị hư hỏng nặng


    Trận chiến biển Philippines (còn được người Mỹ gọi là " The Great Marianas Turkey Shoot - Trận bắn Gà tây Vĩ đại ở Quần đảo Marianas " ) là một trận chiến hải quân chiến quyết định của Chiến tranh Thế giới II và trận chiến tàu sân bay lớn nhất trong lịch sử. Đó là trận chiến giữa lực lượng hải quân Hoa KỳĐế quốc Nhật Bản. là một phần của cuộc chiến Thái Bình Dương mở rộng, trận đánh này xảy ra vào ngày 19-> 20 tháng 6 năm 1944 ngoài khơi Quần đảoMariana Islands và có cả sự tham gia của máy bay Nhật trên đất liền. Trận chiến đã được chứng minh là một thất bại của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, khi họ bị mất ba Tàu sân bay và khoảng 600 máy bay. Những tổn thất này chủ yếu là do sự lỗi thời của các máy bay Nhật Bản và sự non kém về kinh nghiệm của các phi-công tàu sân bay Nhật (rất nhiều phi-công giàu kinh nghiệm của Nhật bản đã hy sinh trong trong các chiến dịch Guadalcanal, Midway và các trận giao tranh khác ) trái ngược với Hải quân Hoa kỳ khi họ có máy bay chiến đấu Grumman F6F Hellcat tốt hơn, hiện đại hơn và có nhiều phi-công được đào tạo và có nhiều kinh nghiệm hơn, ngoài ra Hải quân Hoa kỳ còn trang bị radar định hướng cho máy bay tuần tra không chiến.


    Bối cảnh

    Vào tháng Chín năm 1943, Tổng hành dinh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã quyết định lúc này là thời gian để giành lại quyền chủ động mở các cuộc tấn công tại Thái Bình Dương. Bởi vì quân đội Mỹ đang tấn công các đảo mà Nhật Bản đang nắm giữ trong chiến dịch " Đảo hy vọng - island hopping " việc thiếu máy bay hải quân cho chiến dịch được giải quyết bằng cách triển khai lực lượng không quân mạnh trên đất liền. Chiến dịch đã được lên kế hoạch để vào đầu năm 1944, hạm đội Thái Bình Dương Hoa kỳ có thể tấn công bất nơi nào khi nó muốn phát động các cuộc tấn công quy mô nhỏ của mình. Theo chỉ đạo của Tổng tư lệnh mới được bổ nhiệm của Hạm đội Liên hợp, Đô đốc Soemu Toyoda, một kế hoạch hoàn chỉnh cho các cuộc tấn công mới gọi là " Kế hoạch A- Go " hay "Chiến dịch A- Go " đã được chuẩn y vào đầu tháng 6 năm 1944 .

    Hạm đội Nhật Bản được chỉ huy bởi Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, bao gồm năm tàu sân bay lớn (các chiếc Taihō, Shōkaku, Zuikaku, JunyōHiyō), bốn tầu sân bay hạng nhẹ (các chiếc Ryuho, Chitose, ChiyodaZuihō), năm thiết giáp hạm (các chiếc Yamato, Musashi, Kongō, HarunaNagato) và các tàu tuần dương, tàu khu trục và tầu chở dầu hỗ trợ.

    Ngày 12 tháng 6 năm 1944, tàu sân bay Mỹ bắt đầu một loạt các cuộc không kích vào quần đảo Mariana, sự kiện này đã thuyết phục đô đốc Toyoda rằng Hoa Kỳ đang chuẩn bị xâm lược. Động thái này đã gây ngạc nhiên vì người Nhật dự đoán rằng các mục tiêu tiếp theo của Hoa kỳ ở xa hơn về phía nam, một trong hai Quần đảoCarolines hoặc Quần đảo Palau. Do đó, đảo Marianas chỉ được bảo vệ bởi 50 máy bay trên đất liền. Ngày 13 tháng 6, quân đội Mỹ bắt đầu hoạt động bắn phá để chuẩn bị cho cuộc tấn công Saipan, để phản ứng lại, Toyoda ra lệnh cho Hạm đội Nhật bản mở một cuộc phản công. Các phần chính của hạm đội bao gồm sáu tàu sân bay và nhiều tàu chiến tập hợp vào ngày 16 ở phần phía tây của Philippine Sea và hoàn thành tiếp nhiên liệu vào ngày 17.


    Mỹ phản ứng


    Các hạm đội Nhật Bản đã bị nhìn thấy vào ngày 15 tháng 6 bởi tàu ngầm Mỹ và vào ngày hôm sau Đô đốc Raymond Spruance, chỉ huy của Hạm đội 5 Hoa kỳ, đã bị thuyết phục rằng một trận chiến lớn là ở trong tầm tay. Đến chiều ngày 18 tháng 6 Phó Đô đốc Marc Mitscher trên tàu kỳ hạm của mình ( Tầu sân bay USS Lexington – chiếc mới đóng, chiếc cũ điếc trong trận Coral Sea) đã thành lập lược lượng TF -58( Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay Tốc độ - the Fast Carrier Task Force ) ở gần Saipan để chống trả các cuộc tấn công của Nhật Bản.
    TF -58 bao gồm năm nhóm chính. Ở phía trước ( về phía tây ) là Task Group 58,7 ( TG- 58,7 ) của Phó Đô đốc Willis Lee, tuyến chiến đấu - the "Battle Line", bao gồm bảy thiết giáp hạm cao tốc ( các chiếc Washington, North Carolina, Indiana, Iowa, New Jersey, South DakotaAlabama). Ở phía bắc của họ là nhóm tàu sân bay yếu nhất TG- 58,4 của Chuẩn Đô đốc William Harrill K. s gồm ba chiếc tầu sân bay (các chiếc Es.s.e.x, Langley, và Cowpens). Về phía đông, trên một đường chạy suốt từ bắc tới nam là ba nhóm, mỗi nhóm có bốn chiếc tầu sân bay: TG-58.1 của Chuẩn Đô đốc Joseph Clark (các chiếc Hornet, Yorktown, Belleau WoodBataan); TG-58.2 của Chuẩn Đô đốc Alfred Montgomery (các chiếc Bunker Hill, Wasp, CabotMonterey); TG-58.3 của Chuẩn Đô đốc John W. Reeves (các chiếc Enterprise, Lexington, San JacintoPrinceton). Các tàu chủ lực này được hỗ trợ bởi tám tàu tuần dương hạng nặng, 13 tàu tuần dương hạng nhẹ, 58 khu trục hạm và 28 tàu ngầm.

    Ngay trước nửa đêm ngày 18 Tháng 6, Đô đốc Chester W. Nimitz đã gửi cho Spruance một tin nhắn từ Trụ sở chính Hạm đội Thái Bình Dương và chỉ rõ rằng hạm Nhật Bản đang ở khoảng 350 dặm (562 km) về phía tây - tây nam của TF-58. Điều này đã được quy định là dựa trên một "sửa chữa "thu được đài phát thanh tìm hướng , nhưng chủ yếu có được là do giải mã các tin nhắn thu được của Hải quân Nhật Bản.
    Mitscher nhận ra rằng nếu TF-58 tiến về phía tây thì đây sẽ là một cơ hội lớn của một trận đánh vào ban đêm với lực lượng của Ozawa. Vì thế ông đã thảo luận với Lee , chỉ huy nhóm Battle Line của Hạm đội 5, và hỏi liệu Lee liệu ông ta có chấp nhận một trận đánh đêm không. Chỉ huy của lực lượng tàu chiến đã không nhiệt tình lắm về một trận đánh đêm với lực lượng mặt Nhật Bản (bác này từng giao chiến ban đêm với quân Nhật bản và thua te tua), mặc dù tàu mới của mình vượt trội hơn hầu hết các thiết giáp hạm của Nhật Bản, vì cảm thấy rằng đội tầu của ông đã không được huấn luyện đầy đủ cho trận chiến như vậy. Ngay sau khi thảo luận với Lee, Mitscher đề nghị Spruance cho phép hướng về phía tây trong suốt đêm để có được một vị trí khởi động lý tưởng cho một cuộc tấn công trên không toàn diện vào lực lượng đối phương vào lúc bình minh lên.

    Tuy nhiên, Spruance đã từ chối. Trong suốt thời gian để chờ cuộc chiến nổ ra ông đã lo ngại rằng người Nhật Bản sẽ cố gắng rút hạm đội chính của mình ra khỏi khu vực đổ bộ bằng cách sử dụng một lực lượng nghi binh và sau đó sẽ tiến hành một cuộc tấn công trên khắp các cạnh sườn của lực lượng tàu sân bay Mỹ - một cú chạy và đánh vào đội tầu vận chuyển quân đổ bộ ngoài khơi đảo Saipan. Ông không chuẩn bị để rút Lực lượng Đặc nhiệm TF-58 về phía tây nơi cách xa các lực lượng đổ bộ .

    Spruance đã biết được rằng kế hoạch chiến đấu của người Nhật Bản thường xuyên dựa vào việc dử mồi và lực lượng nghi binh. Tuy nhiên trong trận này trong kế hoạch của Nhật Bản đã không có thủ đoạn chiến thuật này và không có lực lượng lực lượng nghi binh.

    Spruance đã bị chỉ trích nặng nề bởi rất nhiều sỹ quan sau trận chiến ( và các chỉ trích vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay ) bởi quyết định của mình để bắt đầu chiến đấu một cách thận trọng hơn là khai thác ưu thế của các lực lượng vượt trội của mình và các thông tin tình báo để gây dựng một thế trận tích cực hơn, bởi đã không ra lệnh tấn công sớm hơn và mạnh mẽ hơn, những lời chỉ trích vào ông đã lập luận rằng, ông có thể đã lãng phí cơ hội để bao vây và phá hủy toàn bộ lực lượng tấn công của Nhật bản. Tuy nhiên, đó là những lời lẽ giáo điều khi so sánh sự thận trọng của Spruance (đặc biệt là ông nghi ngờ về có sự xuất hiện về một lực lượng làm mồi nhử ) với Đô đốc Halsey " Bull " (Lão này đúng ngu như con bò, bị người Nhật nhử ra đánh xíu chút nữa là đặng thị Tèo) sau đó đã theo đuổi một lực lượng mồi nhử thực sự ở Trận chiến vịnh Leyte để nhử một lực lượng Hoa Kỳ yếu hơn ra và để mở một cuộc tấn công ngoài khơi Samar bởi một nhóm tầu chiến bề mặt của Nhật bản bao gồm các tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu thiết giáp. Hơn nữa kế hoạch chiến đấu bảo thủ của Spruance mặc dù không phá hủy được tất cả các tàu sân bay Nhật Bản nhưng lại có hiệu quả đóng những chiếc đinh cuối cùng vào quan tài của các lực lượng Không lực của hải quân Nhật Bản bằng cách giết chết hầu hết các phi-công được đào tạo còn lại và phá hủy dự trữ máy bay hải quân cho chiến đấu mới nhất của Nhật bản. Vì không còn đủ thời gian và nguồn tài chính để chế tạo nhiều máy bay hơn nữa hoặc đào tạo được nhiều phi công hơn nữa các có trình độ cao để vận hành chúng, những tầu sân bay còn sống sót Nhật cũng chỉ là những cái bóng mờ nhạt của chính bản thân mình khi so với sức mạnh vô địch ở thời đỉnh cao của họ (hơn hai năm trở về trước), một thực tế là người Nhật Bản đã nhận ra ngay lập tức khi chứng minh bằng cách sử dụng họ (lực lượng tầu sân bay của Ozawa lúc này đã hết phi-công) như là một lực lượng nghi binh-vật hiến tế cho lực lượng đặc nhiệm của Halsey trong Trận chiến vịnh Leyte. Với việc lực lượng tấn công hiệu quả nổi bật nhất của nó đã bị tê liệt, Nhật Bản đã ngày càng buộc phải dựa vào máy bay tấn công tự sát kamikaze từ đất liền trong một nỗ lực cuối cùng để chặn đứng ưu thế tuyệt đối của Hải quân và Không quân Hoa Kỳ. ( người Nhật đã tung ra khoảng 4.000 máy bay kamikaze nhưng tiếc rằng chỉ có dưới 10 % trong số này trúng đích ( phần lớn bị bắn hạ trước khi đến được đích bởi hỏa lực phòng không quá khủng khiếp của người Mỹ ) và đánh chìm khoảng hơn 30 tầu chiến, đánh bị thương hơn 200 chiếc tầu khác gây thương vong cho khoảng 10.000 lính Đồng minh – khi Nhật bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện thì vẫn còn đến 20.000 phi-công kamikaze nữa và họ đã rất buồn vì không được ra trận)


    Trận đánh


    Hành động ban đầu

    Vào lúc 05:30 ngày 19 Tháng Sáu, TF -58 quay hướng đông bắc xuôi gió và bắt đầu để khởi động các máy bay tuần tra không chiến của họ. Người Nhật đã phát động các cuộc tuần tra tìm kiếm của họ suốt buổi sáng bằng cách sử dụng một số trong 50 máy bay đóng ở đảo Guam và lúc 05:50, một trong những chiếc Mitsubishi Zero đã nhìn thấy TF -58. Sau khi truyền qua vô tuyến những gì mình nhìn thấy về đoàn tàu Mỹ, nó lao vào tấn công một trong những chiếc tàu khu trục để thực hiện nhiệm vụ tấn công và bị bắn rơi .

    Vì đã nhận được cảnh báo, phần còn lại của các lực lượng Nhật bản ở Guam bắt đầu tập hợp cho một cuộc tấn công, nhưng cuộc tấn công này đã bị phát hiện trên radar của tàu Mỹ, và một nhóm F6F Hellcat từ chiếc Belleau Wood được tung ra để kiểm tra. Các máy bay Hellcat đến khi những chiếc máy bay Nhật vẫn còn đang cất cánh từ Orote Field. Vài phút sau radar dò tìm phát hiện thêm những máy bay mà sau này được biết là các lực lượng bổ sung được gửi từ các hòn đảo khác ở phía bắc. Một trận chiến lớn nổ ra; 35 chiếc máy bay của Nhật bị bắn hạ và trận chiến vẫn còn kéo dài thêm một giờ nữa sau khi chiếc Hellcat cuối cùng được thu hồi bởi tầu sân bay của chúng.


    Nhật Bản không kích

    Lệnh thu hồi này đã được đưa ra sau khi một số tàu của lực lượng TF -58 đã hướng radar về phía Tây, khoảng 150 dặm (240 km) và vào lúc 10:00 họ phát hiện ra rất nhiều máy bay lạ. Đây là cuộc tấn công lần đầu tiên của các máy bay cất cánh từ lực lượng tàu sân bay Nhật Bản với 68 máy bay. TF -58 bắt đầu tung ra hàng loạt máy bay chiến đấu mà nó có và trong thời gian mà chúng cất cánh lên không trung, người Nhật đã vào gần với khoảng cách khoảng 70 dặm (110 km). Tuy nhiên người Nhật bắt đầu bay vòng quanh để tập hợp lại đội hình của họ cho cuộc tấn công. 10 phút trì hoãn đã được chứng minh là cực kỳ quan trọng, và nhóm đầu tiên của những chiếc Hellcat tấn công trả lời cuộc đột kích – lúc này vẫn còn ở xa đến 70 dặm (110 km) vào lúc 10:36. Họ cũng nhanh chóng tấn công các nhóm máy bay khác (của Nhật bản). Trong vòng vài phút 25 chiếc máy bay Nhật đã bị bắn hạ đánh đổi lấy sự mất mát chỉ của một máy bay Mỹ.

    Các máy bay Nhật Bản còn sống sót đã bị tấn công bởi các máy bay chiến đấu khác và 16 chiếc khác bị bắn hạ. Trong số còn lại một số đã tấn công vào các tàu khu trục hạng vừa USS YarnallUSS Stockham nhưng không gây thiệt hại gì. Ba hoặc bốn máy bay ném bom đã phá vỡ vòng vây và lao vào nhóm tàu chiến của Lee, và một thả một quả bom trực tiếp vào chiếc thiết giáp hạm USS South Dakota, gây nhiều thương vong nhưng không vô hiệu hóa được nó. Không một chiếc máy bay nào của làn sóng đầu tiên của Ozawa có thể phá vỡ hàng rào máy bay đánh chặn để được chỗ các tàu sân bay Mỹ.

    Lúc 11:07, radar lại phát hiện ra một đợt tấn công khác lớn hơn nhiều. Đây là làn sóng thứ hai bao gồm 109 máy bay. Các máy bay đánh chặn của Hoa kỳ đã gặp họ ở một khoảng cách vẫn còn đến hơn 60 dặm (97 km) tới các tầu sân bay và ít nhất 70 chiếc máy bay trong đợt này bị bắn hạ trước khi tiếp cận được các tàu sân bay. Sáu chiếc máy bay tấn công nhóm của Chuẩn Đô đốc Montgomery và gần như đã tấn công được vào hai chiếc tàu sân bay và gây thương vong trên mỗi chiếc. Bốn trong số sáu chiếc máy bay này bị bắn rơi. Một nhóm nhỏ máy bay phóng ngư lôi tấn công chiếc Enterprise, một ngư lôi phát nổ khi con tàu trồi lên. Ba máy bay phóng ngư lôi khác tấn chiếc tầu sân bay hạng nhẹ Princeton nhưng đã bị bắn hạ. Trong tổng số 107 chiếc máy bay tấn công 97 chiếc đã bị bắn hạ.

    Cuộc tấn công thứ ba bao gồm 47 chiếc máy bay bay vào từ phía bắc. Chúng bị chặn lại bởi 40 máy bay chiến đấu lúc 13:00, ở cách khoảng 50 dặm (80 km) từ lực lượng đặc nhiệm. bảy chiếc máy bay Nhật bị bắn hạ. Một số đã phá vỡ hàng rào máy bay đánh chặn và thực hiện một cuộc tấn công không hiệu quả vào nhóm của chiếc Enterprise. Nhiều người khác đã không báo chí nhà các cuộc tấn công của họ. này cuộc đột kích do đó bị ít hơn những người khác , và 40 máy bay còn lại đã cố gắng để trở về tàu sân bay của họ.

    Cuộc tấn công thứ tư của Nhật Bản được tung ra vào lúc 11:00-11:30 , nhưng các phi-công đã được giao vị trí không chính xác của hạm đội Mỹ và không thể xác định vị trí đó. Sau đó, họ đã phân tán thành hai nhóm rời rạc và bay đến Guam và Sổ phân chia việc để tiếp nhiên liệu . Một nhóm bay về phía Rota stumbled khi nhóm nhiệm vụ Montgomery của . Mười tám chiếc máy bay đã tham gia trận chiến với máy bay chiến đấu Mỹ và bị mất một nửa của họ số. Một nhóm nhỏ hơn gồm chín chiếc máy bay ném bom bổ nhào Nhật của lực lượng này lẩn tránh được máy bay Mỹ và thực hiện các cuộc tấn công vào chiếc tàu sân bay USS Wasp và chiếc tàu sân bay USS Bunker Hill, nhưng không thả trúng được quả bom nào. Tám trong số những chiếc máy bay này bị bắn hạ trong quá trình trận đánh. Một nhóm máy bay Nhật lớn hơn đã bay tới đảo Guam và bị đánh chặn trên bầu trời Orote bởi chiếc 27 Hellcat trong khi hạ cánh. Ba mươi trong số 49 chiếc máy bay Nhật bị bắn hạ và phần còn lại đã bị hư hỏng không thể sửa chữa được. Trên tàu sân bay Lexington sau đó có một phi-công đã được nghe nhận xét " Đúng là địa ngục, việc này giống như một cuộc săn gà tây thời xưa! "kể từ đó, trận chiến không cân xứng này được biết đến như là "Great Marianas Turkey Shoot " .

    Tàu ngầm tấn công

    Tại 08:16 tàu ngầm USS Albacore nhìn thấy các tàu sân bay của Ozawa và bắt đầu một cuộc tấn công vào chiếc tàu sân bay gần nhất – chiếc Taihō – chiếc tàu sân bay lớn nhất và mới nhất trong hạm đội Nhật Bản, kỳ hạm của Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa. Tuy nhiên khi chiếc Albacore chuẩn bị bắn, máy điện toán điều khiển bị hỏng và các ngư lôi đã được ngắm bắn " bằng mắt ".

    Chiếc Taihō vừa tung ra 42 chiếc máy bay như một phần của cuộc không kích thứ hai. Bốn quả ngư lôi của chiếc Albacore đã trượt mục tiêu. Sakio Komatsu, phi-công của một trong những chiếc máy bay mới được tung ra, nhìn thấy một trong hai quả ngư lôi được hướng vào chiếc Taihō và lao máy bay của mình vào một trong hai quả ngư lôi đó, nhưng quả ngư lôi cuối cùng tấn công vào chiếc tàu sân bay ở phía mạn phải của nó, làm bùng cháy hai bể nhiên liệu máy bay. Lúc đầu thiệt hại dường như có vẻ không nghiêm trọng.

    Một chiếc tàu ngầm, chiếc USS Cavalla, đã có thể cơ động đến một vị trí thuận lợi để tấn công vào chiếc tầu sân bay Shōkaku có trọng tải 25.675 tấn vào khoảng giữa trưa . Chiếc tầu ngầm bắn một loạt sáu quả ngư lôi, ba trong số các quả ngư lôi đó tấn công vào chiếc Shōkaku. Bị hư hỏng nặng, chiếc tầu sân bay này dừng lại. Một quả ngư lôi đã bắn trúng vào bể chứa nhiên liệu hàng không ở gần nhà chứa máy bay chính, và các máy bay vừa mới hạ cánh và đang được tiếp nhiên liệu đã phát nổ trong lửa. Đạn dược và bom phát nổ trong đám cháy, như đã làm nhiên liệu đốt phun từ đường ống nhiên liệu tiêu tan. Mũi tầu của nó chìm xuống biển và các đám cháy đã ở ngoài tầm kiểm soát, thuyền trưởng ra lệnh bỏ tàu. Trong vòng vài phút , tổng thảm họa tấn tàu . Khí thải dễ bay hơi đã tích lũy trong suốt thân tàu và khi một quả bom trên của không quân phát nổ trên sàn chứa máy bay, một loạt các vụ nổ dữ dội thổi tung con tàu ở khoảng 140 dặm (230 km ) về phía bắc của đảo Yap. Chiếc tầu sân bay cán qua và trượt xuống bên dưới những con sóng đưa 887 sĩ quan và binh lính hải quân cộng với 376 người của Air Group 601, tổng số 1.263 người chìm xuống dưới đáy biển. Có 570 người sống sót, bao gồm cả chỉ huy của chiếc tàu sân bay, thuyền trưởng Hiroshi Matsubara .

    Trong khi đó, Taihō đã rơi xuống nạn nhân của nghèo thiệt hại Kiểm soát. Theo lệnh của một sĩ quan thiệt hại kiểm soát thiếu kinh nghiệm , hệ thống thông gió của cô đã được điều hành tại bệnh đạo ôn - đầy đủ trong một nỗ lực để xóa khói thuốc nổ từ con tàu. Điều này thay vì có tác dụng lây lan hơi trong suốt Taihō. Vào lúc 17:32, ngày cô phải chịu đựng một loạt các vụ nổ nghiêm trọng do khói tích tụ gây ra gần một máy phát điện trên sàn chứa máy bay . Của cô bổ sung của 1751 , tổng số 1.650 thuyền viên bị mất .


    Mỹ phản công


    TF -58 khởi hành đi về phía tây trong đêm để tấn công Nhật Bản vào lúc bình minh. Các máy bay tuần tra tìm kiếm đã được tung ra ngay khi có tia sáng mặt trời đầu tiên.

    Đô đốc Ozawa chuyển sang chiếc tàu khu trục Wakatsuki sau khi chiếc Taihō bị chìm, nhưng hệ thống đài phát thanh trên con tầu không có khả năng gửi được số lượng tin nhắn cần thiết, do đó, ông lại chuyển sang chiếc tầu sân bay Zuikaku, lúc 13:00. Sau đó ông đã biết được kết quả tai hại của ngày hôm trước và rằng ông chỉ còn có khoảng 150 máy bay còn lại. Tuy nhiên ông quyết định tiếp tục các cuộc tấn công bởi cho rằng ông ta vẫn còn hàng trăm máy bay trên đảo Guam và Rota và bắt đầu lập kế hoạch cho các cuộc tấn công mới cho ngày 21 tháng Sáu.

    Người Mỹ cố gắng tìm kiếm nhưng không thể xác định vị trí hạm đội Nhật Bản cho đến tận lúc 15:40 . Tuy nhiên các báo cáo được gửi về bị cắt xén làm cho Mitscher không thể biết được một cách chắc chắn rằng hạm đội tầu sân bay Nhật bản đang ở đâu. Vào lúc 16:05, ông ta nhận được một báo cáo rõ ràng hơn và Mitscher quyết định phát động một cuộc tấn công bởi Lực lượng Alpha " Alpha strike "mặc dù chỉ còn 75 phút nữa sẽ là lúc hoàng hôn và phi-công của ông bình thường không thể hạ cánh vào ban đêm vậy nguy cơ rất dễ xảy ra những mất mát nghiêm trọng do tai nạn khi hạ cánh. Đợt tấn công được tung ra vào lúc 18:30.

    Ozawa chỉ có thể tung ra rất ít máy bay chiến đấu để ngăn chặn các cuộc tấn công của Mỹ, chỉ khoảng không quá 35 chiếc theo ước tính sau này, nhưng rất ít người trong số này là những tay lái điệu nghệ, mặc dù súng phòng không của Nhật Bản bắn mạnh. Tuy nhiên trong cuộc đột kích của Hoa Kỳ có 550 máy bay, và phần lớn đã có thể lao vào tấn công.

    Các tàu đầu tiên bị phát hiện bởi các đội bay tấn công của Hoa Kỳ là các tầu chở dầu , và hai trong số này bị hư hại trầm trọng mà họ đã sau này đánh đắm . Chiếc tầu sân bay Hiyō bị tấn công và đánh bom và ngư lôi hàng không từ bốn chiếc GrummanAvenger cất cánh từ chiếc tầu sân bay Belleau Wood.

    Chiếc Hiyō bị cháy sau khi một vụ nổ lớn từ việc rò rỉ nhiên liệu hàng không. Bất động rồi nó từ từ chìm xuống dưới các làn sóng biển mang theo nó 250 thủy thủ và sỹ quan của con tầu. Phần còn lại của thủy thủ đoàn của nó khoảng hơn một nghìn người sống sót được cứu bởi các tàu khu trục của Nhật Bản. Các tàu sân bay Zuikaku, JunyōChiyoda bị hư hại do bom cũng giống như chiếc tàu thiết giáp Haruna. Hai mươi máy bay Mỹ đã bị bắn hạ trong cuộc tấn công này.

    Tại 20:45, chiếc máy bay đầu tiên của Hoa kỳ bắt đầu trở lại TF -58. Biết rằng phi công của ông sẽ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các tầu sân bay của họ, Mitscher quyết định cho bật điện chiếu sáng hoàn toàn đội tầu của ông, đèn được chiếu sáng cụm lại và hướng trực tiếp lên không trung vào ban đêm, bất chấp những nguy cơ tấn công từ tàu ngầm và máy bay bay đêm của đối phương. Các khu trục hạm hộ tống bắn các phát pháo hiệu để giúp những chiếc máy bay tìm thấy các nhóm tầu sân bay đặc nhiệm. Mặc dù vậy ,80 chiếc máy bay trở về đã bị mất một số bị rơi trên sàn chuyến bay, phần lớn phải hạ cánh trên biển. Nhiều người trong số các đội bay đã được cứu sống trong vài ngày sau.


    Hậu quả của trận đánh

    Đêm đó, Đô đốc Ozawa nhận được mệnh lệnh rút lui khỏi biển Philippines từ Toyoda. Lực lượng Hải quân Mỹ đã cố gắng đuổi theo nhưng trận chiến đã kết thúc.

    Bốn cuộc không kích của Nhật Bản có sự tham gia của 373 máy bay trên các tàu sân bay, trong đó có chỉ có 130 chiếc quay trở về được các tàu sân bay và rất nhiều chiếc máy bay trong số này đã bị mất trên boong tàu khi hai tàu sân bay bị đánh chìm vào ngày đầu tiên bởi các đợt tấn công của tàu ngầm. Sau ngày thứ hai tổng thiệt hại là ba tàu sân bay với hơn 433 máy bay trên tàu sân bay và khoảng 200 máy bay trên đất liền. Thiệt hại về phía Hoa Kỳ vào ngày đầu tiên chỉ là 23 máy bay và vào ngày thứ hai là 100 chiếc máy bay, hầu hết trong số chúng là do việc hạ cánh vào ban đêm.

    Thiệt hại của người Nhật là không thể thay thế. Trong số các máy bay của Hải quân Nhật Bản, chỉ có 35 chiếc máy bay của Đô đốc Ozawa trong tổng số 473 chiếc là còn đủ điều kiện để cất cánh. Trong Trận chiến vịnh Leyte vài tháng sau đó tàu sân bay của họ đã chỉ được sử dụng như một mồi nhử vào Hải quân Hoa kỳ vì thiếu cả máy bay và các đội bay để điều khiển các máy bay này
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Hải chiến vịnh Leyte - Trận đấu tầu sân bay thứ sáu

    Tóm tắt trận đánh

    Thời gian: 23-26 tháng 10 năm 1944
    Địa điểm: Vịnh Leyte, Philippines
    Kết quả: Chiến thắng quyết định của Đồng Minh

    Các bên tham chiến

    Hoa Kỳ
    Australia

    Chỉ huy
    William Halsey , Jr
    (Hạm đội 3)
    Thomas C. Kinkaid
    (Hạm đội 7)

    Sức mạnh
    8 tàu sân bay hạm đội
    8 tầu sân bay hạng nhẹ
    18 tàu sân bay hộ tống
    12 thiết giáp hạm
    24 tàu tuần dương
    141 tàu khu trụctàu khu trục hộ tống
    Nhiều PT Boat, tàu ngầm, và tàu phụ trợ
    Khoảng 1.500 máy bay


    Tổn thất
    Hơn 2000 người chết ;
    1 tàu sân bay hạng nhẹ bị đánh chìm,
    2 tàu sân bay hộ tống bị đánh chìm,
    2 tàu khu trục lớn bị đánh chìm,
    1 tàu khu trục hộ tống bị đánh chìm


    Đế quốc Nhật Bản


    Chỉ huy
    Takeo Kurita ( Cánh quân trung tâm)
    Shoji Nishimura ( Cánh quân phía Nam)
    Kiyohide Shima (Cánh quân phía Nam)
    Jisaburō Ozawa ( Cánh quân phía Bắc )
    Yukio Seki ( Lực lượng Kamikaze)

    Sức mạnh
    1 tầu sân bay hạm đội
    3 tầu sân bay hạng nhẹ
    9 tàu thiết giáp
    14 tàu tuần dương hạng nặng
    6 tàu tuần dương hạng nhẹ
    Hơn 35 tàu khu trục
    Hơn 300 máy bay (bao gồm cả máy bay trên đất liền )


    Tổn thất
    Hơn 10.000 người chết ;
    1 tàu sân bay hạm đội bị đánh chìm,
    3 tàu sân bay hạng nhẹ bị đánh chìm,
    3 tàu thiết giáp hạm bị đánh chìm,
    8 tàu tuần dương bị đánh chìm,
    12 khu trục hạm bị đánh chìm

    Trận Hải chiến vịnh Leyte, cũng được gọi là " cuộc chiến vịnh Leyte " và trước đây được gọi là " Trận chiến biển Philippine lần thứ hai ", thường được coi là trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh Thế giới II và cũng là trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử Hải quân thời hiện đại.
    Đây là một trận chiến diễn ra trong vùng biển Philippine gần các đảo Leyte, SamarLuzon, từ ngày 23 -> 26 tháng 10 năm 1944, giữa Lực lượng Hải quân Đồng minh bao gồm Mỹ và Úc chống lại lực lượng Hải quân Nhật bản. Ngày 20 tháng 10 quân đội Hoa kỳ tiến hành chiếm đóng đảo Leyte như một phần của chiến lược nhằm cô lập Nhật Bản khỏi các quốc gia trong Đông Nam Á mà họ đang chiếm đóng để chia cắt lực lượng của họ và đặc biệt là để tước đi nguồn tài nguyên dầu lửa quan trong cho ngành công nghiệp của Nhật bản. Hải quân Đế quốc Nhật Bản (Hải quân Nhật) huy động gần như tất cả các lực lượng tàu hải quân chính còn lại trong một nỗ lực để đánh bại cuộc xâm lược của Đồng Minh, nhưng họ đã bị đẩy lùi bởi các Hạm đội Mỹ số 37. Hải quân Nhật bản không những không đạt được mục tiêu của họ mà còn bị thiệt hại rất nặng và sau đó không bao giờ còn có thể có năng lực để chiến đấu mặt giáp mặt với Hải quân Đồng minh được nữa. Đa số các tầu chiến còn sống sót của họ đều bị trương nặng nề, cạn hết nhiên liệu xăng dầu, và phải ở trong căn cứ của họ trong phần còn lại của cuộc Chiến Thái Bình Dương.

    Trận chiến vịnh Leyte bao gồm bốn trận đánh lớn của hải quân bao gồm: Trận chiến biển Sibuyan, Trận chiến eo biển Surigao, Trận ra mũi EngañoTrận chiến ngoài khơi Samar cũng như các hoạt động chiến đấu khác.

    Trận chiến vịnh Leyte cũng là một trận chiến đầu tiên đáng được chú ý đầu tiên vì các máy bay Nhật bản tiến hành tổ chức hàng loạt những cuộc tấn công kamikaze. Một điều cũng đáng chú ý nữa là thực tế trong trận này người Nhật Bản còn có ít máy bay hơn cả số lượng tầu chiến của lực lượng Đồng Minh, một minh chứng rõ ràng của sự chênh lệch lực lượng của hai bên vào thời điểm này của cuộc chiến.


    Bối cảnh

    Các chiến dịch của Đồng minh từ tháng 8 năm 1942 đến đầu năm 1944 đã đẩy được lực lượng Nhật Bản từ nhiều đảo căn cứ của họ ở miền nam và miền trung Thái Bình Dương, và đồng thời cũng cô lập nhiều căn cứ khác của họ (đáng chú ý nhất là ở Solomon Islands, Bismarck Archipelago, Admiralty Islands, New Guinea, Marshall IslandsWake Island) và vào tháng 6 năm 1944 một loạt các cuộc đổ bộ của Mỹ được hỗ trợ bởi Lực lượng Đặc nhiệm tầu sân bay của Ham đội 5 - Hoa Kỳ đã chiếm giữ hầu hết các Quần đảo Mariana Islands ( bỏ qua đảo Rota). Các cuộc tấn công này đã động chạm đến vành đai phòng thủ chiến lược bên trong của Nhật Bản và tạo điều kiện cho người Mỹ có một căn cứ và từ đó có thể tung ra các máy bay ném bom tầm xa B -29 Superfortress để tấn công hòn đảo Nhật Bản. Người Nhật tiến hành phản công ở Trận chiến biển Philippines. Hải quân Mỹ đã phá hủy ba tàu sân bay Nhật Bản (và bị hư hỏng vài tàu khác ) và bắn hạ khoảng 600 máy bay của Nhật Bản, làm cho Hải quân Đế quốc Nhật hầu như không còn các máy bay trên tàu sân bay hay còn các phi công có kinh nghiệm.

    Đối với các hành động tiếp theo, Đô đốc Ernest J. King và các thành viên khác của Bộ tham mưu Liên quân ủng hộ một cuộc phong tỏa các lực lượng Nhật Bản ở Philippines và tấn công đảo ******* (Đài Loan) để thiết lập kiểm soát của người Mỹ và Úc vào các tuyến đường biển giữa Nhật Bản và miền nam châu Á . Tướng Lục quân Hoa Kỳ Douglas MacArthur lại đòi hỏi phải có một cuộc xâm chiếm Phillippines (cha này muốn rửa nhục nhã cá nhân bằng hàng vạn mạng lính Mỹ) mà hòn đảo này cũng nằm trên đường cung cấp cho Nhật Bản. Việc ông ta phải rời Phillippines và trao vào tay người Nhật Bản là một đòn giáng vào uy tín của nước Mỹ và là một sự sỉ nhục đến danh dự cá nhân của MacArthur , người vào năm 1942 đã phát ngôn một cách huênh hoang câu nói nổi tiếng "Tôi sẽ trở lại " Ngoài ra, không có lực lượng đáng kể nào của Nhật Bản được tập trung ở Philippines để được cho là quá nguy hiểm nếu bỏ qua hòn đảo này – đây cũng là những suy nghĩ của nhiều sĩ quan cao cấp bên ngoài Bộ tham mưu Liên quân bao gồm cả Đô đốc Chester Nimitz. Tuy nhiên, cả Nimitz và MacArthur ban đầu đã có kế hoạch ngược lại, kế hoạch ban đầu của Nimitz là tập trung vào một cuộc xâm lược đảo Đài Loan, từ đó cũng có thể cắt giảm các đường cung cấp cho Nhật bản từ Đông Nam Á. Nó cũng có thể phục vụ như là một căn cứ cho một cuộc xâm lược vào Trung Quốc đại lục (ở phần Nhật bản đang chiếm đóng) nhưng MacArthur lại cảm thấy không cần thiết. Một cuộc họp được tiến hành giữa MacArthur , Nimitz và Tổng thống Roosevelt đã giúp xác nhận rằng Phillippines là một mục tiêu chiến lược, nhưng theo quyết định cuối cùng thì mục tiêu của cuộc xâm lược vào Phillippines là ít đi rất nhiều so với các tuyên bố trước đó. Nimitz cuối cùng đã đổi ý và đồng ý kế hoạch của MacArthur. Họ cũng ước tính rằng một cuộc xâm lược vào ******* sẽ đòi hỏi khoảng 12 sư đoàn bộ binh và Thủy quân lục chiến Hoa kỳ, và do đó đòi hỏi nhiều lực lượng trên bộ hơn so với số lượng mà người Mỹ có thể tập hợp trong toàn bộ khu vực Thái Bình Dương vào lúc đó. Toàn bộ quân đội Úc đang tham chiến ở các quần đảo Solomon, New Guinea, trong Đông Ấn thuộc Hà Lan và trên các đảo khác thuộc khu vực Thái Bình Dương .

    Có lẽ nhân tố chính quyết định loại bỏ kế hoạch ******* (Đài loan) - Trung Quốc, như được dự kiến bởi Đô đốc King và những người khác là cuộc xâm lược vào ******* sẽ đòi hỏi một lực lượng trên bộ lớn hơn lực lượng mà Đồng min có sẵn tại Thái Bình Dương vào cuối năm 1944 và nó sẽ không có khả thi cho đến khi nước Đức thua trận và sự kiện này mới cho phép giải phóng nhiều hơn nữa các nguồn nhân lực cần thiết. (Tóm lại là phải chuyển lực lượng từ châu Âu về châu Á)

    Cuối cùng thì Đồng ming đã quyết định rằng lực lượng của MacArthur sẽ xâm chiếm đảo Leyte ở trung tâm Philippines. Các lực lượng đổ bộ và hải quân hỗ trợ tầm gần sẽ được cung cấp bởi Hạm đội 7 chỉ huy bởi Phó Đô đốc Thomas C. Kinkaid. Hạm đội 7 vào thời gian này đang có các đơn vị của Hải quân Mỹ và Hải quân Hoàng gia Australia, bao gồm cả các tàu tuần dương hạng nặng lớp County như các chiếc HMAS ShropshireAustralia, và chiếc tàu khu trục Arunta, và có thể thêm một vài tàu chiến từ New Zealand và Hà Lan.

    Hạm đội 3 được chỉ huy bởi Đô đốc William F. Halsey , Jr, với Lực lượng Đặc nhiệm 38 (Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay được chỉ huy bởi Phó Đô đốc Marc Mitscher) là thành phần chính của nó, sẽ cung cấp yểm trợ ở tầm xa hơn và hỗ trợ cho cuộc xâm lược.

    Một khiếm khuyết nghiêm trọng và cơ bản trong kế hoạch này là không có một viên đô đốc Hải quân chỉ huy chung. Điều này tạo ra một sự chỉ huy thiếu thống nhất cùng với những thất bại trong liên lạc, truyền tin hoàn toàn có nguy cơ tạo ra một cuộc khủng hoảng và xuýt nữa thì tạo ra một thảm họa tầm cỡ chiến lược cho lực lượng quân đội Mỹ. (theo các nhà sử gia Fuller năm 1956 và Morison năm 1956). Một trùng hợp ngẫu nhiên là kế hoạch của người Nhật Bản cũng sử dụng ba hạm đội riêng biệt mà không chỉ định một chỉ huy tổng thể.

    Các lựa chọn của Mỹ rõ ràng là cân bằng với các kế hoạch của Soemu Toyoda – Tư lệnh của Hạm đội Liên hợp Hải quân Đế quốc Nhật Bản khi ông ta chuẩn bị cho bốn "chiến thắng ": Shō - Gō 1 (Ichigo sakusen) Là một chiến dịch hải quân tại Philippines, trong khi các Shō - Gō 2, Shō - Gō 3Shō - Gō 4 là các phản ứng tương ứng vào các cuộc tấn công của Đồng minh vào Đài Loan, đảo Ryukyu và quần đảo Kurile. Các kế hoạch này được cho là các hoạt động phức tạp nhằm mục đích huy động gần như tất cả lực lượng sẵn có của Nhật bản cho một trận đánh quyết định và do đó chúng cũng làm suy giảm một cách đáng kể số lượng dự trữ dầu nhiên liệu ít ỏi vốn rất cần thiết cho Nhật bản vào lúc này.

    Ngày 12 tháng 10 năm 1944, Hạm đội 3 Hoa Kỳ của Đô đốc Halsey đã bắt đầu một loạt các cuộc tấn công bằng tầu sân bay vào Đài Loan và quần đảo Ryukyu , nhằm đảm bảo rằng máy bay của các căn cứ này không thể can thiệp vào cuộc đổ bộ Leyte. Làm cho Bộ chỉ huy Nhật Bản phải ra lệnh đưa kế hoạch Shō - Gō 2 vào hành động, phát động làn sóng tấn công không kích 3 tàu sân bay Hạm đội của Hoa kỳ. Đây là những gì mà nhà sử gia Morison đã đề cập đến như là một " đòn knock -down, trong những trận Dogfight trên không, giữa các máy bay từ các tàu sân bay Hoa kỳ và trên máy bay đất liền của Nhật Bản" và Nhật bản đã bị mất 600 máy bay trong ba ngày (lý do bởi là vì máy bay Hoa kỳ lúc này đã được cải tiến hiện đại hơn máy bay Zero của NB – trong khi đó đa số các phi-công Nhật bản là những người trẻ tuổi được đào tạo sơ sài), gần như toàn bộ sức mạnh Không lực của người Nhật bản trong khu vực. Sau cuộc xâm lược của Mỹ vào Phillippines, Hải quân Nhật Bản bắt đầu chuyển sang thực hiện kế hoạch Shō - Gō 1.

    Shō - Gō 1 là kế hoạch sử dụng đội tầu của Phó Đô đốc Jisaburō Ozawa - được gọi là "Cánh quân phía Bắc" - để thu hút lực lượng Hải quân chính của Hoa kỳ ra khỏi vịnh Leyte. Cánh quân phía Bắc được xây dựng xung quanh một số chiếc tàu sân bay nhưng có máy bay rất ít hoặc phi công được huấn luyện tốt. Các tàu sân bay sẽ phục vụ như là một mồi nhử. Khi lực lượng Hoa Kỳ đã được thu hút ra, hai lực lượng tầu chiến bề mặt khác sẽ tiến vào Leyte từ phía Tây. " Cánh quân phía Bắc "dưới sự chỉ huy của các Phó Đô Đốc Shoji NishimuraKiyohide Shima sẽ tấn công vào khu vực đổ bộ của Đồng minh qua eo biển Surigao. "Cánh quân Trung tâm" dưới sự chỉ huy của Phó đô đốc Takeo Kurita, đây là lực lượng tấn công mạnh nhất, sẽ đi qua eo biển San Bernardino và tiến vào biển Phillippines, rẽ sang phía nam và sau đó cũng tấn công vào khu vực đổ bộ.

    Kế hoạch này dẫn đến khả năng một hoặc nhiều trong số các lực lượng tấn công sẽ bị hủy diệt, nhưng Đô đốc Toyoda sau đó đã giải thích khi bị thẩm vấn bởi người Mỹ như sau :

    Nếu chúng tôi thua trong chiến dịch Phillippines, mặc dù hạm đội có thoát khỏi nguy hiểm thì tuyến đường vận chuyển về phía nam vẫn sẽ hoàn toàn bị cắt đứt đối với các đội tàu này nếu nó muốn quay trở về vùng biển Nhật Bản vì sẽ không có các nguồn cung cấp nhiên liệu cho nó. Nếu nó phải ở lại trong vùng biển phía Nam, nó không thể nhận được các nguồn cung cấp đạn dược và vũ khí. Sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi bảo vệ được hạm đội nhưng lại đánh đổi lấy một thất bại tại Phillippines. ( nguyên văn - Should we lose in the Philippines operations, even though the fleet should be left, the shipping lane to the south would be completely cut off so that the fleet, if it should come back to Japanese waters, could not obtain its fuel supply. If it should remain in southern waters, it could not receive supplies of ammunition and arms. There would be no sense in saving the fleet at the expense of the loss of the Philippines) – theo tài liệu từ “ United States Strategic Bombing Survey (Pacific) – Các cuộc thầm vấn các sỹ quan Nhật Bản”

    Các Hoạt động của tàu ngầm ở Palawan Passage ngày 23 tháng 10


    Khi khởi hành từ căn cứ của mình ở Brunei, lực lượng " Lực lượng Trung tâm " mạnh nhất dưới sự chỉ huy trực tiếp của Kurita bao gồm năm chiếc thiết giáp hạm (các chiếc Yamato, Musashi, Nagato, Kongō, và Haruna), mười tàu tuần dương hạng nặng (các chiếc Atago, Maya, Takao, Chōkai, Myōkō, Haguro, Kumano, Suzuya, Tone Chikuma), hai tàu tuần dương hạng nhẹ (các chiếc NoshiroYahagi) và 15 tàu khu trục.

    Các tàu của Kurita đi qua đảo Palawan khoảng nửa đêm ngày 22-> ngày 23 tháng 10 . Các tàu ngầm Hoa kỳ DarterDace được định vị ở gần đó cùng với lực lượng tầu chiến bề mặt của họ. Vào lúc 00:16 ngày 23 tháng Mười, Radar của chiếc Darter đã phát hiện ra đội hình của Nhật Bản ở một phạm vi khoảng 30.000 yd ( 27.000 m ). Thuyền trưởng của nó quan sát kịp thời bằng trực quan. Hai chiếc tàu ngầm di chuyển một cách nhanh chóng để theo đuổi của các tàu chiến Nhật trong khi chiếc Dace đã liên tục gửi 3 báo cáo đầu tiên về những gì quan sát được. Ít nhất một trong số những tin nhắn này bị lại bởi nhân viên tổng đài của chiếc Yamato nhưng Kurita vẫn không có các biện pháp thích hợp đề phòng chống lại tàu ngầm.

    Các chiếc DarterDace ( chạy trên bề mặt nước với toàn bộ tốc độ cao nhất ) sau vài giờ để tới được một vị trí phía trước của đội hình tầu chiến của Kurita của có ý định làm một cuộc tấn công ngập nước ở các ánh sáng đầu tiên. Cuộc tấn công này thành công một cách bất thường. Tại 05:24, chiếc Darter bắn một loạt sáu phát ngư lôi, ít nhất là bốn quả trong đó bắn trúng chiến hạm của Kurita - chiếc tàu tuần dương hạng nặng Atago. 10 phút sau, chiếc Darter lại bắn hai quả ngư lôi trúng vào chiếc Takao - con tàu chị em của chiếc Atago trong một loạt ngư lôi. Lúc 05:56 chiếc Dace bắn bốn phát ngư lôi trúng vào chiếc tuần dương hạng nặng Maya ( chị em với các chiếc AtagoTakao).

    Các chiếc AtagoMaya chìm một cách nhanh chóng, Chiếc Takao quay trở lại Brunei và được hộ tống bởi hai tàu khu trục - và tiếp theo hai tàu ngầm. Ngày 24 tháng 10 các tàu ngầm tiếp tục bám theo chiếc tàu tuần dương hư hỏng, chiếc Dace bị mắc cạn trên ở Shoal Bombay. Tất cả những nỗ lực để giải cứu nó đều không thành công, và thủy thủ đoàn buộc phải rời con tầu, tuy nhiên, toàn bộ trong số họ được giải cứu bởi chiếc Darter.

    Chiếc Takao quay trở lại Singapore, nơi nó ở lại trong phần còn lại của cuộc chiến, và được gia nhập vào tháng Giêng năm 1945 bởi chiếc Myōkō.

    Chiếc Atago bị đánh chìm rất nhanh làm Kurita buộc phải bơi để sống sót. Ông được cứu bởi một trong những tàu khu trục của Nhật Bản và sau đó ông chuyển sang chỉ huy trên chiếc thiết giáp hạm Yamato.

    Trận không kích ở biển Sibuyan ngày 24 tháng Mười

    Khoảng 08:00 ngày 24 tháng 10 , lực lượng của cánh quân Trung tâm đã bị phát hiện và tấn công vào ở biển Sibuyan bởi các phi đội gồm 20 chiếc máy bay chiến đấu VF- Hellcat, 20 chiếc máy bay ném bom bổ nhào VB - Helldiver và 20 chiếc máy bay phóng ngư lôi VT - Revenger từ chiếc USS Enterprise của Hạm đội 3 của Halsey. Mặc dù có sức mạnh tuyệt vời, Hạm đội 3 đã không được đặt tình huống để đối phó với mối đe dọa này. Ngày 22 tháng Mười, Halsey đã cho tách ra hai nhóm tàu sân bay của mình ở lại căn cứ hạm đội tại Ulithi để lấy đồ cung cấp và tái trang bị. Khi chiếc tầu ngầm Darter báo cáo về việc có một lực lượng tầu đối phương xuất hiện Halsey nhớ ra nhóm Davison của nhưng cho phép Phó Đô đốc McCain với nhóm tàu sân bay TF 38 tiếp tục hướng về phía Ulithi. Halsey cuối cùng cũng đã gọi nhóm của McCain quay lại vào ngày 24 tháng 10 - nhưng sự chậm trễ này có nghĩa là nhóm tàu sân bay mạnh nhất của Hoa kỳ sẽ đóng một phần nhỏ trong trận chiến sắp tới và do đó Hạm đội 3 bị tước đi tới gần 40 % hiệu quả của sức mạnh không quân của nó trong hầu hết các trận đánh. Vào sáng ngày 24 Tháng 10, chỉ có ba nhóm Không lực có sẵn để tấn công lực lượng của Kurita và ở một trong những vị trí tốt nhất để tiến hành tấn công – thuộc nhóm của Bogan TF 38,2 - do sự rủi ro lại là nhóm yếu nhất, có duy nhất một chiếc tàu sân bay lớn – chiếc Intrepid - và hai tàu sân bay hạng nhẹ ( thất bại trong việc kịp thời thu hồi nhóm của McCain vào ngày 23 tháng mười đồng thời với việc Hạm đội 3 không có sự tham chiến của bốn trong số sáu chiếc tàu tuần dương hạng nặng của nó trong suốt cuộc chiến,).

    Máy bay từ các tàu sân bay IntrepidCabot của nhóm Bogan triển khai tấn công vào lúc khoảng 10:30, và không kích dồn dập vào các thiết giáp hạm Nagato, Yamato, và Musashi và nặng làm hư hỏng chiếc tàu tuần dương hạng nặng Myōkō. Một làn sóng máy bay thứ hai từ các chiếc Intrepid, E.s.s.e.xLexington sau đó lại tiếp tục tấn công bởi 15 chiếc VB Helldivers và 15 chiếc VF Hellcat từ chiếc E.s.s.e.x, ném được 10 quả bom trúng vào chiếc Musashi. Làm nó bị nghiêng sang mạn trái, một làn sóng thứ ba từ các chiếc EnterpriseFranklin tiếp tục bắn trúng nó với 11 quả bom và 8 quả ngư lôi.

    Kurita cho chuyển đội tàu của mình ra khu vực xung quanh để ra khỏi phạm vi của máy bay đối phương, đi qua các tàn tật Musashi là lực lượng của ông rút lui. Ông đợi cho đến khi 17:15 trước khi chuyển xung quanh một lần nữa để hướng đầu đến eo biển San Bernardino San – chiếc Musashi bị lật úp và chìm vào khoảng 19:30.

    Trong khi đó, Phó Đô đốc Takijirō Onishi đã chỉ huy ba đợt sóng máy bay từ của mình của nhóm Không lực của Hạm đội đầu tiên có căn cứ ở Luzon tấn công vào các tàu sân bay của nhóm TF 38.3 của Chuẩn Đô đốc Sherman ( cũng có máy bay được sử dụng để tấn công các sân bay tại Luzon để ngăn chặn các cuộc tấn công không kích của Nhật Bản vào cuộc đổ bộ của Đồng Minh trong vịnh Leyte ). Mỗi sóng tấn công của Onishi bao gồm một số từ năm mươi đến sáu mươi máy bay.

    Hầu hết các máy bay tấn công của Nhật bản đã bị ngăn chặn và bắn hạ hoặc xua đi bởi những chiếc Hellcat của nhóm tuần tra chiến đấu của Sherman, đáng chú ý nhất của hai nhóm máy bay chiến đấu của chiếc E.s.s.e.x dưới sự chỉ huy của David McCampbell (người được cho là đã bắn hạ chín trong những chiếc máy bay tấn công trong trận này này). Một chiếc máy bay Nhật Bản (một chiếc Yokosuka D4Y Judy) vượt qua phòng thủ và lúc 09:38 lao trúng vào chiếc tầu sân bay hạng nhẹ USSPrinceton với một quả bom xuyên thép 551 lb (250 kg) đã gây ra một đám cháy nghiêm trọng chiếc sàn chứa máy bay của chiếc Princeton. Hệ thống phun nước khẩn cấp của nó đã không hoạt động thành công và đám cháy lan ra nhanh chóng gây ra loạt các vụ nổ tiếp theo. Các đám cháy đã dần dần được kiểm soát nhưng vào lúc 15:23 có một vụ nổ lớn (có thể là trong các quả bom xếp phía sau của chiến tầu sâkn bay ), gây thương vong nhiều hơn nữa cho chiếc tầu sân bay Princeton và thậm chí còn làm thương vong hơn 300 người trên chiếc tàu tuần dương Birmingham khi chiếc này quay trở lại để hỗ trợ chữa cháy. Chiếc Birmingham đã bị hư hỏng nặng nên nó đã bị buộc phải ra khỉ vòng chiến. Một vài chiếc tàu khác gần đó cũng bị hư hỏng. Tất cả những nỗ lực để cứu vãn chiếc Princeton đã không thành công, và nó cuối cùng bị đánh đắm – khi trúng ngư lôi của chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Reno - lúc 17:50.

    Tổng số Hạm đội 3 Hoa kỳ đã tung ra 259 phi vụ, chủ yếu là của loại máy bay Hellcat để tấn công cánh quân Trung tâm vào ngày 24 tháng Mười. Sức mạnh của các cuộc tấn công không đủ để hóa giải các mối đe dọa từ lực lượng của Kurita. Nó tương phản với 527 phi vụ của hạm đội 3 để tấn công vào cánh quân phía Bắc của Ozawa yếu hơn nhiều vào ngày hôm sau. Hơn nữa, một phần lớn của cuộc tấn công ở biển Sibuyan được hướng để nhằm vào chỉ một chiếc tầu duy nhất – chiếc Musashi, làm cho chiếc tàu chiến lớn này đã bị đánh chìm và thêm tàu tuần dương Myōkō bị hư hỏng nhưng những con tàu khác trong lực lượng của Kurita vẫn còn giá trị chiến đấu cao và có thể trước.

    Kết quả của quyết định quan trọng lúc này được ban bố bởi Đô đốc Halsey làm cho đội tầu của Kurita đã có thể tiến lên qua Eo biển San Bernardino vào ban đêm, để có thể xuất hiện bất ngờ và tạo kịch tính ngoài khơi bờ biển Samar vào sáng hôm sau .


    Trận không kích ở biển Sibuyan ngày 24 tháng Mười

    Khoảng 08:00 ngày 24 tháng 10 , lực lượng của cánh quân Trung tâm đã bị phát hiện và tấn công vào ở biển Sibuyan bởi các phi đội gồm 20 chiếc máy bay chiến đấu VF- Hellcat, 20 chiếc máy bay ném bom bổ nhào VB - Helldiver và 20 chiếc máy bay phóng ngư lôi VT - Avenger từ chiếc USS Enterprise của Hạm đội 3 của Halsey. Mặc dù có sức mạnh tuyệt vời, Hạm đội 3 đã không được đặt tình huống để đối phó với mối đe dọa này. Ngày 22 tháng Mười, Halsey đã cho tách ra hai nhóm tàu sân bay của mình ở lại căn cứ hạm đội tại Ulithi để lấy đồ cung cấp và tái trang bị. Khi chiếc tầu ngầm Darter báo cáo về việc có một lực lượng tầu đối phương xuất hiện Halsey nhớ ra nhóm Davison của nhưng cho phép Phó Đô đốc McCain với nhóm tàu sân bay TF 38 tiếp tục hướng về phía Ulithi. Halsey cuối cùng cũng đã gọi nhóm của McCain quay lại vào ngày 24 tháng 10 - nhưng sự chậm trễ này có nghĩa là nhóm tàu sân bay mạnh nhất của Hoa kỳ sẽ đóng một phần nhỏ trong trận chiến sắp tới và do đó Hạm đội 3 bị tước đi tới gần 40 % hiệu quả của sức mạnh không quân của nó trong hầu hết các trận đánh. Vào sáng ngày 24 Tháng 10, chỉ có ba nhóm Không lực có sẵn để tấn công lực lượng của Kurita và ở một trong những vị trí tốt nhất để tiến hành tấn công – thuộc nhóm của Bogan TF 38,2 - do sự rủi ro lại là nhóm yếu nhất, có duy nhất một chiếc tàu sân bay lớn – chiếc Intrepid - và hai tàu sân bay hạng nhẹ ( thất bại trong việc kịp thời thu hồi nhóm của McCain vào ngày 23 tháng mười đồng thời với việc Hạm đội 3 không có sự tham chiến của bốn trong số sáu chiếc tàu tuần dương hạng nặng của nó trong suốt cuộc chiến,).

    Máy bay từ các tàu sân bay IntrepidCabot của nhóm Bogan triển khai tấn công vào lúc khoảng 10:30, và không kích dồn dập vào các thiết giáp hạm Nagato, Yamato, và Musashi và nặng làm hư hỏng chiếc tàu tuần dương hạng nặng Myōkō. Một làn sóng máy bay thứ hai từ các chiếc Intrepid, E.s.s.e.xLexington sau đó lại tiếp tục tấn công bởi 15 chiếc VB Helldivers và 15 chiếc VF Hellcat từ chiếc Es***, ném được 10 quả bom trúng vào chiếc Musashi. Làm nó bị nghiêng sang mạn trái, một làn sóng thứ ba từ các chiếc EnterpriseFranklin tiếp tục bắn trúng nó với 11 quả bom và 8 quả ngư lôi.

    Kurita cho chuyển đội tàu của mình ra khu vực xung quanh để ra khỏi phạm vi của máy bay đối phương, đi qua các tàn tật Musashi là lực lượng của ông rút lui. Ông đợi cho đến khi 17:15 trước khi chuyển xung quanh một lần nữa để hướng đầu đến eo biển San Bernardino San – chiếc Musashi bị lật úp và chìm vào khoảng 19:30.

    Trong khi đó, Phó Đô đốc Takijirō Onishi đã chỉ huy ba đợt sóng máy bay từ của mình của nhóm Không lực của Hạm đội đầu tiên có căn cứ ở Luzon tấn công vào các tàu sân bay của nhóm TF 38.3 của Chuẩn Đô đốc Sherman ( cũng có máy bay được sử dụng để tấn công các sân bay tại Luzon để ngăn chặn các cuộc tấn công không kích của Nhật Bản vào cuộc đổ bộ của Đồng Minh trong vịnh Leyte ). Mỗi sóng tấn công của Onishi bao gồm một số từ năm mươi đến sáu mươi máy bay.

    Hầu hết các máy bay tấn công của Nhật bản đã bị ngăn chặn và bắn hạ hoặc xua đi bởi những chiếc Hellcat của nhóm tuần tra chiến đấu của Sherman, đáng chú ý nhất của hai nhóm máy bay chiến đấu của chiếc E.s.s.e.x dưới sự chỉ huy của David McCampbell (người được cho là đã bắn hạ chín trong những chiếc máy bay tấn công trong trận này này). Một chiếc máy bay Nhật Bản (một chiếc Yokosuka D4Y Judy) vượt qua phòng thủ và lúc 09:38 lao trúng vào chiếc tầu sân bay hạng nhẹ USSPrinceton với một quả bom xuyên thép 551 lb (250 kg) đã gây ra một đám cháy nghiêm trọng chiếc sàn chứa máy bay của chiếc Princeton. Hệ thống phun nước khẩn cấp của nó đã không hoạt động thành công và đám cháy lan ra nhanh chóng gây ra loạt các vụ nổ tiếp theo. Các đám cháy đã dần dần được kiểm soát nhưng vào lúc 15:23 có một vụ nổ lớn (có thể là trong các quả bom xếp phía sau của chiến tầu sâkn bay ), gây thương vong nhiều hơn nữa cho chiếc tầu sân bay Princeton và thậm chí còn làm thương vong hơn 300 người trên chiếc tàu tuần dương Birmingham khi chiếc này quay trở lại để hỗ trợ chữa cháy. Chiếc Birmingham đã bị hư hỏng nặng nên nó đã bị buộc phải ra khỉ vòng chiến. Một vài chiếc tàu khác gần đó cũng bị hư hỏng. Tất cả những nỗ lực để cứu vãn chiếc Princeton đã không thành công, và nó cuối cùng bị đánh đắm – khi trúng ngư lôi của chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Reno - lúc 17:50.

    Tổng số Hạm đội 3 Hoa kỳ đã tung ra 259 phi vụ, chủ yếu là của loại máy bay Hellcat để tấn công cánh quân Trung tâm vào ngày 24 tháng Mười. Sức mạnh của các cuộc tấn công không đủ để hóa giải các mối đe dọa từ lực lượng của Kurita. Nó tương phản với 527 phi vụ của hạm đội 3 để tấn công vào cánh quân phía Bắc của Ozawa yếu hơn nhiều vào ngày hôm sau. Hơn nữa, một phần lớn của cuộc tấn công ở biển Sibuyan được hướng để nhằm vào chỉ một chiếc tầu duy nhất – chiếc Musashi, làm cho chiếc tàu chiến lớn này đã bị đánh chìm và thêm tàu tuần dương Myōkō bị hư hỏng nhưng những con tàu khác trong lực lượng của Kurita vẫn còn giá trị chiến đấu cao và có thể trước.
    Kết quả của quyết định quan trọng lúc này được ban bố bởi Đô đốc Halsey làm cho đội tầu của Kurita đã có thể tiến lên qua Eo biển San Bernardino vào ban đêm, để có thể xuất hiện bất ngờ và tạo kịch tính ngoài khơi bờ biển Samar vào sáng hôm sau .

Chia sẻ trang này