1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    --------------------------------------------------------------------------------
    To weingarten: cám ơn bác đã nhắc nhở, em quả thật là đã dựa quá nhiều vào truyện TQDN để nói về trận này
    1. Đúng là 3 anh em họ Trương là Trương Giốc ( Giác), Lương, Bảo thật
    2. Chi tiết này thì em dựa vào TQCDN -> đúng là La Quán Trung có đề cao Lưu Bị thất
    3. Chi tiết này em không biết, nhưng các tướng lĩnh có công dẹp khởi nghĩa khăn vàng như Lư Thực, Hoàng Phủ Tung... đều ko gặp kết quả tốt vì không chịu bắt tay với tập đoàn quan hoạn
    4. Chi tiết này thì đúng là em nhớ nhầm
    5. Nếu đúng là Hán Hiến Đế không nhận Lưu Bị làm Hoàng thúc cũng chẳng sao (thực chất do sự chèn ép của Tào tháo nên Hiến Đế rất cần nhận người tài làm vây cánh), vì theo gia phả dòng họ ông ta vẫn là bậc cha chú của nhà vua đương thời, vả lại trước đây vua Quang Vũ Đế - Lưu Tú cũng chỉ là một chi rất xa của họ Lưu, do có công dẹp được Vương Mãng mà lên ngôi.
    6. Chính vì không phải chỉ tả lại có duy nhất một trận Xích Bích mà em phải nói về bối cảnh chung trước khi xảy ra và thậm chí cả sau khi xảy ra trận Xích Bích
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Xích Bích ( Tiếp)
    Tào Tháo
    Tào Tháo tên tự là Mạnh Đức, tên lúc còn nhỏ là Tào A Man ( thằng trí trá) người huyện Tiêu, đất Bái ( đất phát tích của Lưu Bang? ) tổ tiên nhà ông trước đây mang họ Hạ Hầu, nên các tướng sau này như Hạ Hầu Uyên, Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Thượng ? đều là tâm phúc của ông cả. Năm 20 tuổi ông thi đỗ hiếu liêm, sau đó được bổ làm Bắc bộ Uý (coi giữ an ninh, trật tự phía bắc) của kinh thành Lạc Dương, ông làm việc rất công tâm không sợ cường quyền, đã từng chiếu theo luật pháp để đánh tên chú của viên quan hoạn trong triều đình ( đến vua cũng phải gọi là cha mẹ) tới chết. Tuổi trẻ ông rất có trí giúp vua đền nợ nước, thấy Đổng Trác chuyên quyền, tàn bạo ông bỏ về quê dấy binh tham gia liên minh mười mấy nước chư hầu Quan Đông dưới trướng thái thú Trần Lưu là Trương Mạo.
    Các nước chư hầu với danh nghĩa là phò vua diệt Đổng Trác nhưng lại toàn mưu tính chuyện riêng tư. Đổng trác bị sức ép quá lớn phải đốt bỏ Kinh thành Lạc Dương chạy về Trường An, Tào Tháo mang quân ra truy kích giặc nhưng thế cô liên tục thua trận. Từ đây có ý bất mãn với liên minh Đông Quan ( Do Viên Thiệu đứng đầu) ông bỏ về quê. Lúc này mặc dù anh em Trương Giác, Trương Lương, Trương Bảo đã chết nhưng giư đảng của giặc Khăn vàng vẫn còn hoành hành ở khắp nơi, vì là người có uy tín lớn lại có công dẹp giặc ở Đông quận nên Tào Tháo được nhân dân ở Duyện Châu cử làm chức Châu mục thay Lưu Đại đã bị giặc Khăn vàng giết. Trong một loạt các chiến dịch sau đó Tào Tháo quy hàng được hơn 30 vạn quân Khăn vàng ở Thanh Châu và dần trở thành một thế lực cát cứ hùng mạnh
    Năm 193 Đổng Trác bị Lã Bố giết, nhưng tay chân của Đổng Trác là Lý Thôi, Quách Dĩ tiếp tục vẫn hoành hành ngang ngược, thay nhau ức hiếp vua Hiến Đế. Vào năm 195 vua Hiến Đế phải tìm cách mời Tào Tháo về cứu giá, sau khi cất quân về cứu giá lấy cớ là dư đảng của Lý Thôi, Quách Dĩ vẫn còn quá đông, ông rời xa giá nhà vua về Hứa Xương. Tại đây dần dần từng bước một ông tiêu diệt những đại thần không ăn cánh xung quanh nhà vua như Quốc Cữu Đổng Thừa, Quốc Trượng Phục Hoàn? rồi dần dần lấy danh nghĩa nhà vua để khống chế chư hầu.
    Từ năm 197 đến năm 208 lấy danh nghĩa Thiên tử thảo phạt chư hầu phản nghịch Tào Tháo liên tục mở các chiến dịch để tiêu diệt các thế lực cát cứ khác như Lã Bố, Viên Thuật, Viên Thiệu, Trương Tú, Lưu Bị, Lưu Biểu? Nói chung ngoài một vài trận thất bại chiến thuật như trận thành Bộc Dương, trận Tân Dã? Tào Tháo hoàn toàn thắng lợi. Đặc biệt lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ gia đình Lưu Biểu mà ông thôn tính thế lực này mà gần như không tốn một mũi tên hòn đạn.
    Mùa đông năm 208 Tào Tháo thống xuất 80 vạn quân ( theo TQCDN và hoàn toàn có lý vì, sau khi thu thập 30 vạn quân Khăn vàng ở Thanh Châu, Tào Tháo tiêu diệt Lã Bố, Viên Thuật, Viên Thiệu? và chiêu hàng độ 20 -> 30 vạn, sau khi thôn tính Kinh châu ông ta có thêm 28 vạn hàng binh của Lưu Biểu) tràn về phía bờ bắc sông Trường Giang tới một địa điểm được gọi là Xích Bích
    Tôn Quyền
    Tôn Quyền tự là Trọng Mưu, người Phú Xuân, Ngô Quận (nay là Phú Dương, Chiết Giang). Năm 1930 lúc mới 18 tuổi ông đã kế nghiệp cha là Tôn Kiên, anh là Tôn Sách để làm chủ 6 quận Giang Đông
    Dưới trướng của Tôn Quyền có các võ tướng là Trình Phổ, Hoàng Cái, Từ Thịnh đã từng phục vụ từ thời Tôn Kiên, các võ tướng khác như Hàn Đương, Chu Thái, Cam Ninh, Lã Mông, Trần Võ, Đổng Tập ... toàn những tay hiệt kiệt. Các quan văn đứng đầu là Trương Chiêu cũng đều là những người có tài phò vua, dựng nước cả. Tuy vậy Tôn Quyền đặc biệt tin tưởng 03 người đó là Lỗ Túc, Gia Cát Cẩn ( anh ruột Khổng Minh) và đặc biệt là Chu Du
    Chu Du ( 175-210) có thể nói là ông là bộ não của triều đình nước Ngô cũng là tổng công trình sư của trận Xích Bích. Ông sinh ra và lớn lên tại huyện Thư, quận Lư Giang. Lư Giang thuộc vùng Hoài Nam, thời trẻ ông chơi thân và là đồng hao với Tôn Sách, khi Tôn Sách ly khai Viên Thiệu để về khôi phục lại cơ nghiệp của cha, thì chính Chu Du là một trong những công thần. Khi trận Xích Bích bắt đầu xảy ra Chu Du đang là Đô Đốc thuỷ quân của nước Ngô và đóng quân ở Ba Khâu để trông coi việc luyện thuỷ quân. Có thể nói là Chu Du vừa là người có tài năng điều binh khiển tướng, lại vừa được Tôn Quyền coi như người nhà nên ảnh hưởng của ông vào Tôn Quyền là cực kỳ lớn.
    " Các toan tính của các bên trước khi xẩy ra trận Xích Bích"
    Phía Tào tháo
    Sau khi đuổi Lưu Bị chạy dạt về Gián Khẩu, Tào Tháo đã không tiếp tục tung quân ra tận diệt ông này, nguyên nhân có thể là như sau:
    - Đối với Tào Tháo lực lượng của Lưu Bị không còn là đáng kể nữa, khi ông chiếm được Giang Đông thì Lưu Bị chỉ còn cách quy hàng.
    - Hoặc là Tào Tháo rất sốt ruột muốn chiếm lấy vùng Giang Đông đất đai mầu mỡ, phong cảnh hữu tình, của cải giàu có ( về sau này các hoàng đế khác của TQ cứ xuống đến Giang Nam là mê mệt với cảnh đẹp, gái đẹp nên không muốn về nữa ví dụ Khang Hy, Càn Long ...)
    - Cũng có thể là do tuy Lưu Bị mới thua trận nhưng quân vẫn còn vài vạn của Lưu Kỳ, tướng vẫn có đủ bộ Quan-Trương-Triệu anh dũng thiện chiến, bày mưu tính kế xuất quỷ nhập thần là Khổng Minh - Gia Cát Lượng nên ông ta chon một đối thủ ( Mà ông ta nghĩ là dễ ăn hơn) đó là Giang Đông
    Dù do nguyên nhân nào đi chăng nữa thì trong thực tế Tào Tháo cũng dừng truy kích Lưu Bị và chĩa mũi dùi của ông ta vào đất Giang Đông. Thay mặt thiên tử ông ta đòi sự quy phục của Tôn Quyền và yêu cầu Tôn quyền phải gửi thế tử làm con tin. khi Tôn Quyền từ chối thì có nghĩa là cuộc chiến bắt đầu
    Kế hoạch tác chiến của Tào Tháo có vẻ như là tìm mọi cách để vượt qua sông Trường Giang với toàn bộ quân đội của mình, và khi đã vượt sang được bên bờ Nam thì lực lượng Giang Đông không còn là đối thủ của ông ta nữa ( thực tế sau này đã chứng minh đánh trên đất liền dù chỉ đối trận với một thuộc tướng của Tào Tháo la Trương Liêu trong trận Hợp Bì mà Tôn Quyền cũng không đánh nổi phải thua trận chạy vê, mất hai tướng giỏi là Tưởng Khâm và Thái Sử Từ...)
    Để vượt được sông Trường Giang, Tào Tháo sai hai tướng cũ của Lưu Biểu là Trương Doãn và Sái Mạo đô thống thuỷ quân ( đa số là người Kinh Tương) chia quân làm 28 trại ngày đêm luyện tập
    Không những vậy ông còn tung nhiều gián điệp sang phía Tôn Quyền để nghe ngóng tình hình, tìm cách lôi kéo tướng sỹ Giang Đông làm nội ứng ( trong TQDN có nói về các nhân vật Sái Trung, Sái Hoà, Tưởng Cán... nhưng nếu thực tế không phải là họ thì sẽ vẫn có những người khác làm gián điệp cho Tào Tháo)
    Khi thấy thuỷ quân của mình luyện mãi mà không tiến bộ, ông cho gọi Trương Doãn và Sái Mạo lên hỏi, hai người này thưa rằng thuỷ quân Kinh Châu lâu không luyện tập, mà quân cũ của Viên Thuật, Viên Thiệu... đa số là người phương Bắc không quen ngồi thuyền bập bềnh dễ bị ốm đau, thì vừa may có người hiến kế dùng xích lớn xích các tầu lại với nhau, lát ván lên các bong tầu tạo lên một đại trại thuỷ quân liên hoàn, tướng sỹ của ông có thể đi lại được như trên đất liền ( trong TQCDN người hiến kế là Bàng Thống)... Tào Tháo mừng quá cho thi hành ngay ( Không phải là ông không biết rằng làm kiểu như vậy dễ bị quân giặc dùng hoả công, chắc ông cho là vào lúc đó không thể có gió Đông Nam, đến khi có gió Đông Nam thì mọi việc đã an bài).
    Các chuẩn bị về phía Lưu Bị
    Tìm cách liên minh với Tôn Quyền, lợi dụng sức mạnh của Tôn Quyền để đả phá Tào Tháo, sẵn sàng lợi dụng cơ hội để mượn gió bẻ măng ( chiếm Nam Quận, Kinh Tương... nếu Tào tháo thua, và chiếm một chỗ nào đó nếu Tôn Quyền thua). Cho dù Tam Quốc Chí diến nghĩa của La Quán Trung không hoàn toàn chính xác đi chăng nữa thì kết thúc trận đánh Xích Bích và một loạt các trận đánh sau đó, người ta có thể thấy Tào Tháo thua trận chạy một mạch về Hứa Đô, Chu Du trúng tên độc của Tào Nhân ở Nam Quận... mà Kinh, Tương lại về tay Lưu Bị hơ hơ, tuy vậy đây cũng chính là nguyên nhân để hai nhà Tôn - Lưu trở mặt thành thù địch.
    Các hoạt động của Lưu Bị và bộ ba trong ngũ hổ chủ yếu là diễn ra trên bộ, đúng với sở trường của họ, chủ yếu là trận sau khi trận đánh thuỷ đã ngã ngũ nên họ không phải bỏ ra quá nhiều công sức mà thu được thành quả to lớn. Đoạn Quan Công tha Tào Tháo ở hẻm Di Lăng thì quả em cũng tin rằng La Quán Trung hư cấu
    Các chuẩn bị của Tôn Quyền
    Khi nhận được yêu cầu chiêu hàng và gửi con tin, Tôn Quyền lúc đó có thể do tuổi còn trẻ, lại chưa trải qua nhiều trận mạc như cha và anh trai nên trong lòng không khỏi là không hoang mang, lo sợ. Các quan trong triều chia làm hai phe, chủ chiến do các cựu thần quan võ cầm đầu như Hoàng Cái, Trình Phổ, Từ Tịnh, Cam Ninh, Chu Thái ... những người này chủ chiến vì thực chất đây sẽ là dịp cho họ khoe tài và lòng can đảm. Các quan văn đứng đầu là Trương Chiêu lại muốn hàng he he vì theo em thì họ muốn làm thằng nhà giàu thì cứ thờ Tôn Quyền hay Tào tháo cũng thế cả. Các cựu thần khác như Lỗ Túc hay Gia Cát Cẩn đều thiên về chủ chiến.
    Chỉ khi gặp Chu Du và được ông này hiến kế thì Tôn Quyền mới thực sự quyết đánh, những gợi ý của Chu Du có thể là
    Địa thế: Đất Ngô có sông bao bọc. Tào Tháo không có thủy quân giỏi.
    Tình thế: Tào Tháo chưa bình định xong vùng Tây Lương, hoạ Mã Đằng - Hàn Toại vẫn còn, không thể ở lâu.
    Thời điểm: Đang là mùa đông, đất Ngô khí hậu ẩm ướt, quân phương Bắc sẽ sinh bệnh.
    Dù với nguyên nhân nào đi nữa thì Tôn Quyền cũng kiên quyết đồng ý chiến đấu và giao cho Chu Du chức tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang của mình. Truyện TQDN của La Quán Trung có kể rằng vì Chu Du rất trẻ nên các lẫo thần như Đinh Phụng không phục nhưng thấy tài chỉ huy của
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:16 ngày 17/10/2009
  3. ducthrash

    ducthrash Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/08/2006
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0
    Em cũng rất thích Tam Quốc, nhưng hình như là đề tài ''Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân'' của chúng ta đi quá xa rồi các bác ơi
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    To ducthrash: Cám ơn bác ducthrash đã nhắc nhở, em cũng đã công nhận là dựa vào TQDN để tả về trận này. Đúng TQDN của La Quán Trung chỉ là tiểu thuyết lịch sử có giá trị cao về văn học, nhưng tính chất lịch sử cũng chỉ tương đối ---> Đây chính là chỗ để chúng ta phải bàn thêm về độ chính xác của nó (Bằng việc thêm vào từ ví dụ như truyện Tam Quốc của Trần Thọ hoặc những truyện khác ). Còn trận Xích Bích là trận hải chiến nổi tiếng thì ai cũng công nhận nên ko sợ lạc đề đâu bác ạ
    Trận Xích Bích ( Tiếp)
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/Xich_Bich_1.png
    Bản đồ trận Xích Bích
    Những tướng lĩnh cựu thần của Đông Ngô ( tạm gọi vậy) như Đinh Phụng ban đầu có vẻ không phục Chu Du, nhưng khi thấy ông ta chỉ huy quân sỹ rất đúng với binh pháp thì đều không còn ý kiến gì nữa.
    Những mưu kế của Chu Du để đối phó với Tào Tháo. Rất nhiều người nói rằng trong TQCDN La Quán Trung đề cao cặp Lưu Bị - Khổng Minh mà hạ thấp vai trò của Chu Du, nhưng thực chất nếu gạt bỏ những đoạn giả thần, giả quỷ của Khổng Minh thì LQT đã tả khá chân thực về các mưu kế của Chu Du ví dụ:
    Kế phản gián: Biết rằng Tào Tháo cử Sái Trung và Sái Hòa sang làm gián điệp, Chu Du đã sử dụng luôn cặp này để mang tin giả. Có thể các nhân vật như Sái Trung và Sái Hòa là hư cấu, nhưng chắc chắn 01 điều là Tào Tháo phải cử gián điệp sang Đông Ngô để dò la, mà tới khi Chu Du đánh đến tận cửa mà Tào Tháo không biết thì kế phản gián của Chu Du là quá giỏi.
    Kế mượn đao giết người: Thấy Trương Doãn và Sái Mạo thông thuộc thủy tính, Chu Du có ý lo lắng. Nhân có Tưởng Cán sang thăm với ý đồ dò la thuyết khách, Chu Du tương kế tựu kế lừa cho Tào Tháo giết Trương Doãn và Sái Mạo đi. Có thể chi tiết này không có thật nhưng chúng ta phải đánh dấu hỏi về cái chết của hai người, Trương Doãn và Sái Mạo. Rõ ràng là Tào Tháo biết hai người này là quân bán chúa cầu vinh, chỉ là lợi dụng họ, nhưng như vậy là việc chưa thành thì họ chưa thể chết. Nếu thực sự có cái chết của Trương Doãn và Sái Mạo thì chúng ta phải đặt câu hỏi, liệu có bàn tay của Chu Du không?
    Kế hỏa công: Đối với Đông Ngô cách hay nhất để diệt được Đại trại thủy quân của Tào Tháo là dùng hỏa công, nhưng để dùng được kế này thì ít nhất phải đòi hỏi những điều kiện cần và đủ sau:
    ĐK cần 01: Đối phương phải dồn cục một chỗ và không thể tản ra nhanh chóng một khi có biến.
    ĐK cần 02: Phải mang được đồ dẫn lửa, chất cháy vào sát trại địch mà đối phương không ngăn cản
    ĐK đủ: phải có gió đủ mạnh để phát tán đám cháy ra toàn thể trại địch, trong trận Xích Bích thì thủy quân Tào Tháo đóng ở bờ Bắc mà Đông Ngô đóng ở bờ Nam, như vậy là cần gió Đông Nam.
    Đối với Chu Du bằng cách khách quan và chủ quan ông ta đã có đủ 02 điều kiện cần, đó là do Tào Tháo tự xích thuyền của mình lại để làm Đại trại thủy quân, để luyện tập thủy chiến ---> vô tình hoặc hữu tình đáp ứng ĐK cần 01 của Chu Du
    Còn ĐK cần 02 thì Chu Du dùng khổ nhục kế do Hoàng Cái thủ vai chính, Hoàng cái là một đại công thần từ đời Tôn Kiên, tỏ ra coi thường vị tư lệnh trẻ tuổi là Chu Du (hoàn toàn hợp lý) --- > bị Chu Du sai đánh đòn thị uy --- > Bất mãn muốn hàng Tào, đây là điều mà Tào Tháo hoàn toàn muốn có ( và đã được kiểm chứng bởi gián điệp của Tào Tháo ở Đông Ngô) --- > Hoàng cái sẽ dẫn quân ra hàng Tào Tháo --- > lúc ra hàng sẽ là lúc mang đồ dẫn hỏa đến đốt trại Tào. Đây là các chi tiết theo truyện TQCDN của LQT nhưng em nghĩ thực tế sẽ không khác nhiều ( đương nhiên nếu các bác không đồng ý là như vậy thì cứ góp ý thôi)
    Còn điều kiện đủ và cũng là khó nhất là gió Đông Nam vào mùa đông, đây là điều kiện khó nhất vì nó phụ thuộc vào thiên nhiên chứ không phụ thuộc vào tài năng của con người. Trong TQCDN của LQT thì đó là do Khổng Minh lập đàn gọi gió ? Tất nhiên đây chỉ là chi tiết hư cấu của nhà văn LQT mà thôi, còn theo một số người nghiện đọc TQCDN thì họ cho rằng có thể là do trái gió dở trời mà thỉnh thoảng có gió Đông Nam tại mùa Đông, và người xưa có tài xem thiên văn và cỏ cây để đoán được khi nào có gió trái mùa là gió Đông Nam, cũng có thể là Chu Du không thể làm được điều này nhưng dưới chướng của ông ta có người nào đó có khả năng này. Điều này có thể đúng, có thể không đúng ( vì chỉ những người trực tiếp tham gia mới biết được mà thôi), nhưng có một sự thật là trong trận Xích Bích lửa cháy loang rộng đốt không chỉ trại thủy quân mà còn lan sang cả các doanh trại trên đất liền của Tào Tháo nữa
    Tóm lại là sau khi thi hành hàng loạt mưu kế như trên thì người Đông Ngô chỉ còn chờ đợi gió Đông Nam
    Trận thử sức trước trận đánh lớn
    http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1n4nnn1n31n343tq83a3q3m3237n2n4n
    Trận đánh này có lẽ là do quân Đông Ngô chủ động khiêu chiến để thăm dò thực lực, trình độ thủy chiến của quân Tào. Tướng bên Đông Ngô là Hàn Đương, Chu Thái ra thách đánh. Tào Tháo sai hai tướng Trương Nam, Tiên Súc ( tướng cữ của Lã Bố hoặc Viên Thiệu - có vẻ những bác này là bộ tướng nên không thạo thủy chiến lắm) làm tiên phong, Văn Sính ( tướng cũ của Lưu Biểu - khá rành về thủy chiến) với vài chục thuyền chiến loại nhỏ cùng binh lính tinh nhuệ ( dáo dài, cung cứng). Kết quả của trận đấu phe Đông Ngô thắng lợi hoàn toàn, hai tướng tiên phong là Trương Nam, Tiên Súc đều bị Hàn Đương, Chu Thái giết chết, Văn Sính bị đuổi cho chạy có cờ, quân sỹ thiệt hại nhiều.
    Kết quả của trận đánh này không làm ảnh hưởng nhiều đến cục diện hai nhà nhưng nó có những ý nghĩa sau:
    1) Nhuệ khí quân Tào bị hao hụt, nếu như trận này mà thắng lợi thì có khi Tào Tháo cứ hô toàn quân kéo bừa sang thì không biết tính mạng của Đông Ngô sẽ ra sao?.
    2) Trận đánh này cho Tào Tháo thấy đường lối của của ông ta về lập Đại liên hoàn thủy trại theo kế của Bàng Thống hiến ( cứ cho là Bàng Thống đi, nếu không phải thì cũng chẳng quan trọng lắm) cho đến tận lúc đó là hoàn toàn chính xác, và về trình độ thủy quân, quân Tào vẫn phải tiếp tục luyện tập nhiều nữa thì mới có hy vọng thắng được Đông Ngô ( cứ từ từ rồi khoai sẽ nhừ he he).
    Trận đánh
    Khi Tào Tháo đã cắn vào mồi khổ nhục kế trá hàng của Hoàng Cái thì ông ta đồng ý rằng vào canh 3 một đêm tối trời toàn bộ thủy đội của Hoàng Cái sẽ kéo đến Đại thủy trại của ông ta và đầu hàng, đương nhiên cái đêm tối trời đó phải được xem xét kỹ lưỡng bởi Chu Du và những chuyên gia về dự báo thời tiết của ông ta.
    Không những chỉ có đội thủy binh hỏa công của Hoàng cái, mà ta có thể thấy Chu Du phân bố lực lượng thành rất nhiều mũi, nhưng mũi nào cũng có lực lượng hỗ trợ một cách có chiều sâu.
    Ví dụ ( Trích từ TQCDN của LQT) "... Trước hết cho Cam Ninh dẫn Thái Trung đến rừng Ô Lâm, chổ đồn lương của Tào Tháo, nổi lửa làm hiệu. Thái Hòa thì giữ lại dưới trướng. Cho Thái Sử Từ dẫn mấy ngàn binh tới Huỳnh Châu để chận binh tiếp ứng của Tào Tháo từ Hiệp Phi qua. Sai Lữ Mông đi theo tiếp ứng cho Cam Ninh, truyền Lăng Thống đem quân tới Di Lăng, hễ thay Ô Lâm có lửa là phải tới tăng viện. Ðổng Tập đi ngã Hớn Xuyên đánh vào trại Tào. Phan Chương theo sau tiếp ứng cho Ðổng Tập. Lại loan báo hễ có cờ hồng là binh Ngô Hầu đã tới ..." và không những thế Lưu Bị, đồng minh của Đông Ngô, cũng hợp đồng tác chiến " Khổng Minh bèn truyền :
    - Tử Long đem binh mai phục ở rừng Ô Lâm, chờ Tào Tháo chạy qua mà đánh. Dực Ðức thì dẫn binh qua sông chặn ngả Di Lăng, chờ mai có mưa, khi tạnh binh Tào sẽ tới đó thổi cơm thì ùa ra mà giết.
    My Chúc, My Phương và Lưu Phong dẫn thủy binh đi thuyền nhẹ theo dọc sông bắt bại binh và thâu khí giới .
    Khổng Minh nói với Lưu Kỳ :
    - Còn công tử phải đón ở Ngạn Khẩu, hễ binh Tào chạy qua thì ráng bắt cho hết để dùng sau này .
    Sau đó lại mời Huyền Ðức :
    - Chúa công nên tới Phàn Khẩu đêm nay coi Châu Du hành binh..."
    Như vậy ta có thể thấy kế hoạch của Chu Du là cực kỳ chặt trẽ, đánh hỏa công trên mặt nước kết hợp với những mũi thọc sâu để đốt kho lương, chặn quân tiếp viện ...
    Về phía Tào Tháo có lẽ là phần nào chủ quan, đắc ý với kế hoạch Đại thủy trại của mình, lại quá tin tưởng vào mật báo nên khi Hoàng Cái dẫn đội thuyền của mình kéo vào, mà đúng là lúc này gió Đông Nam đã bắt đầu thổi mà Tào Tháo vẫn không phòng bị gì hết. Khi được cảnh tỉnh của thuộc hạ là đội tầu của Hoàng Cái là trở quân lương mà sao tiến nhanh vậy? Tào tháo muốn cản lại cũng không kịp nữa rồi.
    Lúc này hàng trăm thuyền của Đông Ngô do Hoàng Cái dẫn đầu sồng sộc lao vào trại Tào, những chiếc đi đầu bốc lửa cháy ngùn ngụt, Hoàng Cái tay cầm dao nhảy múa mênh mông tìm Tào Tháo để giết... Các thuyền chiến của Tào Tháo được xích vào nhau bởi những dây xích sắt lớn nên không thể tách ra để tránh lửa được, cứ theo nhau bốc cháy, quân Tào người chết cháy, kẻ chết đâm rồi chết đuối như ong vỡ tổ... Tào Tháo may mắn được Trương Liêu ( có thể nói ông này là Tử Long của quân Tào) cứu xuống thuyền nhỏ rồi chạy vào bờ, lên đến bờ thì tình hình cũng không khá hơn nhiều. Trên bờ lửa cháy các nơi, chỗ nào cũng thấy quân Đông Ngô chạy ầm ầm, quân Tào thì rối rít chạy trốn. Trương Liêu cùng vài trăm quân kỵ hộ tống Tào Tháo vừa đánh vừa chạy? được một lúc họ gặp lũ tướng Tào như Hứa Chử, Lý Điển, Nhạc Tiến? ôm đầu máu phá vòng vây và theo LQT thì khi Tào Tháo được Tào Nhân đón ở Nam Quận ông ta chỉ còn 27 quân kỵ mã ( tất nhiên là không chết hết, nhưng quân bị tản mát về sau mới tập hợp lại được)
    Sau trận đánh
    Tào Tháo trao quyền cho Tào Nhân chấn giữ Nam Quận, Hạ Hầu Đôn giữ Tương Dương, Trương Liêu, Lý Điển, Nhạc Tiến giữ Hợp Phì còn bản thân vù về Hứa Đô nghỉ ngơi cho khỏe.
    Những trận đánh hậu Xích Bích ( chủ yếu là bộ chiến) vẫn tiếp tục diễn ra giữa Chu Du với Tào Nhân ở Nam Quận, Tôn Quyền với Trương Liêu, Lý Điển, Nhạc Tiến ở Hợp phì? ( chủ yếu các trận này là do Đông Ngô muốn khuếch trương thành quả của trận Xích Bích) nhưng trên bộ họ đã gặp những đối thủ khó nhằn, dù đánh bại được Tào Nhân nhưng Chu Du bị trúng phải tên tẩm độc ( sau sưng nhọt mà chết???), Tôn Quyền thì liên tiếp thua trận trước Trương Liêu. Cuối cùng người được Nam Quận và Kinh ?" Tương lại là Lưu Bị. Chi tiết này trong TQCDN của LQT có thể không chính xác, nhưng nếu vậy thì em không hiểu Lưu Bị đoạt Kinh, Tương bằng cách nào?
    http://s909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/?action=view¤t=Tam_Quoc_208.jpg
    Bản đồ Trung Quốc sau trận Xích Bích
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:56 ngày 20/10/2009
  5. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    bác viết bám theo tiểu thuyết quá
    Thời đó TQ chỉ có khoảng 40 triệu dân, Tào chỉ chiếm dc phía Bắc-Đông Bắc thì đào đâu ra gần 1 triệu quân mà tung vào 1 trận đánh dc!
    chỉ cần tham khảo Wiki là sẽ thấy khác rất xa với tiểu thuyết .
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Thời đó TQ chỉ có khoảng 40 triệu dân, Tào chỉ chiếm dc phía Bắc-Đông Bắc thì đào đâu ra gần 1 triệu quân mà tung vào 1 trận đánh dc!
    chỉ cần tham khảo Wiki là sẽ thấy khác rất xa với tiểu thuyết .
    [/QUOTE]
    ------------------------------------------------------------------------------------

    Hì hì thì TQCDN là tiểu thuyết Lịch Sử mà bác, em cũng không dám chắc 1 triệu quân là có thật, mà chỉ dám nói khả năng thôi.
    Còn thời phong kiến tàn bạo, các đại thủ lĩnh phong kiến bắt dân đi làm lính tuốt, nên số quân có thể là rất cao. Em ví dụ nha:
    Trong sách Đông Chu Liệt Quốc, hoặc Sử Ký - Tư Mã Thiên ( có tính chất lịch sử cao hơn TQCDN của LQT) Thời Chiến Quốc trong trận Trường Bình chỉ một nước Triệu ( loại nước vào hạng trung) huy động được hơn 40 vạn quân, số quân này bị tướng Tần là Bạch Khởi chôn sống hết
    Cũng theo những cuốn này khi nước Tần ( dù chưa thống nhất sáu nước) đã cử Vương Tiến cầm 60 vạn quân diệt nước Sở, và nước Sở mang 40 vạn quân do Hạng Yên thống lĩnh kháng cự.
    Trong Hán Sở tranh hùng sau trận Cự Lộc, Hạng Võ chôn sống hơn 20 vạn hàng binh Tần. Trong trận Bành Thành Lưu Bang huy động 50 vạn quân và thua tan tác trước 3 vạn của Hạng Võ
    Nước Đại Việt ta thời Trần, dân số có khoảng vài triệu (độ 3 -> 4 triệu ), nhưng theo em nhớ là cuốn lịch sử chống Nguyên-Mông nói, nhà Trần huy động 20 vạn quân cho chiến dịch phản công chống quân Nguyên xâm lược lần II, tỷ lệ lính/ dân cao hơn tỷ lệ của Tào Tháo nhiều
    (Miền Bắc của ta có 17 triệu dân mà công bố số liệt sỹ đến triệu đấy chứ bác)
    Nói chung em cũng chỉ nói 80 vạn là có cơ sở thôi, chứ như wiki từ 220.000 --> 240.000 thì có lẽ là hơi ít, mà sau chiến dịch này Tào Tháo phải mất một thời gian mới hồi phục được
    Mà Tào Tháo xuất phát từ Duyện Châu thuộc vùng Sơn Đông, chiếm Từ Châu của Lưu Bị/ Lã Bố, các châu phía Bắc ( Ung, Ký, Thanh, Tứ...) của Viên Thiệu, đất Hoài Nam của Viên Thuật, Kinh Tương của Lưu Biểu, nếu so với thời Chiến Quốc thì có thể nói Tào Tháo chiếm một phần nước Tần (Tràng An), nước Tam Tấn (đất của Viên Thiệu), nước Sở (đất của Lưu Biểu), nước Tề ( đất của Tào Tháo). Còn Tôn Quyền ở nước Ngô, Việt. Lưu Bị sau chiếm Tây Thục và 1 phần nhỏ nước Tần. Có thể nói rằng nếu chia thiên hạ của TQ thành 10 phần trước trận Xích Bích thì Tào Tháo phải chiếm 7 -> 8 phần
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/Xich_Bich_1.png
    Bản đồ trận Xích Bích
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/Tam_Quoc_208.jpg
    Bản đồ Trung Quốc sau khi xảy ra trận Xích Bích
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:18 ngày 20/10/2009
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Các Trận hải chiến nổi tiếng trong Lịch sử - thời Trung Đại ( Tiếp)
    Trận Bạch Đằng Giang năm 1288
    Nói đến các trận hải chiến nổi tiếng trong Lịch sử mà không nói đến trận Bạch Đằng Giang năm 1288 thì quả là không được, em xin giới thiệu với các bác trận này dựa trên nguồn tham khảo là quấn " Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc - Tác giả: Phan Huy Lê - Bùi Đăng Dũng... Do NXB Quân Đội Nhân Dân phát hành - phần số hóa do các bác bên Quansuvn thực hiện, nguồn http://www.quansuvn.net/index.php?topic=380.0 "
    Bối cảnh lịch sử
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/800px-Asia_1200ad.jpg
    Bản đồ thế giới trước khi có các cuộc chinh phạt của người Mông Cổ
    Vào khoảng những năm đầu của thế kỷ 13 người Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Đại hãn Thiết Mộc Chân bắt đầu giày xéo nhiều vùng đất trên xuốt dọc Châu Âu và Châu Á
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/800px-Gengis_Khan_empire-en_svg.png
    Bản đồ những hướng tấn công của người Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Thiết Mộc Chân
    Qua bản đồ trên ta có thể thấy được hướng tiến quân của quân Mông cổ sự chỉ huy của Thiết Mộc Chân, phía bắc họ đã tiến sát đến các vùng thuộc nước Nga cổ, phía Tây tiêu diệt vương quốc Bukhara Hồi giáo, rồi tiêu diệt Tây Hạ, phía Nam liên tục tấn công thủ đô Bắc Kinh của nhà Kim - Nữ Chân, phía Đông xâm lược Triều Tiên... Năm 1227 sau cái chết của Thiết Mộc Chân ( có thể là do ngã ngựa?) các con cháu của ông ta tiếp tục một cách thành công hơn nữa trong công cuộc chinh phạt thế giới.
    Đến đời của Đại Hãn Mong Kha ( 1208 -> 1259), cháu nội của Thiết Mộc Chân, thì quân Mông Cổ rùng rùng kéo xuống xâm lược nước Nam Tống. Vào năm 1258 Mông Kha cùng em trai là Hốt Tất Liệt ( Quibilai) và thuộc tướng là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai) chia quân thành ba cánh Bắc, Tây và Nam xâm lược Nam Tống. Trong đó cánh quân của Ngột Lương Hợp Thai là đánh xuyên qua nước Đại Lý vào nước Đại Việt ta để tấn công vào phía Nam của nước Nam Tống. Và như vậy vua tôi nhà Trần cùng toàn thể dân chúng nước Đại Việt phải đối đầu với một kẻ thù hung hãng và thiện chiến nhất trong lịch sử kể từ thời dựng nước.
    Tóm tắt về cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần I
    Lần thứ nhất Mông Cổ tấn công Đại Việt là vào tháng 1 năm 1258. Từ Đại Lý (nay là Vân Nam, Trung Quốc). Ngột Lương Hợp Thai dẫn quân Mông Cổ và Đại Lý dọc theo sông Hồng vào Đại Việt. Đích thân Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông dẫn quân lên nghênh địch tại Bình Lệ Nguyên (nay là khoảng Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Quân Mông Cổ ( khoảng 3 vạn kể cả quân người Mông Cổ lẫn Đại Lý mới tuyển) dễ dàng đánh tan quân Đại Việt vì quân ta thất lợi trong kiểu đánh dàn trận với quân Mông Cổ, đại tướng Lê Tần phải chiến đấu lăn xả mới cứu được các vua Trần chạy thoát. Trận tiếp theo diễn ra tại Phù Lỗ (bên sông Cà Lồ). Quân Đại Việt lại bị đánh bại. Triều đình nhà Trần phải sơ tán khỏi kinh đô. Quân Mông Cổ dù chiếm được Thăng Long, nhưng gặp phải khó khăn về lương thực.
    Chỉ 10 ngày sau khi rút khỏi Thăng Long, hai vua Trần lại dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu (nay là khoảng quận Ba Đình, Hà Nội). Quân Mông Cổ lập tức bỏ thành Thăng Long rút lui về nước, cũng bằng con đường dọc theo sông Hồng. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ đã bị lực lượng các dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc do Hà Bổng chỉ huy tập kích.
    Toàn bộ cuộc chiến lần thứ nhất chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, với chỉ khoảng 3-4 trận đánh lớn. Sau thất bại tại Đại Việt, quân Mông Cổ phải tìm đường khác để tấn công Tống từ phía Nam.
    Bản đồ của cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần I
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/800px-Chongquannguyenlan1.jpg
    Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần II
    27 năm sau, Hốt Tất Liệt lúc này đã hoàn tất công việc chinh phục Nam Tống và lên ngôi lấy hiệu là Nguyên Thế Tổ ( nên quân Mông Cổ sang xâm lược Đại Việt từ thời kỳ này đổ đi đều được gọi là quân Nguyên Mông)ra lệnh chinh phạt Đại Việt. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng 4 tháng từ cuối tháng Chạp năm Giáp Thân đến cuối tháng Tư năm Ất Dậu (cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm 1285 dương lịch). Lần này, quân Nguyên chuẩn bị chiến tranh tốt hơn, huy động lực lượng lớn hơn. Ngoài lục quân (khoảng 50 vạn ?" theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư) từ phía Bắc, qua hướng Lạng Sơn do con trai ông ta là Hoát Hoan chỉ huy tiến xuống, và cánh quân từ Vân Nam tiến sang, còn có thủy quân từ mặt trận Chiêm Thành ( khoảng 15 nghìn quân và 200 chiến thuyền) do đại tướng Toa Đô ở phía Nam kéo về.
    Cũng tương tự như lần thứ nhất, quân Nguyên mau chóng giành thắng lợi. Quân Đại Việt liên tục bị đánh bại ở các mặt trận Lạng Sơn, Sơn Động, Vạn Kiếp, Thu Vật (Yên Bình), sông Đuống. Từ phía Bắc, chỉ khoảng 20 ngày sau khi vượt qua biên giới, quân Nguyên đã chiếm được thành Thăng Long. Triều đình nhà Trần rút lui theo sông Hồng về Thiên Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình), chịu sự truy kích ráo riết của quân Nguyên. Mọi nỗ lực phản kích của các vua Trần dọc theo sông Hồng đều bị quân Nguyên đánh bại. Từ phía Nam, Toa Đô dẫn quân từ Chiêm Thành lên dễ dàng đánh tan quân Đại Việt tại vùng Nghệ An-Thanh Hóa. Bị ép cả trước lẫn sau, các vua Trần phải rút ra biển lên vùng Quảng Ninh, đợi đến khi cánh quân Nguyên phía Nam đi qua Thanh Hóa mới lui về Thanh Hóa.
    Cũng giống như lần trước, quân Nguyên lại gặp khó khăn về lương thực, cỏ ngựa, khí hậu và bệnh tật? và trở nên mệt mỏi . Trong khi đó, quân Đại Việt đã nhanh chóng chấn chỉnh đội ngũ. Khoảng gần 2 tháng sau khi rút về Thanh Hóa, Đại Việt phản công. Dọc theo sông Hồng, quân Đại Việt lần lượt giành thắng lợi tại cửa Hàm Tử (nay ở Khoái Châu, Hưng Yên), bến Chương Dương (nay ở Thượng Phúc, thuộc Thường Tín, Hà Nội), giải phóng Thăng Long.
    Cánh quân phía Bắc của quân Nguyên trên đường rút chạy đã bị tập kích tại sông Cầu, tại Vạn Kiếp, Vĩnh Bình. Cánh quân rút về Vân Nam bị tập kích tại Phù Ninh. Cánh quân phía Nam bị tiêu diệt hoàn toàn tại Tây Kết (Khoái Châu).
    Bản đồ của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông Cổ lần II
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/385px-Chongquannguyenlan2.jpg
    Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần III
    Hai lần xâm lược, hai lần bị thất bại thảm hại, Hốt Tất Liệt càng tức tối muốn tổ chức ngay cuộc xâm lược lần thứ ba. Ông ta bãi bỏ kế hoạch đánh Nhật Bản đã được chuẩn bị từ trước và dồn sức cho cuộc viễn chinh lần này.
    Rút kinh nghiệm từ với hai lần trước , trong lần xâm lược thứ ba, ngoài bộ binh (bao gồm cả kỵ binh ), nhà Nguyên còn dùng một lực lượng thủy binh khá mạnh và mang theo lương thực đầy đủ. Vào cuối năm 1287 ( tức là chỉ 2 năm sau lần xâm lược thứ 2) hàng năm chục vạn quân (Đại Việt sù ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, tập II, trang 58-60) đượ chia thành ba đạo ồ ạt tiến vào nước ta:
    - Đạo quân do Thoát Hoan chỉ huy chiếm phần lớn quân số, theo đường Lạng Sơn tiến vào.
    - Đạo quân do Ái Lỗ Xích chỉ huy từ Vân Nam theo sông Hồng tiến xuống.
    - Đạo thủy quân do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy với hơn 600 chiến thuyền với khoảng 6 vạn thủy binh từ Quảng Đông (Trung Quốc) theo sông Bạch Đằng tiến vào rồi hội quân ở Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương).
    Ngoài ra, có các đội thuyền vận tải do Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn cầm đầu chở 70 vạn hộc lương theo sau.
    Về kế hoạch đối phó của nước Đại Việt, chặn đánh hướng tấn công chính của quân Nguyên sẽ do đích thân Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương chỉ huy đánh chặn, cánh quân tiến qua ngả Vân Nam cho Tướng Trần Nhật Duật chỉ huy đánh chặn và cánh quân thủy của Ômã nhi do tướng Trần Khánh Dư đánh chặn ngay tại Ngọc Sơn (mũi Ngọc, Móng Cái, Quảng Ninh), An Bang (Quảng Yên, Quảng Ninh)
    Theo kế hoạch này các cánh quân bộ của Đại Việt sau một số trận giao chiến từ từ rút quân cho quân Nguyên tràn vào nước ta, nhưng cánh quân thủy của tướng Trần Khánh Dư phải bằng mọi cách ngăn chặn không cho Ô Mã Nhi vượt qua và tiến vào hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp. Nhưng trên thực tế do một nguyên nhân nào đó Trần Khánh Dư đã không thực hiện được nhiệm vụ này ( có thể là binh lực không đủ mạnh ???)
    Trận Vạn Kiếp
    Khác với lần trước, lần này nhà Trần không đặt trọng binh để giữ Vạn Kiếp, nên không có những trận đánh giữ dội xảy ra, sau một vài trận đánh lẻ tẻ vào đầu tháng 1 năm 1288 Thoát Hoan tiến vào Vạn Kiếp và hội binh với thủy quân của Ô Mã Nhi, ông ta cho quân lính xây dựng căn cứ để chiếm đóng lâu dài tại đây. Đến cuối tháng 1 sau khi nhận được tin cánh quân tiến từ Vân Nam đã đến sát thành Thăng Long, Thoát Hoan ra lệnh tiến lên hợp binh và tổng công phá thành Thăng Long.
    Trận thành Thăng Long
    Cuối tháng 1, quân Nguyên bắt đầu tiến đánh Thăng Long. Cánh quân Vân Nam của Aruq gặp đại quân Thoát Hoan ở bên bờ sông Hồng gần Thăng Long.
    Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi truy đuổi các vua Trần. Ô Mã Nhi sai bắn tin với vua Trần rằng: "Ngươi chạy lên trời ta theo lên trời, ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước".
    Trần Quốc Tuấn rút về kinh thành, sai tướng rước vua Trần lui xuống hạ lưu sông Hồng rồi theo cửa Giao Thủy đi ra biển vòng lên Tháp Sơn (Đồ Sơn). Sau đó bị cánh quân Nguyên của Ô Mã Nhi đuổi quá gấp, thượng hoàng Thánh Tông và Nhân Tông phải xuống thuyền vào Thanh Hóa. Ô Mã Nhi mang vài chục thuyền và ít lương đuổi gấp theo, nhưng nghe tin có Lê Phụ Trần và Trần Quốc Toản cầm một đạo thuỷ quân lớn đã phòng ở Thanh Hoá, liệu thế không đánh nổi đành quay trở lại. Qua Long Hưng, Ô Mã Nhi bực tức sai phá lăng Trần Thái Tông.
    Ngày 2 tháng 2 năm 1288, quân Nguyên bắt đầu đánh thành. Trần Quốc Tuấn dàn quân cố thủ. Quân Trần nấp trong thành bắn tên đạn ra. Quân Nguyên bao vây tấn công vài lần không có kết quả. Trần Quốc Tuấn sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Trần thường ẩn nấp khó phát hiện ra.
    Trận Vân Đồn
    Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp vốn được giao cầm quân thuỷ mở đường cho đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn theo sau. Sau khi đánh lui được quân Trần, Ô Mã Nhi cho rằng thế quân Trần yếu không đáng lo ?" hoặc thấy là phới nhanh cho an toàn, ông ta bèn tiến sâu vào nội địa để hội binh với Thoát Hoan và truy đuổi vua Trần.
    Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư được giao trấn giữ đường biển nhưng để quân Nguyên đi qua, bị thượng hoàng Thánh Tông sai sứ hỏi tội. Khánh Dư xin khất vài ngày để chuộc tội.
    Đầu năm 1288, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ kéo đến Vân Đồn, bị quân Trần Khánh Dư tập kích. Không có quân chủ lực bảo vệ, quân của Trương Vân Hổ mau chóng bị tiêu diệt. Văn Hổ cố gắng kéo vào đất liền nhưng đến Lục Thuỷ thì thuyền quân Trần đổ ra đánh càng đông. Hổ đại bại, đổ cả thóc xuống biển mà chạy, rồi bỏ chạy về Quỳnh châu.
    Thuyền lương của Phí Củng Thìn kéo theo sau, mới đến Huệ châu đã gặp bão, trôi giạt tới Quỳnh châu. Đoàn thuyền lương do Từ Khánh chỉ huy thì đi lạc tới Chiêm Thành rồi quay trở lại Quảng Đông. Như vậy, các thuyền lương của quân Nguyên mất hoàn toàn.
    Rút quân về Vạn Kiếp
    Thấy rằng thành Thăng Long chỉ là một toàn thành rỗng, mà đại binh lại vừa thiếu lương vừa liên tục bị phục kích đánh tỉa, Ô Mã Nhi được sai đi đón không được đoàn thuyền lương, Thoát Hoan ra lệnh rút khỏi Thăng Long quay về Vạn Kiếp.
    Tại Vạn Kiếp vẫn phải chịu đựng cảnh thiếu lương thảo, lại bị quân dân nhà Trần liên tục quấy nhiễu, và thấy tương lai mờ mịt của một cuộc chiến không lối thoát, Thoát Hoan muốn rút đại quân về nước khi còn khá nguyên vẹn, và vẫn còn cơ hội để rút chạy.
    Kế Hoạch rút quân của Thoát Hoan
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:44 ngày 21/10/2009
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Kế Hoạch rút quân của Thoát Hoan
    Như đã nói ở phần trước, do thiếu thốn về lương thực, bị quân dân nhà Trần quấy nhiễu, thất baị trong việc lùng bắt các nhà Trần -- > cuộc chiến bế tắc, và có lẽ là đã biết tin đoàn thuyền lương thảo của Trương Văn Hổ, Lý củng Thìn đã bị tiêu diệt, Thoát Hoan tìm cách rút quân. Theo kế hoạch của ông ta thì toàn bộ đại quân bộ binh, kỵ binh sẽ rút theo ngả Lạng Sơn về nước còn đạo thủy quân rút lui qua ngả cửa sông Bạch Đằng để quay về. Kế hoạch này bị các tướng lĩnh thủy quân phản đối kịch liệt, họ muốn đốt thuyền để đi cùng đại binh quay về. Nhưng Thoát Hoan đã không đồng ý như vậy, nguyên nhân có thể do:
    - Nếu đốt cháy hàng trăm chiến thuyền mà không chiến đấu có lẽ ông ta sẽ phải chịu tội lớn với vua cha khi quay về nước.
    - Việc làm này quá là làm mất uy danh và thể diện của nhà Nguyên.
    - Ông ta vẫn muốn có đội thủy quân để có thể phục thù trong lần xâm lược sau nữa.
    - Rút về đường biển là quá nguy hiểm, nhưng xét cho cùng thì người phải chịu nguy hiểm là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và lực lượng thủy quân chứ có phải là ông ta đâu.
    Có thể là do một lý do nào đó Thoát Hoan không đồng ý cho thủy quân Nguyên đốt thuyền và rút về bằng đường bộ, nhưng ông ta đồng ý cử Trịnh Bằng Phi dẫn 1 đạo kỵ binh lớn đi men theo để hộ tống cho đạo thủy quân, có lẽ là hộ tống cho họ đến khi qua khỏi của sông Bạch Đằng và chỉ khi thủy quân đã rút lui an toàn thì bộ quân mới rút lui.
    Chiến thuật của quân và dân Đại Việt để đối phó với kế hoạch rút quân của Thoát Hoan
    Quyết tâm của Trần Quốc Tuấn và quân dân ta là tiêu diệt tới mức tối đa cả hai đạo quân địch, không cho chúng thoát khỏi những đòn phản công quyết liệt. Nhưng rõ ràng quân ta không đủ lực lượng để đồng thời bố trí hai trận đánh lớn trên hai hướng rút lui tiêu diệt gọn hai đạo quân thủy bộ của địch.
    Nếu ta tập trung lực lượng tiêu diệt đạo quân bộ thì đạo quân thủy rút lui trước sẽ thoát khỏi đòn trừng phạt của quân dân ta. Hơn nữa, tiến công đạo quân bộ là đánh vào chỗ mạnh, chỗ sở trường của địch. Đạo quân này tập trung phần lớn lực lượng viễn chinh của địch, gồm hàng chục vạn quân, chưa bị suy suyển gì mấy trên đất nước ta.
    Với tư tưởng ?ogiặc cậy trường trận ta cậy đoản binh, lấy đoản chế trường", Trần Quốc Tuấn chủ trương trước hết tập trung lực lượng tiêu diệt thật gọn, thật nhanh đạo quân thủy của địch. Quân ta có đủ khả năng thực hiện một trận quyết chiến chiến lược như vậy. Đạo quân thủy bị tiêu diệt sẽ tác động mạnh mẽ đến tinh thần của đạo quân bộ rút lui sau.
    Chọn đạo quân thủy của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm đối tượng quyết chiến trước hết và chủ yếu là kết quả của sự xét đoán, phân tích rất chính xác, khoa học của vị thống soái thiên tài Trần Quốc Tuấn. Đánh vào đạo quân thủy là phát huy chỗ mạnh của ta, đánh vào chỗ yếu của địch, là gây chấn động mạnh đến tâm lý, tinh thần của đạo quân bộ, tạo điều kiện đề quân dân ta thừa thắng xốc tới tiêu diệt tiếp đạo bộ quân còn lại.
    Những bước chuẩn bị đầu tiên cho trận Bạch Đằng
    Từ Vạn Kiếp ra biển về nước đạo quân thủy của địch nhất định phải đi qua dòng sông Bạch Đằng. Trần Quốc Tuấn quyết định chọn sông Bạch Đằng làm trận địa quyết chiến tiêu diệt đạo quân địch rút lui theo đường thủy. Vào những ngày tháng 3 năm 1288, vị quốc công tiết chế lão luyện và mưu lược của quân dân ta đời Trần đã về vùng Bạch Đằng trực tiếp nghiên cứu địa hình và đích thân bài binh bố trận.
    Nước sông Bạch Đằng hàng ngày theo thủy triều lên xuống. Khi triều lên cao, mặt sông Ở vùng Tràng Kênh trải rộng hơn 1.200 mét. Dòng sông đã rộng lại sâu. Khi triều xuống nước rặc, nơi sâu nhất đến 16 mét, trung bình giữa dòng cũng sâu từ 8 mét đến 11 mét (Theo bản đồ của Cục phòng thủ bờ biển năm 1956, tỷ lệ 1/69.400).
    Theo sông Đá Bạc chảy xuống đến đầu dãy núi Tràng Kênh, sông Bạch Đằng phình to hẳn ra. Đó là nơi tập trung các dòng nước của các sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Gia Đước, sông Thải, sông Giá bên hữu ngạn đổ về. Sông Chanh, sông Kênh (cửa sông này ngày nay đã bị lấp) và sông Rút (còn gọi là sông Nam) là chi lưu bên tả ngạn Bạch Đằng chia bớt nước chảy ra Vịnh Hạ Long (Theo sự nghiên cứu về địa mạo thì sông Chanh, sông Kênh, sông Rút xưa kia là lạch thoát triều của sông Bạch Đằng. Hiện nay, vùng này phù sa đang bồi thêm. Vì thế sông Kênh chảy qua vùng Đồng Cốc (thuộc Yên Hưng) đang bị lấp cạn, cửa sông hiện nay chỉ còn vết trũng sâu mà nhân dân địa phương gọi là lũng Mắt Rồng sát bờ đê sông Bạch Đằng). Một khúc sông không dài quá 5 ki-lô-mét mà có 5 dòng nước đổ về và có 3 nhánh sông phụ đưa nước ra biển. Đó là hình thế của thượng lưu Bạch Đằng.
    Ở lòng sông Bạch Đằng, từ bên hữu ngạn (thuộc xã Phục Lễ, Thủy Nguyên) có một cồn đá ngầm chạy qua đến quãng giữa cửa sông Chanh và sông Rút. Nhân dân địa phương gọi đó là ghềnh Cốc. Ghềnh Cốc có 5 cồn đá chắn ngang gần 3 phần 4 sông. Khi triều xuống thấp nhất, cồn cạn chỉ cách mặt nước 0,40 mét, cồn sâu cách 3,70 mét, thuyền đi nhẹ trên sông có thể thấy được những cồn đá (Thời pháp thống trị, chúng đà đào sâu những cồn đá bên tả ngạn, đặt cột đèn tín hiệu cho tàu thuyền qua lại lưu ý. Khi nước xuống thấp, tàu thuyền qua đây không đi vào lạch sâu thường bị va vào đá và bị đắm). Ghềnh Cốc cấu tạo bằng đế gốc do chân núi đá Tràng Kênh kéo dài ra.
    Ghềnh Cốc án ngữ ngang sông là một chướng ngại thiên nhiên của sông Bạch Đằng. Khi trời mưa to, gió lộng, thuyền qua lại thường gặp nguy hiểm. Chính vì thế nên trước đây thuyền xuôi Bạch Đằng ra biển gặp khi triều xuống thường phải rẽ theo đường sông Chanh mà ít qua ghềnh Cốc ra cứa Nam Triệu. Sông Chanh, chi lưu lớn của sông Bạch Đằng, chảy qua huyện Yên Hưng, là đường ngắn nhất và là tuyến giao thông đường thuỷ quan trọng đi ra vịnh Hạ Long ở miền Đông Bắc. Khi chuẩn bị chiến trường, ghềnh Cốc đã khiến Trần Quốc Tuấn phải chú ý. ông đã lợi dụng địa hình thiên nhiên này, sử dụng ghềnh Cốc như là một chiến lũy ngầm, chặn địch lại, tạo điều kiện cho thuyền chiến của ta ngăn chặn con đường tháo chạy của địch ra cửa Nam Triệu.
    Các sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Giá, sông Thải, sông Gia Đước chạy bên các áng, len qua dãy núi là những nơi giấu quân và đường vận động thuận lợi của quân thủy. Những ngọn núi cao chắn tầm mắt địch. Áng núi và lạch sông là nơi có thể tập trung quân thủy bộ với khối lượng lớn, nơi giấu quân vững chắc và kín đáo, vị trí xuất kích bí mật và dễ dàng, từng đội thuyền ra vào nhẹ nhàng, nhanh chóng. Có thể nói đây là một trận địa mai phục lý tưởng của quân ta.
    Sau khi trực tiếp đi xem xét, nghiên cứu kỹ địa hình, Trần Quốc Tuấn đã chọn vùng thượng lưu sông Bạch Đằng làm trận địa quyết chiến thực hiện ý đồ chiến lược: chặn đứng và tiêu diệt toàn bộ đạo quân thủy của địch.
    Đoạn sông Bạch Đằng này, kể từ chỗ tiếp nước sông Đá Bạc cho đến ghềnh Cốc và cửa sông Kênh, sông Rút, dài khoảng hơn 5 ki-lô-mét. Lòng sông rộng trên dưới 1 ki-lô-mét. Đó là một đoạn sông đủ dài và rộng để dồn trên 600 thuyền chiến của địch lại mà tiêu diệt. Địa hình sông nước, núi rừng hai bên bờ hiểm trở, có đủ điều kiện để bố trí một trận địa mai phục lớn, phối hợp chặt chẽ thủy quân và quân bộ.
    Trần Quốc Tuấn chủ trương bao vây, tiêu diệt thật nhanh, gọn và triệt để đạo quân thủy của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp bằng một trận mai phục quy mô lớn trên thượng lưu sông Bạch Đằng. Cách chọn và bố trí trận địa chứng tỏ nghệ thuật lợi dụng địa hình tài giỏi và quyết tâm tiêu diệt địch cao độ của vị tổng chỉ huy lực lượng kháng chiến.
    Để bảo đảm thắng lợi thật giòn giã, oanh liệt, Trần Quốc Tuấn đã tập trung cho trận Bạch Đằng một lực lượng quân sự khá mạnh. Không có một tài liệu nào ghi chép cụ thể số lượng quân dân ta tham chiến trong trận Bạch Đằng. Nhưng do vị trí và ý nghĩa chiến lược của trận quyết chiến, chắc chắn Trần Quốc Tuấn đã tập trung về Bạch Đằng một bộ phận quan trọng quân đội chủ lực của triều đình kết hợp với quân đội của các vương hầu và lực lượng vũ trang của nhân dân.
    Trần Quốc Tuấn đã dùng đại bộ phận quân thủy bộ, bố trí thành một trận địa mai phục lớn ở thượng lưu sông Bạch Đằng. Đây là một trận thủy chiến nên thủy quân của ta giữ vai trò quan trọng. Một bộ phận thủy quân mạnh lợi dụng ghềnh Cốc và các bãi cọc nhọn được bố trí ở cửa sông Chanh, sông Kênh, sông Rút làm nhiệm vụ chặn đầu, bịt kín mọi lối tháo chạy của địch ra biển. Một bộ phận khác giấu quân trong các nhánh sông đổ ra thượng lưu sông Bạch Đằng và hạ lưu sông Đá Bạc làm nhiệm vụ khóa đuôi, dồn đoàn thuyền của địch vào trận địa quyết chiến. Một số thuyền chiến nữa mai phục sẵn trong sông Giá, sông Thải, sông Gia Đước và các nhánh sông bên hữu ngạn, bất ngờ đánh tạt ngang vào đội hình hành quân của đoàn thuyền chiến địch, dồn chúng về bên tả ngạn để rồi tiêu diệt trước bãi cọc. Nhiều bè nứa, thuyền nan chứa đầy củi khô tẩm các thứ nhựa và dầu cháy, cũng được chuẩn bị sẵn ở chân núi Tràng Kênh để bất ngờ lao vào đoàn thuyền giặc, thực hiện kế hoạch đánh hỏa công. Một đội thuyền chiến nhẹ của ta còn săn sàng khiêu chiến để nhử địch nhanh chóng lọt vào trận địa mai phục.
    Bộ binh của ta một phần mai phục ở núi Tràng Kênh để phối hợp với thủy binh chiếm giữ điểm cao lợi hại này và sẵn sàng đánh bật quân địch xuống sông nếu chúng dám liều lĩnh đổ bộ lên. Lực lượng mai phục ở Tràng Kênh do tướng Trần Quốc Bảo chỉ huy (Theo Đại Nam nhất thống chí, Gia phả họ Vũ Đình ở Minh Tân và di tích núi Hoàng Tôn). Đại bộ phận bộ binh bố trí mai phục trong những cánh rừng và bãi sú vẹt ven sông bên tả ngạn, nhiều nhất là ở vùng cửa sông Chanh, sông Kênh, sông Rút. Đây sẽ là nơi hàng trăm thuyền chiến của địch bị dồn lại và quân thủy bộ của ta phối hợp với nhau, đánh cả trên sông, trên bờ, tiêu diệt toàn bộ quân địch.
    Như vậy là một cạm bẫy lớn, hết sức lợi hại của quân dân ta đã được giương sẵn ở Bạch Đằng. Nhưng muốn cho trận địa mai phục phát huy hết tác dụng của nó thì một yêu cầu quan trọng là phải bảo đảm bí mật và phải làm sao dẫn dắt quân địch lọt vào cạm bẫy theo đúng đường và thời gian có lợi nhất cho ta.
    Trần Quốc Tuấn bố trí một lực lượng quân đội phối hợp với các đội dân binh địa phương đánh địch trên suốt đường rút lui của chúng từ Vạn Kiếp đến Bạch Đằng. Nhiệm vụ trước hết của lực lượng này là đánh lui đội kỵ binh hộ tống của Thoát Hoan đã cô lập hoàn toàn đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và để cho chúng không phát hiện đưược trận địa mai phục của ta ở hai bên bờ sông. Sau đó quân ta đánh kiềm chế để bảo đảm đưa quân địch vào trận địa quyết chiến sau khi ta đã chuẩn bị xong và đúng vào lúc nước triều bắt đầu xuống. Có như thế những trận đánh quyết liệt mới diễn ra vào lúc nước xuống thấp, và ghềnh Cốc cũng như những bãi cọc mới phát huy được tác dụng. Đây là một kế hoạch đánh kiềm chế và nhử địch rất phức tạp, khó khăn. Một bộ phận quân chủ lực do vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông chỉ huy phối hợp với dội dân binh của Nguyễn Xuân đóng ở núi Kính Chủ (Kinh Môn, Hải Dương) bên bờ sông Kinh Thầy, sẵn sàng hỗ trợ để bảo đảm thực hiện thắng lợi kế hoạch kiềm chế và nhử địch. Sau khi quân địch đã lọt vào trận địa mai phục ở Bạch Đằng thì đạo quân của hai vua Trần sẽ theo sông Kinh Thầy, Đá Bạc tiến xuống phối hợp với đại quân tiêu diệt đoàn thuyền địch trên trận địa quyết chiến.
    Cuối sông Kinh Thầy, đoàn thuyền địch có thể theo sông Đá Bạc ra thượng lưu sông Bạch Đằng, nhưng cũng có thể theo sông Giá men theo phía nam núi Tràng Kênh ra sông Bạch Đằng ở khoảng đối diện với cửa sông Chanh. Một lực lượng quân ta mai phục sẵn ở Trúc Động làm nhiệm vụ bịt đường sông Giá để buộc quân địch phải theo sông Đá Bạc dẫn thân vào trận địa mai phục của ta ở thượng lưu sông Bạch Đằng và để bảo vệ bí mật, an toàn cho lực lượng quân thủy bộ của ta mai phục ở cửa sông Giá và núi Tràng Kênh.
    Như trên đã nói, để bảo đảm cho thế trận bao vây địch được hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho bộ phận bố trí ở các cửa sông chặn đứng địch lại thì ngoài việc lợi dụng ghềnh Cốc như một chướng ngại tự nhiên, Trần Quốc Tuấn còn cho xây dựng ở các cửa sông những trận địa cọc lợi hại.
    Trong lịch sử giữ nước, trên dòng sông Bạch Đằng dã diễn ra nhiều chiến công lừng lẫy trong đó có hai lần quân dân ta đóng cọc gỗ xuống lòng sông để tạo thành bãi chướng ngại ngăn chặn thuyền địch. Lần thứ nhất trong cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán cuối năm 938 và lần thứ hai là năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên.
    Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Trước đây Vương (chỉ Trần Quốc Tuấn) đã đóng cọc ở sông Bạch Đằng phủ cỏ lên trên? (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. II , tr. 61). Cả trận địa cọc chỉ được ghi chép đơn sơ có từng ấy chữ. Tuy nhiên nó cũng cho ta thấy ý nghĩa quan trọng của hàng cọc trong trận quyết chiến này.
    Như phần trên đã nói, lòng sông Bạch Đằng rất rộng, rất sâu, khó có hàng cọc chắn ngang sông được. Ở ghềnh Cốc thì cạn hơn nhiều, nhưng là đá gốc kéo dài từ chân núi Tràng Kênh nên không thể nào cắm cọc xuống được. Mặt khác nước triều lên xuống mạnh, độ chênh lệch khá lớn. Lưu tốc nước là 0,20 mét - 0,86 mét/giây, độ lệch trung bình khi nước lên và xuống là 2,30 mét. Những số liệu trên cũng cho ta một ý niệm về sông nước Bạch Đằng đời Trần.
    Theo sông Bạch Đằng ra biển có thể xuôi thẳng ra cửa Nam Triệu hay chuyển sang các chi lưu là sông Chanh, sông Kênh, sông Rút ra biển. Khi nước triều xuống, ghềnh Cốc đã có giá trị như một bãi chướng ngại tự nhiên ngăn chặn con đường ra cửa Nam Triệu. Nhưng thuyền địch vẫn có thể chạy thoát theo sông Chanh, sông Rút. Những tài liệu khảo sát gần đây cho biết: các trận địa cọc của Trần Quốc Tuấn được bố trí nhằm chặn ngang qua các cửa sông này. Đó là những bãi cọc cửa sông Chanh, cửa sông Kênh, cửa sông Rút (Vùng Bạch Đằng có nhiều bãi cọc khác đóng ở ven sông. Bờ phải sông có bãi cọc tả ngạn sông Giá và áng Khinh, những bãi cọc ở Gia Đước. Bờ trái sông có những cọc gỗ ở xã Điền Công (Yên Hưng, Quảng Ninh), bãi cọc trong lòng sông Chanh hiện nay, bãi cọc ở bến đò Rừng xét về vị trí địa lý và chất liệu cọc thì đó hầu hết là vết tích cọc đáy của dân đánh cá hoặc cọc kè chân đê ven sông. Nhân dân địa phương cũng nói như vậy).
    Việc bố trí trận địa cọc được tiến hành khẩn cấp. Vào những ngày tháng 3 còn giá lạnh, quân dân Đại Việt đã đem hết sức mình, bí mật và nhanh chóng chuyển những cây go lim to lớn tập trung về ba cửa chi lưu. Cọc lim được lấy cách đấy không xa, Ở ngay cánh rừng Yên Hưng bên tả ngạn sông Bạch Đằng. Quân sĩ và nhân dân miền Đông Bắc đã về đây lao động khẩn trương hạ hàng ngàn cây lim, đục đẽo và tu sửa theo kích thước đã định.
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    bản đồ cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần III
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/300px-Chongquannguyenlan3.jpg
    Những bước chuẩn bị đầu tiên cho trận Bạch Đằng - tiếp
    Như vậy là một cạm bẫy lớn, hết sức lợi hại của quân dân ta đã được giương sẵn ở Bạch Đằng. Nhưng muốn cho trận địa mai phục phát huy hết tác dụng của nó thì một yêu cầu quan trọng là phải bảo đảm bí mật và phải làm sao dẫn dắt quân địch lọt vào cạm bẫy theo đúng đường và thời gian có lợi nhất cho ta.
    Trần Quốc Tuấn bố trí một lực lượng quân đội phối hợp với các đội dân binh địa phương đánh địch trên suốt đường rút lui của chúng từ Vạn Kiếp đến Bạch Đằng. Nhiệm vụ trước hết của lực lượng này là đánh lui đội kỵ binh hộ tống của Thoát Hoan đã cô lập hoàn toàn đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và để cho chúng không phát hiện đưược trận địa mai phục của ta ở hai bên bờ sông. Sau đó quân ta đánh kiềm chế để bảo đảm đưa quân địch vào trận địa quyết chiến sau khi ta đã chuẩn bị xong và đúng vào lúc nước triều bắt đầu xuống. Có như thế những trận đánh quyết liệt mới diễn ra vào lúc nước xuống thấp, và ghềnh Cốc cũng như những bãi cọc mới phát huy được tác dụng. Đây là một kế hoạch đánh kiềm chế và nhử địch rất phức tạp, khó khăn. Một bộ phận quân chủ lực do vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông chỉ huy phối hợp với dội dân binh của Nguyễn Xuân đóng ở núi Kính Chủ (Kinh Môn, Hải Dương) bên bờ sông Kinh Thầy, sẵn sàng hỗ trợ để bảo đảm thực hiện thắng lợi kế hoạch kiềm chế và nhử địch. Sau khi quân địch đã lọt vào trận địa mai phục ở Bạch Đằng thì đạo quân của hai vua Trần sẽ theo sông Kinh Thầy, Đá Bạc tiến xuống phối hợp với đại quân tiêu diệt đoàn thuyền địch trên trận địa quyết chiến.
    Cuối sông Kinh Thầy, đoàn thuyền địch có thể theo sông Đá Bạc ra thượng lưu sông Bạch Đằng, nhưng cũng có thể theo sông Giá men theo phía nam núi Tràng Kênh ra sông Bạch Đằng ở khoảng đối diện với cửa sông Chanh. Một lực lượng quân ta mai phục sẵn ở Trúc Động làm nhiệm vụ bịt đường sông Giá để buộc quân địch phải theo sông Đá Bạc dẫn thân vào trận địa mai phục của ta ở thượng lưu sông Bạch Đằng và để bảo vệ bí mật, an toàn cho lực lượng quân thủy bộ của ta mai phục ở cửa sông Giá và núi Tràng Kênh.
    Như trên đã nói, để bảo đảm cho thế trận bao vây địch được hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho bộ phận bố trí ở các cửa sông chặn đứng địch lại thì ngoài việc lợi dụng ghềnh Cốc như một chướng ngại tự nhiên, Trần Quốc Tuấn còn cho xây dựng ở các cửa sông những trận địa cọc lợi hại.
    Trong lịch sử giữ nước, trên dòng sông Bạch Đằng dã diễn ra nhiều chiến công lừng lẫy trong đó có hai lần quân dân ta đóng cọc gỗ xuống lòng sông để tạo thành bãi chướng ngại ngăn chặn thuyền địch. Lần thứ nhất trong cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán cuối năm 938 và lần thứ hai là năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên.
    Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Trước đây Vương (chỉ Trần Quốc Tuấn) đã đóng cọc ở sông Bạch Đằng phủ cỏ lên trên? (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. II , tr. 61). Cả trận địa cọc chỉ được ghi chép đơn sơ có từng ấy chữ. Tuy nhiên nó cũng cho ta thấy ý nghĩa quan trọng của hàng cọc trong trận quyết chiến này.
    Như phần trên đã nói, lòng sông Bạch Đằng rất rộng, rất sâu, khó có hàng cọc chắn ngang sông được. Ở ghềnh Cốc thì cạn hơn nhiều, nhưng là đá gốc kéo dài từ chân núi Tràng Kênh nên không thể nào cắm cọc xuống được. Mặt khác nước triều lên xuống mạnh, độ chênh lệch khá lớn. Lưu tốc nước là 0,20 mét - 0,86 mét/giây, độ lệch trung bình khi nước lên và xuống là 2,30 mét. Những số liệu trên cũng cho ta một ý niệm về sông nước Bạch Đằng đời Trần.
    Theo sông Bạch Đằng ra biển có thể xuôi thẳng ra cửa Nam Triệu hay chuyển sang các chi lưu là sông Chanh, sông Kênh, sông Rút ra biển. Khi nước triều xuống, ghềnh Cốc đã có giá trị như một bãi chướng ngại tự nhiên ngăn chặn con đường ra cửa Nam Triệu. Nhưng thuyền địch vẫn có thể chạy thoát theo sông Chanh, sông Rút. Những tài liệu khảo sát gần đây cho biết: các trận địa cọc của Trần Quốc Tuấn được bố trí nhằm chặn ngang qua các cửa sông này. Đó là những bãi cọc cửa sông Chanh, cửa sông Kênh, cửa sông Rút (Vùng Bạch Đằng có nhiều bãi cọc khác đóng ở ven sông. Bờ phải sông có bãi cọc tả ngạn sông Giá và áng Khinh, những bãi cọc ở Gia Đước. Bờ trái sông có những cọc gỗ ở xã Điền Công (Yên Hưng, Quảng Ninh), bãi cọc trong lòng sông Chanh hiện nay, bãi cọc ở bến đò Rừng xét về vị trí địa lý và chất liệu cọc thì đó hầu hết là vết tích cọc đáy của dân đánh cá hoặc cọc kè chân đê ven sông. Nhân dân địa phương cũng nói như vậy).
    Việc bố trí trận địa cọc được tiến hành khẩn cấp. Vào những ngày tháng 3 còn giá lạnh, quân dân Đại Việt đã đem hết sức mình, bí mật và nhanh chóng chuyển những cây go lim to lớn tập trung về ba cửa chi lưu. Cọc lim được lấy cách đấy không xa, Ở ngay cánh rừng Yên Hưng bên tả ngạn sông Bạch Đằng. Quân sĩ và nhân dân miền Đông Bắc đã về đây lao động khẩn trương hạ hàng ngàn cây lim, đục đẽo và tu sửa theo kích thước đã định.
    Bãi cọc chính nằm ở cửa sông Chanh sát liền với sông Bạch Đằng là bãi cọc Yên Giang. Hàng cọc đóng ngang qua sông Chanh theo hướng nam - bắc. Di tích của bãi cọc này đã được phát hiện và khai quật (Niên đại của bãi cọc Yên Giang hiện còn những khía cạnh cầu được nghiên cứu, xác minh thêm). Bãi cọc dài gần 120 mét, rộng 13 mét. Hầu hết các cọc đều to và vững chắc, có đường kính từ 20cm đến 30cm và dài từ 1,50 mét trở lên, phổ biến trên 2 mét. Những cọc đóng ở giữa lòng sông dài đến gần 3 mét. Khoảng cách giữa các cọc trung bình từ 0,90 mét đến 1,20 mét. Giữa các hàng cọc có nhiều khúc gỗ nằm ngang, có lẽ do quân ta cài để chặn thuyền giặc (Thời gian trôi qua đã gần 700 năm, địa hình bãi cọc với vùng xung quanh so với trước đã khác nhiều. Phù sa lớp lớp đổ vào đã lấp kín cọc. Nhưng từ bề mặt vùng này và nghiên cứu các lớp đất theo mặt cắt đứng thì thấy rõ thời bấy giờ bãi cọc còn nằm trong lòng sông Chanh sát liền với sông Bạch Đằng. Cho đến hiện nay, khi nước triều lên cao thì mặt đất trên bãi cọc lại thấp hơn mặt nước ngoài sông. Nếu bỏ đê quai bên tả ngạn sông Chanh, thì toàn bộ khu vực có bãi cọc bị chìm khá sâu trong nước).
    Bãi cọc ở sông Kênh (Bãi cọc ở cửa sông Kênh hiện nay đá bị phù sa lấp kín, ngập chìm trong cánh đồng Vạn Muối thôn Đồng Cốc bên tả ngạn sông Bạch Đằng), sông Rút nhỏ hơn, được cắm theo hướng nam - bắc ngang qua cửa sông. Cách bố trí hai bãi cọc này cũng giống như ở cửa sông Chanh. Các cọc lim được cắm đều thành hàng có kích thước lớn, đường kính từ 0,18 mét trở lên và chiều dài trung bình gần 2 mét (Dấu vết bãi cọc ở hai cửa sông Kênh, sông Rút không còn mấy).
    Cả ba bãi cọc phối hợp với nhau, kéo dài như một phòng tuyến ngầm, chặn ba cửa sông tức ba lối thoát từ sông Bạch Đằng ra biển. Các cọc cắm đều theo một kích thước chung như thế nào để khi triều lên thì nước ngập mênh mông, nhưng khi triều xuống thì bãi cọc nhô ra như những''''''''bãi chướng ngại chặn đứng đoàn thuyền địch.
    Chỉ trong một thời gian rất ngắn, sau trận càn quét của Ô Mã Nhi ở trại Yên Hưng ngày 22 tháng 3, trận địa cọc mới bắt đầu được bố trí. Thế mà không quá 20 ngày, sức lực và của cải của nhân dân ta đã dồn lại khắc phục khó khăn, gian khổ, hoàn thành trận địa cọc với hàng ngàn chiếc. Bãi cọc được tạo nên bằng trí tuệ và sức lực, bằng tinh thần yêu nước và ý chí quyết thắng của quân dân thời Trần. Đó là một biện pháp và hình thức chiến đấu độc đáo của tổ tiên ngày trước, là một sáng tạo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
    Cùng với việc chuẩn bị các trận địa cọc, chỉ trong một thời gian tương đối ngắn, quân dân ta đã khẩn trương và bí mật, nhanh chóng và cẩn thận tiến hành mọi việc chuẩn bị chiến trường. Tất cả đều mang hết sức lực trí tuệ, của cải, cố sức làm gấp mọi công việc chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa quyết định toàn cuộc chiến tranh.
    Trước khi đạo thủy quân Ô Mã Nhi kéo đến cửa sông Bạch Đằng, mọi công việc đã hoàn thành tốt đẹp. Quân dân ta đã sẵn sàng trong tư thế chiến đấu và chiến thắng.
    Đánh chặn đạo kỵ binh của Trình Bằng Phi và trận Trúc Động
    Cuối tháng 3 năm 1288, từ căn cứ Vạn Kiếp, Thoát Hoan cho đạo thủy quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp rút lui trước. Trên bờ có đội kỵ binh hộ tống do hữu thừa Trình Bằng Phi và thiên tỉnh Đạt Truật chỉ huy. Dọc đường hành quân của kỵ binh giặc (có thể là đường quốc lộ 18 qua Đông Triều hiện nay), quân dân ta theo kế hoạch đã đề ra, khẩn trương phá hủy cầu đường, bố trí quân mai phục chuẩn bị đón đánh làm chậm bưước đi rồi buộc chúng phải quay trở lại Vạn Kiếp, tách rời đội kỵ binh khỏi đạo binh thuyền.
    Cầu bị phá, đường bị chặt từng đoạn, lại bị đón đánh liên tục, đội kỵ binh của địch hành quân rất khó khăn, chậm chạp. Ngày 4, đến chợ Đông Triều, không qua được sông, chúng rất sợ quân ta tập kích. Ngay đêm hôm đó, chúng tìm đường quay trở lại. Nhưng sợ đi đường cũ sẽ bị quân ta tiêu diệt nên bọn chỉ huy Trình Bằng Phi, Đạt Truật tìm đường tắt trở về Vạn Kiếp để kịp thời theo Thoát Hoan rút chạy về nước, mặc cho đoàn thuyền Ô Mã Nhi rút lui một mình trên sông nước, không có kỵ binh hộ tống và yểm hộ.
    Sự kiện trên không có trong chính sử cũ của ta mà chỉ dược ghi trong An Nam chí lược của Lê Trắc (tên Việt gian đương thời đầu hàng quân Nguyên). Mặc dầu còn quá sơ lược không cho ta biết rõ diễn biến cụ thể của những trận đánh chặn địch, song điều ghi chép của Lê Trắc cũng nói lên nghệ thuật tài tình của quân dân ta: không tốn sức nhiều mà cả đội kỵ binh địch mới đi được hơn vài mươi dặm đã phải quay trở lại, bỏ mặc cả đạo binh thuyền Ô Mã Nhi đang chật vật trên dòng sông, nguy hiểm và cô lập: Thắng lợi của những trận đánh chặn địch từ Vạn Kiếp đến Đông Triều là đã tách rời đoàn thuyền Ô Mã Nhi khỏi đội kỵ binh hộ tống, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho chiến thắng Bạch Đằng sau đó.

    Sơ đồ trận Bạch Đằng
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/Bach_Dang.jpg
    Ngày 30 tháng 3, đạo binh thuyền Ô Mã Nhi từ Vạn Kiếp rút quân. Chúng đi rất chật vật. Từ ngày bước chân vào Đại Việt, đạo binh thuyền này phải đánh nhau gần như liên tục ở An Quảng, Đại Bàng, Tháp Sơn và nhiều lần bị thất bại nặng nề. Quân lính mệt mỏi, bọn chỉ huy hoang mang lo lắng. Đấy là cuộc rút quân trong thế thất bại, đầy tối tăm mù mịt.
    Dọc đường từ Vạn Kiếp qua sông Kinh Thầy, quân dân ta đã bố trí nhiều trận đánh tiêu hao địch. Quân chủ lực dưới quyền chỉ huy trực tiếp của hai vua Trần phối hợp với dân binh ở vùng Hiệp Môn (Kinh Môn, Hải Hưng) do Nguyễn Xuân chỉ huy, mở nhiều trận đánh kìm hãm bước tiến của địch (Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Hải Dương) ghi rõ Trần Nhân Tông trú quân ở núi Dương Nham đánh quân Nguyên). Chúng đi rất chậm chạp, phải ?ogiao chiến ngày ngày qua ngày khác? (Nguyên sử, q. 166, Trương Ngọc truyện).
    Ngày 8 tháng 4, đội tiền vệ của địch do tướng Lưu Khuê chỉ huy đến đầu sông Giá. Chúng muốn thăm dò lực lượng quân ta và tìm đường rút lui an toàn, theo sông Giá ra Bạch Đàng.
    Đến Trúc Động, Lưu Khuê bị quân ta đón đánh (Trúc Động nay là một thôn thuộc xã Lưu Kiếm, trước kia là một tổng lớn gồm cả Liên Khê và Lưu Kiếm). Trúc Động có rừng núi hiểm trở, có sông Đá Bạc và sông Giá bao quanh, lại sát liền với dãy Tràng Kênh. Chính Trần Quốc Tuấn đã qua đây quan sát địa hình. Khi rút khỏi Vạn Kiếp, rời kinh thành Thăng Long, một bộ phận quân Trần đã về Trúc Động đóng giữ. Hai tháng trước, Ô Mã Nhi và A Bát Xích đã bị đánh ở đây.
    Trận Trúc Động là một trận phục kích diễn ra vào lúc ban đêm. Theo truyền thuyết địa phương thì trong trận này, quân ta tuy ít nhưng tìm cách nghi binh vừa chặn đánh vừa hư trương thanh thế lừa địch. Kế hoạch nghi binh được chuẩn bị chu đáo và thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú. Trước đó, mỗi gia đình nộp cho quân đội nhiều mo cau có trát cơm và các bè chuối. Khi được tin giặc sắp kéo đến, quân ta đóng trên núi đã thay đổi quần áo và cờ lệnh năm lần với năm màu sắc khác nhau, lại thả rất nhiều mo cau và thân chuối trôi đầy sông. Đêm tối, đèn đuốc đốt sáng, chiêng trống rộn rịp. Đồng thời quân ta lại chẹn đánh phía trước và hai bên, tên bắn xuống như mưa gây nhiều thiệt hại cho địch. Địch tưởng quân ta đông, bố trí mai phục nhiều, rất hoang mang lo sợ.
    Trận Trúc Động là trận chặn địch bảo vệ cho trận địa Bạch Đằng. Trần Quốc Tuấn không cho địch lọt qua sông Giá. Vì nếu địch qua sông này thì lực lượng và trận địa bố trí của ta ắt bị lộ, thế chủ động bất ngờ sẽ không còn nữa. Mặt khác, quân ta còn phải kiềm chế không cho chúng tiến vào sông Bạch Đằng quá sớm, không đúng với thời gian đã định.
    Trải qua một ngày đêm chiến đấu, mưu trí và linh hoạt, quân dân Trúc Động đã đánh cho đội tiền vệ Lưu Khuê bị thất bại hoàn toàn, số lớn bị tiêu diệt. Chúng phải quay lại, theo dòng Đá Bạc xuôi xuống cùng đoàn thuyền Ô Mã Nhi .
    Thắng lợi Trúc Động đã bảo vệ an toàn lực lượng của ta bố trí trên sông Giá, sông Thải và các dãy núi hai bên. Thắng lợi đó còn bảo đảm được bí mật của trận địa Bạch Đằng và buộc địch phải hành quân theo đúng đường và đúng thời gian đã quy định
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:32 ngày 22/10/2009
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Vào trận đánh chính
    Mờ sáng ngày 9 tháng 4 năm 1288, tức mùng tám tháng ba năm Mậu Tý, đoàn thuyền chiến Ô Mã Nhi xuôi Đá Bạc tiến xuống sông Bạch Đằng. Đội tiền quân do tham chính Phàn Tiếp chỉ huy đi đầu. Lúc đó, nước triều vẫn còn mênh mông.
    Ngày 9 đúng vào độ nước cường, triều dâng cao và lên xuống mạnh. Dự tính về con nước triều cao nhất vào nửa đêm hôm trước, 8 tháng 4, là 3,20m và thấp nhất là 0,90m vào buổi trưa ngày sau. Như vậy, độ chênh lệch là 2,30m. Triều xuống mạnh nhất vào gần trưa, nước có thể rút 0,30m trong 1 giờ, chảy xiết (Nguyễn Ngọc Thúy, bài Về con nước triều trong trận Bạch Đằng 1288, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 63, tháng 6-1964.).
    Trên các mỏm núi, trong các nhánh sông, các chiến sĩ ta đã chỉnh tề cung tên, gươm giáo chờ lúc nước triều xuống mạnh và đoàn binh thuyền Ô Mã Nhi lọt vào sông Bạch Đàng mới đổ ra quyết chiến.
    Nước triều xuống mạnh, cuộc chiến đấu bắt đầu.
    Trần Quốc Tuấn cho "một đội thuyền khiêu chiến, rồi giả cách thua chạy" (Đại việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, t. II, tr. 61). Giặc đuổi theo, đội thuyền đi đầu của Phàn Tiếp tiến lên phía trước.
    Nước triều xuống mạnh hơn. Từ các nhánh sông, những đội thuyền nhẹ của ta vun vút lao ra đánh tạt sườn đội tiền quân địch, gây cho chúng những thiệt hại đầu tiên. Bị nhiều đợt đột kích vào sườn, đội hình thuyền địch trở nên lộn xộn. Chúng lúng túng không sao tiến nhanh đuợc nữa. Thế địch dưới sông càng trở nên bất lợi. Phàn Tiếp vội vàng đưa thuyền áp sát vào phía Tràng Kênh và thúc quân đổ lên bờ "chiếm lấy núi cao"(An Nam chí lược, q. 4, sách đã dẫn). Chúng muốn giành lấy điểm cao để chống lại quân ta, hỗ trợ cho trung quân và hậu quân chúng rút lui an toàn.
    Địch đã lọt vào trận địa mai phục của ta. Trống lệnh nổi liên hồi, cờ hiệu bay phấp phới. Bộ phận quân ta phục sẵn ở các áng núi Tràng Kênh gồm cả quân chủ lực và dân binh d¬ưới quyền chỉ huy của Trần Quốc Bảo - liền xông ra quyết chiến. Từ trên núi, quân ta đánh hất địch xuống hết đợt này đến đợt khác, quyết không cho địch chiếm núi.
    Bấy giờ đại quân địch do Ô Mã Nhi thống lĩnh cũng vừa đổ vào sông Bạch Đằng. Những thuyền chiến Quảng Đông to lớn, đóng toàn bằng gỗ tốt, nặng nề trôi về hướng ghềnh Cốc. Một bộ phận đi đầu cố tránh quãng ghềnh cạn, dồn đội hình lại, định vượt qua quãng ghềnh sâu. Lợi dụng lúc địch còn lúng túng vội vã điều chỉnh đội hình, quân Thánh dực nghĩa dũng lộ Hồng Khoái (Hải Dương và Hưng Yên) do tiết chế Nguyễn Khoái chỉ huy, với hàng trăm thuyền chiến cùng quân các lộ liền từ các lạch sông, căng hết tay chèo lao nhanh ra tiến công vào giữa đội hình địch. Một số thuyền giặc luống cuống va vào quãng ghềnh cạn, chiếc bị đắm, chiếc lật nghiêng. Những chiếc khác hốt hoảng giạt sang một bên, bị thủy binh ta xông vào tiêu diệt. Các thuyền chiến của Nguyễn Khoái tả xung hữu đột trên quãng sông ghềnh Cốc, hình thành một tuyến ngang sông chặn đứng địch lại (Nguyên sử, q.3 chép rõ: "thuyền giặc (chỉ quân ta - T.G.) đón chắn ngang sông Bạch Đằng?. Bài bia Lý Thiên Hữu, viên văn thư của Ô Mã Nhi, chép trong tập Từ khê văn cảo của Tô Thiên Tước nói rõ: ?otháng ba (âm lịch) đến cảng Bạch Đằng, ngư¬ời Giao chắn ngang chiến hạm để chống cự quân ta (chỉ quân Nguyên - T.G. ). Đến lúc triều xuống, không tiến lên được, quân tan vỡ, bọn Hầu (chỉ Lý Thiên Hữu) bị bắt".).
    Cùng lúc, các đạo thủy binh Hải Đông, Vân Trà từ phía Điền Công, Gia Đước, sông Thải, sông Giá cũng nhanh chóng nhất tề tiến ra. Tiếng trống lệnh vang lên khắp các ngả sông.
    Bị các đội thủy quân của ta từ nhiều phía công kích, "bắn tên tới như mưa" (Nguyên sử, q. 166, Phàn Tiếp truyện), thuyền địch dần dần bị dồn cả về bên tả ngạn. Ô Mã Nhi phải thúc thuyền tiến về các hướng cửa sông Chanh, sông Kênh, sông Rút tìm đường chạy trốn.
    Bấy giờ là quãng gần trưa. Thủy triều rút rất nhanh, nước xuống đến mức thấp nhất. Các trận địa cọc trước đó vẫn im lìm ẩn dưới làn nước mênh mông, giờ bỗng xuất hiện như vùng lên cùng người đánh giặc.
    Bản đồ chi tiết trận đánh Bạch Đằng Giang 1288
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/sd_bao_vay_quyet_chien_diem.jpg
    Bị nước triều ào ào đẩy xuôi lại bị đánh gấp sau lưng, thuyền giặc lớp trước lớp sau cứ thế vùn vụt đâm vào các trận địa cọc. Hoàn toàn bất ngờ, nhiều thuyền bị cọc đâm thủng, bị đắm, hoặc "bị mắc cạn không tiến lên được" (Nguyên sử. q.166, Trương Ngọc truyện.), chật nghẽn cả các cửa sông.
    Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt. Từng trận mưa tên tẩm thuốc độc trùm lên đầu giặc. Thuyền chiến của ta áp vào sát địch đánh gần; quân ta dùng gươm, câu liêm hai lưỡi, lưỡi quắm, giáo dài, ngạnh lớn, dùi bốn cạnh đâm chém vô số quân giặc (Những vũ khí thời Trần đã đào dược ở chùa Bút Tháp Hà Nội, hiện tàng trữ ở Viện Bảo tàng lịch sử).
    Đúng lúc đó, các bè nứa thuyền nan chứa đầy chất dễ cháy giấu sẵn ở vùng Tràng Kênh, các làng Do Lễ, Phục Lễ, Phả Lễ, được các đội dân binh nổi lửa dốt cháy và thả xuôi dòng nước lao nhanh vào giữa các thuyền giặc đang hỗn loạn, tắc nghẽn trước các hàng cọc. Nhiều chiếc thuyền giặc bắt lửa, ngùn ngụt bốc cháy, thiêu sống những tên giặc trên thuyền, rồi chìm nghỉm.
    Trên đà thắng lợi, quân dân ta càng hăng hái diệt địch. Phía núi Tràng Kênh, quân ta vừa dùng cung tên, vừa đánh gần, gạt toàn bộ đội quân Phàn Tiếp xuống sông. Địch bị chết, bị thương không kể xiết. Phàn Tiếp bị trúng tên, nhảy xuống nước, bị quân ta lấy câu liêm móc lên và bắt sống (Nguyên sử, q.166, Phàn Tiếp truyện chép: Tiếp bị thương, nhảy xuống nước, giặc (chỉ quân ta) lấy câu liêm móc lên. Toàn thư nói quân ta bắt sống được Phàn Tiếp.).
    Đương khi thủy chiến, hỏa công quyết liệt thì đoàn thuyền chiến của hai vua Trần, theo kế hoạch định trước, cũng theo đà nước xuống, cố sức chèo mạnh để kịp thời đánh vào hậu quân địch. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Khi đến trận địa, hai vua "tung quân đánh rất hăng".
    Đòn của hai vua Trần đánh vào sau lưng địch đã khiến cho chúng càng bị động, lúng túng, bị thiệt hại rất nặng. Thủy binh địch trước mặt, sau lưng, hai bên đều bị đòn đánh. Phạm vi chiến trường trải dài suốt cả một vùng sông. Căn cứ vào hiệu lực các phương tiện chiến đấu, thông tin liên lạc mà đoán định số thuyền giặc với 600 chiếc khi lọt vào trận địa, nếu dàn hàng ngang 5-6 chiếc trên sông, mỗi hàng cách nhau từ 30 mét trở lên thì cả đoàn thuyền phải kéo dài ít nhất là 5 ki-lô-mét. Điều này phù hợp với thư tịch và truyền thuyết dân gian nói rõ phạm vi chiến trường từ rừng núi Tràng Kênh đến cửa sông Chanh. Trên cả khúc sông rộng, máu giặc chảy lênh láng, "nước sông đến nỗi đỏ ngầu máu? (Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, t.II, tr.61). Chủ tướng Ô Mã Nhi bị quân ta bắt sống.
    Số địch còn lại cố sức chạy lên phía tả ngạn Yên Hưng hòng trốn thoát. Nhưng vừa lên đến bờ thì chúng vấp phái các chiến sĩ bộ binh ta phục sẵn từ trước, nhanh chóng đổ ra tiêu diệt. Sức tàn, lực kiệt, hầu hết bọn này đã suy yếu không chống đỡ nổi những mũi tên, đường kiếm của quân ta.
    Đội quân bố trí đón sẵn trên bộ đã hợp đồng chặt chẽ với thủy binh. Trận thủy chiến trên sông diệt phần lớn sinh lực địch thì trận đánh trên bộ lại bồi thêm cho chúng một đòn chí tứ. Nhân dân địa phương vùng Hà Nam (Yên Hưng) nói rằng chính Trần Quốc Tuấn đã đặt sở chỉ huy bên tả ngạn sông Bạch Đằng và trực tiếp chỉ huy các đơn vị bộ binh đánh tiêu diệt đám quân giặc chạy lên tả ngạn. Các cụ còn kể lại: vị lão tướng anh hùng ấy cưỡi con ngựa bạch to lớn đứng trên gò đất cao giữa cánh đồng làng Trung Bản (Yên Hưng) cầm kiếm chỉ huy ba quân. Dưới quyền chỉ huy của ông, quân và dân ta mai phục bên sông đã xông lên chiến đấu cực kỳ dũng cảm và mãnh liệt, bắt được tướng giặc là Phạm Nhan và tiêu diệt gần hết bọn chúng, thây giặc nằm ngổn ngang.
    Trận đánh trên bộ cũng không kém gay go, ác liệt. Trương Hán Siêu nói: "Chiết kích trầm giang, khô cốt doanh khâu?, nghĩa là: giáo mác chìm sông, xương khô đầy gò.
    Đến chiều, trận đánh vô cùng ác liệt và oai hùng trên sông Bạch Đằng kết thúc (Nguyên sử, q. 166, Phàn Tiếp truyện chép: lục chiến từ giờ Mão đến giờ Dậu, tức là từ sáng đến chiều). Cả một đoàn binh thuyền lớn của Ô Mã Nhi thế là bị tiêu diệt hoàn toàn, đúng như Trương Hán Siêu dã mô tả:
    ?.Bấy giờ:
    Muôn dặm thuyền bè, tinh kỳ phấp phới
    Sáu quân oai hùng, gươm giáo sáng chói
    Sống mái chưa phân, Bắc Nam lũy đối
    Trời đất rung rinh (chừ) sắp tan.
    Nhật nguyệt u ám (chừ) mờ tối...
    (Phú sông Bạch Đằng)
    Bài phú quả đã nói lên cái hùng khí của quân dân ta trong giờ phút lịch sử, cái dũng cảm tuyệt vời của các chiến sĩ quyết xả thân vì nước.
    Ngoài hai chủ tướng Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp bị bắt, tên dại quý tộc Mông Cổ tước vương Tích Lệ Cơ à bọn bộ hạ cũng bị bắt sống. Ta còn thu được hơn 400 thuyền chiến. Toàn bộ quân địch rút lui bằng đường thủy đều bị tiêu diệt.
    Sau đó quân dân Đại Việt lại tiếp tục chặn đánh và truy kích dạo kỵ binh và bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy, theo đường Lạng Sơn về nước. Tin đại thắng Bạch Đằng nhanh chóng truyền lan khắp nước, càng làm nức lòng quân dân Đại Việt, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với các chiến sĩ miền biên giới hăng hái xông lên tiêu diệt đạo quân Thoát Hoan. Những chiến thắng to lớn ở cửa quan Hãm Sa, các ải Nội Bàng, Nữ Nhi, Khưu Cấp (đều thuộc Bắc Giang và Lạng Sơn) đã liên tiếp giáng cho đạo quân này những đòn thất bại nặng nề. Hàng vạn quân địch phơi xác trên đường rút chạy. Và cuối cùng, mãi đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, Thoát Hoan đành giải tán nốt đám tàn quân bại trận của hắn ở châu Tư Minh (Quảng Tây, Trung Quốc).
    Chín ngày sau trận đại thắng 18 tháng 4, hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đem đám tù binh gồm Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ, Phàn Tiếp và những tên thiên hộ, vạn hộ về phủ Long Hưng làm lễ mừng thắng trận trước lăng vua Trần Thái Tông, người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất năm 1258.
    Ý nghĩa của trận đánh
    Chiến thắng Bạch Đàng hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ tiêu diệt đạo quân rút lui đường thủy của Ô Mã Nhi, là trận quyết chiến lớn nhất, kết thúc cuộc kháng chiến chống Nguyên thứ ba. Một đạo quân lớn trên 6 vạn người, giàu kinh nghiệm xâm lược, những tên tướng quý tộc, cao cấp thân cận của Hốt Tất Liệt, sừng sỏ nhất độc ác nhất như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ, Lưu Khuê, sau mấy lần giày xéo đất nước ta, đã phải đền tội.
    Đế quốc Mông Cổ ở thế kỷ XIII đã chiếm toàn bộ nước Nga, một số nước Đông âu, miền Trung Á, Ba Tư và toàn bộ Trung Quốc, là đế quốc rộng lớn từ Á sang Âu, lớn vào bậc nhất thời kỳ Trung cổ. Quân xâm lược của đế quốc đó đã bị chặn đứng trên đất nước Đại Việt.
    Ba lần gây chiến xâm lược, ba lần bị thất bại thảm hại. Từ đấy đế quốc Mông - Nguyên vĩnh viễn không dám đem quân xâm phạm nước ta lần nữa. Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt cùng với những chiến thắng liên tiếp tiêu diệt đạo quân bộ của Thoát Hoan, đã kết thúc thắng lợi cuộc chiến đấu trường kỳ của dân tộc ta, báo vệ độc lập Tổ quốc khẳng định sự tồn tại vừng vàng, hiên ngang của nước Đại Việt ta sát cạnh một đế quốc lớn mạnh nhất thế giới đầy âm mưu và tham vọng xâm lược thời kỳ bấy giờ.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:44 ngày 22/10/2009

Chia sẻ trang này