1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chuẩn tướng Basilio Lami Dozo của Không quân đã không được thông báo về quyết định trước ngày 29 Tháng 12 và ngay cả Bộ trưởng Ngoại giao Costa Méndez không được biết về kế hoạch này trong khi ông chuẩn bị sẵn sàng chủ động về ngoại giao của mình trong tháng 1 năm 1982.

    Kế hoạch chi tiết đã được bắt đầu vào đầu tháng 1 năm 1982. Dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Juan José Lombardo (Chỉ Huy Trưởng Hạm đội) và Tướng Osvald Garcia (chỉ huy của Quân đoàn số năm) và Chuẩn tướng Sigfrido Plessel (thành viên của the Air Force Staff). Chiến dịch sẽ cần một cuộc đổ bộ của 3.000 quân một cách ồ ạt để giảm thiểu đổ máu. Lực lượng Thủy quân lục chiến Hoàng gia, và lực lượng dân sự vũ trang Anh chống đối lại Argentina trong số những người Falkland sẽ bị trục xuất và số lượng lớn của các lực lượng đổ bộ sẽ trở về các căn cứ của họ trong vòng 48 giờ. Một thống đốc quân sự và một lực lượng hiến binh khoảng 500 người sẽ được gửi lại để quản lý những người dân Falkland trong hòn đảo. Dự thảo kế hoạch của Anaya là thay thế dân số toàn bộ hòn đảo bằng người định cư Argentina, nhưng Lombardo tin rằng đó là một bước sẽ gây sự tức giận của cộng đồng quốc tế. Thay vào đó người Falkland nên được trả những khoản bồi thường tài chính nếu họ muốn ra đi.<FONT class=imageattach face=[/IMG]
    Được cho phép bởi người Anh, một công ty của Argentina đã xây dựng một đường băng tạm thời gần Stanley trước khi xây dựng một đường băng chính tại sân bay Stanley. Hãng hàng không Quân sự Líneas Aéreas del Estado bay thường xuyên đến quần đảo Falkland. LADE được đại diện bởi Phó Commodore Hector Gilobert ở Port Stanley và ông ta đã được giao nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo trong bốn năm. Chiếc tàu hàng ARA Isla de los Estados được thuê với mục đích thương mại theo lệnh của chính quyền hòn đảo và Thuyền trưởng Capaglio của nó đã có thông tin chi tiết về các bờ biển, bãi biển của Falkland và vùng nước bên trong.

    Trong bầu không khí của những vụ mua bán vũ khí, Vương quốc Anh rất sốt sắng cho mời Tùy viên của hải quân Argentina tại London, Chuẩn Đô đốc Walter Allara. Ông này được mời lên chiếc tàu HMS Invincible và đã có các cuộc hội thoại với nhân viên hải quân Anh về các khiếm khuyết - shortcomings của Hải quân Hoàng gia.

    Trong tháng 1 năm 1982, các cuộc đàm phán ngoại giao về vấn đề chủ quyền đã chấm dứt. Mặc dù người ta thường nghĩ rằng cuộc xâm lược Falklands là một hành động được lên kế hoạch lâu dài, mọi sự trở nên rõ ràng sau khi hệ thống phòng thủ sau đó của các đảo đã phần lớn chỉ được bố trí rất đơn giản, ví dụ: không có thủy lôi biển được triển khai tại các địa điểm đổ bộ chiến lược và một phần lớn lực lượng bộ binh được gửi đến Falklands gồm những lính nghĩa vụ mới nhập ngũ, những người mới chỉ bắt đầu các đợt đào tạo quân sự của họ trong tháng Giêng hoặc tháng Hai năm đó. Người ta cho rằng cuộc chiến được quyết định chỉ vào phút cuối được ủng hộ bởi thực tế là Hải quân Argentina đã chỉ có thể nhận được vào cuối năm trước các tên lửa chống hạm Pháp Exocet và máy bay Super Étendard (máy bay tiêm kích của Pháp có khả năng bắn tên lửa Exocet) và tàu chiến mới vẫn đang được chế tạo tại Tây Đức.

    Hải quân Argentina sở hữu một vài tàu khu trục phòng không hiện đại Type 42 của Anh loại hình thành lên phần lớn chiếc ô chống phòng không của Lực lượng Đặc nhiệm Anh. Theo các kỹ năng tấn công đã được đào tạo thì có thể thấy hơn một nửa số máy bay của Argentina có thể sẽ bị bắn hạ mà chỉ phá hủy được một vài tàu chiến của Anh nếu họ tấn công ở độ trung và độ cao vì đây chính là tọa độ để Tên lửa Sea Dart được thiết kế để tiêu diệt, vì vậy Không quân Argentina phải tập bay ở tầng thấp để lấy cân bằng cho tên lửa Exocet trong các cuộc tấn công trên bề mặt nước biển rộng lớn.

    Việc thiếu chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu tại Falklands có thể là do sự đổ bộ xâm lược là một quyết định vào phút cuối thực hiện như là một hậu quả của cuộc khủng hoảng ở South Georgia. Hơn nữa, trong nhiều năm Argentina đã đang ở trên bờ vực của cuộc chiến với Chile. Các nhà quân sự chiến lược của Argentina sợ rằng Chile sẽ tận dụng lợi thế của cuộc khủng hoảng Falklands và cố gắng để giữ một phần vùng Patagonia của Argentina. Do đó, một phần quan trọng của lực lượng và thiết bị quân sự có giới hạn của Argentina được lưu giữ trên đất liền và trong chiến tranh Chile thực sự triển khai lực lượng dọc theo khu vực biên giới và tạo nên những gì trông giống như sự vận động của một cuộc xâm lược có thể xảy ra (người ta vẫn chưa rõ ràng liệu đây là ý định thật sự của Chi lê hoặc chỉ đơn thuần được thúc đẩy bởi nước Anh đồng minh của họ).

    Trong một cuộc phỏng vấn với Tạp chí argentine Perfil Basilio Lami Dozo nói rằng Argentina có mục tiêu để tấn công Chile sau khi chiến tranh Falklands:

    [Basilio Lami Dozo] nhớ lại rằng chỉ huy trưởng của lực lượng junta Argentine, Leopoldo Galtieri đã ủng hộ [một cuộc tấn công chống lại Chile]: "[Chile] phải biết những gì chúng tôi đang làm bây giờ, bởi vì họ sẽ lần lượt là mục tiêu tiếp theo.

    Ý định ban đầu của Argentina đổ bộ một cách nhanh chóng, chiếm đóng một cách tượng trưng, tiếp theo nhanh chóng thu hồi lực lượng, chỉ để lại một đơn vị đồn trú nhỏ để hỗ trợ viên thống đốc quân sự mới. Chiến lược này được Argentina dựa trên giả định rằng người Anh sẽ không bao giờ phản ứng quân sự. Các đơn vị tấn công của Argentina đã thực sự bị thu hồi về đất liền trong những ngày sau cuộc xâm lược, nhưng phản ứng mạnh mẽ và nhanh chóng của Anh buộc Junta phải thay đổi mục tiêu của họ và củng cố các đảo vì họ sẽ không thể chống đỡ nổi về mặt chính trị nếu để mất các hòn đảo một lần người Anh xuất quân chiến đấu. Lực lượng junta đã đánh giá sai lầm bầu không khí chính trị tại Anh, và tin rằng nền dân chủ là yếu ớt và thiếu quyết đoán và không thích rủi ro, và không dự đoán rằng người Anh sẽ di chuyển một nửa hạm đội của họ trên toàn cầu.


    Đổ bộ vào South Georgia


    Năm 1980, Đô đốc Edgardo Otero (trước đây là người chỉ huy khét tiếng của Trường Sĩ quan Cơ khí Hải quân Petty, nơi có hàng trăm người đã biến mất sau khi bị tra tấn và hành quyết) là người đứng đầu các hoạt động của hải quân Nam Cực và tìm cách lặp lại chiến dịch Operation Sol ở South Georgia bằng cách thiết lập một căn cứ quân sự (Chiến dịch Alpha). Đô đốc Lombardo sợ rằng hoạt động Alpha sẽ gây nguy hiểm cho sự bí mật của việc chuẩn bị cho cuộc đổ bộ vào Falkland, nhưng Đô đốc Otero có liên kết chặt chẽ đến Đô đốc Anaya, người đã phê duyệt hoạt động Alpha mặc dù đã hứa hẹn với Đô đốc Lombardo rằng ông ta sẽ cho hủy bỏ hoạt động này.

    Điệp viên của Argentina Constantino Davidoff đã có một hợp đồng trong hai năm trước đó về việc tháo dỡ một trạm đánh bắt cá voi cũ trên đảo South Georgia. Trong tháng 12 1981, ông được chở bằng chiếc tầu phá băng ARA Almirante Irizar dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Trombetta đến South Georgia để tiến hành một cuộc khảo sát ban đầu của cuộc đổ bộ. Toán người này đã tiếp đất mà không làm thủ tục hải quan tại căn cứ BAS ở Grytviken, việc này dẫn đến những phản đối ngoại giao chính thức của Chính phủ Anh.

    Cá nhân Davidoff đã gọi điện đến Đại sứ quán Anh tại Buenos Aires để xin lỗi và hứa rằng người của ông sẽ thực hiện theo các thủ tục khi vào hòn đảo trong tương lai. Ông nhận được sự cho phép để tiếp tục với chuyến thám hiểm của mình và ngày 11 tháng ba chiếc tầu vận tải của hải quân ARA Bahía Buen Suceso đến đó để đón Davidoff và những công nhân tháo dỡ phế liệu của ông ta. Tuy nhiên tuy nhiên nhóm này lại là lính thủy quân lục chiến của Argentina đóng giả các nhà nghiên cứu khoa học dân sự. Operation Alpha đã bắt đầu đi vào hoạt động. Đến ngày 19 tháng ba, nhóm này lại thất bại một lần nữa để thực hiện đúng theo các thủ tục và tiến tiếp đến Leith Harbour. Lực lượng BAS gửi người đến để điều tra và thấy rằng những công nhân thu dỡ phế liệu Argentina đã lập một chiếc trại, xóa các dấu hiệu của người Anh, chia nhau vào các túp lều của BAS và loại bỏ các khẩu phần cho tình trạng khẩn cấp và bắn các con tuần lộc trái với quy định của địa phương (đổ bộ với vũ khí mà không được phép chính là bất hợp pháp). Bên BAS cũng báo cáo một số người mặc quân phục và dựng cờ Argentina lên.

    Một loạt các trao đổi ngoại giao sau đó đã diễn ra. Thống đốc đảo Falkland và sau đó là Bộ Ngoại giao đã gửi đi một tin nhắn trở lại tới đội BAS để chuyển cho thuyền trưởng của chiếc Bahia Buen Suceso. Tin nhắn này có hiệu ứng làm lá cờ Argentina bị hạ xuống và họ phải báo cáo cho viên quản trị người Anh (Stephen Martin, chỉ huy của cơ sở khảo sát Nam cực thuộc Anh - the British Antarctic Survey Base) tại Grytviken để đóng dấu hộ chiếu của họ (mà họ đã từ chối làm việc này vì như vậy sẽ là xác nhận chủ quyền của Anh trên hòn đảo nhỏ). Mặc dù lá cờ được hạ xuống và chiếc ARA Bahía Buen Suceso đã khởi hành, một nhóm người đã được bỏ lại phía sau. Ngày 21 tháng ba, chiếc HMS Endurance tiến đến với một nhóm gồm 22 Thủy quân lục chiến Hoàng gia để trục xuất những người ở lại Leith nhưng để tránh căng thẳng hơn nữa, Bộ Ngoại giao Anh đã ra lệnh Endurance tạm dừng. Lợi dụng việc người Anh tạm dừng, Junta Argentina sau đó đã ra lệnh cho chiếc ARA Bahía Paraíso đổ bộ một nhóm Buzos Tacticos (Lực lượng đặc biệt) do Trung úy Alfredo Astiz (" thiên thần tóc vàng của thần chết"). Thay vì trở thành một lực lượng đối đầu, Thủy quân lục chiến Hoàng gia nhận được mệnh lệnh thiết lập một đài quan sát để theo dõi tình hình tại Leith. Lực lượng đầy đủ của Thủy quân lục chiến Hoàng gia đã không đổ bộ cho đến ngày 31 tháng 3 khi nó trở nên rõ ràng rằng lực lượng Argentina dự định thu hồi Quần đảo Falkland. Căn cứ Base Grytviken đã thực sự bị tấn công một ngày sau vụ tấn công vào quần đảo Falkland, vì thời tiết xấu ngăn cản một cuộc tấn công trong cùng một ngày.


    Thất bại của các nỗ lực ngoại giao

    Trong cuộc chiến, không có quan hệ ngoại giao chính thức giữa Anh và Argentina, do đó, các cuộc đàm phán đã được tiến hành một cách gián tiếp và thông qua các bên thứ ba, bên sau đó sẽ nói chuyện với phía bên kia ("ngoại giao con thoi"). Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, Javier Pérez de Cuéllar người Peru, Thông báo rằng những nỗ lực của mình để vãn hồi hòa bình đã vô ích. Mặc dù Peru (là đại diện cho lợi ích ngoại giao của Argentina ở Anh) và Thụy Sĩ (là đại diện cho lợi ích ngoại giao của Anh tại Argentina) exerted lớn áp lực ngoại giao để tránh chiến tranh, họ đã không thể giải quyết cuộc xung đột và một kế hoạch hòa bình được đề xuất bởi Tổng thống Peru Fernand Belaúnde Terry mặc dù được chấp nhận bởi Anh đã bị từ chối bởi Argentina.



    Cuộc xâm lược

    Chính phủ Anh lập tức cảnh báo Masterman Rex Hunt, Thống đốc Quần đảo Falkland, về một cuộc xâm lược của người Argentina có thể xảy ra vào ngày 01 tháng Tư. Hunt sau đó đã tổ chức phòng thủ, và đã giao quyền chỉ huy quân sự cho thiếu tá Mike Norman RM, người chỉ huy một lực lượng nhỏ Thủy quân lục chiến Hoàng gia. Trung úy hải quân Argentina- Guillermo Sanchez-Sabarots - chịu trách nhiệm về cuộc xâm lược cho đổ bộ lực lượng đặc biệt của ông tại Mullet Creek. Ông ta tiếp tục cho tấn công các tòa nhà trong và xung quanh Stanley, bao gồm tòa nhà chính phủ và Trại lính Moody Brook cho đến khi chính phủ Quần đảo Falkland tại tòa nhà chính phủ đầu hàng vào ngày 02 tháng Tư. Một người Argentina đã bị giết trong cuộc tấn công chính, ba người Argentina nữa đã chết trong cuộc chiến để kiểm soát South Georgia.



    Lực lượng đặc biệt


    Anh nhanh chóng tạo áp lực ngoại giao lên Argentina. Vì các khoảng cách đến Falkland quá xa, Anh phải dựa vào một hải quân lực lượng đặc biệt cho hành động quân sự. Lực lượng hải quân được chỉ huy chung bởi Chỉ Huy Trưởng Hạm đội Đô đốc Sir John Fieldhouse, Người đã được chỉ định làm Tư lệnh Lực lượng đặc nhiệm 317 và có 3-4 nhóm đặc biệt trong tay tùy thuộc vào từng giai đoạn của cuộc chiến. Task Group 317,8 của Chuẩn Đô đốc John "Sandy" Woodward đã được xây dựng xung quanh chiếc tàu sân bay HMS Hermes và chiếc tầu sân bay mới được hạ thủy HMS Invincible và chỉ mang 20 (FAA) Sea Harrier của Hải quân mỗi chiếc để phòng thủ chống lại lực lượng không quân Argentina và kết hợp vũ khí phòng không của hải quân. Các lực lượng đặc nhiệm sẽ phải tự lực cánh sinh và có thể phải triển khai lực lượng của nó trên toàn vùng duyên hải của hòn đảo.

    Một lực lượng thứ hai là Nhóm tầu Lội nước, Task Group 317,0, được chỉ huy bởi Commodore Michael Clapp RN. The embarked force, Lực lượng Đổ bộ hoặc Task Group 317,1, bao gồm Lữ đoàn 3 Commando, Thủy quân lục chiến Hoàng gia (Bao gồm cả đơn vị trực thuộc Trung đoàn nhảy dù - Quân đội Anh và một số đơn vị thuộc Quân đoàn thiết giáp Hoàng Gia Anh với huy hiệu (The Blues and Royals)) dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng Julian Thompson RM. Hầu hết lực lượng này đã được cho lên boong chiếc tàu chở khách Canberra.

    Một lực lượng thứ ba là một nhóm tàu ngầm (TG 320,9) từ 3-4 chiếc tàu ngầm dưới sự chỉ huy của Sỹ quan Kỳ hạm Tầu ngầm - Flag Officer Submarines. Người Anh tuyên bố rằng "khu vực không loại trừ “ ở khoảng 200 hải lý (370 km) xung quanh trước khi bắt đầu hoạt động Falklands tới các tàu thuyền của tất cả các quốc gia.

    Trong toàn bộ chiến dịch có 43 tàu buôn Anh (Tàu thương mại hoặc STUFT) Phục vụ hoặc chở đồ cung cấp cho lực lượng đặc nhiệm. Tàu vận tải hàng hóa và tàu chở dầu để chở nhiên liệu và nước tạo thành đường dây hậu cần trong khoảng cách 8.000 dặm giữa Anh và Nam Đại Tây Dương.

    Trong suốt cuộc hành trình để chuẩn bị cho cuộc chiến bắt đầu vào ngày 01 tháng 5, TF đã bị theo dõi bởi máy bay Boeing 707 của Không quân Argentina. Một trong những chuyến bay này đã bị chặn lại ở ngoài vùng bảo vệ bởi một chiếc Sea Harrier, nhưng chiếc 707 không vũ trang đã không bị tấn công bởi vì những nỗ lực ngoại giao vẫn còn có tiến bộ và người Anh vẫn chưa quyết định tiến hành chiến tranh.

    Hoàng tử Andrew, người thứ hai có quyền thừa kế ngôi vua Anh, phục vụ như là một phi công cho máy bay trực thăng hải quân Sea King thuộc Phi đội No.820 trên tàu HMS Invincible trong chiến tranh, ông tham gia bay chống ngầm và tuần tra chống tầu chiến bề mặt. Máy bay trực thăng của ông cũng thực hiện nhiệm vụ như là cảnh báo sớm trên không, giúp sơ tán nạn nhân, vận chuyển và tìm kiếm cứu nạn.

    Người Anh gọi là cuộc phản công của họ là Operation Corporate. Khi lực lượng đặc nhiệm khởi hành từ Anh, tạp chí tin tức Newsweek của Hoa kỳ đã đưa ra một bài báo với tiêu đề "Đế chế bắt đầu phản công - The Empire Strikes Back " Tên của bộ phim Star Wars đang được công chiếu ở lúc này, trong đó ẩn ý những hài hước, chế giễu Đế quốc Anh già cỗi.



    Ý kiến công chúng

    Tâm trạng của công chúng ở Vương quốc Anh là ủng hộ cho một nỗ lực để đòi lại các hòn đảo. Ý kiến của quốc tế bị chia rẽ. Một số coi Anh là một cựu thực dân đầy quyền lực, đang tìm cách đòi lại một thuộc địa từ một quyền lực địa phương và đây là một thông điệp mà người Argentina lúc ban đầu đã được sử dụng để thu hút sự hỗ trợ. Anh được hỗ trợ từ những người cho rằng đây là một nền dân chủ ổn định bị xâm chiếm bởi một chế độ độc tài quân sự. Chỉ có vài quốc gia giữ ngoại giao trung lập còn lại hầu hết các nước châu Âu và Hoa Kỳ hỗ trợ Anh. Nhiều quốc gia Mỹ Latinh ủng hộ Argentina với một ngoại lệ đáng chú ý của Chile: vì có xung đột lãnh thổ với Argentina, kết hợp với một số bài phát biểu từ các thành viên của Junta rằng Argentina sẽ có hành động quân sự để giải quyết những vấn đề lãnh thổ (với Chi Lê) một khi quần đảo Falkland được kiểm soát ổn thỏa, đã dẫn đến những mối quan hệ ngoại giao căng thẳng.



    Liên Hiệp Quốc

    Các nhà Ngoại giao Anh tập trung vào lập luận rằng Quần đảo Falkland được quyền sử dụng các nguyên tắc tự quyết của Liên hợp quốc và thể hiện sự sẵn sàng thỏa hiệp. Tổng thư ký LHQ nói rằng ông ta rất ngạc nhiên trước những thỏa hiệp mà Vương quốc Anh đã đưa ra. Tuy nhiên, Argentina lại từ chối điều này, Junta đã bị giới hạn bởi sự ủng hộ lớn của nhân dân trong nước cho cuộc xâm lược và không thể quay lại, họ dựa trên lập luận của họ về các quyền lãnh thổ dựa trên các hành động trước năm 1945 và các đạo luật của LHQ lúc mới thành lập. Nhiều thành viên Liên Hợp Quốc nhận ra rằng nếu tuyên bố về lãnh thổ kiểu này có thể được làm sống lại, và cuộc xâm lược lãnh thổ được phép tiến hành thì sau đó biên giới của riêng mình sẽ khôngcòn an toàn. Ngày 03 tháng Tư, Hội đồng Bảo an LHQ thông qua Nghị quyết 502, kêu gọi rút quân đội Argentina từ các hòn đảo và sự chấm dứt của chiến sự. Ngày 10 Tháng tư, Cộng đồng Châu Âu phê duyệt một sự trừng phạt thương mại đối với Argentina. Tổng thống Ronald Reagan và Hoa Kỳ tránh đã không lên án về ngoại giao trực tiếp thay vào đó là cung cấp tin tình báo hỗ trợ cho quân đội Anh.



    Ngoại giao con thoi và sự tham gia của Mỹ

    Thoạt nhìn, người ta thấy rằng Mỹ có Hiệp ước về trách nhiệm quân sự đối với cả hai bên trong chiến tranh, nước này có ràng buộc tới Anh như là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Argentina do Hiệp ước hỗ trợ lẫn nhau trong nội bộ Châu Mỹ Inter-American Treaty of Reciprocal Assistance "Rio Pact". Tuy nhiên, Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương chỉ buộc các bên ký kết hỗ trợ lẫn nhau nếu vụ việc xảy ra ở Châu Âu hoặc Bắc Mỹ phía bắc Nam chí tuyến ( the Tropic of Cancer ), và Hiệp ước Rio chỉ buộc Mỹ can thiệp nếu một trong các bên của hiệp ước bị tấn công - Anh không chủ động tấn công Argentina, chỉ có lực lượng Argentina trên lãnh thổ Anh. Trong tháng ba, Bộ trưởng Ngoại giao Alexander Haig chỉ đạo Đại sứ Hoa Kỳ đến Argentina để cảnh báo chính phủ Argentina về mọi sự xảy ra từ cuộc xâm lược. Tổng thống Reagan yêu cầu một sự bảo đảm để rút lại cuộc xâm lược từ Galtieri và cử Phó Tổng thống của ông ta , George H.W. Bush, làm đặc phái viên hòa giải nhưng đã bị từ chối.


    Trong thực tế, chính quyền của Reagan đã bị chia rẽ về vấn đề này. Hop hội nghị trong ngày 05 tháng 4, Haig và Trợ lý của bộ trưởng Bộ Ngoại giao về chính trị Lawrence Eagleburger ủng hộ Anh và tỏ ra lo ngại rằng một sự lập lờ nước đôi sẽ làm suy yếu liên minh NATO. Tuy nhiên Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách vấn đề Liên Mỹ Thomas Enders giao lại sợ rằng ủng hộ Anh sẽ làm suy yếu sự hỗ trợ những nỗ lực anti-communist cua Hoa kỳ ở Mỹ Latinh. Ông nhận được sự ủng hộ của Đại sứ Hoa kỳ tại U. N. Jeane Kirkpatrick, Với danh nghĩa là của cấp dưới và đối thủ chính trị Haig. Kirkpatrick là khách mời danh dự tại một bữa ăn tối được tổ chức bởi Đại sứ Argentina ở Hoa Kỳ vào ngày lực lượng vũ trang của Argentina đã đổ bộ lên các hòn đảo.


    Nhà Trắng tiếp tục sự trung lập của nó ; Reagan nổi tiếng với một tuyên bố tại thời điểm này là ông ta không thể hiểu tại sao hai đồng minh lại tranh cãi về " một ít nước đá lạnh của vùng đất đó". Tuy nhiên, ông ta đã chuẩn y cho các sứ mệnh của Haig và Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger. Haig trong một thời gian ngắn (8 tháng tư - 30 tháng tư) dẫn đầu một sứ mệnh "ngoại giao con thoi" giữa LondonBuenos Aires. Theo một tài liệu của BBC gần đây có tiêu đề "Cuộc chiến tranh Falklands và Nhà Trắng", Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger đã bắt đầu một số hoạt động không được công khai để hỗ trợ và cung cấp cho quân đội Anh trong khi sứ mệnh ngoại giao con thoi của Haig vẫn còn đang được tiếp diễn. Thông điệp của Haig đến Argentina là người Anh sẽ thực sự chiến đấu, và rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ Anh, nhưng đồng thời ông ta cũng hoàn toàn không biết rằng Hoa Kỳ đã triển khai cung cấp hỗ trợ.


    Vào cuối tháng, Reagan đổ lỗi cho Argentina về thất bại của việc hòa giải và tuyên bố ủng hộ Anh đồng thời cũng công bố áp dụng lệnh trừng phạt kinh tế đối với Argentina.


    Vào khoảng thời gian tháng Sáu, Đại sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc Jeane Kirkpatrick bỏ phiếu quyền phủ quyết lần thứ hai một nghị quyết của Hội đồng Bảo an kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức, Sau đó công bố bản hướng dẫn mà bà ta đã nhận được rằng phải bỏ phiếu trắng. Tình hình này được đổ lỗi cho sự chậm trễ trong thông tin liên lạc, nhưng theo cảm nhận của nhiều người đây là một phần của một cuộc đấu tranh quyền lực đang diễn ra giữa Haig và Kirkpatrick.


    Galtieri và với một nửa nội các chính phủ của ông ta nghĩ rằng Anh sẽ không phản ứng. Margaret Thatcher tuyên bố rằng các quyền dân chủ của Đảo Falkland đã bị tấn công và sẽ không đầu hàng và để các đảo cho "binh lính - jackboot" Argentina. Lập trường này được hỗ trợ của ít nhất là trong nước do chủ yếu là hỗ trợ của báo chí Anh.


    Chế độ độc tài Argentina cảm thấy rằng Hoa Kỳ sẽ, ngay cả trong một trường hợp xấu nhất, vẫn hoàn toàn trung lập trong cuộc xung đột (dựa trên sự hỗ trợ mà Argentina làm cho chính quyền Reagan tại Trung Mỹ, như việc đào tạo lực lượng Contras). Giả định này đã rõ ràng được chứng minh là một sự mù với thực tế về mối quan hệ đặc biệt của Vương quốc Anh-Mỹ.


    Ngoài ra, chế độ độc tài quân sự Argentina đã sai lầm bởi những ý kiến riêng của mình về nền dân chủ là những buổi họp hành không đâu và kém hiệu quả, sợ rủi ro. Thật vậy, ở Anh đã có nhiều cuộc tranh luận về sự đúng sai của cuộc chiến. Tuy nhiên, bất kể chính sách riêng và ý kiến của mình như thế nào, các đảng đối lập hậu thuẫn mạnh mẽ cho chính phủ trong cuộc khủng hoảng để tạo ra một mặt trận thống nhất duy nhất.


    Một nỗi sợ hãi của Mỹ về mối đe dọa của Liên Xô và sự lây lan của Chủ nghĩa Cộng sản, cùng với sự chắc chắn rằng nước Anh có thể xử lý các vấn đề của riêng mình, có thể đã tạo ảnh hưởng vào Mỹ để nước này ở một vị trí không can thiệp. Trong thời gian Chiến tranh lạnh, với việc các lực lượng đôi bên (Anh và Argentina) đang bị theo dõi chặt chẽ bởi Liên Xô, có vẻ được cho là thích hợp hơn đối với Hoa kỳ là cứ để Vương quốc Anh tự xử lý mà không có sự hỗ trợ nào cho một cuộc xung đột trong khả năng của mình.


    Sự việc Mỹ can thiệp hay không là rất quan trọng đối với mối quan hệ Mỹ - Anh. Đảo Ascension, một hòn đảo sở hữu của người Anh, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp lâu dài cho Lực lượng Đặc nhiệm phía Nam, tuy nhiên, các căn cứ không quân đóng trên đảo được điều hành và hoạt động bởi người Mỹ và chỉ huy Hoa kỳ tại căn cứ này đã nhận được mệnh lệnh phải trợ giúp người Anh trong bất kỳ cách nào và trong một thời gian ngắn Ascension Air Field là một trong những sân bay bận rộn nhất trên thế giới. Điều quan trọng nhất là đóng góp của NATO qua các thông tin tình báo và cung cấp loại tên lửa hồng ngoại Sidewinder Lima không-đối-không mới nhất, cho phép phần dự trữ loại tên lửa này ( của NATO ) tại Anh lúc đó được mang ra sử dụng. Margaret Thatcher nói rằng "không có máy bay phản lực Harrier và khả năng cơ động lớn của nó, cũng như chúng được trang bị với phiên bản mới nhất của tên lửa Sidewinder, được cung cấp cho chúng tôi bởi Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger của Hoa Kỳ, chúng tôi không bao giờ có thể lấy lại được Falkland " Đây phải không chỉ là điều còn bị nghi vấn về mặt chính trị mà còn cả về mặt quân sự, tuy nhiên khi Hạm đội Không lực Anh sử dụng tên lửa Sidewinder trong cuộc đụng độ thì điều này đã được chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

    Vào đầu tháng, Casper Weinberger đã chào mời việc sử dụng một tàu sân bay Mỹ. Lời mời chào này dường như là rất hào phóng và đã được nhìn nhận bởi tầm quan trọng của nó: Chuẩn Đô đốc Woodward đã ghi nhận rằng việc mất chiếc HMS Invincible là một bước thụt lùi nghiêm trọng, nhưng việc mất chiếc Hermes có nghĩa là chấm dứt toàn bộ hoạt động. Weinberger thừa nhận rằng lúc đó vấn đề này đã được yêu cầu và nếu chúng được thực hiện thì gần có nghĩa như là nhân sự của Hoa Kỳ trở nên trực tiếp tham gia vào cuộc chiến, vì việc đào tạo cho các thuyền viên người Anh biết cách sử dụng con tầu phải mất hàng năm.

    Cả hai Weinberger và Reagan sau đó đã được tặng thưởng huân chương danh dự Knight Commander của Đế quốc Anh (KBE). Các quốc gia Châu Mỹ đã chỉ trích về vai trò của Mỹ vì đã không đứng về phía Argentina, Mỹ đã vi phạm Học thuyết Monroe của chính nó (có vẻ như là theo học thuyết này nếu một quốc gia ngoài châu Mỹ có chiến tranh với một quốc gia thuộc châu Mỹ thì Hoa kỳ phải đứng về phía quốc gia thuộc châu Mỹ).

    Trong tháng 9 năm 2001, Tổng thống Mexico Vicente Fox trích dẫn cuộc xung đột như là bằng chứng của sự thất bại của Hiệp ước hỗ trợ lẫn nhau nội bộ châu Mỹ vì hiệp ước này cung cấp sự bảo vệ cho song phương. Tuy nhiên trong cuộc xung đột này Argentina đã bị coi là kẻ xâm lược.

    Liên Xô tham gia

    Nhìn chung, Liên Xô tỏ thái độ dửng dưng với tình hình của quần đảo này. Cả Anh là thành viên của NATO và chế độ ở Argentina đều là những thể chế chống Cộng vào thời điểm đó và đều là kẻ thù của Liên Xô. Tuy nhiên, Liên Xô có một số lợi ích ở khu vực Cực Nam - Nam Đại Tây Dương.

    Đất nước Angola lúc đó đã giành được độc lập, nhưng đang trong một cuộc nội chiến trong đó MPLA nhận được sự hỗ trợ của Liên Xô và các đồng minh, và đây được coi là một cuộc xung đột rất quan trọng trong Chiến tranh lạnh, đặc biệt là liên quan đến vùng phía nam Đại Tây Dương. Trong thực tế, cuộc chiến tranh Falklands đã xảy ra tại một thời điểm khi chiến tranh lạnh đã lại leo thang, với việc Ronald Reagan trúng cử tổng thống Mỹ trong năm trước và Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan đang ở giai đoạn đỉnh cao. Vài năm trước đã xảy ra một vụ ám sát nhằm vào Giáo hoàng John Paul II trong vụ này người Liên Xô bị cho là có liên quan. Theo Hugh Bicheno:

    Chính quyền Argentina thấy rằng việc dỡ bỏ lệnh cấm vận của Carter như là một chiến thắng cho đường lối cứng rắn của họ về Nhân quyền, nhưng họ đã luôn tự đánh giá quá cao tầm quan trọng của họ trước những nhà hoạch định chính sách Hoa kỳ ... họ dựa trên ảo tưởng tự của họ về cuộc chiến bên kia bờ Nam Đại Tây Dương tại Angola, nơi có 36.000 quân Cuba làm hậu thuẫn cho Liên Xô để duy trì một chính phủ theo chủ nghĩa Mác-Lênin và đối lập với hai nhóm quân nổi dậy được sự ủng hộ của Nam Châu Phi và Hoa Kỳ. Mục tiêu của Liên Xô là tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên được ưu đãi của Angola để lập nên một căn cứ mà từ đó các lực lượng hải quân của họ có thể đe dọa các tĩnh mạch của phương Tây ... trong khi đó Washington luôn xem là căn cứ của họ tại đảo thuộc Anh - Ascension tại Đại Tây Dương ... là quá đủ và rằng Hải quân Hoa Kỳ có thể bảo vệ các tuyến đường biển mà không cần có căn cứ bổ sung ở vùng bờ biển. Con đường qua <ST1:PCape Rout </ST1:P<ST1:Pthực sự là một mối quan tâm về địa chính trị của Mỹ, nhưng người Argentina lại không nhận ra rằng họ lại không được đánh giá cao bằng một vài hòn đảo nhỏ của Anh trong phương trình này.

    Ngoài ra, Liên Xô duy trì một số căn cứ ở Nam Cực, một số không xa khu vực xung đột, chẳng hạn như Bellingshausen Station tại South Shetlands, một khu vực tranh chấp với cả Argentina và Anh. Liên Xô cũng đã chỉ mới mở một căn cứ ở Nam Cực hai năm trước - Russkaya Station - Mặc dù ở phía bên kia của châu Nam Cực thành viên Ba Lan của Khối hiệp ước Warsaw cũng sử dụng căn cứ Henryk Arctowski không xa Bellinghausen. Liên Xô cũng đã có một số thuyền đánh cá và tàu nghiên cứu "" trong khu vực đó với "đa mục đich". Bicheno tiếp tục cho rằng ngoài Argentina, Anh và Mỹ ra.

    "Có một bên thứ tư liên quan - tàu tình báo điện tử Xô viết duy trì sự giám sát liên tục tới [lực lượng đặc nhiệm] của Anh, Mỹ. ...của Mỹ đã không mở rộng để Liên Xô biết được khả năng nghe trộm của NSA (National Security Agency), hoặc được hưởng lợi khi truy cập vào những thông tin được mã hóa trong các siêu -máy tính của họ "

    Sự quan tâm lớn của người Liên Xô là muốn biết khả năng chiến đấu của Anh là như thế nào khi phải chiến đấu theo cách riêng của mình. Theo truyền thống, Liên Xô đã coi Vương quốc Anh luôn như là một vệ tinh của Mỹ và không có khả năng hoạt động theo cách riêng của nó.


    Pháp tham gia

    Tổng thống Pháp François Mitterrand đã hỗ trợ đầy đủ cho Vương quốc Anh trong cuộc chiến Falklands. Sir John Nott, người giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Anh trong thời gian xảy ra cuộc xung đột, thừa nhận trong hồi ký của mình rằng "bằng nhiều cách Mitterrand và người Pháp đã là người đồng minh lớn nhất của chúng tôi". Một phần lớn các thiết bị quân sự của Argentina được Pháp chế tạo, do đó hỗ trợ của Pháp là rất quan trọng. Sir John đã tiết lộ rằng người Pháp đã cung cấp máy bay Mirage và Étendard, trùng với những chiếc mà nó đã cung cấp cho Argentina, để đào tạo phi công Anh chiến đấu chống lại chúng. Cũng được tiết lộ trong cuốn hồi ký của Sir John rằng đã Pháp cung cấp thông tin tình báo để giúp chống lại các tên lửa Exocet mà họ đã bán cho Argentina, bao gồm cả chi tiết các biện pháp đối phó điện tử mà đặc biệt vào thời điểm đó chỉ lực lượng quân đội Pháp là được biết. Trong hồi ký của mình, Margaret Thatcher đã nói với tổng thống Pháp Mitterrand rằng: "Tôi không bao giờ quên chúng tôi đã nợ ông ta khi hỗ trợ chúng tôi với tư cách cá nhân của mình ... trong suốt cuộc khủng hoảng Falklands". Ngay trước thời gian đó Pháp đã bán máy bay Super Étendard và tên lửa Exocet cho Hải quân Argentina và vẫn còn có một đội kỹ thuật người Pháp ở Argentina để trợ giúp lắp đặt các tên lửa Exocet và máy bay để người Argentina sử dụng vào đầu chiến tranh. Argentina tuyên bố rằng đội kỹ thuật này đã ở lại nước Pháp ngay sau khi cuộc xâm lược 02 tháng 4 xảy ra, nhưng theo Tiến sĩ James Çorum, đội kỹ thuật của Pháp dường như vẫn tiếp tục giúp người Argentina trong suốt cuộc chiến bất chấp lệnh cấm vận của NATO và chính sách chính thức của chính phủ Pháp.


    Các nước Mỹ Latinh tham gia

    Argentina chỉ nhận được trợ giúp quân sự từ Peru - mặc dù sự hỗ trợ phải núp bóng Tổ chức các Quốc gia Mỹ trong một nỗ lực để hỗ trợ việc bảo vệ chủ quyền của Argentina và tránh né sự trừng phạt của Cộng đồng Châu Âu (cùng với tham dự của Chile, và Colombia, Trinidad & Tobago và Hoa Kỳ) và Venezuela (cũng pro Argentina ). Tổng thống Peru Belaunde tuyên bố rằng nước ông đã "sẵn sàng hỗ trợ Argentina với tất cả những nguồn lực cần thiết." sự hỗ trợ này đến dưới hình thức cho máy bay thả các thùng nhiên liệu và phụ tùng máy bay. Khi chiến tranh qua đi Argentina nhận được máy bay tiêm kích Mirage 5P từ Không quân Peru trong khi Hải quân Argentina nhận được máy bay Aermacchi MB-326Embraer Bandeirantes từ Không quân Brazil.

    Các nước CubaBolivia sẵn sàng gửi lực lượng bộ binh nhưng vì lý do chính trị mà sự trợ giúp của họ đã không được chấp nhận. Tại thời điểm trong thời gian này, Cuba cũng tham gia rất sâu trong cuộc chiến ở Angola ở bên kia Nam Đại Tây Dương và đã có 36.000 quân ở đó. (Nếu có lính Cu Ba thì tình hình có lẽ đã được cải thiện cho Argentina vì lính bộ binh Argentina tuy đông nhưng toàn lính mới )



    Chile tham gia

    Nước láng giềng Chile dưới sự cai trị của Tổng thống Pinochet đã là nước lớn duy nhất ở châu Mỹ Latinh hỗ trợ Anh (và cũng chỉ là gián tiếp) bằng cách làm lệch hướng quân đội và hải quân (của Argentina). Năm 1978 Argentina đã bắt đầu chiến dịch Operation Soberania để xâm chiếm các đảo xung quanh Cape Horn, nhưng đã phải ngừng chiến dịch vài giờ sau đó vì các lý do quân sự và chính trị. Sự căng thẳng giữa hai nước đã trở nên nghiêm trọng bởi các bài phát biểu của các thành viên của lực lượng Junta Argentina (xem ở trên) và vẫn còn kéo dài cho đến cuộc chiến Falkland. 6 tuần trước khi xảy ra cuộc chiến Falkland, Argentina đã có va chạm với với Chile tại Deceit Island. (sự cố tầu ARA Gurruchaga)
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Lực lượng Không quân Argentina trong chiến tranh Falklands




    Khi Argentina bắt đầu cuộc chiến tranh có vẻ hợp lý khi nghĩ rằng họ đã chuẩn bị sẵn sàng, và đã có một kế hoạch làm thế nào để bảo vệ các đảo. Nhưng chế độ độc tài quân sự cai trị đất nước vào thời đó coi việc chiếm giữ Falklands như là một hành động chính trị để có được một vị trí thương lượng ngoại giao và không phải là một hành động chiến tranh. Do đó họ bị bất ngờ khi Anh Quốc phản ứng với một sự vận động quy mô lớn và một lực lượng đặc nhiệm để chiếm lại các đảo.

    Không quân Argentina (Fuerza Aerea Argentina; FAA) không bao giờ được coi là có khả năng tiến hành một chiến dịch không quân tầm xa trên biển để chống lại một thành viên chính của NATO. Họ không được đào tạo hoặc trang bị cho sứ mệnh như vậy. FAA chỉ có hai máy bay tiếp dầu để phục vụ cho toàn bộ lực lượng không quân và hải quân, và các máy bay Mirage III và IAI Daggers ném bom- không chiến của nó đã không được trang bị thiết bị tiếp nhiên liệu trên không. Đào tạo, chiến thuật và trang thiết bị của FAA được tập trung vào một cuộc chiến tranh có thể xảy ra để chống lại Chile, kết quả từ tranh chấp trong cuộc xung đột Beagle.
    <FONT class=imageattach onload=[/IMG]Mối đe dọa từ Chile là một vấn đề lớn đối với quân đội Argentina trong chiến tranh. Các lực lượng quân đội Chile đã triển khai một lực lượng quan trọng trên biên giới chung của Chile với Argentina, và FAA đã buộc phải phục hồi các máy bay F-86 Sabre đã nghỉ hưu của họ để củng cố hệ thống phòng không của Argentina. Để ủng hộ Argentina, Peru ngay lập tức cung cấp hỗ trợ cho người Argentina bằng lực lượng Không quân Peru thậm chí cung cấp cả các phi vụ bay chiến đấu. Điều này đã bị từ chối một cách lịch sự bởi chính phủ Argentina. Khi chiến tranh tiếp diễn, Peru và Venezuela đã gửi các phụ tùng máy bay quan trọng và cấp thiết cho FAA và Không quân Brazil cho Hải quân Argentina thuê hai máy bay tuần tra trên biển EMB111 Bandeirantes. Cuối cùng ngày 04 tháng 6, mười máy bay Mirage 5 của Peru với tên lửa AS-30 đến được Tandil nhưng chiến tranh đã kết thúc trước khi chúng có thể được sử dụng. Các kỹ thuật viên của Israel Aircraft Industries vẫn ở trong nước này để tiếp tục công việc của họ theo hợp đồng IAI Daggers năm 1979 trong cuộc xung đột.

    Theo dự đoán khả quan nhất, Argentina có tổng cộng khoảng 240 chiếc máy bay khi chiến tranh nổ ra. Khoảng một nửa trong số chúng được dải dọc theo biên giới với Chile.

    Trên lý thuyết, 20 chiếc máy bay cận âm Sea Harrier của Anh có thể dễ dàng bị xóa sổ bởi hơn trăm máy bay chiến đấu của Argentina, bao gồm cả những máy bay phản lực siêu âm. Thực tế lại khác, khoảng cách xa từ căn cứ của họ ngăn cản họ sử dụng tốc độ tối đa hoặc ngược lại họ sẽ hết nhiên liệu. Mặc dù việc Argentina có máy bay nhiều hơn lực lượng đặc nhiệm của Anh, nhưng một số lớn trong số chúng là loại Pucara động cơ cánh quạt. Ngoài ra, các phi đội A-4 Skyhawk phải dựa vào hai máy bay tiếp dầu KC-130, dẫn đến việc hạn chế về số lượng máy bay có thể tấn công cùng một lúc.

    Các phi đội máy bay tấn công A-4 Skyhawk của Argentina ở trong điều kiện rất nghèo nàn. Lệnh cấm vận vũ khí được ban bố bởi Hoa Kỳ năm 1976 do "cuộc chiến bẩn thỉu", đã làm cho hầu hết các khung máy bay không còn sử dụng được. Có cáo buộc về sự tham gia của Israel trong việc giúp đỡ để đưa những chiếc A-4 này vào hoạt động đầy đủ, nhưng chưa bao giờ được xác nhận.

    Lực lượng Không quân nhỏ bé của Hải quân Argentina (Armada República Argentina; ARA) đang ở giữa sự chuyển đổi từ loại máy bay A 4Q-Skyhawk mang loại máy bay mới Super Étendard. Chỉ có năm chiếc Étendard mang tên lửa chống hạm Exocet được giao hàng tại thời điểm cuộc xung đột, tại điểm đó do một lệnh cấm vận vũ khí đã ngăn cản việc phân phối các lô hàng tiếp theo. Các phi công, đặc biệt là những người ở Phi đội Không quân - Hải quân số 3 sử dụng máy bay A-4Qs là những người duy nhất được đào tạo kỹ thuật cụ thể của việc ném bom oanh kích vào tàu chiến. Phi công không quân được đào tạo trong tháng tư cùng với hai chiếc khu trục hạm Type 42 của Argentina, tương tự như loại của Hạm đội Anh và theo các sĩ quan hải quân tất cả các phi vụ đều bị bắn rơi gây ra mối quan tâm lớn cho các chỉ huy cao cấp cho đến khi thành công một chiến thuật tấn công mà họ đã chứng minh được rằng những chiếc máy bay có thể sống sót vào ngày 01 tháng 5.

    Cuối cùng, Không quân Argentina sự chưa bao giờ được tham gia vào một cuộc xung đột quốc tế, thời gian mà quân đội Argentina đã thực sự tham gia vào một cuộc xung đột quốc tế là Chiến tranh của Liên minh Tay ba xảy ra vào hơn một thế kỷ trước. ( lúc này chưa có Không quân)

    Mặc dù có những khó khăn, các đơn vị không quân của Argentina đã chịu đựng được gánh nặng của cuộc chiến trong sáu tuần của cuộc chiến và gây ra những thiệt hại và phá hủy nghiêm trọng cho lực lượng hải quân của Vương quốc Anh. Chiến thuật máy bay phản lực bay thấp tấn công vào tàu của Anh quốc đã cung cấp cho thế giới với một số các hình ảnh nhất sobering và kịch tính của cuộc chiến. Đến cuối cuộc chiến thì chính quân đội Anh đã trở nên ngưỡng mộ thực hiện tinh thần của FAA vì phi công Argentina phải đối mặt với một mạng lưới phòng không hiệu quả trong thời gian chiến sự, nhưng như mọi khi, chỉ chiếm được ưu thế trên không vẫn chưa đủ để giành chiến thắng cho một cuộc chiến. Đô đốc Sandy Woodward - chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm nói: " Không quân Argentina đã chiến đấu rất tốt và chúng tôi cảm thấy một sự ngưỡng mộ tuyệt vời về những gì họ đã làm"




    [​IMG]
    Biên đội gômg máy bay Super Etendard của Hải quânArgentina - nếu người Argentina nhẫn nại được cho đến khi nhận đủ 14 chiếc Super Etendard và 14 quả tên lửa Ecoxet thì người Anh đã bại trận rồi




    [​IMG]
    Tranh vẽ các máy bay Acrmacchi, Canberra, Douglas A4 Skyhawk, Chinook của không quân Argentina







    [​IMG]
    Tranh vẽ các máy bay Super Etendard Pucara của không quân Argentina





    Biên chế của các lực lượng Không quân Argentina trong chiến tranh Falklands

    Trong ngặc đơn là những máy bay của Argentina bị mất trong cuộc chiến Falkland

    Không quân Argentina







    Tiếng Tây Ban Nha: Fuerza Aérea Argentina
    • Lữ đoàn Không quân số - 1
      • Lockheed C-130H Hercules, 7 (1)
      • Lockheed Hercules KC-130H Tanker 2
      • Boeing 707 3
      • Fokker F-28 6
      • Fokker F-27 12
    • Lữ đoàn Không quân số - 2 B.Mk62 Canberra 8 (2)
      • Grupo Aérofotográfico - Learjet 35A-L 2 (1)
    • Lữ đoàn Không quân số - 3
      • Falkland Islands - FMA IA 58 Pucará 24 (13)
      • Comodoro Rivadavia - FMA IA 58 Pucará ? (1)
    • Lữ đoàn Không quân số - 4 McDonnell Douglas A 4C-Skyhawk 15 (9)
    • Lữ đoàn Không quân số - 5 McDonnell Douglas A 4B-Skyhawk <35 (10)
    • Lữ đoàn Không quân số - 6 Dagger Israel 30 (11)
    • Lữ đoàn Không quân số - 7
      • Boeing CH-47C Chinook 2
      • Bell 212 2
    • Lữ đoàn Không quân số - Dassault Mirage IIIEA 17 (2)
    Hải quân Argentina







    Tiếng Tây Ban Nha: Comando de Aviación Naval Argentina - COAN (Không quân thuộc Hải quân Argentina)
    • Phi đội 1 - Aermacchi MB.339A 6 (2)
    • Phi đội 2 - Dassault Super Étendard 4 (Sn. 3-A-201 đã được cannibalized cho phụ tùng thay thế)
    • Phi đội 3 - McDonnell Douglas A 4Q-Skyhawk 8 (3)
    • Phi đội chống ngầm - Grumman S-2E Tracker 6
    • Phi đội đào tạo bay - Beechcraft T-34 Mentor 4 (4)
    • Phi đội trinh sát - Lockheed SP-2H Neptune 2 (Cả hai đều đã nghỉ hưu vào cuối tháng do khung máy bay quá cũ)
    • Phi đội 1 trực thăng hải quân
    • Phi đội 2 - Sikorsky King SH-3 Sea 5
    • Phi đội 3 máy bay vận tải
    Lục quân Argentina







    Tiếng Tây Ban Nha: Comando de Aviación del Ejército Argentino
    Ngoài ra còn chưa tính máy bay của lực lượng gác biển và máy bay vận tải được trưng dụng cho cuộc chiến

    Những máy bay chủ lực của Argentina bao gồm: McDonnell Douglas A 4-Skyhawk 58 chiếc, Dagger Israel 30 chiếc, Dassault Mirage IIIEA 17, Dassault Super Étendard 4 chiếc. Tổng cộng có 109 chiếc máy bay chủ lực.



    Trang bị vũ khí

    • Súng máy và pháo:
    • Tên lủa không điều khiển:
      • 70 mm: MB339s
      • 105 mm: Pucaras
    • Tên lửa:
      • Không-đối-Không:
        • AIM-9B Sidewinder hồng ngoại tầm ngắn: chỉ phi đội 1 4Q-Skyhawks có cho đến ngày 01 tháng 5
        • Rafael Shafrir 2 hồng ngoại tầm ngắn: chỉ IAI Daggers có cho đến ngày 01 tháng năm
        • Matra R550 Magic hồng ngoại tầm ngắn: cho Mirage IIIEA cho đến ngày 15 tháng 4
        • Matra R530 tầm ngắn ra đar bán chủ động: Mirage IIIEA
      • Không-đối-Bề mặt:
        • Tên lửa chống hạm Aérospatiale AM.39 Exocet: 5 đơn vị trên các máy bay Super Etendard
        • Tên lửa không - đối - bề mặt AS 30. Được cung cấp bởi Không quân Peru tại căn cứ không quân Tandil (căn cứ Toà nhà của các máy bay Dagger FAA) vào cuối tháng năm, chiến tranh kết thúc trước khi chúng có thể được sử dụng
    • Bom nổ chậm không điều khiển: Mười ba quả bom đã trúng tàu Anh nhưng không nổ vì chúng đã được ném từ độ cao rất thấp nên không đủ thời gian cho kíp nổ hoạt động. Vấn đề được giải quyết bằng các kíp nổ mới (Kappa) mua của Tây Ban Nha.
      • Mark 82 do Mỹ chế tạo (£ 500 / 227 kg): dùng trên A 4sIAI Daggers
      • Bom £ 1.000 (450 kg) do anh chế tạo: dùng trên A 4s-, IAI DaggersCanberras
      • Bom Napalm: cho máy bay Pucaras
    Thành tích


    Tàu Anh bị đánh chìm: HMS Sheffield, HMS Coventry, HMS Ardent, HMS Antelope, RFA Sir Galahad, Atlantic Conveyor và Landing Craft Utility


    Tàu Anh bị đánh hỏng: HMS Glasgow, HMS Antrim, HMS Brilliant, HMS Broadsword, HMS Alacrity, HMS Arrow, HMS Argonaut, HMS Plymouth, RFA Sir Bedivere, RFA Sir Lancelot, RFA Sir Tristram, RFA Stromness


    Thương vong và thiệt hại về máy bay

    • Thiệt hại về nhân sự:
      • 6 người thuộc Không quân Lục quân
      • 4 người thuộc Không quân Hải quân
      • 55 người của Không quân
    Bao gồm
    • 29 phi-công chiến đấu
    • 12 thành viên phi hành đoàn (của các chiêc C-130H, LJ-35A Learjet và Canberra bị bắn rơi)
    • 14 thành viên phi hành đoàn chết trên mặt đất
    Thiệt hại của máy bay

    Máy bay tấn công Argentina đã không sử dụng tên lửa không-đối-không trừ các máy bay tiêm kích Mirage IIIEA của Lữ đoàn Không quân số 8 và Dagger của Lữ đoàn Không quân số 6 vào ngày 01 tháng 5. Tất cả đã chiến đấu bằng vũ khí thứ cấp như là cannon 20 mm hoặc 30 mm.


    • Bị phá hủy trong chiến đấu
    IAI Dagger A: 11
    A-4B Skyhawk: 10
    A-4C Skyhawk: 7
    FMA IA 58 Pucará: 3
    A-4Q Skyhawk Navy: 3
    Mirage IIIEA: 2
    B.Mk62 Canberra: 2
    C-130E Hercules: 1
    Aermacchi MB.339A Navy:1
    Learjet 35A: 1
    Puma SA330L Army: 4

    Tổng số có 47 máy bay các loại của Argentina bị bắn hạ trong chiến đấu







    • Bị phá hủy trên mặt đất
      • 9 FMA IA 58 Pucará
      • 1 Agusta A109 Army
      • 1 Boeing Ch-47C Chinook Army
      • 2 Aérospatiale Puma SA330L Army
      • 4 Beechcraft T-34 Mentor Navy
      • 2 Skyvan 3-M Coast Guard
      • 2 Bell UH-1H Iroquois Army
    Tổng số có 21 máy bay các loại của Argentina bị phá hủy trên mặt đất
    • Bị bắt giữ sau cuộc chiến
      • 11 FMA IA 58 Pucará
      • 2 Agusta A109 Army
      • 7 Bell UH-1H Iroquois Army
      • 1 Boeing CH-47C Chinook Army
      • 1 Aérospatiale Puma SA330L Coast Guard
      • 3 Aermacchi MB.339A Navy
      • 2 Bell 212
    Tổng số có 27 máy bay các loại của Argentina bị bắt giữ sau cuộc chiến
    Ngoài ra còn có ít nhất chiếc 2 A-4 Skyhawk bị rơi vì những lý do khác
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc chiến bắt đầu


    Cuộc đổ bộ vào quần đảo Falkland

    Argentina được chở trên các xe lội nước bắt đầu tiến hàng đổ bộ vào Quần đảo Falkland. Quân xâm lược bắt đầu tiếp cận vòng phòng thủ đầu tiên được tổ chức bởi thiếu tá Mike Norman của Thủy quân lục chiến Hoàng gia theo lệnh của Thống đốc Sir Rex Hunt của Quần đảo Falkland, cuộc đổ bộ của các toán đặc nhiệm của Đại úy hải quân Guillermo Sánchez-Sabarots vào Mullet Creek, cuộc tấn công vào doanh trại Moody Brook, trận giao chiến của lực lượng xe APC của Hugo Santillán với thủy quân lục chiến Hoàng gia của Bill Trollope ở phía đông Stanley, và trận chiến cuối cùng ở Tòa Toà nhà Chính phủ. Đó là trận chiến đầu tiên của Chiến tranh Falklands.[/SIZE]

    [​IMG]
    Bản đồ cuộc đổ bộ của Quân đội Argentina vào Quần đảo Falkland

    Phòng thủ


    Thống đốc Sir Rex Hunt đã được thông báo từ Chính phủ Anh về một cuộc xâm lược của người Argentina có thể nổ ra vào ngày 01 tháng Tư. Lúc 03:30 ngày hôm đó ông ta đã nhận được một bức điện từ Văn phòng Khối thịnh vượng chung nêu rõ:

    "Chúng tôi có bằng chứng rõ ràng và đáng tin cậy rằng một lực lượng đặc nhiệm của Argentina có thể sẽ được tập hợp ở ngoài khơi Stanley lúc bình minh ngày mai. Ngài nên thực hiện bố trí cho phù hợp."


    Các lực lượng tham chiến

    Vị thống đốc liền cho triệu tập hai sỹ quan cấp cao của Thủy quân lục chiến của Hải quân Hoàng gia – Đội 8.901 đến Toà nhà Chính phủ ở Stanley để thảo luận về việc chọn lựa cho phương án bảo vệ Falklands. Ông nói trong cuộc họp về mức độ nghiêm trọng của tình hình mà các hòn đảo phải đối mặt.

    Thiếu tá Mike Norman đã được chỉ định làm chỉ huy chung của Thủy quân Lục chiến bởi thâm niên của ông ta, trong khi thiếu tá Gary Noott trở thành cố vấn quân sự cho Thống đốc Hunt. Tổng cộng có 68 lính Thủy quân lục chiến và 11 thủy thủ, đây là một mức quân số lớn hơn thông thường bởi vì đơn vị đồn trú đang trong quá trình thay đổi. Cả hai toán binh sỹ được thay thế và chuẩn bị ra về đều ở lại được trong Falklands vào thời điểm cuộc xâm lược. Số này sẽ giảm xuống còn 57 khi 22 lính Thủy quân lục chiến Hoàng gia lên boong chiếc tầu tuần tra Endurance ở Nam cực để quan sát binh sĩ Argentina tại căn cứ South Georgia. Nhưng nguồn tin khác từ Hải quân Hoàng gia lại nói rằng tổng số có 85 thủy quân lục chiến được sử dụng, số lượng của họ được gia cố bởi ít nhất 25 thành viên của Lực lượng Bảo vệ Quần đảo Falkland (FIDF). Graham Bound đã sống qua thời gian chiếm đóng của Argentina và viết trong cuốn sách Cuộc chiến tại đảo Falkland rằng con số này cao hơn khoảng 40 người (cả những người đang và đã) là thành viên của FIDF đã báo cáo có mặt tại Drill Hall. Sĩ quan chỉ huy của họ - Thiếu tá Phil Summers được giao nhiệm vụ chỉ huy các dân quân tình nguyện bảo vệ các điểm chủ chốt như các Trạm điện thoại, Đài phát thanh và trạm điện. Skipper Jack Sollis lên boong chiếc tàu ven biển – chiếc Forrest để sử dụng tàu của mình như là một trạm radar quét ngoài khơi Stanley. Hai dân thường khác, cựu thủy quân lục chiến Jim Alister và công dân Canada, Bill Curtiss, cũng xin với viên Thống đốc để được tham gia chiến đấu.

    Operation Rosario


    Hoạt động đổ bộ của Argentina bắt đầu vào buổi tối cuối thứ năm ngày 01 Tháng 4, khi tàu khu trục ARA Santisima Trinidad Argentina dừng cách 500 mét ngoài khơi Mullet Creek và hạ xuống nước 21 chiếc xuồng tấn công Gemini. Họ là Toán đổ bộ Đặc nhiệm số 1 gồm 84 lính đặc nhiệm của Trung úy hải quân Guillermo Sánchez-Sabarots và một toán nhỏ dưới sự chỉ huy của Trung úy Pedro Giachino thuộc tiểu đoàn TQLC 2IC, đó là lực lượng để chiếm Toà nhà Chính phủ. Chuẩn Đô đốc Jorge Allara Argentina đã yêu cầu Rex Hunt đầu hàng một cách hòa bình, nhưng đề nghị bị từ chối.
    Hoạt động này đã được gọi là Azul (Blue) trong giai đoạn lập kế hoạch, nhưng cuối cùng đã được đổi tên thành Rosario (Hoa hồng).

    Cuộc tấn công vào doanh trại Moody Brook


    Toán của Giachino chỉ phải di chuyển trong một khoảng cách ngắn nhất: hai dặm rưỡi về phía bắc. Doanh trại Moody Brook, đích đến của toán chính cách sáu dặm trên địa hình gồ ghề của Falklands. Trung úy chỉ huy Sánchez-Sabarots, trong cuốn sách Trận chiến của Argentina cho đảo Falklands, mô tả bước tiến của toán quân chính trong bóng tối:

    Đó là một đêm với mặt trăng đẹp tuyệt vời, nhưng các đám mây bao phủ mặt trăng trong hầu hết thời gian. Rất khó đi với những balô nặng nề của chúng tôi nhưng công việc rất gấp gáp. Chúng tôi cuối cùng tách ra thành ba nhóm. Chúng tôi chỉ có một chiếc đèn đêm; Người dẫn đầu - trung úy Arias đã giữ nó. Một trong những nhóm đã bị tách ra khi một chiếc xe đi qua con đường mà chúng tôi đã phải vượt qua. Chúng tôi nghĩ rằng nó là một toán tuần tra quân sự. Một nhóm khác lại bị mất liên lạc và nguyên nhân của nhóm thứ ba này là một ai đã đi quá nhanh. Việc này gây ra người phó thứ hai của tôi - trung úy Bardi bị ngã. Anh ta bị gãy xương mắt cá và phải bị bỏ lại phía sau với một người để giúp anh. Chúng tôi đã được Moody Brook vào lúc 5:30, rất sát vào giới hạn của thời gian quy định, nhưng không có dư khoảng thời gian độ 1 giờ để trinh sát đây là khoảng thời gian mà chúng tôi hy vọng đã có.

    Toán chính của Thủy quân lục chiến Argentina giả định rằng Doanh trại Moody Brook có Thủy quân lục chiến Hoàng gia đang ngủ. Doanh trại rất yên tĩnh, mặc dù một tia sáng đã chiếu vào trong phòng của viên chỉ huy Lực lượng Royal Marine. Không có động tĩnh nào được quan sát và đó là một đêm yên tĩnh ngoài vài tiếng kêu của các động vật thông thường. Trung úy-Commander Sánchez-Sabarots không thể nghe thấy bất cứ điều gì của hành động tại tòa Toà nhà chính phủ, hoặc từ điểm đổ bộ từ bãi biển đích, tuy nhiên, ông ta vẫn ra lệnh bắt đầu tấn công. Trung úy-Commander Sánchez-Sabarots tiếp tục các ghi chép của mình:

    Vẫn hoàn toàn tối thui. Chúng tôi sẽ sử dụng hơi cay để ép quân Anh ra khỏi tòa nhà và bắt sống chúng. Mệnh lệnh là không được gây thương vong nếu có thể. Đó là nhiệm vụ khó khăn nhất trong sự nghiệp của tôi. Tất cả chúng tôi được đào tạo như là những lính biệt kích để chiến đấu một cách mạnh mẽ và gây thương vong tối đa cho đối phương. Chúng tôi bao vây doanh trại với các toán súng máy, chỉ để lại một đường thoát dọc theo bán đảo phía bắc của <ST1:PStanley </ST1:PHarbour. Bất cứ ai nếu có thoát được đi cũng sẽ không thể tiếp cận thị trấn và củng cố cho người Anh ở đó. Sau đó chúng tôi ném lựu đạn cay vào từng tòa nhà. Không có phản ứng gì cả, doanh trại đã trống không.

    Những tiếng nổ của lựu đạn đã báo cho thiếu tá Norman sự hiện diện của người Argentina ở trên đảo và như vậy là ông quyết định trở về Toà nhà Chính phủ. Nhận thấy rằng cuộc tấn công đến từ Moody Brook, ông ra lệnh cho tất cả các toán quân hội tụ về Toà nhà Chính phủ để khả năng phòng thủ được tập trung.

    Mặc dù không có nhân chứng nào của Royal Marine trong vụ tấn công, mô tả tình trạng của doanh trại Moody Brook sau đó mâu thuẫn với các sự kiện trong tài liệu của Argentina. Sau hành động, một số Thủy quân lục chiến Hoàng gia được phép trở về doanh trại để thu thập các vật dụng cá nhân. Chính Norman đã mô tả bức tường của doanh trại bị thủng bởi súng máy và lựu đạn Phốt pho trắng "Một hoạt động theo kiểu dọn dẹp cổ điển – nghĩa là thịt sạch he he"

    Đổ bộ hạ tại <ST1:PYork Bay</ST1:P<ST1:P</ST1:P


    Một hành động cấp bách hơn ở rìa phía đông của Stanley. Hai mươi chiếc xe bọc thép đổ bộ Amtrac LVTP-7A1 – do Hoa kỳ sản xuất của Argentina từ Tiểu đoàn 1 Xe lội nước, chở các đại đội D và E của Tiểu đoàn 2 Thủy quân lục chiến (BIM-2) từ Puerto Belgrano, đổ bộ xuống bến tầu Cabo San Antonio tại Yorke Bay, và đã bị theo dõi bởi một toán Thủy quân lục chiến Hoàng gia dưới sự chỉ huy của Trung úy Bill Trollope. Cột xe thiết giáp dọc theo con đường sân bay vào Stanley với ba chiếc Amtrac (số 05, 07 và 19) trong đội tiên phong và gần the Ionospheric Ionospheric Station, tại chính xác lúc 7:15 am, và đã bị tấn công bởi một toán Thủy quân lục chiến Hoàng gia bằng rocket chống tăng và súng máy. Diễn biến này được báo cáo từ Trung úy -Commander Hugo Santillán sau trận chiến chính thức:

    Chúng tôi đã vào đoạn cuối cùng của con đường tới Stanley. Một loạt đạn súng máy bắn từ một trong ba Toà nhà trắng ở khoảng 500 mét và trúng vào chiếc Amtrac bên tay phải. Đạn bắn rất chính xác. Sau đó có tiếng nổ từ một bệ phóng rocket chống tăng nhưng phát bắn đã không chính xác và rơi xuống cách chúng tôi một khoảng khá xa. Chúng tôi tiến hành đúng theo chiến thuât chiến đấu tiêu chuẩn của chúng tôi và cơ động lẩn tránh. Chiếc Amtrac bên phải bắn trả…. Sau khi qua khỏi thời gian nguy hiểm, tôi ra lệnh cho cả ba chiếc xe thả quân tháp tùng của họ xuống. Tôi ra lệnh cho lính của mình dùng súng không giật bắn một phát đạn trống tăng vào mái của Toà nhà nơi có đặt các khẩu súng máy để gây ra một tiếng nổ nhưng không phải là một vụ nổ. Chúng tôi vẫn theo mệnh lệnh mà chúng tôi nhận được là không gây ra thương vong. Phát đạn đầu tiên cách mục tiêu một trăm mét, nhưng phát thứ hai đã trúng mái của Toà nhà. Các binh lính Anh sau đó đã ném một quả lựu đạn khói, Tôi nghĩ rằng đó là tín hiệu họ rút lui. Họ đã ngừng bắn, do đó chỉ huy Weinstabl bắt đầu cho hai đại đội tiến lên xung quanh vị trí. Sau đó một số xạ thủ súng trường tại một trong những toà nhà bắt đầu bắn ra một cách khá khó chịu. Tôi không thể xác định được vị trí của họ, nhưng một trong những chiếc Amtrac khác của tôi yêu cầu sự cho phép để bắn một vài phát đạn súng cối mà họ có. Tôi chấp nhận điều này, nhưng chỉ cho phép bắn ba phát đạn vào mái của ngôi nhà. Hai viên đạn rơi không trúng nhưng phát thứ ba rơi vào chính giữa mái của Toà nhà và không thể tin được người Anh sau đó đã ngừng bắn.

    Chiếc Amtrac bên phải chuyển động ra ngoài con đường rồi tắt máy, nó thả lính Thủy quân lục chiến ở bên trong ra, Việc này khuyến khích các Thủy quân lục chiến Hoàng gia nghĩ rằng lính Mark Gibbs đã bắn được một phát trúng trực tiếp vào khoang chở quân của chiếc APC.

    Trung úy Bill Trollope mô tả các hành động:

    Sáu xe APC bắt đầu tiến với ở tốc độ chậm vào sân bay. Chiếc APC đầu tiên đã bị tấn công ở vào một phạm vi khoảng 200-250 mét. Ba phát rocket đầu tiên, hai phát cỡ nòng 84 mm và một phát cỡ nòng 66 mm đều trượt mục tiêu. Sau đó một trong số phát 66 mm bắn bởi Marine Gibbs bắn trúng khoang chở quân là một trong phát đạn 84 mm của các Thủy quân lục chiến Brown và Betts từ phía trước. Cả hai viên đạn đều phát nổ và nhưng không thấy đám cháy từ chiếc xe đó. Năm chiếc APC còn lại ở khoảng 600-700 mét đổ quân của họ xuống và nổ súng. Chúng tôi đánh nhau với họ bằng súng GPMG, SLR và súng bắn tỉa [Sergeant Shepherd] vài phút trước khi ném về phía trước khi một quả lựu đạn phốt pho khói trắng và vọt về phía bìa của khu vườn. Súng nổ ở giai đoạn này là khá dữ dội nhưng chủ yếu là không chính xác.
    Trung úy Trollope và người của mình rút lui về phía Davis Street, chạy về phía sau Toà nhà và Thủy quân lục chiến Argentina đuổi sát ở phía sau và phải nằm xuống đất rồi bắn lên mặt đường khi rõ ràng rằng họ không thể tiếp cận được đến Toà nhà Chính phủ.

    Trận Toà nhà Chính phủ và đầu hàng


    Nằm trên một đồỉ nhỏ phía nam của tòa Toà nhà chính phủ, Trung úy-Commander Giachino phải đối mặt với khó khăn của việc chiếm lấy mục tiêu quan trọng này mà không có điện đài và với một lực lượng chỉ có mười sáu người. Ông phân chia lực lượng của mình thành các nhóm nhỏ, cho một đội ở mỗi bên của Toà nhà và một ở phía sau. Họ không biết được rằng tòa nhà của Thống đốc là điểm tập trung chính của Thủy quân lục chiến Hoàng gia, và có sô lượng đông hơn các của Commandos Argentina đến ít nhất là 2-1. Cuộc tấn công đầu tiên vào tòa Toà nhà này nổ ra lúc 6:30, chỉ một giờ trước khi có cuộc đổ bộ vào Vịnh Yorke, khi một trong những đội của Giachino do Trung úy Gustavo Lugo chỉ huy bắt đầu bắn nhau với quân Anh trong Toà nhà. Tại thời điểm này Giachino cùng với bốn cấp dưới của ông đột nhập vào phòng của người giúp việc và nghĩ tin rằng đây là lối vào phía sau của tòa nhà. Ba Thủy quân lục chiến Hoàng gia, các hạ sỹ Sellen và Fleet cùng với lính TQLC Dorey, những người đã phục sẵn ở đây ngay lập tức đánh bại cuộc tấn công đầu tiên. Giachino bị trúng ngay lập tức khi ông lao qua cửa, trong khi Trung úy Diego Garcia Quiroga bị bắn vào cánh tay. Số ba người còn lại rút về nhà của người giúp việc. Giachino không bị chết nhưng bị thương rất nặng. Một lính cứu thương Argentina – hạ sỹ Ernesto Urbina, cố để cứu Giachino nhưng đã bị thương do một quả lựu đạn. Giachino, thấy những gì đã xảy ra, kéo pin của một quả lựu đạn ra tay và đe dọa sẽ dùng nó. Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh sau đó cố gắng thuyết phục viên sỹ quan này đừng nổ quả lựu đạn để họ có thể sơ cứu cho ông nhưng ông ta từ chối và chặn không cho họ đến vị trí của mình. Sau khi lực lượng Anh tại Toà nhà Chính phủ đầu hàng, khoảng ba giờ sau đó, Giachino mới được đưa tới bệnh viện Stanley nhưng đã chết vì mất máu.


    [​IMG]
    Ảnh toán biệt kích của Argentina, những người đã đột kích vào Toà nhà Chính phủ đầu hàng ở Stanley


    Tại văn phòng của Thống đốc, thiếu tá Norman nhận được một báo cáo vô tuyến điện từ toán của hạ sỹ York, toán này được định vị tại phần cong của bán đảo nới quan sát bất kỳ con tàu nào của Argentina tiến vào <ST1:PStanley </ST1:P<ST1:PHarbour</ST1:P.

    Viên hạ sỹ tiến hành báo cáo về ba mục tiêu tiềm năng trong tầm nhìn và đó ông hỏi lại. mục tiêu theo dõi ưu tiên là gì? . Mục tiêu số một là một chiếc tàu sân bay, mục tiêu số hai là một tàu tuần dương, tại thời điểm đó vị trí này bị tràn ngập. Hạ sỹ York quyết định thu hồi toán của mình và tiến hành cài bẫy mìn vào khẩu súng không giật Carl Gustav, trước khi paddling chiếc xuồng của họ về phía bắc vượt qua cảng William. Khi ông ta làm việc này,York tuyên bố rằng một tàu khu trục Argentina bắt đầu theo đuổi chúng (chiếc tàu hạm đội loại nhỏ ARA Granville theo nguồn Argentina). Ông có sáng kiến lái chiếc Gemini vào sát một chiếc tàu cá Ba Lan, ẩn chiếc xuồng nhỏ trong bóng của nó. Họ kiên nhẫn chờ đợi cơ hội, trước khi di chuyển đến bờ biển và đổ xuống một bãi biển nhỏ.

    Quay lại tại Toà nhà Chính phủ, các biệt kích Argentina " gây áp lực tiếp tục. Có một số bằng chứng cho thấy rằng họ sử dụng lựu đạn stun và thay đổi liên tục các vị trí bắn của họ trong trận đánh làm Thủy quân lục chiến Hoàng gia bên trong tin rằng họ đã phải đối mặt với một đại đội thủy quân lục chiến và chiếm ưu thế về mặt quân số. Trên thực tế, sau thất bại của đội của Giachino trong việc đột nhập vào tòa nhà, người Anh đã bị bao quanh bởi chỉ có một tá quân tinh nhuệ. Những người này nằm dưới sự chỉ huy của Trung úy Lugo, chỉ huy phó của Giachino. Chiếc Land Rovers sử dụng bởi Thủy quân lục chiến Hoàng gia bị vô hiệu hóa bởi súng tự động của lính biệt kích. Thống đốc Hunt gọi cho Patrick Watts qua điện thoại và nói ông tin rằng lực lượng tấn công tương đương với một đại đội được tăng cường:

    Chúng tôi vẫn giữ được vị trí này, nhưng chúng tôi đang bị ghìm chặt. Chúng tôi không thể di chuyển .(...) bây giờ họ có khoảng 200 người bao vây xung quanh chúng tôi. Họ ném lựu đạn và bắn súng trường vào chúng tôi, tôi nghĩ rằng có thể có cả súng cối, tôi cũng không chắc lắm. Họ đến rất nhanh chóng và rất gần và sau đó họ rút lui. Có lẽ họ đang chờ đợi cho đến khi những chiếc APC đi cùng [Amtracs] và họ nghĩ rằng họ sẽ ít bị thương vong.

    Do đó, Hunt quyết định tham gia đàm phán với các chỉ huy Argentina khoảng 08:00. Việc liên lạc được Phó Commodore Hector Gilobert, đứng đầu công ty hàng không chính phủ Argentina - LADE. Gilobert và một Phó Thống đốc đã đến sở chỉ huy của Argentina với một lá cờ trắng. Một thỏa thuận ngừng bắn trên thực tế đã được đưa ra vào thời gian đó nhưng đôi khi bị vi phạm bởi các vũ khí nhỏ.

    Trong khi các cuộc đàm phán vẫn đang diễn ra, một sự cố xảy ra bên trong nơi cư trú. Ba người Argentina còn sống sót của đợt tấn công đầu tiên còn lại vô tình báo cho thiếu tá Noott về sự hiện diện của họ, trong khi họ chuẩn bị rời khỏi nơi ẩn náu của mình. Ông hướng khẩu súng tiểu liên Sterling vào trần của căn phòng của người giúp việc và nã đạn. Theo báo cáo của người Anh, các biệt kích bị choáng váng và ngã xuống cầu thang, liền hạ vũ khí của họ xuống mặt đất. Họ đã trở thành tù nhân Argentina đầu tiên của chiến Falklands mặc dù vào lúc đó Thống đốc Hunt đang tiếp xúc với các quan chức Argentina để đàm phán các điều khoản đầu hàng. Theo phiên bản của Argentina thì ba người này giữ đúng vị trí chiến đấu của họ đến khi kết thúc chiến sự.

    Trong khi đó, phái viên của Thống đốc đến gặp chỉ huy của Argentina tại Stanley. Chỉ huy Trưởng Argentina chấp nhận một cuộc họp mặt giáp mặt với Rex Hunt trong văn phòng đã bị tấn công của ông.

    Ngay sau đó, Thủy quân lục chiến Hoàng gia trong Toà nhà Chính phủ thấy các xe Amtrac đang tiếp cận, nhóm mà trước đó đã giao chiến với Trung úy Trollope và toán của ông. Đội này tiến về phía Moody Brook để kết nối với lực lượng của Sánchez-Sabarots, những biệt kích di chuyển chậm dọc theo con đường chính để củng cố các đồng đội của họ để bao vây tòa Toà nhà chính phủ sau khi bắt được một số tù nhân gần trường đua ngựa này. Thượng tá Norman trước đó đã khuyên Rex Hunt rằng Thủy quân lục chiến Hoàng gia và Thống đốc có thể phá vòng vây đến vùng nông thôn và thành lập một cơ quan chính phủ ở nơi nào đó, nhưng sau đó ông ta cuối cùng đã gặp được chỉ huy trưởng của lực lượng Argentina – Đô đốc Busser, ông đã đồng ý cho quân của mình đầu hàng trước một lực lượng áp đảo của Argentina lúc 09:30.

    Với lực lượng của York . Ngày 04 tháng 4, họ đã đến một túp lều chăn secluded sở hữu của một bà Watson nào đó. York không có radio, và do lo lắng về cái chết có thể xảy ra khi chọn phương án đầu hàng lực lượng Argentina. Họ thông báo vị trí của mình cho người Argentina bằng cách sử dụng radio một người địa phương ở đảo, và York sau đó ra lệnh cho người của mình phá hủy và chôn vũ khí của họ.

    Sau khi đầu hàng, Thủy quân lục chiến Hoàng gia và các thành viên của FIDF sau đó bị dồn vào các khu sân chơi. Hình ảnh và phim chụp các tù nhân người Anh được bố trí úp mặt xuống mặt đất. Điều này có lẽ là một nỗ lực của Argentina để chứng minh việc không có thương vong của người Anh, nhưng kết quả trái ngược lại: Các hình ảnh này đã kích động công chúng Anh khi chúng được phát sóng trên truyền hình và làm tăng phản đối của công luận về cuộc xâm lược. Ngay sau đó, Thủy quân lục chiến Hoàng gia được chuyển đến một máy bay vận tải C-130 Hercules, sau đó đưa họ đến Uruguay và đến Vương quốc Anh. Các thành viên của FIDF đã không được đưa đến Argentina cùng với các thành viên của NP 8.901, thay vào đó họ bị được giải giáp và trở về nhà của họ. Khi Thủy quân lục chiến được đưa ra khỏi hòn đảo, một trong số họ nói với một lính gác người Argentina "…. chúng tôi sẽ trở lại".

    Tại Buenos Aires những đám đông vẫy cờ làm ngập Plaza de Mayo khi nghe tin này. Thiệt hại của Argentina trong hoạt động này chỉ là một người chết và ba người bị thương. Tại London, nơi mà các tin xấu đều hoàn toàn đến từ các nguồn của Argentina, chính phủ đã ở trong tình trạng sốc. Cuộc khủng hoảng làm Bộ trưởng ngoại giao, Lord Carrington phải từ chức.

    Ngày hôm sau, lực lượng Argentina bắt chiếm chuỗi đảo South Georgia, 1.350 km về phía đông của Falklands. Trong hành động đó, Argentina phải chịu tổn thất một trong những thủy thủ của tàu hộ tống ARA Guerrico và hai thủy quân lục chiến thiệt mạng (Hạ sỹ hải quân Patricio Guanca và lính thủy quân lục chiến Mario Almonacid và Aguila Jorge). Một trong các Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh bị thương trong khi bắn nhau với quân đội Argentina. Thủy quân lục chiến Anh cuối cùng đã đầu hàng khi vị trí của họ bị bắn vào bởi khẩu 40 mm của chiếc Guerrico.





    Trận South Georgia


    Ngày 02 tháng 4

    Ngay trước khi Argentina đổ bộ lên Falklands, Các chiếc Bahía Paraíso (tầu Argentina) và Endurance (tầu Anh) đang chơi trò mèo-vờn-chuột ở South Georgia, cho đến 31 tháng 3, khi các con tàu bị mất hút nhau. Kế hoạch của Anh là Martin ( phía Anh) sẽ phải chịu trách nhiệm cho đến khi các lực lượng Argentina cho thấy bất kỳ ý định thù địch. Nếu điều đó xảy ra, Quyền Trung úy Keith Mills, sĩ quan cao cấp nhất của toán Thủy quân lục chiến Hoàng gia, sẽ nắm quyền chỉ huy. Ngày 02 tháng 4, thuyền trưởng Alfredo Astiz, Một cựu binh của Cuộc chiến bẩn thỉu người bị yêu cầu dẫn độ của Pháp vì hành vi vi phạm nhân quyền, thông báo cho bên Argentina tại Leith rằng quân đội Argentina đã đổ bộ lên Falklands. Trong khi đó, hải quân Argentina đã ra lệnh cho tàu hộ tống ARA Guerrico gia nhập cùng chiếc Bahía Paraíso, được trang bị hai máy bay trực thăng (một chiếc Puma của Lục quân và một chiếc Alouette III của hải quân ) và chở theo 40 lính thủy quân lục chiến, cùng với nhóm nghiên cứu tại Leith Astiz. Mục đích là chiếm giữ Grytviken. Nhóm này được gọi là Grupo de Tareas 60,1 (Task Force 60,1), dưới sự chỉ huy của Đại úy Trombetta, trên chiếc tàu Bahía Paraíso.

    Sau khi biết tin sự thất thủ của Stanley, Mills đã có biện pháp cấp bách: cho người của mình củng cố tại bãi biển, gần lối vào của vịnh với mìn dây và bom và chuẩn bị phòng thủ quanh tòa nhà BAS. Chiếc Endurance ở một vài dặm ngoài khơi, sẽ cung cấp thông tin liên lạc giữa toán quân nhỏ của Anh và London. Những quy định mới về quyền của Mills để "nổ súng tự vệ, sau khi đã cảnh báo". Một tuyên bố sau đó từ chính phủ Anh chỉ thị cho thủy quân lục chiến để "không chống cự vượt quá điểm mà cuộc sống có thể bị mất một cách vô ích." Mặt khác, kế hoạch cho ngày 02 tháng 4 của Argentina ở South Georgia đã bị cản trở bởi thời tiết xấu. Kế hoạch này bao gồm các cuộc đổ bộ của lực lượng đặc biệt Astiz vào Hope Point, gần Grytviken để đảm bảo sự xuất hiện của phần lớn các lực lượng trên bộ, vận chuyển bằng máy bay trực thăng. Chiếc Guerrico sẽ cung cấp hỗ trợ bằng hỏa lực của hải quân ở ngoài vịnh. Nhưng sự xuất hiện của chiếc tàu hộ tống đã bị trì hoãn bởi một cơn bão, do đó một hướng hành động mới đã được quyết định trong ngày hôm sau. Theo kế hoạch mới, cuộc đổ đầu tiên sẽ được dẫn đầu bởi chiếc máy bay trực thăng Alouette của chiếc Guerrico, tiếp theo là ba đợt đổ bộ thủy quân lục chiến trên chiếc Puma từ chiếc Bahia Paraíso. Sau khi gửi tin nhắn vô tuyến điện yêu cầu người Anh đầu hàng, Trombetta sẽ ra lệnh cho chiếc Guerrico để tạo ra một lực đẩy vào Grytviken bến cảng, ngay trước mặt King Edward Point. Quy định của Argentina cho phép tàu hộ tống chỉ nổ súng của nó theo yêu cầu của lực lượng đổ bộ. Người của Astiz sẽ ở lại trên chiếc Bahia Paraíso để gác ở phía sau. Tất cả các lực lượng tham gia nên tránh thương vong cho đối phương càng nhiều càng tốt. Freedman tin rằng Trombetta lên các quy định này khi ông ta chỉ phải chiến đấu với nhóm BAS.

    Ngày 03 tháng tư


    Lúc 07:30, khi thời tiết được cải thiện, chiếc Bahia Paraíso yêu cầu sự đầu hàng của Grytviken. Thông điệp intimated rằng Rex Hunt đã đầu hàng, không chỉ ở Falklands, mà còn cả ở vùng phụ thuộc của nó là sai sự thật. Trung úy Mills chép và chuyển tiếp tin nhắn tới chiếc HMS Endurance, Với mục đích là kéo dài thời gian. Đồng thời, ông đã mời các nhân viên BAS ẩn nấp vào bên trong một nhà thờ địa phương. Đến lúc đó, chiếc Alouette đã bay qua Grytviken và chiếc Guerrico đang lần đầu tiên tiến vào vùng nước nhỏ. Theo Mayorga, thuyền trưởng Carlos Alfonso chỉ huy của chiếc Guerrico do dự không biết có nên cho chiếc tàu hộ tống vào trong vùng biển hẹp như vậy. Mayorga cũng ủng hộ những phán đoán của Freedman về những giả định sai của Trombetta về sự hiện diện quân sự của Anh xung quanh bến cảng. Trombetta cũng đã có một số dự phòng về sự sẵn sàng sự chiến đấu của chiếc tàu chiến vì nó đã phải nằm tại ụ tàu chỉ vài ngày trước khi khởi hành từ căn cứ nhà tại Puerto Belgrano.

    Máy bay trực thăng bị bắn hạ


    Chiếc Puma đã đổ xuống một nhóm 15 thủy quân lục chiến đầu tiên của Argentina vào King Edward Point lúc 11:41, ở phía đối diện với Shackleton House, nơi mà các Thủy quân lục chiến Hoàng gia đang cố thủ. Đến lúc đó, chiếc Guerrico biết rằng khu vực triển khai chung của Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh đã nằm trên bờ phía bắc của một vũng biển nhỏ. Làn sóng thứ hai của thủy quân lục chiến cất cánh từ chiếc Bahia Paraíso trên boong chiếc Puma lúc 11:47. Chỉ huy của nhóm Argentina đã tiếp đất, trung úy Luna, yêu cầu thông qua chiếc Guerrico - Ông không có thông tin liên lạc trực tiếp với chiếc Bahia Paraíso- Rằng làn sóng thứ hai nên được trang bị súng cối 60 mm, nhưng nhóm này đã cất cánh. Việc hạ cánh đã được diễn ra ở phía đông của vị trí của Luna, cũng trong tầm nhìn của quân Anh. Chiếc máy bay trực thăng này bị phát hiện bởi Mills và binh lính của mình và ch bắn dữ dội các khẩu súng tự động. Phi công vẫn có thể bay qua chiếc vịnh nhưng lại có tai nạn máy bay trực thăng khi hạ cánh trên bờ phía nam của chiếc vịnh này. Hai người đã thiệt mạng và bốn người bị thương. Đồng thời, quân của Luna bắt đầu tiến về phía Shackleton House, nhưng các lính thủy đánh bộ Anh ghìm họ xuống bằng súng hạng nặng. Vì vậy Luna phải yêu cầu chiếc Guerrico nổ súng hỗ trợ.

    Chiếc ARA Guerrico


    Chiếc tàu hộ tống sau đó bắt đầu lần tiến lên thứ hai vào vũng nước nhỏ và lúc 11:55 nổ súng. Nó chỉ làm thất vọng viên chỉ huy của nó, súng 20 mm bị kẹt sau phát bắn đầu tiên, và súng 40 mm chỉ bắn được sáu viên đạn. Khẩu súng 100 mm cũng trở thành vô dụng sau khi bắn phát đầu tiên. Hoàn toàn vô dụng nhưng chiếc tàu chiến không có sự lựa chọn khác mà phải tiếp tục đi trước để quay về. Lúc 11:59, chiếc tàu hộ tống bị trúng các hỏa lực hạng nhẹ và 84 mm đạn chống tăng Carl Gustav. Theo Mills, toán của ông đã nổ súng từ khoảng cách 550 mét. Sự kiện này làm chết một thuỷ thủ và làm bị thương năm người khác, gây hư hại các cáp điện, súng 40 mm, một trong những bệ phóng Exocet và khóa nòng của khẩu súng 100 mm. Tất cả các nguồn từ Argentina thừa nhận rằng có hơn 200 phát đạn của vũ khí hạng nhẹ đã bắn trúng chiếc tàu hộ tống. Trong khi đó, Trung úy Busson của chiếc Alouette đã vận chuyển nhiều Thủy quân lục chiến Argentina lên trên bờ trong tầm phạm vi các loại vũ khí của Anh. Trong khi đó chiếc Guerrico cố gắng ra khỏi vũng biển hẹp, quân Argentina lại tiếp tục bắn nhau với thủy quân lục chiến của Mills. Một trong số họ bị trúng vào cánh tay của mình. Khi con tầu ra được khỏi phạm vi bắn của đối phương, chiếc Guerrico lại tiếp tục bắn súng 40 mm của mình vào lúc này. Việc này làm Mills tin rằng mọi thứ đã kết thúc và ông đã ra lệnh cho thủy quân lục chiến của mình ngừng bắn. Sự kiện này xảy ra vào lúc 12:48 theo Mayorga (người kể chuyện ). Mills tiếp cận vị trí của quân Argentina và vẫy một chiếc áo khoác màu trắng và đầu hàng "Sau khi đạt được mục tiêu của ông về việc dụ cho quân Argentina phải sử dụng vũ lực quân sự" Mills và lính của ông đã được mang đi và quản thúc bởi nhóm của Astiz, lực lượng dự trữ còn lại cho trận đánh. Chiếc HMS Endurance cử một trong những máy bay trực thăng Wasp của nó đến Cumberland<ST1:P</ST1:P<ST1:P</ST1:P. Chiếc máy bay đã hạ cánh ở đó và phát hiện một chiếc tàu hộ tống và tàu vận tải Argentina bên trong vũng nước nhỏ nhưng không tìm thấy dấu hiệu của trận chiến. Chiếc HMS Endurance vẫn ở trong vùng biển South Georgia cho đến mùng 5 tháng tư.

    Hậu quả


    Chiếc tàu hộ tống Guerrico đã bị mất 50% súng ống của mình trong thiệt hại của trận chiến cùng rời Grytviken với chiếc Bahia Paraíso lúc 03:15 ngày 04 tháng 4, khi đến địa phận Rio Grande, nó mất ba ngày trong ụ khô để sửa chữa. Các thủy quân lục chiến Anh đã bị tước vũ khí và đưa lên boong chiếc Bahia Paraíso, họ được chở đến Rio Grande và sau đó đã được đưa lên máy bay để đến Montevideo. Cuối cùng họ trở về Anh Quốc vào ngày 20 tháng 4. Một số thành viên BAS của Anh làm việc tại vùng sâu vùng xa vẫn tiếp tục hoạt động của họ mà không nản lòng cho đến khi cuộc tái chiếm Anh nổ ra. Nhà sản xuất phim động vật hoang dã - Cindy Buxton và trợ lý của cô đã được di tản bằng trực thăng từ tàu HMS Endurance ngày 30 tháng 4. Hải quân Argentina để lại một biệt đội gồm 55 lính thủy quân lục chiến ở trên hòn đảo. Các công nhân thu nhặt kim loại phế liệu 39 cũng vẫn ở tại Leith. South Georgia đã chiếm lại bởi lực lượng quân đội Anh ngày 25 tháng tư năm 1982, trong Operation Paraquat.
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Phản ứng ban đầu của Anh trước cuộc xâm lược của Argentina


    Chiếm lại Quần đảo Falkland được xem là một việc vô cùng khó khăn: hạn chế chính là sự khó khăn trong việc triển khai yểm trợ trên không (người Anh có 34 máy bay Harrier chống lại máy bay tiêm kích phản lực 220 của Argentina). Hải quân Hoa Kỳ coi sự thành công trong cuộc chiến chống xâm lược của người Anh “ một sự bất khả kháng về quân sự ”. Hoa Kỳ ban đầu đã cố gắng làm trung gian để chấm dứt cuộc xung đột. Tuy nhiên, khi Argentina từ chối những lời đề nghị hòa bình của Mỹ, Ngoại trưởng Mỹ Alexander Haig công bố rằng Hoa Kỳ sẽ cấm bán vũ khí cho Argentina và cung cấp hỗ trợ vật chất cho các hoạt động của Anh. Cả hai viện của Quốc-hội Mỹ đã thông qua nghị quyết ủng hộ hành động Mỹ đứng về phía Vương quốc Anh.

    Đến giữa tháng Tư, Không quân Hoàng gia đã thành lập một căn cứ không quân tại Wideawake ở giữa Đại Tây Dương tại vùng lãnh thổ hải ngoại của Anh thuộc Đảo Ascension, Trong đó có một lực lượng đáng kể máy bay ném bom Avro Vulcan B Mk 2, máy baytiếp nhiên liệu Handley Page Victor K Mk 2 và máy bay chiến đấu McDonnell Douglas Mc FGR Phantom 2 để bảo vệ chúng. Trong khi đó, lực lượng đặc nhiệm chính của hải quân Anh đến Ascension để chuẩn bị phục vụ chiến dịch. Một lực lượng nhỏ đã được gửi về phía nam để chiếm lại South Georgia.

    [​IMG]
    Bản đồ di chuyển của lực lượng đặc nhiệm Anh để chiếm lại South Georga và Quần đảo Falkland


    Ngay từ đầu tháng Tư, đội Task Force của Anh đã bị đeo bám bởi máy bay Boeing 707 của Không quân Argentina trong thời gian họ tiến về phía nam. Một số các chuyến bay này đã bị chặn bởi máy bay BAE Sea Harrier ở ngoài khu vực loại trừ đối của Anh, những chiếc 707 không vũ trang đã không bị tấn công bởi các động thái ngoại giao vẫn còn đang trong tiến trình và Anh vẫn chưa quyết định sử dụng lực lượng vũ trang. Ngày 23 tháng 4 một máy bay thương mại Douglas DC -10 của hãng hàng không VARIG-Brazil trên đường đến Nam Phi đã bị chặn lại bởi những chiếc Harrier của Anh và chiếc này đã được xác định bằng trực quan là máy bay dân sự.


    Tái chiếm South Georgia và tấn công chiếc tầu ngầm Santa Fe

    Lực lượng South Georgia trong Operation Paraquet, dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Guy Sheridan RM, bao gồm Thủy quân lục chiến từ đơn vị 42 Commando, một toán quân của Special Air Service (SAS) và một toán khác của Special Boat Service (SBS) đây là những toán được dự định để làm lực lượng trinh sát cho một cuộc xâm lược của Thủy quân lục chiến Hoàng gia. Tất cả đều được lên boong chiếc RFA Tidespring. Đến đich đầu tiên đến là chiếc tàu ngầm HMS Conqueror lớp Churchill vào ngày 19 tháng 4 và hòn đảo đã được bay qua bởi một chiếc máy bay Handley Page Victor có radar-mapping vào ngày 20 tháng 4.

    Cuộc đổ bộ đầu tiên của toán SAS diễn ra vào ngày 21 tháng 4, nhưng vào mùa thu nam bán cầu thường trong thời tiết rất xấu làm cho cuộc đổ bộ của họ và của những người khác được thực hiện ngày hôm sau, tất cả đều bị thu hồi sau khi hai máy bay trực thăng bị rơi trong sương mù ở Fortuna Glacier. Ngày 23 tháng 4, nghe được một cảnh báo về tàu ngầm và các hoạt động được dừng lại, chiếc Tidespring bị thu hồi về vùng nước sâu hơn để tránh bị đánh chặn. Ngày 24 tháng tư, các lực lượng Anh tập hợp lại và hướng đầu về phía South Georgia.



    [​IMG]
    Ảnh chiếc tàu ngầm ARA Santa Fe của Argentina


    Ngày 25 tháng 4, sau khi chuyển đồ cung cấp cho đơn vị đồn trú Argentina ở South Georgia, chiếc tàu ngầm ARA Santa Fe bị phát hiện trên bề mặt bởi một máy bay trực thăng Westland Wes.s.e.x HAS Mk 3 cất cánh từ chiếc HMS Antrim, chiếc này đã tấn công chiếc tàu ngầm Argentina bằng bom chìm. Chiếc HMS Plymouth đưa ra thêm một máy bay trực thăng Westland Wasp HAS.Mk.1 và HMS Brilliant tung ra một chiếc Westland Lynx HAS Mk 2. Chiếc Lynx bắn ra một quả ngư lôi và bắn phá chiếc tàu ngầm bằng khẩu súng máy đa chức năng của nó. Chiếc Wes.s.e.x cũng bắn vào chiếc Santa Fe với GPMG của nó. Chiếc Wasp từ chiếc HMS Plymouth cũng như hai chiếc Wasps phóng từ chiếc HMS Endurance bắn tên lửa chống hạm AS-12 ASM vào chiếc tàu ngầm. Chiếc Santa Fe bị hư hỏng nặng đủ để cho nó không thể lặn sâu xuống. Thủy thủ đoàn rời bỏ chiếc tàu ngầm tại cầu tàu ở King Edward Point thuộc South Georgia.

    Với chiếc Tidespring bây giờ ở xa ngoài biển và lực lượng Argentina được gia tăng bởi phi hành đoàn của chiếc tàu ngầm, thiếu tá Sheridan quyết định thu thập khoảng 76 người và ông đã thực hiện một cuộc tấn công trực tiếp vào ngày hôm đó. Sau một cuộc hành quân ngắn của quân đội Anh, lực lượng Argentina đã đầu hàng mà không kháng cự. Thông điệp được gửi từ các lực lượng hải quân ở South Georgia tới London là: "Vui mừng xin thông báo với Bệ hạ là cờ Hải quân Anh đang tung bay cùng với cờ của Liên Hiệp Ạnh tại South Georgia. Chúa cạo râu Nữ hoàng - Be pleased to inform Her Majesty that the White Ensign flies alongside the Union Jack in South Georgia. God Sharp the Queen "thủ-tướng Thatcher.đã công bố đoạn tin này cho các phương tiện truyền thông và bảo họ" Hãy vui mừng về tin tức này!"

    Cuộc tấn Black Buck

    Trong thời gian Chiến tranh Falklands, Operation Black Buck 1 đến Operation Black Buck 7 là một loạt bảy cuộc tấn công mặt đất tầm cực kỳ xa của máy bay ném bom Vulcan của Không quân Hoàng gia được lên kế hoạch để chống lại các vị trí của người Argentina trong Quần đảo Falkland. Trong số bảy hoạt động này chỉ có năm được cất cánh.

    Các cuộc tấn công của Operation Black Buck bao gồm một loạt năm vụ tấn công vào quần đảo Falkland của máy bay ném bom Avro Vulcan của Phi đội 44 RAF, phân đoạn từ Không quân Hoàng gia trên Đảo Ascension, gần đường xích đạo. Những chiếc máy bay mang hoặc 21 quả 1.000 lb bom bên trong hoặc hai hay bốn tên lửa chống radar Shrike ở bên ngoài. Hiệu quả tổng thể của các cuộc tấn công trong chiến tranh là khó xác định và các cuộc tấn công đã tiêu thụ lượng nhiên liệu quý giá phải vận chuyển bằng máy bay tiếp dầu. Các cuộc tấn công đã làm thiệt hại tối thiểu tới các đường băng và các thiệt hại cho radar đã nhanh chóng được sửa chữa. Thông thường bị bác bỏ như các tuyên truyền sau chiến tranh, chính nguồn của Argentina tuyên bố rằng các cuộc tấn của máy bay Vulcan đã gây ảnh hưởng làm Argentina phải rút một số trong những chiếc Mirage III từ Nam Argentina đến Buenos Defence Zone. Có những lời khuyên can rằng hiệu quả của việc không nước này tựa như nước đổ lá khoai tuy nhiên khi các quan chức Anh nói rõ rằng sẽ không có cuộc tấn công nào vào căn cứ không quân ở Argentina. Nhiều người đã cho rằng các cuộc tấn Black Buck này bắt nguồn từ sức ép ngược về nhà của Không quân Hoàng gia khi lực lượng vũ trang của Anh đã bị cắt giảm trong cuối những năm bảy mươi và Không quân Hoàng gia có thể muốn có một vai trò lớn hơn trong cuộc xung đột để ngăn chặn việc cắt giảm hơn nữa. Một chiếc hố hình miệng núi lửa duy nhất được tạo ra trên đường băng, khiến người ta nghĩ rằng sân bay này sẽ không còn được sử dụng bởi các máy bay phản lực tốc độ cao. Các đội mặt đất của Argentina sửa chữa đường băng chỉ trong vòng 24 giờ, nhưng chỉ đến một mức độ chất lượng phù hợp cho các máy bay phản lực C-130 Hercules và Aermacchi MB-339. Nhiều nguồn tin cho rằng (người Argentina làm) miệng hố thiên thạch giả để đánh lừa việc đánh giá thiệt hại của Anh, tuy nhiên người Anh cũng biết rằng đường băng vẫn được sử dụng bởi C-130 và Pucara.
    ( còn tiếp)


    Leo thang cuộc chiến tranh không quân

    Quần đảo Falklands chỉ có ba sân bay. Chiếc đường băng dài nhất và chỉ được mở tại thủ phủ Stanley, và thậm chí nó cũng quá ngắn để phục vụ cho các máy bay phản lực tốc độ cao. Vì vậy Argentina đã buộc phải tung ra các cuộc tấn công lớn của họ từ đất liền, việc này gây cản trở nghiêm trọng cho nỗ lực của họ bởi phạm vi bị hạn chế đối với các hoạt động tuần tra không chiến và hỗ trợ tầm gần trên không cho quần đảo Falklands. Thời gian bay tuần tra hiệu quả của máy bay Argentina là rất thấp và họ buộc phải bay qua lực lượng Anh trong mọi nỗ lực để tấn công các hòn đảo.

    Cuộc tấn công lớn đầu tiên của lực lượng Argentina bao gồm 36 máy bay (McDonnell Douglas A-4 Skyhawks, Israel Aircraft Industries Daggers, English Electric B Mk 62 Canberras và được máy bay Dassault Mirage III hộ tống) đã được tung ra vào ngày 01 tháng 5 trong dự tính rằng cuộc xâm lược của Anh sắp xảy ra hoặc cuộc đổ bộ đã được tiến hành trước đó. Chỉ có một phần của Grupo 6 (bay bằng máy bay IAI Dagger) tìm thấy tàu chiến Anh ở gần quần đảo và đang pháo kích vào tuyến phòng thủ của Argentina. Các máy bay Daggers đã cố gắng tấn công các con tàu và quay về một cách an toàn. Việc này giúp làm tăng mạnh mẽ tinh thần của các phi công Argentina, những người bây giờ biết họ có thể vẫn còn sống sau một cuộc tấn công vào các tàu chiến hiện đại, được bảo vệ bởi vệt dội tạp radar mặt đất từ quần đảo và bằng cách sử dụng pop-up profile.


    [​IMG]
    Ảnh một chiếc Dagger của Argentina bị bắn rơi bởi tên lửa AIM-9L Sidewinder của Anh, phi công không kịp nhảy dù



    Trong khi đó, những chiếc máy bay khác của Argentina đã bị chặn bởi những chiếc BAE Sea Harrier xuât kích từ chiếc HMS Invincible. Một chiếc Dagger (được điều khiển bởi Osvaldo Ardiles) và một chiếc Canberra đã bị bắn rơi.

    Một trận đánh Dogfight đã nổ ra giữa 1 máy bay chiến đấu 1 Sea Harrier FRS Mk của Phi đội số 801 hải quân Anh và máy bay chiến đấu Mirage III của Grupo 8. Cả hai bên đều từ chối chiến đấu ở độ cao lý tưởng của đối phương cho đến khi hai chiếc Mirage lao xuống tấn công. Một chiếc bị bắn hạ bởi một quả tên lửa không-đối-không AIM-9L Sidewinder (AAM), trong khi chiếc kia trốn thoát nhưng đã bị hư hỏng và không có đủ nhiên liệu để trở về căn cứ không quân của mình ở lục địa. Chiếc máy bay phải hạ cánh ở sân bay Stanley nơi nó trở thành nạn nhân của đạn nhà của lực lượng phòng thủ Argentina.

    Như là kết quả từ kinh nghiệm này, Không quân Argentina đã quyết định sử dụng các máy bay A-4 Skyhawks và Daggers theo nhiều đơn vị tấn công, các máy bay Canberras chỉ hoạt động ban đêm và Mirage III (không có khả năng tiếp nhiên liệu trên không hoặc không có tên lửa AAM thích hợp) sẽ làm mồi nhử để dụ dỗ Sea Harrier của Anh ra xa. Chiến thuật mồi nhử sau này được mở rộng với sự hình thành của Escuadron Fenix, Một phi đội máy bay phản lực dân sự có khả năng bay 24 giờ một ngày để đóng giả những máy bay chiến đấu đang chuẩn bị tấn công hạm đội Anh. Trong một trong những chuyến bay này, một chiếc Learjet của lực lượng không quân Argentina bị bắn hạ và giết chết người chỉ huy phi đội, Phó (đề đốc ?) Commodore Rodolfo De La Colina, sĩ quan cao cấp nhất của Argentina chết trong chiến tranh.

    Chỉ có một chiếc Hercules của Argentina bị bắn hạ bởi người Anh và rơi vào ngày 1 tháng 6 khi TC-63 bị chặn lại bởi một chiếc Sea Harrier trong ánh sáng ban ngày khi nó đang tìm kiếm hạm đội Anh ở phía bắc-đông của hòn đảo sau khi Hải quân Argentina đã cho nghỉ hưu chiếc SP-2H Neptune cuối cùng của mình do khung sườn máy bay đã quá cũ.

    Hàng loạt các lựa chọn khác nhau để tấn công vào căn cứ nhà của năm chiếc Etendards của Argentina tại Río Grande đã được kiểm tra và cân nhắc (Chiến dịch Mikado), sau đó năm tàu ngầm Hải quân Hoàng gia đã tạo thành đội hình dưới nước ở cạnh giới hạn lãnh hải của Argentina khoảng 12 dặm (22 km; 14 mi) để cung cấp các cảnh báo sớm về các cuộc tấn công đánh bom vào lực lượng đặc nhiệm Anh.


    Vụ đánh chìm tầu chiến General Belgrano


    Tóm tắt về con tầu

    Tên: ARA 17 de Octubre
    Kỷ niệm: Ngày 17 tháng 10 1945, ngày biểu tình đòi thả tự do cho Juan Perón
    Mua: năm 1951
    Đặt tên: ARA Tướng Belgrano
    Trùng tên: Manuel Belgrano
    Số phận: Bị đánh chìm vào năm 1982 bởi chiếc HMS Conqueror

    Đặc điểm chung

    Lớp tầu: Lớp Brooklyn
    Tải trọng: 9.575 tấn ( rỗng) 12.242 tấn ( đầy tải )
    Chiều dài: 608,3 ft ( 185,4 m )
    [COLOR=black][FONT=Times New Roman]Chiều rộng: 61,8 ft ( 18,8 m )[/FONT][/COLOR]
    [COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman]Độ mớm nước: 19,5 ft (5,9 m )[/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR]
    [COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman]Tốc độ: 32,5 hải lý / giờ (60 km / h )[/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR]
    [COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman]Thủy thủ đoàn: 1.138 sĩ quan và thủy thủ[/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR]







    [COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman]Vũ khí:[/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR]
    • [FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman]15 súng × 6 in / 47 cal (152 mm)
      [*]8 súng × 5 in / 25 cal (127 mm) AA
      [*]Súng phòng không 40 mm và 20 mm
      [*][COLOR=black][FONT=Times New Roman]hệ thống tên lửa AA Sea Cat - Anh ( thêm vào năm 1968)[/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT]
    [COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman]Thiết g[/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][SIZE=3][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman]iáp :[/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/SIZE]
    [LIST]
    [*][SIZE=3][COLOR=black][FONT=Times New Roman]Vành đai chính : 5.5 in (140 mm)
    [*]Sàn tàu : 2 in (50 mm )
    [*]Ổ pháo: 6 in ( 152 mm )
    [*]Mái tháp pháo : 2 ở (50 mm )
    [*]Mặt tháp : 6,5 in ( 170 mm )
    [*][COLOR=black][FONT=Times New Roman]Tháp điều khiển: 5 in (127 mm) [/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/SIZE]
    [/LIST][SIZE=3][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman][COLOR=black][FONT=Times New Roman]Máy bay: [/FONT][/COLOR]2 máy bay trực thăng ( Một Aérospatiale Alouette III đã lên boong khi tàu bị đánh chìm )[/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/SIZE]

    [FONT=Times New Roman][COLOR=black][SIZE=3]Chiếc ARA [I]General Belgrano[/I] là một tàu tuần dương của Hải quân Argentina bị đánh đắm trong Chiến tranh Falklands bởi tàu ngầm [URL="http://en.wikipedia.org/wiki/Royal_Navy"][COLOR=windowtext]Hải quân Hoàng gia[/COLOR][/URL] HMS [I]Conqueror[/I] với sự mất mát của 323 người. Thiệt hại của nhân mạng từ chiếc [I]Belgrano[/I] chiếm hơn một nửa số tổng số người Argentina chết trong cuộc chiến tranh Falklands .[/SIZE][/COLOR][/FONT]




    [SIZE=3][IMG]http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/3a.jpg[/IMG][/SIZE]
    [SIZE=3]Ảnh chiếc chiến hạm ARA [I]General Belgrano [/I]của Argentina trong một lần duyệt binh[/SIZE]


    [COLOR=black][FONT=Times New Roman][SIZE=3]Nó nguyên là chiếc USS [I]Phoenix[/I]( CL -46), đã từng hoạt động ở Thái Bình Dương trong Thế chiến II trước khi được bán cho Argentina vào năm 1951 . Nó là con tàu duy nhất bị đánh chìm bởi một tàu ngầm hạt nhân và lần thứ hai bị chìm đắm trong khi làm nhiệm vụ bởi tàu ngầm nói chung kể từ sau Thế chiến II, chiếc đầu tiên là chiếc tàu khu trục của Ấn Độ INS [I]Khukri[/I] bị chiếc tầu ngầm [I]Hangor[/I] của Pakistan đánh chìm trong Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971.[/SIZE][/FONT][/COLOR]

    [COLOR=black][FONT=Times New Roman][SIZE=3]Con tàu này là chiếc thứ hai được đặt theo tên của vị tướng trong cuộc chiến tranh giành độc lập của các Quốc gia châu Mỹ La tinh người Argentina - Manuel Belgrano ( 1770-1820 ). Chiếc tàu đầu tiên là một tuần dương hạm bọc thép 7.069 tấn được hoàn thành vào năm 1899.[/SIZE][/FONT][/COLOR]

    [COLOR=black][B][SIZE=3]Sự nghiệp[/SIZE][/B][/COLOR]

    [COLOR=black][SIZE=3]Chiếc tàu chiến được chế tạo như là chiếc [/SIZE][COLOR=windowtext][SIZE=3]USS[I]Phoenix[/I]( CL -46)[/SIZE][/COLOR][SIZE=3], chiếc thứ sáu của tàu tuần dương lóp [I]Brooklyn[/I] tại New Jersey do công ty đóng tàu New York đóng từ năm 1935, và hạ thủy vào tháng Ba năm 1938. Nó sống sót sau [/SIZE][COLOR=windowtext][SIZE=3]tấn công vào Trân Châu Cảng[/SIZE][/COLOR][SIZE=3] của Nhật Bản năm 1941 và ngừng hoạt động trong Hải quân Hoa Kỳ sau khi Thế chiến II kết thúc vào tháng Bảy năm 1946. Chiếc Phoenix có được chín ngôi sao trong chiến đấu cho quá trình phục vụ trong thế chiến thứ hai.[/SIZE][/COLOR]

    [COLOR=black][SIZE=3]Chiếc USS [I]Phoenix[/I] được bán cho Argentina vào tháng 10 năm 1951 với một chiếc nữa cùng lớp với nó (chiếc USS [I]Boise [/I]( CL -47) chiếc này được đổi tên thành ARA [I]Nueve de Julio[/I] ( C -5 ) ) từ Hoa Kỳ với giá $ 7.800.000. (chiếc [I]Nueve de Julio[/I] bị dỡ bỏ năm 1978) . Nó được đổi tên là [I]17 de Octubre[/I] để kỷ niệm [I]ngày Lòng của trung thành Nhân dân[/I], một cột mốc quan trọng đối với các Đ.ả.n.g chính trị của tổng thống Juan Perón sau đó . Trớ trêu thay, nó lại là một trong những đơn vị chính tham gia cuộc đảo chính đã lật đổ Perón sau đó vào năm 1955 và tàu lại được đổi tên thành [I]General Belgrano[/I] ( C -4) để kỷ niệm vị tướng Manuel Belgrano, người đã chiến đấu cho nền độc lập của Argentina năm 1811-1819. Một vài năm trước khi trở thành một vị Tướng ông đã công tác như là một viên chức thuộc địa, ông đã thành lập [I]Escuela de Nautica[/I] ( Trường Hàng Hải ) năm 1799 . Chiếc tàu tuần dương này vô tình đâm phải chiếc chị em của nó – chiếc ARA [I]Nueve de Julio[/I] khi đang tập trận vào năm 1956 kết quả là gây thiệt hại cho cả hai chiếc tàu tuần dương. Chiếc [I]Belgrano[/I] được trang bị với[/SIZE] hệ thống tên lửa [SIZE=3]phòng không AA Sea Cat vào giữa năm 1967 và 1968. [/SIZE][/COLOR]

    [SIZE=3][B][SIZE=4]Sự kiện đánh chìm chiếc ARA General Belgrano[/SIZE] [/B][/SIZE]

    [FONT=Times New Roman][SIZE=3]Sau khi cuộc xâm lược vào quần đảo Falkland 1982, chính quyền Argentina quân sự bắt đầu tổ chức củng cố các hòn đảo vào cuối tháng Tư khi nó nhận ra rằng người Anh đang tiến về phía Nam. Là một phần của chiến dịch này, hạm đội Hải quân Argentina được lệnh phải đóng ở các vị trí xung quanh các hòn đảo. Chiếc [I]General Belgrano[/I] đã rời cảng Ushuaia tại quần đảo [/SIZE][SIZE=3][COLOR=windowtext]Tierra del Fuego[/COLOR][/SIZE][SIZE=3] vào ngày 26 tháng tư 1982 cùng với hai tàu khu trục, các chiếc ARA [I]Piedra Buena[/I] ( D -29) và [I]Bouchard[/I] ( D -26) ( cả hai chiếc này cũng xuất xứ từ tàu Hải quân Hoa Kỳ ) như là lực lượng Task Group 79,3 [/SIZE][/FONT]

    [SIZE=3]Vào ngày 29 tháng 4, các con tàu đang tiến hành tuần tra Burdwood Bank, phía nam của hòn đảo. Vào ngày 30, chiếc [I]Belgrano[/I] đã bị phát hiện bởi chiếc tàu ngầm năng lượng hạt nhân của Anh - HMS [I]Conqueror[/I]. Chiếc tàu ngầm tiếp cận nó trong ngày hôm sau. Mặc dù bên ngoài người Anh tuyên bố vùng ngoại trừ 370 km (200 hải lý ) bán kính từ các hòn đảo, người Anh đã quyết định rằng nhóm tầu chiến này có thể là một mối đe dọa. Sau khi tham vấn ở cấp độ Nội các, thủ-tướng Margaret Thatcher nhất trí ra lệnh cho chỉ huy [/SIZE][COLOR=windowtext][SIZE=3]Chris Wreford -Brown[/SIZE][/COLOR][SIZE=3] tấn công chiếc [I]Belgrano[/I]. [/SIZE]



    [IMG]http://i902.photobucket.com/albums/ac227/hongsonvh02/13.jpg[/IMG]
    [SIZE=3]Ảnh chiếc tàu ngầm HMS [I]Conqueror chạy bằng [/I]năng lượng hạt nhân của Anh - chiếc đã bắn hạ chiếc tuần dương hạm [I]Belgrano của Argentina[/I][/SIZE]


    [SIZE=3]Theo chính phủ Argentina chiếc [I]Belgrano[/I] đang ở vị trí có tọa độ 55 ° 24' Nam 61 ° 32' Tây[/SIZE]:

    [SIZE=3]Lúc 15:57 ngày 02 tháng 5 chiếc HMS [I]Conqueror[/I] bắn ba quả ngư lôi [COLOR=windowtext]21 inch Mk 8 mod 4[/COLOR] ( ngư lôi thông thường không có dẫn đường ) có đầu đạn [/SIZE][SIZE=3][COLOR=windowtext]Torpex[/COLOR][/SIZE][SIZE=3] 805 pound (363 kg). Trong khi chiếc HMS [I]Conqueror[/I] được trang bị [COLOR=windowtext]homing ngư lôi[/COLOR] mới hơn [COLOR=windowtext]Mark 24 Tigerfish[/COLOR], đã có nghi ngờ về độ tin cậy của loại ngư lôi mới. Hai trong số ba quả ngư lôi ba bắn trúng chiếc [I]General Belgrano[/I].[/SIZE]

    [SIZE=3]Một trong những quả ngư lôi tấn công 10-15 mét ( 33-49 ft) phía sau mũi tầu, bên ngoài khu vực được bảo vệ bởi một trong hai bên giáp của thành tàu hoặc các vỉ chống ngư lôi. Quả ngư lôi này thổi tung mũi tàu, nhưng các vách ngăn bên trong và các kho đạn của súng 40 mm đã không phát nổ. Không có chiếc tàu nào đi cùng tại thời điểm vụ nổ.[/SIZE]

    [SIZE=3]Quả ngư lôi thứ hai bắn trúng ở điểm khoảng ba phần tư chiều dài con tàu, ngay bên ngoài của lớp thiết giáp ở phía sau. Quả ngư lôi đục xuyên một bên thành của chiếc tàu biển trước khi nổ tung trong phòng máy phía sau. Vụ nổ xé toạc con tầu thành một đám gọi là " Soda Fountain " cuối cùng trước khi tạo ra một lỗ thủng dài 20 mét tại sàn chính. Các báo cáo sau đó đưa ra số ca tử vong lên đến 275 người ở các khu vực xung quanh vụ nổ. Không có lửa cháy sau vụ nổ, nhưng chiếc tàu nhanh chóng tỏa đầy khói. Vụ nổ cũng làm hư hại hệ thống năng lượng điện của chiếc[I] Belgrano[/I], nó không thể tiến hành các cuộc gọi cấp cứu qua radio. Mặc dù các vách ngăn phía trước không bị phá, nước vẫn đổ xô vào qua chiếc lỗ được tạo ra bởi quả ngư lôi thứ hai và không thể được bơm ra ngoài vì mất điện.[/SIZE]

    [SIZE=3]Hai chiếc tàu hộ tống không biết về những gì đã xảy ra với chiếc [I]Belgrano[/I], họ đã mất liên lạc với nó vì thời tiết u ám và không thấy tên lửa báo nạn hoặc đèn tín hiệu. Thêm vào sự nhầm lẫn này, thủy thủ đoàn của ARA [I]Bouchard[/I] cảm thấy một tác động dường như có thể là quả ngư lôi thứ ba nổi lên ở cuối chạy của nó ( việc kiểm tra con tàu sau này cho thấy một dấu vết tác động phù hợp với một quả ngư lôi ). Hai chiếc tàu tiếp tục hướng của chúng về phía tây và bắt đầu thả thủy lôi chìm. Vào thời gian các con tàu nhận ra rằng có gì đó đã xảy ra với chiếc [I]Belgrano[/I], trời đã quá tối và thời tiết đã trở nên tồi tệ và làm phân tán các bè cứu sinh .[/SIZE]

    [SIZE=3]Các tàu Argentina và Chile cứu 770 người trong tất cả các từ 3 - 5 tháng 5. Tổng số 323 người đã thiệt mạng trong vụ tấn công: 321 thành viên của thủy thủ đoàn và 2 thường dân đã lên tàu vào lúc đó. [/SIZE]

    [B][SIZE=4]Tranh cãi về vụ chìm tàu[/SIZE][/B]

    [SIZE=3]Có một số tranh cãi xung quanh vụ đánh chìm chiếc ARA [I]General Belgrano[/I]. Vụ đắm tầu cũng trở thành một [I]célèbre[/I] của những người vận động chống chiến tranh (như nghị sỹ của **** lao động Tam Dalyell). Một phần của các lý do gây tranh cãi là các báo cáo đầu tuyên bố rằng khoảng 1.000 thủy thủ Argentina đã bị thiệt mạng trong vụ đắm tàu .[/SIZE]

    [SIZE=3]Trong những năm sau đó, một số nguồn tin khẳng định rằng thông tin về vị trí của ARA [I]General Belgrano[/I] đến từ một vệ tinh gián điệp của Liên Xô đã được khai thác bởi các trạm tình báo tại Fauske Na Uy, người Na Uy và sau đó bàn giao tài liệu này lại cho người Anh. Tuy nhiên, chiếc [I]Conqueror[/I] đã theo dõi chiếc [I]Belgrano[/I] trong một vài ngày do đó thông tin này có thể được coi là bổ sung không cần thiết. [/SIZE]

    [SIZE=3]Vụ đắm xảy ra 14 giờ sau khi Tổng thống của Peru Fernando Belaúnde đề xuất một kế hoạch hòa bình toàn diện và kêu gọi đoàn kết khu vực, mặc dù Thatcher và các nhà ngoại giao tại London đã không nhìn thấy tài liệu này cho đến sau khi đánh đắm chiếc [I]Belgrano[/I]. Những nỗ lực ngoại giao đến thời điểm đó đều thất bại hoàn toàn. Sau khi con tầu bị đánh chìm Argentina bác bỏ kế hoạch mà chỉ có người Anh chấp nhận vào ngày 5 tháng Năm. Thông tin này sau đó đã bị chi phối bởi hành động quân sự và không phải ai cũng biết được rằng người Anh tiếp tục đưa ra các điều khoản ngừng bắn cho đến khi 01 tháng sáu. [/SIZE]

    [B][SIZE=4]Tình trạng Pháp lý[/SIZE][/B]

    [SIZE=3]Chiếc [I]Belgrano[/I] bị chìm ngoài khu vực loại trừ (370 km ) 200 hải lý xung quanh Falklands. Tuy nhiên, khu vực loại trừ được tuyên bố vì lợi ích của các tàu trung lập; trong chiến tranh theo luật quốc tế hướng và vị trí của một tàu hải quân của các bên tham chiến không được tính vào tình trạng này. Ngoài ra, thuyền trưởng của chiếc [I]Belgrano[/I], Hector Bonzo, đã làm chứng rằng cuộc tấn công là hợp pháp (chính phủ Argentina năm 1994 cũng đồng ý là như vậy).[/SIZE]

    [SIZE=3]Mặc dù con tàu ở ngoài vùng loại trừ 200 dặm ( 370 km ), cả hai bên đều ngầm hiểu rằng không còn giới hạn cho sự hành động của Anh, ngày 23 tháng 4 đã có một tin nhắn gửi qua Đại sứ quán Thụy Sĩ tại Buenos Aires đến chính phủ Argentina, nó viết:[/SIZE]

    [SIZE=3]Trong thông báo việc thành lập một Khu vực Loại trừ Hàng hải - Maritime Exclusion Zone xung quanh quần đảo Falkland, Chính phủ của Nữ hoàng ( Her Majesty's Government ) làm rõ rằng biện pháp này không ảnh hưởng đến quyền của Vương quốc Anh để tiến hành mọi biện pháp bổ sung cần thiết trong việc thực hiện quyền tự vệ của mình theo Điều 51 của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Chính phủ của Nữ hoàng bây giờ muốn làm cho rõ ràng rằng bất kỳ sự tiếp cận nào của một phần các chiến hạm Argentina, bao gồm cả tàu ngầm, tầu phụ trợ hải quân hoặc máy bay quân sự mà chúng có thể tạo ra một mối đe dọa vào nhiệm vụ của lực lượng Anh ở Nam Đại Tây Dương sẽ gặp phải phản ứng thích hợp. Tất cả các máy bay của Argentina bao gồm cả máy bay dân sự tham gia giám sát các lực lượng Anh, sẽ được coi là thù địch và là đối tượng sẽ bị xử lý phù hợp. [/SIZE]

    [SIZE=3]Một cuộc phỏng vấn được thực hiện bởi Martin Middlebrook cho cuốn sách của mình, [I]the [I]Fight For The Malvinas[/I][/I], chỉ ra rằng các sĩ quan Hải quân Argentina đã hiểu được ý định của tin nhắn này là để chỉ ra rằng bất cứ tàu thuyền hoạt động gần khu vực loại trừ có thể bị tấn công . Chuẩn Đô đốc Argentina - Allara, người phụ trách lực lượng nhiệm vụ mà chiếc Belgrano là một phần của nó cho biết " Sau thông điệp của ngày 23 tháng 4, toàn bộ miền Nam Đại Tây Dương là một chiến trường cho cả hai bên. Chúng tôi, những ( người lính) chuyên nghiệp chỉ còn biết nói rằng quá tệ khi chúng tôi mất chiếc [I]Belgrano[/I]"[/SIZE]

    [SIZE=3]Các quy định được sửa đổi cho phép tấn công đánh chìm chiếc [I]Belgrano[/I] ngoài khu vực loại trừ. [/SIZE]
    [/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR][/FONT][/COLOR]
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đánh chìm tàu HMS Sheffield

    Thông tin tóm tắt về con tầu


    Tên: HMS Sheffield<P class=MsoNormal style=[/IMG]Sở hữu: Hải quân Hoàng gia
    Nhà chế tạo: Vickers
    Ngày khởi công: 15 tháng 1 năm 1970
    Ngày hạ thủy: 10 tháng 6 năm 1971
    Ngày phục vụ: 16 tháng 2 năm 1975
    Khẩu hiệu: " Với giúp đỡ của Đức Chúa Trời nhiệm vụ của chúng tôi sẽ thành công "
    Biệt danh: Shiny Sheff
    Kết cục: Bị đánh chìm vào ngày 10 tháng 5 năm 1982 sau cuộc không kích của Argentina vào ngày 04 tháng 5 năm 1982 trong Chiến tranh Falklands
    Loại tầu: tàu khu trục Type 42
    Trọng tải: 4.820 tấn
    Chiều dài: 125 m (410 ft)
    Chiều ngang: 14,3 m (47 ft)
    Độ ngập nước: 5,8 m (19 ft)
    Động cơ: 4 động cơ Rolls- Royce ( 2 Olympus TM3B và 2 Tyne) ) 36 MW COGOG
    Tốc độ 30 hải lý (56 km / h )
    Thủy thủ đoàn: 287 sỹ quan và thủy thủ

    Vũ khí:
    2 × bệ phóng tên lửa Bề măt-đối-không Sea Dart
    1 × súng 4,5 inch (113 mm) Mk.8
    Máy bay: trực thăng Lynx HAS1




    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Sheffield khi cháu nó còn lành lặn



    HMS Sheffield ( D80 ) là chiếc tầu Hải quân Hoàng gia thứ hai được đặt tên Sheffield, tên của thành phố Sheffield tại Yorkshire. Nó là một tầu khu trục có tên lửa điều kiển Type 42 được khởi bởi Công ty Kỹ thuật tàu thủy Vickers và tại Barrow -in- Furness vào ngày 15 tháng 1 năm 1970, hạ thủy vào ngày 10 tháng 6, 1971 và được đưa vào phục vụ ngày 16 tháng 2, 1975.

    Một vụ nổ trong quá trình chế tạo làm hai công nhân của xưởng đóng thiệt mạng và làm hư hỏng một phần của thân con tàu và chỗ hư hỏng được thay thế, rất trớ trêu, là với một phần từ một chiếc tàu giống hệt nó, chiếc ARA Hercules đang được đóng cho Hải quân Argentina. Con tàu này là một phần của đội đặc nhiệm đến quần đảo Falkland trong Chiến tranh Falklands. Nó bị bắn trúng bởi một quả tên lửa diệt hạm Exocet được phóng từ máy bay Super Etendard của Hải quân Argentina ngày 4 tháng năm 1982 và chìm vào ngày 10 tháng năm 1982.

    Diễn biến



    Phiên bản của Anh



    Vào khoảng 10:00 vào ngày 04 tháng Năm, chiếc HMS Sheffield lúc này đang làm nhiệm vụ cảnh giới phòng vệ ở mức sẵn sàng độ thứ hai, như một phần của Lực lượng Đặc nhiệm Anh được gửi tới Quần đảo Falkland trong Chiến tranh Falklands. Chiếc Sheffield đang phải gánh trách nhiệm của chiếc chị em của nó – chiếc HMS Coventry vì chiếc sau gặp khó khăn về mặt kỹ thuật với hệ thống radar TYpe 965 của nó. Các chiếc SheffieldCoventry đã đang chát chít chuyện phiếm qua sóng cao tần UHF. Liên lạc đột ngột chấm dứt cho đến khi có một tin nhắn không xác định được địa điểm gửi đã báo rằng " chiếc Sheffield đã bị bắn trúng". Chiếc kỳ hạm Hermes đã cử các tàu hộ tống ArrowYarmouth đến để điều tra và các máy bay trực thăng cũng đã được tung ra để tìm kiếm nó. Đoàn tìm kiếm bị nhầm lẫn về vị trí cho đến khi chiếc máy bay trực thăng Lynx của chiếc Sheffield đã hạ cánh bất thình lình xuống boong của chiếc tàu Hermes và chở theo các sỹ quan điều phối máy bay và điều phối hoạt động của con tầu ( Air Operations Officer and Operations Officer ), họ đã có xác nhận về thảm họa xảy ra.

    Chiếc Sheffield đã nhận những quả tên lửa thay thế để tương thích với hệ thống radar Type 965 lỗi thời của nó ( một phù hợp tạm thời cho đến khi thiết bị Type 1022 có sẵn ) và sỹ quan điều phối hoạt động đã thông báo với sỹ quan điều kiển tên lửa ( Missile Director), người đã hỏi các địa chỉ liên lạc của hệ thống kiểm soát hỏa lực ADAWS4. Khi những chiếc máy bay của Argentina khởi động phóng tên lửa, chúng đã không bị phát hiện như người Anh đã dự kiến và quả tên lửa đã không bị phát hiện cho đến khi khói của nó được nhìn thấy và lúc này mục tiêu mới được xác nhận là một quả tên lửa đang lướt trên mặt biển. Năm giây sau, một quả tên lửa Exocet bắn trúng chiếc Sheffield ở đoạn giữa của con tầu khoảng 8 feet trên mực nước tại Boong 2, làm rách một rạch trong thân tàu. Quả tên lửa khác rơi xuống biển cách khoảng nửa dặm tính từ sườn ngang bên trái của sàn tàu. Rất trớ trêu là quả tên lửa Exocet bắn trúng chiếc Sheffield đã không phát nổ, nhưng nó tạo áp lựccắt đứt các firemain con tầu và một ngọn lửa được gây ra bởi vụ cháy các thùng dầu diesel đang được chuẩn bị sẵn sàng để sử dụng trong phòng động cơ và các vật liệu dễ cháy khác được sử dụng trong quá trình đóng con tàu. Các đám cháy không được kiểm soát trong một vài ngày sau khi con tàu đã bị bỏ rơi .


    [​IMG]
    Tranh vẽ hai chiếc máy bay Super Etendard của Argentina tấn công chiếc Sheffield bằng tên lửa Exocet của họa sỹ Daniel Bechennec




    [​IMG]
    Ảnh chiếc Sheffield khi bị trúng một quả tên lửa Exocet vào thân tầu



    Các quả tên lửa Exocets được bắn từ hai chiếc Super Étendards cất cánh từ căn cứ không quân - Hải quân Río Grande, Tierra del Fuego. Những chiếc máy bay được điều khiển bởi Trung Armando Mayora và Đại úy Augusto Bedacarratz, người chỉ huy đội bay.

    Như vậy là thiếu cảnh báo sóm, không có thời gian để tiến hành các biện pháp phòng thủ, dẫn đến một sự thay đổi trong chính sách của Hải quân Anh rằng bất kỳ chiếc tàu nào của RN nghi ngờ nó có thể bị tấn công bởi tên lửa sẽ hướng về phía mối đe dọa, tăng tốc lên tốc độ tối đa và bắn ra các gây nhiễu (Chaff) để tránh việc con tàu không thể tự vệ một lần nữa. Danh từ được sử dụng để bắt đầu thủ tục này là " handbrake " vốn đã được phát sóng một lần khi các tín hiệu radar Agave của các máy bay Super Étendard đã bị phát hiện.

    Bộ quốc phòng Anh ( MOD ) đã có báo cáo về vụ đắm chiếc Sheffield và kết luận rằng" Bằng chứng cho thấy rằng đầu đạn đã không phát nổ ". Một số trong thủy thủ đoàn và các thành viên của Lực lượng Đặc nhiệm tin rằng tuy nhiên sau đó chiếc đầu đạn có trọng lượng 165 kg của quả tên lửa trong thực tế đã phát nổ khi va đập. Trường hợp này đã không xảy ra vì tên lửa Exocet được lắp với một chiếc kíp nổ chậm và được thiết kế không phát nổ khi bị tác động va chạm (để tránh nổ ngoài con tầu). Mặc dù không phát nổ tác động của tên lửa và việc động cơ của quả tên lửa bốc cháy cũng đủ để gây các đám cháy trên chiếc Sheffield. Một số ghi chép cho thấy tác động ban đầu của quả tên lửa này ngay lập tức làm tê liệt hệ thống phát điện của con tàu, nhưng điều này chỉ ảnh hưởng phần nào đó đến con tàu, nó gây ra những vấn đề của hệ thống thông gió. Vụ tấn công bằng tên lửa phá vỡ hệ thống nước chính và làm cho các hệ thống chống cháy hoạt động không có hiệu quả và do đó hủy diệt con tàu bởi các đám cháy dữ dội.



    [​IMG]
    Ảnh chiếc Sheffield đang bốc cháy và chiếc HMS Arrow đang tìm cách áp mạn để giúp đỡ


    Sau khi con tàu đã bị tấn công và thủy thủ đoàn của nó chờ được giải cứu, S/ LT (thượng úy?) Carrington -Wood đã dẫn đầu đoàn hát bài "Luôn luôn nhìn về phía sáng sủa của cuộc sống - Always Look on the Bright Side of Life" từ cuốn phim Monty Python' s Life of Brian.

    Trong vòng 6 ngày tiếp theo kể từ ngày 04 tháng năm 1982 trở đi 5 nhóm đã được phái tới để xem xét liệu con tàu có còn giá trị để tiến hành cứu hộ. Mặc dù thực tế là có mệnh lệnh đã được ban hành để vá chiếc lỗ thủng ở mạn phải và kéo chiếc Sheffields hướng về phía South Georgia.

    Tuy nhiên, trước khi những mệnh lệnh này được thực hiện chiếc thân tàu bị cháy đã được kéo bởi chiếc frigate HMS Yarmouth thuộc lớp tầu Rothesay. Trong quá trình con tàu đã được kéo đi biển lại có sóng to gây ra ngập lụt một cách từ từ thông qua các lỗ trên mặt boong của con tàu. Đây là nguyên nhân cuối cùng làm nó chìm xuống phía dưới. Con tàu bị chìm tại tọa độ 53 ° 04 'S, 56 ° 56 ' W ngày 10 tháng năm 1982. Sự kiện này là sự kiện chiếc tầu chiến đầu tiên của Hải quân Hoàng gia bị đánh chìm tàu trong khi làm nhiệm vụ kể từ sau Thế chiến II. Hai mươi thủy thủ (chủ yếu là đang làm nhiệm vụ tại khu vực bếp ) đã chết trong cuộc tấn công. Xác tàu này là một nấm mồ quân sự - War grave và được chỉ định là nơi được bảo vệ theo Đạo luật Bảo vệ Tàn tích Quân sự 1986 – VN Protection of Military Remains Act 1986.




    [​IMG]
    Ảnh chiếc Sheffield thân tàn ma dại sau khi lửa tắt

    Vụ đắm chiếc Sheffield đôi khi bị đổ lỗi cho một cấu trúc thượng tầng được chế tạo toàn bộ hoặc một phần bằng nhôm, các điểm nóng chảy và nhiệt độ bén lửa của chúng là thấp hơn đáng kể hơn so với thép. Tuy nhiên, điều này là không đúng vì cấu trúc thượng tầng của chiếc Sheffieldđã hoàn toàn được làm bằng thép. Sự nhầm lẫn này liên quan đến việc Hải quân Mỹ và Anh phải từ bỏ việc dùng nguyên liệu nhôm sau khi có một số vụ cháy trong những năm 1970 liên quan đến những chiếc tàu có phần cấu trúc thượng tầng được làm từ nhôm. Các vụ đắm các tầu frigate Type 21 HMS AntelopeArdent, cả hai đều có phần cấu trúc thượng tầng được làm từ nhôm, có lẽ cũng đã tạo một ảnh hưởng niềm tin cho trường hợp này mặc dù lại là không chính xác và sự có mặt của kim loại nhôm trên con tầu không thể làm gì để ảnh hưởng tới sự mất mát của nó. Trong cả hai trường hợp, (các con tầu có cấu trúc thượng tầng được làm từ nhôm) có thể là các con tàu bị mất trong trường hợp bị đánh trúng bởi một số lượng chất nổ quá lớn so với một chiếc tàu nhỏ như vậy, mặc dù đúng là cũng có các đám cháy đã bùng phát từ nhôm. Đặc biệt là chiếc Ardent đã bị giã giò một trận nặng nề bởi mười một quả bom, năm quả trong đó đã phát nổ, không có con tàu nào trong loại tầu của nó trong bất cứ thời kỳ loại nào có thể tồn tại sau một cuộc tấn công như vậy. Các đám cháy trên các tàu này đã dẫn đến sự thay đổi rõ ràng nhất, đó là các chất nylon và vải tổng hợp chảy ra sau đó chảy lên người các thủy thủ Anh. Các chất tổng hợp có xu hướng chảy gây bỏng da nghiêm trọng hơn nhiều nếu các thành viên thủy thủ đoàn không được mặc các quần áo thích hợp. Các báo cáo chính thức về vụ đắm tầu của chiếc Sheffield - Vương quốc Anh gần đây đã công bố theo luật thông tin Tự do sau một chiến dịch rộng lớn của các nhân viên cũ của Hải quân Hoàng gia, rất nhiều chỉ trích nặng nề về hệ thống thiết bị chữa cháy, đào tạo, thủ tục của con tầu và và một số thành viên nhất định của thủy thủ đoàn.

    ( Một con tầu 5.000 tấn được chế tạo năm 1970, mười hai năm sau bị trúng một quả tên lửa diệt hạm, dù rằng quả tên lửa không nổ nhưng tầu vẫn chìm – đúng là hiếm có)


    Phiên bản của Argentina


    Chiếc Sheffield lần đầu tiên bị phát hiện bởi một máy bay tuần tra Lockheed SP- 2H Neptune (2 -P -112 ) của Không quân thuộc Hải quân Argentina vào lúc 07:50 ngày 4 tháng. Chiếc Neptune liên tục giám sát chiếc tầu Anh và xác định vị trí của chiếc Sheffield một lần nữa tại 08:14 và 08:43. Hai chiếc Super Étendards (số hiệu 3- A -202 và 3-A -203 ) của Hải quân Argentina cả hai đều trang bị tên lửa chống hạm Exocets cất cánh từ Río Grande , Tierra del Fuego vào lúc 9:45 và gặp một tàu chở dầu KC -130H Hercules của Không quân Argentina lúc 10:00 giờ. Lúc 10:35, chiếc Neptune tăng độ cao lên 1.170 mét ( 3.840 ft) và phát hiện một chiếc tầu cỡ lớn và hai chiếc cỡ trung bình tại tọa độ 52 º 33 55 Nam, 57 º 40 55 Tây. Một vài phút sau đó, nó thông báo thông tin này cho cả hai chiếc Étendards Super. Bay ở độ cao rất thấp, khoảng 10:50, cả hai chiếc Étendards Super ngóc lên tới độ cao 160 mét (520 ft) để xác định các vị trí đã được thông báo, nhưng không tìm thấy bất kỳ điều gì, họ quyết định tiếp tục bay thêm 25 dặm (40 km) nữa sau đó lại ngóc lên một lần nữa và sau một vài giây tìm kiếm các mục tiêu đã xuất hiện trên màn hình radar của họ. Cả hai phi công nhập số liệu về tọa độ vào trong các hệ thống vũ khí của họ, quay trở lại mức bay thấp và sau khi kiểm tra lần cuối cùng đã bắn ra các quả Exocets AM39 của họ vào lúc 11:04 khoảng 20-30 dặm (32 đến 48 km ) từ mục tiêu của họ. Các chiếc Étendards Super không cần tiếp nhiên liệu từ chiếc KC -130 một lần nữa, mặc dù chiếc này vẫn đang đợi họ và hạ cánh tại Rio Grande lúc 12:04 . Hỗ trợ cho nhiệm vụ là một chiếc Learjet 35 quân sự làm mồi nhử và hai chiếc IAI Dagger làm nhiệm vụ hộ tống chiếc KC -130 tiếp dầu.



  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc đột kích vào đảo Pebble


    Ngay sau khi Argentina chiếm giữ Quần đảo Falkland họ thành lập một căn cứ không quân nhỏ ở đảo Pebble Island sử dụng sân bay địa phương ở tọa độ 51 ° 18'32 "S, 59 ° 36'37 "W trên đó có sử dụng các máy bay tấn công mặt đất hạng nhẹ FMA IA 58 Pucará và một số máy bay tập lái T -34. Những máy bay trinh sát này có thể đã bị Hải quân Hoàng gia thâm nhập trước khi họ dự định đổ lực lượng của mình trên đảo Đông Falkland. Sau đó các thành phần của lực lượng Special Air Service được đưa lên boong chiếc HMS Hermes và được giao nhiệm vụ loại bỏ mối đe dọa này với sự hỗ trợ của hải quân từ chiếc Frigate Type 22 HMS Broadsword cũng như được chiếc Hermes hộ tống và chiếc tàu khu trục lớp County - chiếc HMS Glamorgan cung cấp hỗ trợ hỏa lực hải quân với các súng Mark 6 4,5 inch của nó. Người quan sát hỗ trợ hỏa lực hải quân chuyển tiếp (The Naval Gunfire Support Forward Observer - NGSFO ) chịu trách nhiệm phối hợp các hỗ trợ hỏa lực của hải quân là Đại úy Chris Brown RA của khẩu đội 148 Trung đoàn 29 Pháo binh Commando Hoàng gia.<FONT class=imageattach face=[/IMG]

    Ý định ban đầu


    Ý định ban đầu của người Anh là tung một Phi đội đặc nhiệm đường không mạnh mẽ từ chiếc Hermes, sử dụng các nhân lực từ Phi đội D, trung đoàn 22. Bên đột kích sẽ phá hủy các máy bay được triển khai, vị trí của radar, phi hành đoàn ở dưới mặt đất và lực lượng đồn trú trước khi máy bay trực thăng đến để đưa họ quay lại boong tàu trước lúc bình minh .

    Trinh sát

    Trinh sát cho cuộc đột kích được tiến hành bởi nhân sự của Boat troop thuộc Phi đội D, họ tiến hành xâm nhập bằng xuồng Klepper. Việc trinh sát cho thấy rằng ngược gió mạnh sẽ làm tăng thời gian thực hiện để bay từ chiếc Hermes tời, và trì hoãn thời gian tiếp cận mục tiêu và giảm thời gian có sẵn để tấn công đến 30 phút, chứ không phải là hơn 90 phút như được lên kế hoạch. Chính vì thông tin này mà việc lập kế hoạch phải thay đổi, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiêu diệt máy bay là một mục tiêu ưu tiên, việc tiêu diệt nhân viên hỗ trợ, phi hành đoàn là một ưu tiên thứ yếu.


    Cuộc tấn

    Trong đêm 14 tháng 5, hai máy bay trực thăng Westland Sea King HC.Mk.4 của Phi đội 846 Không quân thuộc Hải quân, một phần của Lực lượng Trực thăng Commando, khởi hành với 45 thành viên của Phi đội D trên boong. Điểm đổ quân là 6km (3,7 dặm ) từ sân bay ở Argentina, trong khi các nhân viên còn lại hoạt động như một lực lượng bảo vệ, đảm bảo tiếp cận đường băng an toàn và hình thành một lực lượng dự trữ hoạt. Toán tấn công dỡ xuống trên 100 quả đạn cối L16 81mm, thuốc nổ mạnh và Rocket 66mm HEAT L1A1 - Vũ khí chống tăng hạng nhẹ và mang chúng vào khu vực tấn công với trung bình mỗi người trong toán đột kích mang ít nhất hai quả đạn cối. Với vũ khí cầm tay hạng nhẹ, súng trường M -16 được sử dụng, một số còn đeo thêm cả súng phóng lựu M203. Phương pháp điều hướng được thực hiện bởi một thành viên của Boat troop, người đã tham gia tiến hành trinh sát.

    Khi toán đột kích tiếp cận các mục tiêu thì họ gặp một trạm gác của lính Argentina nhưng không bị phát hiện, cho phép họ thâm nhập vào mục tiêu và cài mìn lên bảy chiếc máy bay. Khi tất cả các máy bay đã bị cài mìn đội đột kích đã nổ súng vào những chiếc máy bay với súng hạng nhẹ và tên lửa L1A1. Tất cả các máy bay đều bị hư hại thậm chí càng hạ cánh của một số chiếc máy bay còn bị văng bắn ra xa. Lúc này chiếc HMS Glamorgan bắt đầu pháo kích vào các vị trí trong sân bay của Argentina bằng cách sử dụng đạn chất nổ cao, làm nổ các kho đạn dược và dự trữ nhiên liệu.

    Các lực lượng bảo vệ đã không bắn trả cho đến khi toàn bộ toán đột kích tái nhóm và đang chuẩn bị để di chuyển ra ngoài. Một binh sĩ Anh bị bắn trúng và bị thương trong khi toán đột kích bắn trả bằng vũ khí hạng nhẹ và súng phóng lựu M203, dẫn đến cái chết của viên chỉ huy Argentina (theo đánh giá của người Anh ) và trấn áp của bất kỳ nỗ lực phòng thủ nào.

    Theo tuyên bố của người Argentina thì thủy quân lục chiến của họ vẫn ở lại nơi trú ẩn trong khi chiếc HMS Glamorgan pháo kích, nên họ đã không thể đối mặt với SAS trong chiến đấu. Người Anh bị thương là kết quả của mảnh văng từ thuốc nổ được người Argentina chôn dưới đường băng để ngắn không cho nó được sử dụng bởi kẻ thù của mình. Các vụ nổ đã kích hoạt niềm tin rằng hoạt động này một cuộc tấn công toàn diện nhằm vào căn cứ không quân của người Argentina.

    Trong trận đột kích này người Argentina có 8 máy bay tấn công mặt đất Pucará và 4 máy bay tập lái T-34 Mentors bị phá hủy, một người Argentina bị giết, phía người Anh có 2 bị thương.
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận San Carlos


    Thời gian: ngày 21-25 tháng 5 năm 1982
    Địa điểm: vũng San Carlos Water, Quần đảo Falkland
    Kết quả: Argentina chiến thắng chiến thuật khi loại khỏi vòng chiến nhiều tầu Anh
    Anh chiến thắng chiến lược khi thiết lập thành công vị trí đầu bờ biển


    Các bên tham chiến



    Vương quốc Anh


    Chỉ huy
    Sandy Woodward
    Jeremy Moore
    Michael Clapp


    Sức mạnh
    2 tàu khu trục
    7 tàu frigate
    11 tàu đổ bộ
    34 Sea Harrier CAP


    Tổn thất
    1 tàu khu trục bị đánh chìm
    2 tàu frigate bị đánh chìm
    8 tàu đổ bộ bị hư hỏng
    4 máy bay trực thăng bị tiêu diệt
    49 lính thiệt mạng





    Cộng hòa Argentina


    Chỉ huy
    Tướng Mario Menendez
    Tướng Ernesto Crespo


    Sức mạnh
    90 máy bay tiêm kích - ném bom trên đất liền
    10 máy bay tấn công trên các hòn đảo
    2 máy bay chở dầu KC -130 Hercules


    Tổn thất
    22 máy bay bị bắn hạ
    11 phi công thiệt mạng




    Trận San Carlos là một trận đánh lớn giữa máy bay và tàu chiến kéo dài từ Ngày 21-> Ngày 25 tháng 5 năm 1982 trong cuộc đổ bộ của Anh lên bờ San Carlos Water (sau này được gọi là "trận bom Alley ") Trong Chiến tranh Falklands năm 1982. Bay rất thấp từ đất liền các máy bay phản lực Argentina tiến hành các cuộc tấn công liên tục vào các tàu của Lực lượng Đặc nhiệm Anh. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử một đội quân tên lửa bề mặt-đối-không hiện đại cùng với sự yểm trợ bảo vệ của các máy bay trên các tàu sân bay STOVL chống lại những cuộc không kích toàn diện. Người Anh bị hại nghiêm trọng nhưng đã có thể chiếm giữ và củng cố một số đầu cầu trên hòn đảo.

    Bối cảnh

    Sau khi Argentina tiến hành xâm lược vào Quần đảo Falkland, Vương quốc Anh khởi xướng chiến dịch Operation Corporate và gửi một lực lượng Đặc nhiệm vượt qua 12.000 km về phía Nam nhằm chiếm lại các hòn đảo. Dưới tên mã là Operation Sutton quân đội Anh lên kế hoạch đổ bộ xung quanh San Carlos, một vịnh nằm ở ngoài khơi eo biển Falkland, đây là eo biển nằm giữa Đông FalklandTây Falkland. Vị trí được chọn này làm lực lượng đổ bộ sẽ được bảo vệ bởi địa hình từ các đợt tấn công của tên lửa Exocettàu ngầm và nó cũng đủ xa từ Stanley để ngăn chặn một phản ứng nhanh chóng từ quân bộ của Argentina đóng ở đó. Đích đổ bộ này làm người Argentina hoàn toàn bất ngờ các sĩ quan Hải quân Argentina cho rằng vị trí không phải là một lựa chọn tốt cho những hoạt động như vậy và đã rời khỏi khu vực này mà không có hệ thống phòng thủ kiên cố.




    [​IMG]
    Bản đồ trận đánh San Carlos



    [​IMG]
    Bản đồ trận đánh ở vịnh Falkland




    Không quân Argentina








    Lực lượng không quân Argentina phải hoạt động trong phạm vi và giới hạn của trọng tải cũng như họ bị hạn chế bởi nguồn tiếp nhiên liệu và phải hoạt động ở tầm xa tối đa.
    • Máy bay A -4 Skyhawk: máy bay A-4 được sử dụng bởi cả hai Không quân Argentina ( FAA ) và Không quân thuộc Hải quân Argentina ( COAN ). Mặc dù sử dụng hai thùng 295 gallon, họ cần tiếp nhiên liệu trên không hai lần trong khi làm nhiệm vụ. Bomb được sử dụng trong cuộc xung đột là một quả bom không điều khiển £ 1000 ( Mk 17) do Anh sản xuất hoặc bốn quả bom 227 kg Tây Ban Nha / Mỹ sản xuất. Loại máy bay này được trang bị hai khẩu súng cannon 20mm Colt Mk 12
    • Máy bay IAI Dagger: Loại máy bay Mirage 5 do Israel chế tạo không có khả năng tiếp nhiên liệu trên không và phải sử dụng hai thùng dầu phụ để mang thêm 550 gallon nhiên liệu, chúng đã bay ở phạm vi giới hạn tuyệt đối của chúng. Vũ khí chính của chúng trong cuộc xung đột bom không điều khiển £ 1000 ( Mk 17) do Anh sản xuất. Máy bay IAI Dagger được trang bị loại cannon Defa 30mm
    • Máy bay Mirage IIIEA: Máy bay đánh chặn do Pháp chế tạo có một thùng chứa nhiên liệu bên trong nhỏ hơn hơn so với loại máy bay Dagger vì vậy chúng không thể bay đủ thấp để hộ tống các máy bay tấn công. Họ mang một đôi tên lửa R550 Magic IR trong chuyến bay ở tầm cao độ đến các đảo, nhưng các máy bay Harrier tuần tra không chiến của Anh lại tập trung tấn công vào các máy bay ném bom bay thấp .
    • Máy bay FMA IA -58 Pucara: máy bay tấn công mặt đất chống quân nổi dậy do Argentina chế tạo hoạt động ở sân bay cỏ Goose Green trong trận đánh. Chiếc máy bay này được trang bị rocket , hai khẩu cannon 20 mm và bốn súng máy 7,62 mm .
    Lực lượng đổ bộ Anh







    Yểm trợ trên không được cung cấp lần đầu tiên bởi " tàu sân bay Harrier ". Đây là những tàu sân bay nhỏ chỉ triển khai loại máy bay Harrier cất cánh, hạ cánh thẳng đứng. Loại máy bay này có tốc độ dưới siêu âm với phạm vi hoạt động và trọng tải nhỏ hơn so với các loại máy bay tiêu chuẩn trên đất liền và tàu sân bay thông thường.
    • Yểm trợ trên không :
      • Tàu sân bay HMS Hermes ( R12)
        • Phi đội 800 (BAE Sea Harrier)
        • Phi đội 809 ( BAE Sea Harrier )
      • Tàu sân bay HMS Invincible (R05)
        • Phi đội 801 ( BAE Sea Harrier )
        • Phi đội 809 ( BAE Sea Harrier )
    • Lực lượng đổ bộ: HMS Fearless, HMS Intrepid, RFA Sir Geraint, RFA Sir Tristram, RFA Sir Galahad, RFA Sir Percivale, RFA Sir Lancelot, SS Canberra, RFA Fort Austin, Europic Ferry 4Elk 5.
    • Lực lượng hộ tống : HMS Antrim, HMS Coventry, HMS Broadsword, HMS Brilliant, HMS Ardent, HMS Antelope, HMS Argonaut, HMS PlymouthHMS Yarmouth
    Diễn biến biến trận đánh




    Khoảng cáchtừ các căn cứ không quân trên đất liền của Argentina đến Sân bay Port Stanley - Falklands

    Trelew: 580 hải lý ( 1.070 km)
    Comodoro Rivadavia: 480 hải lý (890 km)
    San Julian: 425 hải lý (787 km)
    Rio Gallegos: 435 hải lý (806 km)
    Rio Grande: 380 hải lý (700 km).


    Do khoảng cách cần thiết để bay đến quần đảo Falkland, hai phút là thời gian trung bình mà máy bay tấn công Argentina có để chiến đấu trong khu vực mục tiêu.

    Ngày 21 tháng 5


    Lực lượng Quân đội Argentina đóng trên vị trí này là một phần của Trung đoàn 25 Bộ binh được đặt tên Combat team Güemes tại Fanning Head. Hạm đội Anh xâm nhập vào San Carlos suốt đêm và lúc 02:50 và bị phát hiện bởi EC Güemes là lực lượng này đã nổ súng cối 81mm và hai khẩu súng không giật 105mm để tấn cống. Họ ngay lập tức bị bắn trả bởi súng của hải quân Anh và toán quân gồm 25 lính SBS bị buộc phải rút lui và bị mất thông tin liên lạc, nhưng họ cũng bắn hạ hai máy bay trực thăng Gazelle bằng vũ khí hạng nhẹ.

    Trung úy nhất Carlos Daniel Esteban từ EC Güemes thông báo cho quân đồn trú ở Goose Green về cuộc đổ bộ vào lúc 8:22 (cuối cùng ông cũng được sơ tán bằng trực thăng vào 26 tháng 5). Các chỉ huy cao cấp của Argentina ở Stanley ban đầu cho rằng một hoạt động đổ bộ ở San Carlos là không khả thi và đây chỉ là một hành động nghi binh. Cuối cùng vào lúc 10:00 một máy bay phản lực Aermacchi MB -339 COAN có căn cứ trên các hòn đảo đã được cử đến San Carlos cho một chuyến bay trinh sát. Trong khi đó, các FAA đã bắt đầu tung ra những chiếc máy bay của họ có căn cứ trên đất liền lúc 09:00.

    10:15 : COAN MB339 4-A -115. Trung úy Crippa Guillermo Owen trong một chuyến bay trinh sát đã hai lần bay qua lực lượng đổ bộ để xác định chính xác thành phần của hạm đội đối phương, ông nhận được phần thưởng cao nhất của quân đội quốc gi, the Argentine Nation to the Heroic Valour in Combat Cross. Ông nổ súng tấn công chiếc HMS Argonaut và một tàu RFA không danh tính bằng súng và rôckét sau đó rút lui.




    [​IMG]
    Tranh vẽ Trung úy Crippa lái chiếc máy bay phản lực Aermacchiđơn độc tấn công tấn công chiếc tàu khu trục HMS Argonaut



    [​IMG]
    Một chiếc Dagger bay qua đầu chiếc RFA Sir Bedivere trong trận San Carlos ngày 24 tháng 5



    [​IMG]
    Tên lửa phòng không Rapier của Anh bắn hạ máy bay A4 Skyhawk trong trận San Carlos, tranh vẽ của Daniel Bechennec
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    • 10:15 : FAA Pucara Tigre. Ba (trong bốn) chiếc máy bay xuất phát từ Goose Green và bị tấn công bởi súng từ chiếc HMS Ardent. Đại úy Benítez bị bắn hạ bởi một quả tên lửa Stinger bắn ra bởi Special Air Service, Ông nhảy dù ra ngoài và đi bộ trở lại căn cứ của mình, đến lúc 19:00. Hai phi công, Thiếu tá Tomba và Trung úy nhất Micheloud bắn một số phát rốc két 2,75 inch vào một nhà kho có vẻ như được sử dụng bởi quân đội Anh như là một điểm quan sát, nhưng đã bị chặn lại bởi hai chiếc Sea Harrier trong khi họ tẩu thoát. Mj Tomba bị bắn rơi ( nhảy dù một cách an toàn ) bởi phi công Nigel Ward, trong khi Trung úy Micheloud trốn thoát và hạ cánh tại sân bay Port Stanley.
    • 10:20 : FAA MIIIEA. Bốn chiếc máy bay tạo thành lực lượng nghi binh bay về phía bắc của hòn đảo.
      <FONT class=imageattach face=[/IMG]10:25 : FAA
      Dagger Leon. Từ San Julian, Đại úy Dimeglio và Trung úy Castillo tấn công chiếc HMS Antrim với các khẩu súng cannon 30mm của họ. Các quả bom 1.000 lb của họ đã không phát nổ .
    • 10:30: FAA Dagger Ñandu. Từ Rio Grande , Tierra del Fuego, đại úy Rodhe và trung úy Bean tấn công chiếc HMS Argonaut, Trung úy Bean bị bắn hạ bởi một tên lửa Sea Wolf SAM từ chiếc HMS Broadsword, chiếc Broadsword lại bị tấn công bởi đại úy phi công Janet .


    [​IMG]
    Cảnh các tầu của Anh trong cơn bão bom đạn của máy bay Argentina - trận San Carlos

    • 10:35 : FAA Dagger Zorro. Đại úy Dellepine, Đại úy Diaz và Đại úy Aguirre - Faget và strafe HMS Brilliant nhưng các quả bom hang- up.
    • 10:50 : FAA Dagger Perro. Thiếu tá Martinez , Đại úy Moreno và trung úy Volponi tấn công chiếc HMS Antrim. Các quả bom 1.000 lb của họ đã không phát nổ , nhưng một trong số đó được thả trúng vào đuôi của chiếc tàu khu trục và còn làm con tầu bị hư hỏng bằng đạn 30 mm. Trong thời gian họ tẩu thoát, máy bay Sea Harrier phóng các quả tên lửa Sidewinder những chiếc Dagger nhưng đã không trúng.
    • 12:45 : FAA A - 4C Pato. Đại úy Almoño, Đại úy Garcia, Trung úy nhất Daniel Manzotti và trung úy Nestor Lopez bị chặn bởi máy bay Sea Harriers ; Manzotti và López bị bắn hạ và bị giết bởi Sidewinder .
    • 12:45 : FAA A - 4B Mula. Đại úy Carballo và Ensign Carmona. Mula 2 tấn công một tàu không rõ danh tính, có lẽ là chiếc tàu hàng Rio Carcaraña Argentina bị bỏ rơi và rút lui, Carballo tiếp tục một mình và tấn công chiếc HMS Ardent ném vào giữa con tầu hai quả bom, cả hai đều không nổ.
    • 13:37 : FAA A - 4B Leo. Trung úy nhất Filippini, Trung úy Autiero, trung úy Osses, Trung úy Robledo và Hoa tiêu Vottero ném trúng chiếc HMS Argonaut với những quả bom £ 1.000 nhưng chúng đã không phát nổ, một quả đâm vào kho tên lửa đối không Sea Cat của nó, làm nổ hai quả tên lửa và gây thiệt hại .
    • 14:30 : FAA MIIIEA. Hai máy bay làm nhiệm vụ mồi nhử
    • 14:35 : FAA Dagger Cueca Đại úy Mir Gonzales, Đại úy Robles, Trung úy nhất Luna và trung úy Bernhard bị chặn bởi máy bay Sea Harrier và trung úy Luna bị trúng một tên lửa Sidewinder và nhảy ra một cách an toàn. Ba phi công tấn công chiếc HMS Ardent và trở về căn cứ .
    • 14:53 : FAA Dagger Laucha. Thiếu tá Puga, Trung úy nhất Román tấn công chiếc HMS Brilliant. Viên phi công thứ ba tấn công một tàu không rõ tên, có thể là chiếc HMS Antrim.
    • 14:58 : FAA Dagger Raton Thiếu tá Piuma, Đại úy Donadille và trung úy nhất Senn bị chặn bởi máy bay Sea Harrier của Nigel Ward và trung úy Thomas. Các máy bay Daggers liền thả …..của họ (2 thùng nhiên liệu và một quả bom 1000) và cố gắng trốn thoát, nhưng đã ba bị bắn hạ bởi tên lửa Sidewinder, tất cả các phi công đều nhảy dù một cách an toàn. Sau khi thu hồi các phi công, FAA đã phát hiện ra hành lang tiếp cận cho các máy bay Daggers ở San Julian và thực hiện những nỗ lực để sửa chữa tình hình.
    • 15:15 : COAN A - 4Q Tabanos. Đại úy Philipi, Trung úy Arca và trung úy Marquez bắn trúng chiếc HMS Ardent với rất nhiều quả bom và súng cannon. Hai chiếc máy bay bị bắn hạ bởi Sea Harrier trong thời gian tẩu thoát, giết chết Trung úy Marcelo Márquez. Trung úy Philippi nhảy dù một cách an toàn và sau khi được che chở bởi nông dân địa phương tên là Tony Blake trong đêm, ông lại tái gia nhập lực lượng Argentina. Chiếc A- 4Q thứ ba của Trung úy Arca bị hư hại và phi công phải nhẩy dù xuống biển khoảng xấp xỉ 800 đến 1.000 mét ngoài khơi bờ biển Port Stanley. Arca đã được cứu thoát từ mặt nước bởi chiếc trực thăng Huey UH- 1H của Đại úy Jorge " Picho " Svendsen thuộc Tiểu đoàn 601 trực thăng Lục quân. Cả hai đội bay đều được thướng Valour in Combat Medal.
    • 17:02 : FAA A - 4C: Không tìm thấy tầu đối phương.
    • 17:12 : FAA A - 4B: Không tìm thấy tầu đối phương.
    Ngày 22 tháng 5



    Tình trạng thời tiết trên sân bay Patagonia đã ngăn cản Argentina thực hiện hầu hết các sứ mệnh trên không của họ, chỉ có một vài Skyhawk cố gắng để đến được các hòn đảo. Người Anh hoàn thành việc triển khai các khẩu đội Rapier bề mặt-đối-không.


    Ngày 23 tháng 5





    • 13:30 : FAA A - 4B Nene. Bốn A- 4Bs (Carballo, Trung úy nhất Guadagnini , Trung úy Rinke và Ensign Gomez ) tấn công các chiếc HMS Broadsword và HMS Antelope. Máy bay của Carballo bị hư hại bởi một tên lửa Sea Cat bắn từ chiếc HMS Antelope, trong lúc lao vào ném bom nên ông phải dừng cuộc tấn công và trở lại Rio Gallegos. Một chiếc máy bay thứ hai của Argentina thả một quả bom vào phía mạn phải chiếc HMS Antelope, giết chết thuyền viên Mark R. Stephens . Trung úy Guadagnini bị bắn trúng và giết chết bởi súng 20mm của chiếc HMS Antelope và đâm vào cột buồm chính của nó trong khi thực hiện vụ đánh bom của ông; quả bom xuyên thủng thân tàu của chiếc tàu frigate nhưng không nổ. Sau cuộc tấn công một trong những quả bom phát nổ do lắp kíp nổ chậm đã đánh chìm tàu.
    • 13:45 : COAN A - 4Q Tabanos. Đại úy Castro Fox, Đại úy Zubizarreta và trung úy Benitez tấn công các chiếc HMS Broadsword, HMS Yarmouth và HMS Antelopemà không có thể nhìn thấy một thành công nào. Đại úy Carlos María Zubizarreta đã bị giết chết ở Rio Grande , Tierra del Fuego khi chiếc dù của ông không hoàn toàn mở sau khi ông nhảy ra từ chiếc A- 4Q của ông do lốp của một chiếc bánh xe bị nổ khi hạ cánh mà bom của ông vẫn còn nguyên. Chiếc máy bay tự dừng lại được mà không bị bất cứ thiệt hại nào.
    • 15:10 : FAA Dagger Puñal. Thiếu tá Martinez và trung úy Volponi bị chặn bởi máy bay Sea Harrier, bắn rơi chiếc máy bay thứ hai, trong khi Martinez quay về căn cứ an toàn.
    • 15:10 : FAA Dagger Daga. Tấn công các mục tiêu bên trong <ST1:PAjax Bay</ST1:P<ST1:P</ST1:P
    • 15:10 : FAA Dagger San hô. Tấn công các mục tiêu bên trong <ST1:PAjax </ST1:P<ST1:PBay</ST1:P
    24 tháng năm
    • 10:15 FAA A - 4B Chispa. Bốn A- 4Bs ( Com Mariel, Trung úy Sanchez, Trung úy Roca, Trung úyCervera và Ensign Moroni ) tấn công các tàu trong vịnh. Chiếc RFA Sir Lancelot bị ném trúng một quả bom 1000 lbs nhưng không phát nổ. Hai LCUs cũng bị tấn công.
    • 11:02 FAA Dagger Azul. Đại úy Mir Gonzalez, Đại úy Maffeis, Đại úy Robles và trung úy Bernhardt tấn công một con tàu không xác định được tên, có thể là chiếc RFA Sir Bedivere, bên trong vịnh.
    • 11:07 FAA Dagger Plata. Đại úy Dellepiane, Trung úy nhất Musso và trung úy Callejo tấn công mục tiêu mặt đất với retarding tail bom 227 kg.
    • 11:08 FAA Dagger Oro. Mj Puga , Đại úy Diaz và 1 Trung Castillo bị chặn và bắn hạ bởi các máy bay Sea Harrier. Castillo đã bị giết chết và hai người kia nhảy dù một cách an toàn .
    • 11:20 FAA A - 4C Halcon. Đại úy Pierini , 1 Trung Ureta và trung úy Mendez chặn bởi máy bay Sea Harrier, nhưng đã cố gắng để trở về căn cứ .
    • 11:30 FAA A - 4C Jaguar. Trung úy nhất Vazques, thiếu úy Bono và Trung úy Martinez tấn công một con tàu không xác định có thể là chiếc RFA Sir Galahad, ở bên trong vịnh. Cả ba chiếc máy bay đều bị thiệt hại trong trận chiến và máy bay của Bono đã bị rơi trong chuyến bay trở lại. Hai chiếc Skyhawk khác đã được cứu sống bởi một máy bay chở dầu KC -130, chiếc đang tiếp cận các hòn đảo và tiếp sang 30.000 lít nhiên liệu trong khi bay cùng họ (các máy bay của Vazques và Martinez) tới sân bay tại San Julian .
    Vào đêm 24 tháng 5 đã có một loại binh biến giữa các phi công Argentina trên lục địa, những người này cho biết họ sẽ từ chối để tiếp tục bay nếu quân đội và Hải quân không chịu tham gia trận chiến. Tướng Galtieri, quyền tổng thống của Argentina, quyết định đến thăm Comodoro Rivadavia ngày hôm sau, tháng 25 (Ngày Quốc khánh của Argentina) để cố gắng thuyết phục họ tiếp tục chiến đấu, nhưng khi ông đến vào buổi sáng các phi công đã thay đổi ý định của họ và đã bay đến các hòn đảo.





    Ngày 25 tháng 5
    • 09:00 FAA A - 4B Marte. Máy bay của Đại úy Hugo Palaver đã bị hỏng trong một sự cố đạn thân thiện khi ông và trung úy Daniel Galvez vô tình bay về Goose Green và bắn phá các bến tàu ở đó, và tin rằng họ đã qua Ajax Bay. Hệ thống phòng không chính xác nhận rằng đây là các máy bay của quân nhà nên không nổ súng nhưng binh lính trên mặt đất lại đánh trả bằng vũ khí hạng nhẹ. Khi họ quay trở lại eo biển, Hugo Palaver bị bắn hạ bởi một tên lửa Sea Dart bắn từ chiếc HMS Coventry
    • 12:25 FAA A - 4C Toro. Đại úy Garcia, Trung Lucero (C -319), Trung úy Paredi và Thiếu úy Issac tấn công tàu bên trong vịnh, có lẽ là chiếc RFA Sir Lancelot; sau khi tấn công Lucero bị bắn hạ bởi một tên lửa Sea Cát bắn từ chiếc HMS Yarmouth. Ông đã nhảy dù thành công qua đầu lực lượng đổ bộ, được cứu thoát , sau đó được chuyển giao đến tàu bệnh viện SS Uganda. Một tên lửa Sea Cát nữa bắn từ chiếc HMS Coventry đã hạ Garcia, người mà chiếc máy bay của ông đã bị hư hại do đạn của vũ khí hạng nhẹ trong cuộc tấn công, về phía Bắc của San Carlos. Đại úy Garcia kịp nhảy dù, nhưng không thể cứu được. Ensign Isaac đã hết nhiên liệu nhưng được cứu bởi chiếc KC -130 đi kèm với ông ta tới tận căn cứ của mình trong khi vẫn tiếp nhiên liệu cho ông trong chuyến bay .
    • 15:20 FAA A - 4B Volcano. Đại úy Carballo và trung úy Carlos Rinke tấn công HMS Broadsword, phá hủy hệ thống truyền tin và hệ thống thuỷ lực và các linh kiện điện tử của chiếc frigate và làm vỡ chiếc mũi chiếc máy bay trực thăng Sea Lynx của nó
    • 15:20 FAA A - 4B Zeus. Trung úy nhất Velazco and Ensign Barrionuevo đánh chìm chiếc tàu khu trục HMS Coventry.
    Hậu quả của trận đánh


    "




    Tôi nghĩ rằng các phi công Argentina đang thể hiện sự dũng cảm tuyệt vời, sẽ rất là ngốc nghếch nếu tôi nói bất cứ điều gì khác"





    -John Nott Bộ trưởng Quốc phòng Anh






    Bất chấp mạng lưới phòng thủ lớn trên không, các phi công Argentina đã có thể tấn công các mục tiêu của họ, nhưng mặc dù chắc chắn là rất dũng cảm, một số thiếu sót nghiêm trọng đã ngăn cản họ có được các kết quả tốt hơn - đặc biệt là vấn đề với ngòi nổ của bom của họ. Mười ba quả bom được thả trúng tàu Anh nhưng không phát nổ. Lord Craig, Nguyên soái đã nghỉ hưu của Không quân Hoàng gia, được cho là đã nhận xét rằng "với sáu chiếc ngòi nổ tốt hơn và chúng ta sẽ phải thua ". Các tàu chiến của Anh mặc dù bản thân họ bị nhiều thiệt hại nhất trong cuộc tấn công, đã thành công trong việc ngăn cản các máy bay của Argentina tấn công vào các tàu đổ bộ cũng đang ở bên trong vịnh. Với việc quân đội Anh đổ bộ được xuống đảo Falklands, một chiến dịch trên mặt đất nổ ra cho đến khi Tướng Argentina Mario Menendez đầu hàng Thiếu tướng Anh Jeremy Moore vào ngày 14 ở Stanley

    Các máy bay phản lực dưới âm Sea Harrier, được vũ trang với các phiên bản tiên tiến nhất của tên lửa không-đối -không Sidewinder, chứng tỏ có khả năng như một máy bay tiêm kích chiếm ưu thế trên không .

    Trận chiến có tác động sâu sắc về thực hành sau này của hải quân. Trong thập niên 1980 rất nhiều tàu chiến của các lực lượng hải quân trên khắp thế giới đã được tái trang bị các hệ thống vũ khí tầm gần và súng để tự vệ. Báo cáo đầu tiên về số máy bay của Argentina bị bắn hạ bởi hệ thống tên lửa của Anh sau đã đó được điều chỉnh xuống.
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đánh chìm chiếc HMS Ardent ( F184 )

    ( Thực ra các chiếc HMS Ardent, HMS Coventry, HMS Antelope bị đánh chìm trong trận San Carlos, nhưng em muốn đi chi tiết từng chiếc một để xem chúng bị đánh chìm ntn)

    Tên: HMS Ardent<P class=MsoNormal style=[/IMG]Sở hữu: Hải quân Hoàng gia
    Đặt hàng: 17 tháng 4, 1973
    Nhà chế tạo: Yarrow Shipbuilders
    Khởi công: Ngày 26 tháng 2 năm 1974
    Hạ thủy: 09 tháng 5 năm 1975
    Làm nhiệm vụ: 13 tháng 10 năm 1977
    Cảng nhà: HMNB Devonport
    Pennant số: F184
    Khẩu hiệu: Through fire and water
    Bị đánh chìm bởi máy bay của Argentina vào ngày 22 tháng 5 năm 1982

    Đặc điểm chung

    Loại tầu: Tầu Frigate Type 21
    Trọng tải 3.250 tấn đầy tải
    Chiều dài: 384 ft (117 m )
    Chiều ngang: 41 ft 9 in ( 12,73 m )
    Độ nhập nước: 19 ft 6 in ( 5,94 m )
    Động cơ đẩy COGOG:
    2 × tua bin khí Rolls- Royce Olympus
    2 × tua bin khí Rolls- Royce Tyne RM1A

    Tốc độ: 32 hải lý / giờ (59 km / h )

    Phạm vi hoạt động:
    4.000 hải lý ở 17 hải lý / giờ ( 7.400 km ở 31 km / h )
    1.200 hải lý ở 30 hải lý / giờ ( 2.220 km ở 56 km / h )

    Vũ khí:
    1 × súng hải quân 4,5 inch (114 mm ) Mark 8
    2 × súng Oerlikon 20 mm
    4 × tên lửa MM38 Exocet
    1 × dàn bốn tên lửa Sea Cả SAMs
    2 × ba ống phóng ngư lôi ASW
    2 × bệ phóng nhiễu xạ Corvus
    1 × mồi nhử Type 182

    Máy bay: 1 × máy bay trực thăng Westlan Wasp, sau đó được trang bị 1 × Lynx



    [​IMG]
    Chiến hạm HMS Ardent lúc còn nguyên vẹn



    Chiếc HMS Ardent là một tầu Frigate Type 21 của Hải quân Hoàng gia. Được chế tạo bởi Yarrow Shipbuilders Ltd, Glasgow, Scotland. Nó được hoàn thành với các bệ phóng tên lửa Exocet phóng ở vị trí 'B'. Chiếc Ardent tham gia Chiến tranh Falklands và nó đã bị đánh chìm bởi máy bay của Argentina trong eo biển Falkland ngày 22 tháng năm 1982.

    Ngày 21 tháng 5, 1982 , trong khi nằm trong eo biển Falkland và hỗ trợ Operation Sutton bằng cách bắn phá vào sân bay Argentina Goose Green, chiếc Ardent bị tấn công bởi ít nhất ba làn sóng máy bay của Argentina. Cuộc tấn công không kích dẫn đến việc đánh chìm chiếc Ardent ngày hôm sau.

    Phiên bản của Anh

    Vụ tấn công đầu tiên đã diễn ra khi có một chiếc A -4 Skyhawk đơn độc thả hai quả bom lúc 16:00 GMT vào chiếc tầu frigate này nhưng cả hai đều không nổ.

    Phần lớn các cuộc không kích bắt đầu vào lúc 17:40 GMT. Khi chiếc Ardent được lệnh tiến về phía tây Tây Bắc của hòn đảo và cùng với chiếc HMS Yarmouth để " chia rẽ các cuộc tấn công không kích từ phía nam ". Một nhóm ba máy bay Skyhawk hoặc có thể là IAI Dagger vượt qua eo biển Falklands từ phía tây và sau đó quay sang phía trái của chúng để tấn công từ phía đông bắc. Đạn cannon và ba quả bom từ những chiếc máy bay của Argentina gây sức ép tấn công vào họ từ phía mạn bên trái. Vũ khí duy nhất có phản ứng chỉ là khẩu pháo 20 mm AA. Hệ thống Sea Cat không thể lock được những kẻ tấn công, những người cũng thoát khỏi khẩu súng 4,5 in bằng cách điều khiển máy bay của họ bay theo hình vòng cung. Hai quả bom phát nổ trong khu vực chứa máy bay phá hủy chiếc máy bay trực thăng Westland Lynx và thổi tung bệ phóng tên lửa Sea Cat lên khỏang 80 ft (24 m ) vào trong không trung trước khi nó lại bị rơi xuống sàn đáp thứ ba thì rơi vào phòng máy móc thiết bị phụ trợ phía sau nhưng không nổ. Chiếc tổng đài ở phía sau đã bị hư hại với hậu quả là làm mất diện ở một số phần quan trọng của con tầu, chẳng hạn như súng chính. Nhà chứa máy bay bị cháy bốc lửa và một số trong các thuyền viên bị thương vong.

    Vẫn còn kiểm soát được các động cơ và chạy được, nhưng nó hầu như không thể tự vệ, chiếc Ardent đã quay đầu về phía bắc, về hướng Cảng San Carlos. Nhưng đúng lúc 18:00 năm chiếc Skyhawk tiếp cận chiếc tầu frigate và thả một số lượng lớn bom chạm nổ và nổ chậm. Một loạt từ 2-> 4 quả bom phát nổ ở hông bên trái của con tầu ( phía sau ), trong khi một số lượng không xác định các quả bom khác chưa phát nổ đã xâm nhập vào tàu. Một số quả bom còn lại phát nổ ở dưới nước nhưng rất gần con tầu tiếp tục đánh vào chiếc Ardent và kết quả là gây ngập lụt nhỏ trong các phòng máy phụ trợ phía trước. Phòng Dining Hall bị đánh cho tan tành trong khi thông tin liên lạc giữa đài chỉ huy và các trung tâm điều khiển của con tàu bị cắt và chiếc tàu bị mất lái. Cuộc tấn công này gây ra nhiều thương vong đặc biệt là cho những người trong số các đội kiểm soát thiệt hại đang làm việc trong chiếc nhà chứa máy bay này. Chiếc Ardent dừng lại ở trong vùng nước nông của eo biển Grantham, các đám cháy ở đuôi của nó bây giờ không thể kiểm soát được. Con tàu bị nghiêng đi một cách trầm trọng, thuyền trưởng Alan West quyết định từ bỏ con tàu. Sau đó chiếc HMS Yarmouth đến bên cạnh để đón những người còn sống sót. Thủy thủ đoàn được chuyển giao cho chiếc tầu bệnh viện SS Canberra. Lúc đó người ta biết rằng có 22 người đã thiệt mạng. Chiếc Ardent tiếp tục bị bốc cháy suốt đêm kèm theo với những tiến nổ liên tục cho đến khi nó bị chìm lúc 6:30 sáng hôm sau, chỉ có cột buồm của nó là còn lại trên mặt nước. ( vì ở vùng nước nông)

    Thủy thủ John Dillon người rất thạo đi biển đã có thể loại bỏ các mảnh vụn từ một thủy thủ bị thương và mặc dù bỏng của mình và cố gắng đẩy người này về phía trước nơi cả hai được giải cứu. Vì sự dũng cảm và anh hùng của mình, ông đã nhận được một huy chương huân chương chữ thập Distinguished Service Cross, và phục vụ như First Sea Lord vào các năm 2002-2006.

    Trong vài ngày sau đó các thợ lặn của hải quân đã cố gắng thu hồi khẩu súng 20 mm của nó để lắp vào một chiếc tàu khác (chứng tỏ là lúc đó Hải quân Anh cực thiếu súng phòng không tầm gần) và chiếc cột buồm của nó được sử dụng như là một cảnh báo định hướng và là cái mốc cho chiếc tàu chị em của nó – chiếc HMS Arrow khi nó bắn phá Goose Green.

    Xác con tàu được quy định như một khu vực cấm theo Đạo luật Bảo vệ xác tàu đắm của Quần đảo Falkland.



    Phiên bản Argentina

    Không quân tấn công

    Theo trang web chính thức của Không quân Argentina chiếc Ardent là mục tiêu của hai cuộc tấn công từ các máy bay của FAA :


    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Ardent trúng bom và tỏa khói ở phần đuôi tầu



    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Ardent lúc bắt đầu nghiêng về bên phải





    • 14:00 một A4B - Skyhawk đơn độc của Lữ đoàn không quân số 5. Bốn chiếc A- 4B cất cánh từ Rio Gallegos lúc 11:30. Sau khi gặp vấn đề trong tiếp nhiên liệu trên không hai chiếc máy bay bị buộc phải hủy bỏ chuyến bay và trở lại căn cứ. Sau khi bay qua eo biển Falklands, các máy bay Skyhawk còn lại tình cờ phát hiện một chiếc tàu vận tải không xác định được danh tính - nó dường như là chiếc tàu hàng Río Carcaraña của Argentina bị bỏ rơi – và (chiếc tầu không danh tính) liền bị tấn công bởi một trong những chiếc máy bay phản lực A4. Chiếc máy bay chiến đấu còn lại được lái bởi viên chỉ huy của biên đội – Đại úy Pablo Carballo đã thả một quả bom ngố - dumb bomb £ 1.000(450 kg) vào chiếc tầu frigate mà ông nhìn thấy tại eo biển Grantham. Ông báo cáo rằng có hỏa lực phòng không dày đặc nhưng vẫn quay trở lại một cách an toàn. Quả bom phát nổ ở phía đuôi con tầu. Carballo lại tiếp tục tham gia cuộc tấn công vào chiếc HMS Broadsword một vài ngày sau đó.
    • 14:40 các máy bay Dagger của Lữ đoàn không quân số 6. Một biên đội gồm hai chiếc Dagger dẫn đầu bởi đại úy Mir González , được tham gia cùng một chiếc Dagger thứ ba trở về từ một chuyến bay bị hủy bỏ. Họ cùng nhau hướng về San Carlos, nhưng bị chặn lại bởi một máy bay Sea Harrier tuần tra để bảo vệ chiếc HMS Brilliant và một chiếc máy bay tấn công bị bắn rơi ở Tây Falkland. Viên phi công nhảy dù và được cứu an toàn sau đó. Hai chiếc Dagger còn lại thành công trong việc vượt qua máy bay tuần tra trên không của Anh và xâm nhập vào eo biển Falklands từ phía nam. Họ phát hiện ra một tàu frigate và thả hai quả bom £ 1.000 (450 kg) vào phần đuôi của nó. Họ cũng nhấn bắn nó bằng súng cannon 30 mm của họ. Theo báo cáo của các máy bay này chiếc tàu chiến tấn công đáp trả bằng cách bắn tên lửa phòng không.
    Máy bay của Hải quân Argentina xuất kích

    Vào lúc 15:01 Ba máy bay chiến đấu A - 4Q Skyhawk Hải quân Argentina phi đội 3 tấn công vào Sqd . hải quân và bắn trúng chiếc Ardent với ít nhất hai quả bom vào phía đuôi, một số quả bom chưa nổ xuyên vào thân tàu và một số gần trúng. Con tàu mẹ của các máy bay chiến đấu này là chiếc tàu sân bay ARA Veinticinco de Mayo, nhưng nhiệm vụ này được thực hiện từ một căn cứ trên bộ tại Rio Grande. Hải quân đã sử dụng một chục chiếc máy bay mang bom - retarding tail bomb 500 lb ( 230 kg) trong cuộc tấn công. Trong thời gian tẩu thoát họ bị bắn rơi bởi mát bay Sea Harrier. Phi công chạy cuối cùng, Trung úy Gustavo Marcelo Márquez bị giết trong chiến đấu sau khi chiếc A 4Q bị trúng đạn 30 mm và phát nổ. Trung úy Philippi bị bắn rơi bởi một tên lửa AIM- 9L Sidewinder nhưng kịp nhảy dù một cách an toàn và sau đó được che chở bởi một nông dân địa phương tên là Tony Blake trong đêm, sau đó ông lại gia nhập lực lượng Argentina. Chiếc máy bay A 4Q của Trung úy Arca cũng trúng đạn 30 mm nhưng đã thoát an toàn sau khi một cố gắng tiếp đất không thành công ở Stanley. Viên phi công này được cứu từ dưới mặt nước bởi chiếc Huey UH- 1H của Captain Svendsen. Arca nhảy dù tại <ST1:P</ST1:P<ST1:PPembroke</ST1:P chỉ cách sân bay Stanley có hai dặm.





    Đánh chìm chiếc HMS Antelope ( F170 )

    HMS Antelope ( F170 )
    Sở hữu: Hải quân Hoàng gia
    Đặt hàng: 17 tháng 4, 1973
    Nhà sản xuất: Vosper Thornycroft
    Khởi công: Ngày 23 tháng 3 năm 1971
    Hạ thủy: 16 tháng 3, 1972
    Làm nhiệm vụ: 19 Tháng 7, 1975
    Khẩu hiệu: Audax et vigilans - (" Dám làm và thận trọng ")
    Bị đánh chìm bởi máy bay của Argentina vào ngày 24 tháng 5 năm 1982

    Đặc điểm chung

    Loại tầu: Tầu Frigate Type 21
    Trọng tải 3.250 tấn đầy tải
    Chiều dài: 384 ft (117 m )
    Chiều ngang: 41 ft 9 in ( 12,73 m )
    Độ ngập nước: 19 ft 6 in ( 5,94 m )
    Động cơ đẩy COGOG:
    2 × tua bin khí Rolls- Royce Olympus
    2 × tua bin khí Rolls- Royce Tyne RM1A


    32 hải lý / giờ (59 km / h )

    Phạm vi hoạt động:
    4.000 hải lý ở 17 hải lý / giờ ( 7.400 km ở 31 km / h )
    1.200 hải lý ở 30 hải lý / giờ ( 2.220 km ở 56 km / h )


    Vũ khí:
    1 × súng hải quân 4,5 inch (114 mm ) Mark 8
    2 × súng Oerlikon 20 mm
    1 × dàn bốn tên lửa Sea Cả SAMs
    2 × ba ống phóng ngư lôi ASW
    2 × bệ phóng nhiễu xạ Corvus
    1 × mồi nhử Type 182


    Máy bay: 1 × máy bay trực thăng Westlan Wasp, sau đó được trang bị 1 × Lynx


    [​IMG]
    Chiến hạm HMS Antelope trước khi trận đánh bắt đầu




    Chiếc HMS Antelope ( F170 ) là một tầu frigate Type 21 của Hải quân Hoàng gia tham gia Chiến tranh Falklands. Thân của nó được khởi công ngày 23 tháng 3 năm 1971 bởi Vosper Thornycroft tại Woolston, Southampton nước Anh. Chi phí kế hoạch của lớp tầu này là 3.500.000 £ nhưng thực tế chi phí thực tế là hơn £ 14 triệu. Nó được đưa vào làm nhiệm vụ ngày 17 tháng 7 năm 1975 và là chiếc tầu duy nhất của Type 21 không bao giờ được trang bị bệ phóng Exocet.

    Chiếc HMS Antelope tham gia Chiến tranh Falklands khi đến khu vực chiến sự vào ngày 21 tháng 5 năm 1982.
    Ngày 23 tháng 5 năm 1982 , trong khi làm nhiệm vụ phòng không ở lối vào vịnh San Carlos Water để bảo vệ các vị trí đầu cầu mới được thành lập hai ngày trước đó, nó đã bị tấn công bởi bốn máy bay A4B – Skyhawk thuộc Grupo 5 của Argentina. Cặp máy bay đầu tiên tấn công từ phía sau khi người chỉ huy đội bay phải hủy bỏ cuộc tấn công của mình sau khi một quả tên lửa Sea Cat SAM bắn từ chiếc HMS Ardent phát nổ dưới cánh trái của chiếc máy bay của ông ta. Viên phi-công Đại úy Pablo Carballo cố gắng để lái máy bay của mình quay trở lại Rio Gallegos. Chiếc máy bay thứ hai thuộc biên đội này tiến hành động tác cắt bom và thả một quả bom 1000 bảng Anh vào phía mạn phải của chiếc Antelope làm chết một thủy thủ đoàn - Steward Mark R. Stephens. Quả bom đã không phát nổ và chiếc máy bay của Argentina đã bị hư hỏng do hỏa vũ của vũ khí hạng nhẹ.

    Cặp máy bay Skyhawk thứ hai tấn công mấy phút sau đó từ phía mạn phải. Trong cuộc tấn công này một trong những máy bay của Argentina được điều khiển bởi Trung úy nhất Luciano Guadagnini bị trúng đạn súng 20mm bắn từ con tầu trước khi đâm vào chiếc cột buồm chính của chiếc Antelope. Guadagnini bị giết nhưng quả bom của ông xuyên vào thân của chiếc tàu frigate mà không phát nổ.

    Chiếc HMS Antelope bắn một quả tên lửa Sea Cat vào những gì nó tin là một kẻ tấn công thứ năm nhưng nó thực sự đã bắn một quả tên lửa thứ hai vào máy bay của Đại úy Carballo người cố gắng để củng cố lại xem liệu chiếc máy bay của ông vẫn còn có thể bay được. Quả tên lửa này bay xa ít nhất là 10 mét so với buồng lái của viên đại úy.

    Sau những nỗ lực kiểm soát thiệt hại ban đầu chiếc Antelope tiến sâu thêm vào vùng nước ấm để hai kỹ thuật viên EOD từ Quân đoàn kỹ sư Hoàng gia có thể lên tầu tàu và cố gắng tháo gỡ hai quả bom. Một trong những quả bom đã không thể được tiếp cận vì đống đổ nát, còn quả kia đã bị hư hại và được cho là ở trong tình trạng đặc biệt nguy hiểm. Ba cố gắng của đội EOD để rút kíp của quả bom này bằng các phương tiện từ xa đã không thành công. Một nỗ lực thứ tư, bằng cách sử dụng một khoản thuốc nổ nhỏ đã dẫn đến các vụ nổ của vũ khí và giết chết ngay lập tức viên Trung sĩ James Prescott và làm bị thương nghiêm trọng Kỹ thuật viên Bảo hành Phillips, một thành viên khác của đội EOD. Con tàu bị thủng rách làm cho nước chảy vào, các vụ nổ bắt đầu tạo cháy lớn tại phòng động cơ và lây lan rất nhanh. Nạn bên phải con tàu bị nứt, con tàu bị mất tất cả nguồn điện năng và sĩ quan chỉ huy - Commander Nick Tobin ra lệnh rời bỏ con tàu . Tobin là người cuối cùng rời khỏi tàu và khoảng năm phút sau khi ông bỏ đi kho tên lửa bắt đầu phát nổ.

    Các vụ nổ vẫn tiếp tục suốt đêm và ngày hôm sau chiếc Antelope đã được tìm thấy là vẫn nổi nhưng phần thân của nó đã bị hỏng và cấu trúc thượng tầng của nó đã tan chảy thành một đống kim loại xoắn. Chiếc Antelope đã bị phá vỡ đến một nửa và chìm ngày hôm đó. Cảnh quay trên TV và hình ảnh của vụ nổ của chiếc Antelope đã trở thành một trong những hình ảnh mang tính biểu tượng của Chiến tranh Falklands và đã xuất hiện nhiều lần trong các chương trình sự kiện lịch sử.



    [​IMG]
    Bức ảnh nổi tiếng về chiếc HMS Antelope lúc nó phát nổ chính là hình ảnh mang tính biểu tượng của Chiến tranh Falklands



    [​IMG]
    Phần nhô lên mặt nước còn lại của chiếc HMS Antelope sau khi phát nổ


    Ngày 27 tháng 1 năm 2002 , một nhóm thợ lặn từ HMS Montrose để lấy lên lá cờ Hải quân - Naval Ensign trên chiếc Antelope. Xác con tàu được quy định như một khu vực bị cấm theo Đạo luật Bảo vệ xác tàu đắm tại Quần đảo Falkland.

    Truyền thống của Hải quân là tên của đứa trẻ con đầu tiên của thủy thủ đoàn được sinh ra sẽ được vinh dự lấy làm tên christened cho con tàu. Mike Duncan Kenneth Hedges con trai của John và Margaret sinh ngày 05 Tháng 6 1974 . Tên của cậu bé được khắc trên quả chuông của con tàu và quả chông này cũng ở trên boong khi nó bị chìm.
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đánh chìm chiếc HMS Coventry ( D118 )

    Tên: HMS Coventry<P class=MsoNormal style=[/IMG]Sở Hữu: Hải quân Hoàng gia
    Nhà chế tạo: Cammell Laird
    Khởi công: Ngày 29 tháng 1 năm 1973
    Hạ thủy: Ngày21 tháng 6 năm 1974
    Làm nhiệm vụ: 10 Tháng 11 Năm 1978
    Bị đánh chìm bởi máy bay của Argentina trong ngày 25 tháng 5 năm 1982

    Đặc điểm chung

    Loại tàu: Tầu khu trục Type 42
    Trọng tải tối đa: 4.820 tấn
    Chiều dài: 125 m (410 ft)
    Chiều ngang: 14,3 m (47 ft)
    Độ ngập nước: 5,8 m (19 ft)
    Động cơ đẩy: COGOG) tua bin khí, 2 trục 36 MW
    Tốc độ tối đa: 30 hải lý (56 km / h )
    Thủy thủ đoàn: 287 người

    Vũ khí:
    22 tên lửa Sea Dart
    Một súng 4,5 inch (114 mm) Mk.8
    Hai súng Oerlikon 20 mm.
    Hai ống phóng ngư lôi STWS Mark 2, hai bệ phóng nhiễu.
    Máy bay: Trực thăng Westland Lynx HAS.Mk.1 / 2

    Chiếc HMS Coventry ( D118 ) là một tàu khu trục Type 42 ( Sheffield Class ) của Hải quân Hoàng gia. Được khởi công bởi Cammell Laird & Company, Limited, tại Birkenhead ngày 29 tháng 1, 1973, nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 6 năm 1974 và được chấp nhận vào phục vụ ngày 20 tháng 10 năm 1978 với chi phí £ 37.900.000. Nó đã bị đánh chìm bởi A-4 Skyhawk của Không quân Argentina ngày 25 tháng 5 năm 1982 trong Chiến tranh Falklands.



    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Coventry lúc chưa hề hấn gì


    Vai trò chính của chiếc tàu này là cung cấp cho đội tàu khả năng phòng không ở tầm trung cùng với vai trò thứ yếu là chống bề mặt và chống tàu ngầm. Có tổng cộng mười sáu chiếc "Type 42 " đã được chế tạo từ năm 1972 đến năm 1985, trong ba lô tầu, chiếc HMS Coventry là chiếc cuối cùng của lô đầu tiên được đưa vào sử dụng. Những lô đầu tiên của Type 42 rất kém trong quá trình thử nghiệm và có tiếng là nghèo khả năng chiến đấu trên biển.


    Destroyers Type 42 được trang bị với tên lửa bề mặt-đối-không Sea Dart (SAM ) được thiết kế vào những năm 1960 để chống lại mối đe dọa từ máy bay đối phương. Tên lửa Sea Dart bị hạn chế bởi chính hạn chế trong năng lực bắn của nó và thời gian phản ứng, nhưng đã tự chứng minh bản thân trong chiến tranh Falklands với bảy hạ gục, ba trong số này là từ chiếc Coventry.


    Chiến dịch Falklands


    Chiếc HMS Coventry được tham gia vào các buổi tập trận Exercise Springtrain 82 ở gần căn cứ của Anh Gibraltar, trong tháng 3 năm 1982. Cùng với những con tàu khác đã tham gia tập trận, nó cũng tham gia phục vụ trong Chiến dịch Falklands. Nó có một lá cờ của Liên hiệp Anh được sơn trên nóc đài chỉ huy của nó và một dòng đen trên ống khói để trợ giúp phân biệt vì người Argentina cũng sử dụng hai Destroyers Type 42 .

    Ngày 27 tháng Tư, chiếc Coventry, đi cùng với các chiếc HMSGlamorgan, HMSGlasgow, HMS ArrowHMSSheffield tiến vào Khu vực Loại trừ Hàng hải, một hàng rào 200 dặm xung quanh quần đảo Falkland. Trong vòng 6 tuần các chiếc SheffieldCoventry nằm ngủ với giun ở đáy của Nam Đại Tây Dương, chiếc Glasgow sẽ nhận một quả bom đi thẳng vào nó, chiếc Glamorgan sẽ ăn một đòn của một quả tên lửa Exocet bắn từ đất liền. Trong tổng số hơn năm mươi thủy thủ sẽ chết.

    Đóng góp của chiếc Coventry cho Chiến tranh Falklands là đáng kể. Máy bay trực thăng của nó là chiếc đầu tiên bắn tên lửa chống tàu <ST1:PSea</ST1:P Skua ( Không-đối-bề mặt ) trong chiến đấu. Chiếc trực thăng Westland Lynx HAS.Mk.2 của nó bắn hai tên lửa Sea Skua vào chiếc thống báo hạm ARA Alferez Sobral – chiếc USS Salish. Một quả tên lửa bị trượt và một quả khác trúng vào chiếc tầu nhỏ này và làm bị thương nhẹ một thuyền viên phụ trách sử dụng khẩu súng 20 mm và làm hỏng dây ăngten vô tuyến điện. Chiếc trực thăng của chiếc Lynx của chiếc HMS Glasgow đã bắn thêm hai tên lửa Sea Skua và con tàu rút lui với 8 thuyền viên bị chết, 8 người bị thương và thiệt hại nặng nề. Chiếc đài chỉ huy bị hỏng của nó bây giờ được trưng bày tại Bảo tàng Hải quân ở Tigre, chiếc tầu này vẫn còn phục vụ trong Hải quân Argentina.

    Chiếc Coventry là tàu chiến đầu tiên phóng tên lửa Sea Dart bề mặt-đối-không trong chiến đấu, khi con tàu này bắn ba quả tên lửa vào nhóm máy bay Learjet của Escuadrón Fenix vào ngày 9 tháng hai nhưng chẳng hạ được chiếc nào. Chiếc HMS Broadsword báo cáo rằng radar của mình theo dõi các tên lửa đang tiến tới với các cặp mục tiêu nhưng chúng đã bỏ lỡ những chiếc máy bay.

    Thuyền trưởng của chiếc Coventry - Hart Dyker tuyên bố rằng hai chiếc A - 4C Skyhawk của Grupo 4 bị bắn hạ bởi các tên lửa Sea Dart, nhưng thực ra thì các máy bay (C -303 và C- 313) đã bị mất bởi thời tiết xấu với cả hai xác máy bay được tìm thấy ở South Jason Island. Một chiếc ở vách đá phía Tây Bắc, một chiếc ở vùng nước nông ở phía tây nam. Trung úy Casco và trung úy Farias cả hai đều đã chết.

    Vụ bắn hạ đầu tiên xác nhận được tiến hành bởi chiếc Coventry là một máy bay trực thăng Aérospatiale Puma của Tiểu đoàn 601 trực thăng tấn công với ba phi hành đoàn của nó bị bắn hạ bởi một Sea Dart ở eo biển Choiseul.

    Chiếc Coventry là một trong ba tàu khu trục Type 42 cung cấp phòng không cho hạm đội. Với việc mất chiếc HMS Sheffield và chiếc HMS Glasgow bị thiệt hại trong ngày 12 tháng 5 buộc nó phải trở về Anh, Chiếc Coventry được để lại để thực hiện vai trò này một mình cho đến khi có tàu khác có thể đến từ Vương quốc Anh .

    Ngày 25 tháng 5 năm 1982


    Ngày 25 tháng 5 năm 1982, chiếc Coventry được lệnh phải chiếm vị trí trong eo biển Falkland âm thanh, kèm theo với chiếc HMS Broadsword. Có vẻ như nó sẽ hành động như một mồi nhử để kéo máy bay Argentina ra khỏi các tàu khác ở vịnh <ST1:PSan Carlos </ST1:P<ST1:PBay</ST1:P. Ở vị trí này, gần với mặt đất và biển không đủ mở giữa nó và mặt đất, tên lửa Sea Dart của nó sẽ có ít hiệu quả. Chiếc HMS Broadsword được trang bị các tên lửa Sea Wolf dùng để chống máy bay tầm gần và chống tên lửa (phóng từ phía đối phương).

    Lúc đầu, chúng làm việc như một cái bẫy với việc chiếc A- 4B Skyhawk C -244 FAA của Grupo 5 bắn rơi ở phía bắc Pebble Island bởi một tên <ST1:Plửa</ST1:P<ST1:PSea</ST1:P Dart. Đại úy phi-công Hugo Angel del Valle Palaver đã bị giết. Sau đó, một chiếc Skyhawk A- 4C có số hiệu C -304 của Grupo 4 de Caza FAA triển khai đến San Julian bị bắn rơi ở phía đông bắc của Pebble Island bởi một tên lửa Sea Dart khi trở về từ nhiệm vụ ở San Carlos Water. Đại úy Jorge Osvaldo García kịp nhảy dù nhưng đã không kịp cứu hộ. Xác của ông đã dạt vào bờ biển trong một chiếc thuyền cao su tại<ST1:P</ST1:P<ST1:P</ST1:P vào năm 1983. Đồng đội của Garcia, Teniente Lucero Ricardo cũng bị bắn hạ trong các cuộc đột kích vào San Carlos bởi một Sea Cat được bắn từ chiếc HMSYarmouth (nhiều tuyên bố khác nhau về việc bắn hạ chiếc máy bay này vì trong khu vực này còn có một Khẩu đội Rapier) nhưng ông này đã may mắn hơn là sau khi nhảy dù thành công.

    Hai chiếc tàu này sau đó đã bị tấn công bởi hai đợt hai máy bay A-4 Skyhawk của Argentina, với mỗi chiếc máy bay chở ba quả bom £ 1000. Việc tải nặng được như thế này có thể do hai tàu chiến của Hải quân Hoàng gia đã tiến gần vào đất liền Argentina. Bốn Skyhawk bay rất thấp và radar nhắm mục tiêu của chiếc Coventry không thể phân biệt giữa họ với mặt đất và thất bại khi lock họ. Chiếc HMS Broadsword cố gắng để nhắm mục tiêu vào cặp của những kẻ tấn công đầu tiên ( Đại úy Pablo Carballo và Teniente Carlos Rinke ) với hệ thống tên lửa Sea Wolf của nó, nhưng hệ thống theo dõi riêng của nó bị locked down trong vụ tấn công và không thể được cài đặt lại trước khi các máy bay thả bom vào họ. Một trong số các quả bom được cắt xuống rời bật ra khỏi nước biển và tấn công vào sàn bay củachiếc Broadsword mặc dù không phát nổ, vẫn phá hủy chiếc máy bay trực thăng Lynx của con tầu. Chiếc Coventry tuyên bố đã tấn công chiếc Skyhawk thứ hai ( Đại úy P. Marcos Carballo ) ở phần đuôi bằng vũ khí hạng nhẹ, mặc dù ông này vẫn an toàn trở về Argentina. Trong thực tế, chiếc máy bay của Carballo bị trúng dưới cánh phải của một mảnh bom vào bình nhiên liệu ở chiếc cánh bên phải trong lúc lao máy bay của mình vào tấn công.

    Cặp Skyhawk thứ hai ( Primer Teniente Mariano A. Velasco và Ensign Alférez Leonardo Barrionuevo ) hướng đến chiếc Coventry 90 giây sau đó ở một góc 20 độ tới bên trái chiếc mũi của con tầu. Vẫn không tiến hành lock được tên lửa, chiếc Coventry phải cho bắn tên <ST1:Plửa </ST1:P<ST1:PSea</ST1:P Dart trong một nỗ lực để đánh lạc hướng họ và rẽ sang mạn phải để giảm mặt nghiêng của nó. Trên chiếc HMS Broadsword hệ thống Sea Wolf đã được cài đặt lại và thành công trong việc yêu cầu bắn vào các máy bay tấn công, nhưng cũng lại không thể phóng tên lửa (NV - successfully acquired the attacking aircraft, but was unable to fire) Làm cho chiếc Coventry phải sử dụng các vũ khí chiến đấu trực tiếp của nó.

    Chiếc Coventry sử dụng súng 4,5 inch và vũ khí hạng nhẹ của nó để chiến đấu với các máy bay tấn công. Khẩu súng Oerlikon 20 mm bị kẹt, làm cho con tàu bảo vệ chính mình chỉ bằng súng trường và súng máy. Chiếc Coventry bị ném trúng bởi hai quả bom ngay trên mực nước ở phía mạn bên trái. Một trong những quả bom phát nổ bên dưới phòng máy tính phá huỷ nó và phòng hoạt động ở gần đó, giết và làm bị thương gần như tất cả các sĩ quan cao cấp. Quả bom khác lao vào phòng máy phía trước (Forward Engine Room) nổ tung dưới phòng ăn của nhân viên mới ( the Junior Ratings Dining Room), nơi có bộ phận Sơ cứu đang ở đó và con tàu ngay lập tức bắt đầu nghiêng về mạn bên trái. Quả bom sau này gây ra thiệt hại nghiêm trọng vì nó phá hủy các vách ngăn giữa phòng động cơ ở phía trước và phía sau, tạo ra một khoảng mở lớn nhất trong con tàu và làm nó không thể kiểm soát được ngập lụt. Với thiết kế này của tàu, với nhiều khoang kín nước, hai quả bom đánh trúng vào hầu như bất cứ nơi nào khác có thể làm cho nó còn sống sót.



    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Coventry tỏa khói mù mịt sau các đợt không kích của Argentina




    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Coventry lúc bắt đầu ngiêng mạn trái trong trận ngày 25 tháng năm 5



    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Coventry lúc bắt đầu ngiêng mạn trái nhưng được quan sát từ phía sau


    Trong khoảng thời gian 20 phút chiếc Coventry bị bỏ rơi và hoàn toàn bị lật úp. Mười chín thành viên thủy thủ đoàn bị chết và hơn 30 người bị thương. Chiếc Coventry chìm ngay sau đó. Sau khi con tàu bị tấn công thủy thủ đoàn của nó trong lúc chờ đợi để được cứu sống, đã luôn hát "Luôn luôn nhìn về mặt sáng của cuộc sống" trong cuốn phim Monty Python 's Life of Brian. Kỹ thuật viên Cơ khí Hải quân Paul Mills chết vào ngày 29 tháng 3 năm 1983 từ một khối u não gây ra bởi một vết nứt hộp sọ được duy trì trong suốt cuộc tấn công. ( coi như chết 20)


    Phần thưởng


    Không có thành viên trong thủy thủ đoàn của chiếc Coventry nhận được giải thưởng về sự dũng cảm. Phi-công MJ Tupper của No.846 NAS được trao giải thưởng Distinguished Service Order Về phần mình trong việc tham gia cứu hộ, Sau chiến tranh một qua đài tưởng niệm được dựng trên Pebble Island cho thủy thủ đoàn của chiếc Coventry.

    David Hart Dyker, sĩ quan chỉ huy của chiếc Coventry trong Chiến tranh Falklands , đã viết về câu chuyện của con tàu trong cuốn sách Bốn tuần tháng 5: Những mất mát của chiếc HMS Coventry. Quấn sách này đã được BBC đưa vào một chương trình tài liệu<ST1:P</ST1:P<ST1:P</ST1:P và được công chiếu tháng 6 năm 2007.







    Đánh đắm chiếc Atlantic Conveyor






    Chiếc Atlantic Conveyor là một tàu vận tải của Hải quân Anh được đăng ký ở Liverpool, nó bị trưng dụng trong Chiến tranh Falklands và bị đánh chìm vào ngày 25 Tháng 5 Năm 1982 sau khi bị trúng hai quả tên lửa Exocet của Argentina, giết chết 12 thủy thủ. Địa điểm con xác tầu được chỉ định theo Đạo luật Bảo vệ tàn tích quân sự 1986.


    [​IMG]
    Chiếc Atlantic Conveyor khi chưa bị tấn công, nó nguyên là một chiếc tàu hàng có trọng tải xấp xỉ 15.000 tấn của công ty Cunard Line bị sung vào quân đội trong trận chiến Falkland


    Chiếc Atlantic Conveyor là một tầu container roll -on , roll -off 14.950 tấn thuộc sở hữu của Cunard. Nó được chế tạo cùng với sáu tàu container khác, mỗi chiếc đều được đặt tên Đại Tây Dương dưới lá cờ của các quốc gia khác nhau cho các công ty khác nhau. Cùng với chiếc tàu chị em của nó - Atlantic Causeway, chiếc Atlantic Conveyor đã được trưng dụng bởi Bộ Quốc phòng vào lúc bắt đầu của Chiến tranh Falklands thông qua hệ thống STUFT (Ships Taken Up From Trade). Do khoảng thời gian chuẩn bị quá ngắn, (chính phủ Anh) đã quyết định rằng con tàu đã không là " một đơn vị có giá trị cao " và những tranh cãi về việc liệu trang bị vũ khí cho nó có phù hợp với pháp luật, Chiếc Atlantic Conveyor đã không được trang bị hệ thống phòng thủ hoặc chủ động, hoặc thụ động. Con tàu được sử dụng để thực hiện cung cấp cho Lực lượng Đặc nhiệm được gửi đi bởi chính phủ Anh để chiếm lại Quần đảo Falkland từ sự chiếm đóng của người Argentina.

    Xuất phát đi tới Đảo Ascension vào 25 tháng 4 năm 1982, chiếc Atlantic Conveyor chở một số lượng hàng hoá gồm sáu máy bay trực thăng Wes*** từ Phi đội 848 Không quân thuộc Hải quân và năm chiếc HC.1 Chinooks từ Phi đội số 18 RAF Không quân Hoàng gia. Tại Ascension , nó cho lên boong tám Sea Harrier Hạm đội Không lực (Phi đội 809) và sáu máy bay phản lực Harrier GR.3 của Không quân Hoàng gia. Một chiếc Chinook của chuyến bay B thuộc Phi đội số 18 RAF rời Atlantic Conveyor để hỗ trợ cho các hoạt động trên Ascension. Với các máy bay nà nó cất giữ nó sau đó nó tiến hành chuyến đi tới Nam Đại Tây Dương. Khi đến ngoài khơi Falklands vào giữa tháng, những chiếc Harrier đã được bốc dỡ tới các tàu sân bay; nhóm GR.3s sẽ lên boong chiếc HMS Hermes trong khi những chiếc Sea Harrier được chia ra trong số các phi đội hiện có để lên boong các chiếc Hermes và HMS Invincible.

    Ngày 25 tháng 5 năm 1982 chiếc Atlantic Conveyor bị đánh trúng hai quả tên lửa Exocet bắn từ một cặp máy bay chiến đấu phản lực Super Étendard của Argentina. Chiếc tàu bốc cháy, ngọn lửa sau đó đã trở nên không thể kiểm soát. Khi ngọn lửa đã tàn, con tàu đã được…. nhưng chẳng thu hồi được một cái gì và do đó người ta đã quyết định là đánh chìm nó. Các đầu đạn phát nổ sau khi thâm nhập sâu vào thân tàu đến nơi mà các xe tải và nhiên liệu được dự trữ kết quả tạo lên một ngọn lửa không thể kiểm soát . Tất cả các máy bay trực thăng Chinook chỉ trừ một chiếc có tên hiệu Bravo November đang làm nhiệm vụ lúc đó, đã bị phá hủy bởi. Những mất mát của các máy bay trực thăng có nghĩa là binh lính Anh sẽ phải đi bộ qua Falklands để chiếm lại Stanley.


    [​IMG]
    Ảnh chiếc Atlantic Conveyor bốc cháy khi bị trúng hai quả tên lửa Exocet

    Mười hai người chết trên chiếc Atlantic Conveyor, bao gồm cả chỉ huy của con tàu - thuyền trưởng Ian North, người được truy tặng huân chương Distinguished Service Cross ( DSC ). Con tàu này là tàu buôn của Anh đầu tiên bị đánh chìm trên biển bởi đạn của kẻ thù kể từ Chiến tranh Thế giới II.

    Chiếc tàu thay thế nó được chế tạo ở Tyneside.

    Một phi-công lái máy bay trực thăng Sea King của Phi đội 820 Không quân thuộc Hải quân, Hoàng tử Andrew ( người thứ hai có quyền kế thừa ngôi vua ) là người đầu tiên đến cứu những người sống sót.

Chia sẻ trang này