1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận hải chiến nổi tiếng Lịch Sử - Thời Trung Đại ( Tiếp)
    Trận hải chiến đảo Hansan
    Ngày trận đánh: ngày 5 tháng 8 1592
    Vị trí của trận đánh: Bờ biển phía đông của đảo Hansan
    Kết quả: Hàn Quốc quyết định chiến thắng
    Lực lượng tham chiến
    Hải quân Nhật Bản: Hạm đội Toyotomi Hideyoshi
    Chỉ huy
    Wakizaka Yasuharu
    Wakizaka Sabei?
    Watanabe Shichi''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''emon?
    Sức mạnh
    73 tàu
    Thương vong và thiệt hại
    47 tàu bị phá hủy và 12 bị bắt
    9.000 thương vong
    Hải quân Joseon ( Hàn Quốc)

    Chỉ huy

    Yi Sun-Shin ( Lý Thuấn Thần)
    Won Kyun
    Yi Eok Ki
    Sức mạnh
    56 tàu
    Thương vong và thiệt hại
    không có tàu bị mất
    19 người chết và 114 người bị thương
    Trận hải chiến Đảo Hansan, Còn được gọi là Trận Hansan-do, Diễn ra vào ngày Ngày 14 tháng 8, 1592 gần hòn đảo Hansancủa Hàn Quốc, Và là một trong những trận đánh quan trọng nhất của Imjin Chiến tranh. Đô đốc Hàn Quốc Yi Sun-sin phá hủy ít nhất 47 tàu của Nhật Bản, chiếm 12 và giết trên 8.000 thủy thủ và thủy quân lục chiến Nhật Bản. Sự thành công của đô đốc Yi Sun-sin trong cuộc chiến này đã tạo ra một bước ngoặt trong cuộc chiến.
    Vài nét về cuộc đời của Đô đốc hải quân Yi Sun-Shin ( Lý Thuấn Thần)
    Tượng đài đô đốc Lý Thuấn Thần tại Hàn Quốc
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/429px-Statue_of_Yi_Sunsin_-_Cropped.jpg
    Yi Sun-sin (28 tháng 4 năm 1545 - Ngày 16 tháng 12 năm 1598) là một Tư lệnh hải quân Hàn Quốc đã tạo ra chiến thắng của hải quân Hàn Quốc trước lực lượng hải quân Nhật Bản trong thời gian Nhật Bản xâm lăng Triều Tiên (1592-1598) trong Triều đại Joseon( Đặc biệt là 4 chiến dịch hải quân của ông trong năm 1592 bao gồm 23 trận hải chiến liên tục tiêu diệt và đánh chìm hàng trăm chiến thuyền Nhật Bản ). Chức vụ của ông là Samdo Sugun Tongjesa, nghĩa đen có nghĩa là "tư lệnh hải quân của ba tỉnh" và chức vụ này còn được duy trì trong hải quân Hàn Quốc cho đến năm 1896. Yi còn được biết đến để sử dụng sáng tạo của mình tầu con rùa ( có thể nói đây là lớp tầu chiến bọc thép đầu tiên trên thế giới). Ông là một trong số ít các đô đốc chiến thắng trong tất cả các trận thủy chiến (ít nhất là 23) mà ông chỉ huy.
    Yi đã bị giết bởi một viên đạn duy nhất trong Trận Noryang ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1598. Và trước khi ông qua đời, ông nói: "Đừng để kẻ thù biết cái chết của tôi". Triều đình Hàn Quốc đã ban nhiều danh hiệu khác nhau cho ông ta, trong đó có một chức danh hiệu sau khi ông đã chết là Chungmugong (Võ tướng trung thành), một danh hiệu là Seonmu Ildeung Gongsin (Chức danh quân sự hàng đầu trong thời kỳ trị vì của Seonjo), và hai chức danh khác sau khi chết, Yeonguijeong (Thủ tướng Chính phủ), và Deokpung Buwongun. Ông cũng nhận được danh hiệu Yumyeong Sugun Dodok (Đô đốc Hạm đội nhà Minh của Trung Quốc) do Hoàng đế nhà Minh ban tặng. Sau khi chết, Yi vẫn được tôn như một anh hùng giữa các miền của Triều Tiên cho tới tận ngày hôm nay
    Bối cảnh chung về cuộc chiến tranh Imjin
    Hai cuộc xâm lược của Nhật Bản vào Triều Tiên và một loạt các trận đánh xảy ra trên Bán đảo Triều Tiên vào các năm 1592-1598. Mạc Phủ Toyotomi Hideyoshi lãnh đạo nước Nhật Bản vừa thống nhất vào cuộc xâm lược đầu tiên (1592-1593) với các dã tâm là công khai là chinh phục Hàn Quốc, Mãn Châu, Trung quốc và Ấn Độ. Cuộc xâm lược thứ hai (1594-1596) là nhằm mục đích tấn công trả đũa đối với những người Triều Tiên. Các cuộc xâm lược cũng được biết đến như là cuộc xâm lăng của Hideyoshi tới Triều Tiên, hay là cuộc chiến bảy năm, hoặc là Chiến tranh Imjin ( Nhật Bản xâm lược vào năm Imjin). Ban đầu, quân đội Nhật Bản đã đạt nhiều thắng lợi trên bộ nhưng về sau lại thất bại liên tục trên biển. Quân đội Nhật Bản trở nên bị đe dọa nặng nề vì không đủ các nguồn cung cấp. Hải quân Hàn Quốc gây tình trạng thiếu lương thực cho quân đội Nhật Bản bằng cách ngăn chặn thành công hạm đội Nhật Bản trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm vào vùng biển phía Tây của bán đảo, vùng mà các con sông lớn nhất của bán đảo Triều Tiên đều chảy. Triều đình nhà Minh dưới thời Hoàng đế Minh Thần Tông tạo ra một sự can thiệp quân sự và ngoại giao vào cuộc chiến. Cuộc chiến tạm dừng trong năm năm để ba nước cố gắng thương lượng một thỏa hiệp hòa bình, tuy nhiên, Nhật Bản tiếp tục xâm lược Hàn Quốc lần thứ hai vào năm 1597. Cuộc chiến tranh đã kết thúc trận hải chiến tại Noryang. Tất cả các lực lượng Nhật Bản tại Hàn Quốc đã rút lui vào ngày tháng 12 âm lịch năm1598 và trở lại Nhật Bản sau khi bị đánh bại hoàn toàn bởi hải quân Hàn Quốc. Hậu quả, Ngoài những thiệt hại về người, Hàn Quốc phải chịu nhiều thiệt hại to lớn về văn hóa, kinh tế và cơ sở hạ tầng, bao gồm cả việc suy giảm mạnh số đất nông nghiệp, mất mát một khối lượng lớn các tác phẩm nghệ thuật, hiện vật, và các tài liệu lịch sử, và bị bắt đi nhiều nghệ nhân và thợ lành nghề. Trong thời gian này, các cung điện chính Gyeongbokgung, Changdeokgung và Changgyeonggung đã bị đối cháy, nên cung điện Deoksugung đã được sử dụng như là cung điện tạm thời. Những gánh nặng tài chính của cuộc chiến tranh đã đề nặng lên đất nước Trung Quốc và tạo ra những ảnh hưởng bất lợi khả năng quân sự của quốc gia này và đóng góp vào sự sụp đổ của Nhà Minh và sự nổi lên của Nhà Thanh. Tuy nhiên, quan điểm coi Trung Quốc là trung tâm mà nhà Minh đã cố gắng để bảo vệ được khôi phục bởi nhà Thanh, và quan hệ thương mại bình thường giữa Hàn Quốc và Nhật Bản vẫn được tiếp tục về sau này.
    Sự chuẩn bị của hai bên cho trận đánh
    Đô đốc Yi Sun Shin, cùng với đội tàu nhỏ gồm bảy tàu của Đô đốc Won Kyun, đã tham gia vào hai chiến dịch trên bờ biển phía nam của Hàn Quốc. Đô đốc Yi Eok Ki gia nhập hạm đội của đô đốc Yi và Won cho chiến dịch thứ ba. Trong tất cả các trận đánh trước đó, hạm đội Hàn Quốc đã đánh chìm hơn 100 chiến thuyền của Nhật Bản và gây ra hàng ngàn thương vong. Đô đốc Yi và hạm đội liên hợp của Hàn Quốc đã không mất bất kỳ một tàu chiến nào và bị chỉ có 11 người chết và 26 người bị thương đến thời điểm đó.
    Nhận được tầm quan trọng của việc dùng hải quân để cung cấp đồ hậu cần cho quân đội Nhật Bản khi đội quân này tiến dọc theo bán đảo Triều Tiên và chuẩn bị xâm lược Trung Quốc, Toyotomi Hideyoshi đưa ra một mệnh lệnh hoàn toàn bắt buộc đến các sỹ quan của ông rằng tình hình của hải quân phải được nằm dưới sự kiểm soát, các đội tàu Hàn Quốc phải bị phá hủy và các tuyến cung cấp hậu cần thông qua biển Hoàng Hải phải được bảo đảm. Chỉ huy Nhật Bản, Wakizaka Yasuharu, được lệnh phải mang hạm đội của mình để kết hợp với các đội tầu của Kato Yoshiaki và Kuki Yo****aka để tìm ra và tiêu diệt hạm đội của Hàn Quốc. Tuy nhiên, sẽ mất một số thời gian để cho Katō và Kuki sát nhập tàu của họ lại, do đó Wakizaka đã ra khơi một mình với 73 tàu của mình. Hạm đội của Wakizaka có lẽ đã có các tàu chiến tốt nhất của Nhật Bản tại đến thời điểm này của cuộc chiến. Trong số 73 tàu, 36 chiếc là loại tầu lớn nhiều boong atakebune, 24 chiếc là loại vừa Seki bune và 13 chiếc là loại tầu nhỏ trinh sát kobaya.
    ( Atakebune là loại tàu chiến lớn nhất của Nhật Bản trong thế kỷ 16 -- > 17, nó được dùng trong các cuộc nội chiến của Nhật Bản tại thời đó.
    Trong khoảng thời gian đó, lãnh chúa Nhật Bản Oda Nobunaga đã cho đóng tầu bọc sáu sắt lớp Atakebune vào năm 1578. Những tàu này được gọi là "Tekkōsen", nghĩa đen là "tàu sắt", không phải là để ngụ ý là chúng được làm bằng sắt, nhưng phần đài chỉ huy và boong của các tầu này có thể đã được gia cố bằng các tấm sắt để chống đạn pháo và tên lửa. Tuy nhiên chúng lại không được bọc sắt tí nào theo mô tả của nhà truyền giáo Luis FroisDòng Tên , người đã nhìn thấy các con tàu.
    Các tầu Atakebune được trang bị với một vài pháo và nhiều súng hỏa mai cỡ lớn. Oda đánh bại hải quân của Mori với bằng chính các con tầu này tại trận các cửa sông Kizu, Osaka năm 1578 trong một cuộc phong tỏa hải quân thành công. Những tàu này là những chiếc tốt nhất của lớp Atakebune, đã được sử dụng hơi ngược lại với chiến thuật hải quân Nhật Bản thời gian đó, mà hải chiến được xem như là một cuộc chiến giữa các đội thủy thủ, hơn là giữa các tàu chiến (chiến thuật chính của hải quân Nhật Bản là chèo đến gần boong của tầu đối phương, sau đó các thủy thủ đoàn của Nhật nhảy sang và chiến đấu tay đôi).
    Những chiếc tàu Atakebune này có thể được coi là pháo đài nổi hơn là tàu chiến thực sự, và chỉ được sử dụng trong các hoạt động ven biển. Chúng sử dụng chèo để cơ động, vì được bọc bằng sắt, nếu điều này là đúng, cũng như kích cỡ và trọng lượng quá lớn của chúng (bao gồm các trang bị vũ khí và quân lính mà chúng chuyên trở) tạo ra sự cản gió khi cơ động bằng buồm).

    Hình minh họa tầu chiến lớp Atakebune http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/Atakebune2.jpg
    Trong lúc này, Đô đốc Yi đã lên kế hoạch cho một chiến dịch thứ ba trong khi làm việc với đô đốc Won và Yi Eok Ki để kết hợp và tiến hành sắp xếp hạm đội của họ theo một đội hình chiến đấu hình ?ocánh hạc? ( hình minh họa đội hình cánh hạc
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/800px-Su_Jo_Byung_Pung_Do.jpg ). Đội hình này thường được sử dụng trên đất liền, nhưng ít được sử dụng trên biển. Các đội tàu hợp nhất có tổng số 54 chiếc loại panokseons và 2 hoặc 3 tầu con rùa.
    ( Tầu chiến lớp panokseon là một tầu cơ động bằng mái chèo và buồm, đó là tàu chiến chính được sử dụng bởi người Hàn Quốc tại Triều đại Joseon trong thời gian cuối thế kỷ 16. Con tàu đầu tiên của lớp này đã được đóng vào năm 1555. Nó là một con tàu làm bằng gỗ cây thông vững chắc, và là vũ khí chính để chiến thắng Hải quân Nhật Bản ( với số lượng đông hơn nhiều) trong thời gian chiến tranh Imjin từ năm 1592. Dưới sự chỉ huy của Đô đốc Yi Sunsin, hải quân Triều Tiên với lớp tầu này và tầu chiến lớp con rùa đã thu được những thành công lớn.
    Minh họa về tầu chiến lớp panokseon của Triều Tiên
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/Panokseon.jpg
    Đặc điểm chính của một panokseon là nó có nhiều tầng boong. Tầng đầu tiên không dùng để chiến đấu, mà để cho các tay chèo, những người được đặt vị trí làm việc giữa boong chính-và-tầng trên, ở cách xa các làn đạn của đối phương. Các binh sĩ xắp sếp ở trên boong-thượng, nơi cho phép họ để tấn công đối phương từ một điểm thuận lợi hơn. Ngoài ra, trên boong của chiếc panokseon có một cái thang để lên mái quan sát, đó là vị trí của chỉ huy tầu.
    Vũ khí
    Panokseons được trang bị nhiều pháo, chúng được đặt tên như là Trời, Đất, Đen và Vàng. Trời là loại pháo lớn nhất với phạm vi bắn xa nhất và pháo phổ biến nhất trên tàu. Đất là một khẩu pháo nhỏ hơn và đen và vàng nhỏ hơn nữa. Khẩu pháo Trời bắn đạn daejon (một mũi tên trong hình dạng của một tên lửa) với một loạt các 500 m (1.650 ft), cũng như đạn chulwhan (đạn pháo), chúng có thể bắn tới một khoảng cách là 1 km (3.300 ft ). Wangu, một loại súng cối bắn đạn đá hoặc sắt với bán kính 20cm (7,8 inc), cũng được sử dụng trong hải quân Hàn Quốc.
    Một khía cạnh khác đáng chú ý của súng hạng nặng của Hàn Quốc là chúng không được sản xuất ra để phục vụ cho các trường hợp khẩn cấp bất ngờ của chiến tranh. Những vũ khí này trong thực tế chúng đã xuất hiện khoảng 200 năm trước khi Hideyoshi xâm lăng Triều Tiên. Nhờ có những nỗ lực của Choe Mu-seon, Một vị tướng và là một nhà hóa học, Hàn Quốc đã bắt đầu sản xuất và phát triển thuốc súng và sức mạnh dựa trên vũ khí. Pháo Hàn Quốc đầu tiên đã thấy trong trận đánh vào năm 1380 với một hạm đội tàu lớn của cướp biển Nhật Bản, và đã thu được một thành công lớn.
    Minh họa về đại bác của người Triều Tiên
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/800px-Joseoncannon1.jpg
    Trong thế kỷ 15, dưới sự dẫn của vua Sejong, Người đã tự mình đi tiên phong nghiên cứu khoa học, hiệu suất của các loại pháo hạng nặng được cải thiện đáng kể. Xây dựng được một bảng phạm vi bắn là Ủy Ban Hoàng gia, và sau nhiều thử nghiệm và nghiên cứu, vua Sejong cuối cùng đã gia tăng phạm vi của pháo từ 300 m (980 ft) đến 1000 m (3.100 ft). Pháo hải quân cũng đã được phát triển trong thời gian này và trong số đó, các khẩu Trời, Đất, Đen và Vàng sau này được đúc bởi Yi Sun-sin. Sự phát triển của pháo binh được tiếp tục sau khi vua Sejong qua đời, và người Triều Tiên đã phát minh ra Bigyeokjincholloe, Một lựu đạn nổ chậm tung hàng trăm mảnh kim loại khi nổ, và Dapoki, Một máy có khả năng bắn nhiều mũi tên cùng một lúc.
    Trong khi Hideyoshi xâm lăng Triều Tiên, Hàn Quốc thiếu súng hỏa mai tiên tiến, nhưng có một số loại súng đại bác mạnh mẽ).

    Minhhọa về máy bắn được nhiều mũi tên
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/800px-Hwacha2.jpg
    Minh họa về súng hỏa mai của Nhật Bản
    http://i909.photobucket.com/albums/ac298/hongsonvh/200px-Tempo-p1000697.jpg
    ( So sánh lớp tầu panokseon với tàu chiến Nhật Bản
    Những sự khác nhau giữa tầu panokseon của Triều Tiên và tàu Nhật là rất đáng kể. Lớp tầu tương đương của Nhật Bản là lớp lớn Atakebune và lớp vừa Sekibune . Ngược lại với lớp tầu panokseon, vỏ của tàu Nhật được thiết kế có độ cong, mũi tầu nình chữ V. Vỏ tầu được thiết kế cong tạo thuận lợi cho những chuyến đi dài ở các vùng biển rộng vì sức cản của nước thấp hơn (do đó các tàu này có tốc độ tốt hơn). Do đây kiểu thân tầu này là một thiết kế tiên tiến hơn (Tạo nên độ khẳm cao hơn trong nước), tuy nhiên, bán kính quay của loại tầu này ( tầu Nhật Bản) được cho là lớn hơn và việc thay đổi phương hướng của chúng đòi hỏi một quá trình thời gian sử lý lâu hơn . Ngoài ra, tàu với thiết kế lớn hơn có nhiều khó khăn hơn trong các vùng nước hẹp và các vùng nước nông. Tàu Nhật đã được đóng to hơn và ít cơ động hơn lớp tầu panokseon ở các vùng nước kênh hẹp của Hàn Quốc.
    Các tầu Sekibune kích thước trung bình, nhỏ hơn và hầu hết là các tàu vận tải của hạm đội Nhật Bản, chúng chỉ có một cột duy nhất và có thể vì thế chỉ cơ động đươck khi buồm có gió thuận lợi. Lớp Atakebune là một ngoại lệ ở chỗ nó có hai cột buồm, nhưng những phần chính của nó được thiết kế hình vuông-rigged và chính buồm của chúng lại hạn chế tận dụng sức lợi của gió.
    Cũng là rất quan trọng khi so sánh các vỏ tàu chiến được thiết kế của hai quốc gia, và sức mạnh tương đối của chúng. Lớp panokseon được đóng bởi các tấm ván dày, mật độ dày đặc cao, tạo ra một cấu trúc về tổng thể là rất vững trãi. Tàu chiến Nhật Bản được cấu trúc yếu hơn, do gỗ để đóng chúng mỏng và mật độ thấp hơn, đặc biệt là chúng thường được đóng từ cây tuyết tùng. Cây này có trọng lượng nhẹ và chúng không có nhiều mấu như cây thông, nên có thể dễ dàng được xẻ mỏng hơn. Lớp tầu Sekibune là tiêu chuẩn của tàu chiến hạm đội Nhật Bản, được đóng càng nhẹ càng tốt, để có thể tăng tốc độ của mình với các chi phí về cấu trúc hợp lý. Điều này là phù hợp với truyền thống chiến thuật của hải quân Nhật Bản vào thời gian đó, đó chính là chiến thuật áp mạn vào tàu địch và tung các binh lính trên tầu của họ sang tầu địch và chiến đấu mặt đối mặt.
    )
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:29 ngày 23/10/2009
    dragonboy1080 thích bài này.
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    So sánh sự khác nhau giữa tầu chiến lớp panokseon của Triều Tiên và tầu của Nhật Bản ( Tiếp)
    Em cũng xin phép được lan man trong phần này, mục đích chính là để tìm hiểu nguyên nhân tại sao Hải quân Hàn Quốc thắng hải quân Nhật Bản với một mức độ chênh lệch về thương vong khủng khiếp như vậy, mặc dù số liệu này chưa được kiểm chứng
    Một khác biệt nữa chính là việc sử dụng các đinh sắt so với việc sử dụng gỗ chốt để giữ kết cấu khung sườn con tàu. Như đã đề cập, tàu Hàn Quốc được đóng chặt với nhau bằng việc cài các răng gỗ và gỗ chốt. Tàu chiến của Nhật Bản lại khác, chúng dựa vào các đinh sắt để làm việc đó, và thời gian cùng muối mặn của nước biển sẽ ăn mòn các đinh sắt này, cuối cùng làm suy yếu thân tầu.
    Chính sự khác biệt trong toàn bộ kết cấu này đã xác định số lượng pháo được đặt ở trên tàu. Bởi vì các tàu Nhật Bản thiếu độ bền để chịu được sức giật của pháo, thậm chí cả con tàu lớn nhất lớp Atakebune, có thể mang chỉ có ba hoặc bốn khẩu là nhiều nhất. Một tầu lớp Sekibune chỉ có thể mang một khẩu. Một chiếc panokseon có thể mang ít nhất 10 khẩu pháo, nhưng thường là mang nhiều hơn nữa. Kể từ khi vỏ của tàu chiến Hàn Quốc đã được tăng cường đủ độ chắc, hơn thế nữa họ tiếp tục đưa lên tầu chiến một số lượng lớn pháo tầm xa. Có thể lắp đặt súng lớn một cách dễ dàng trên các sàn thượng lớn của tàu panokseon, và góc của của các con tầu này sẽ tăng phạm vi sát thương lên xa hơn. Kể từ lúc tàu chiến Nhật Bản chỉ mang được một số lượng rất hạn chế súng đại bác, thủy thủ của họ chủ yếu phải sử dụng là súng hỏa mai, loại có tầm sát thương 100-200 m (330-660 ft) và các chỉ huy hải quân Nhật Bản đã chắc chắn rằng đạn súng hỏa mai sẽ giết nhiều thủy thủ của các tàu đối phương và cho phép đánh nhau cận chiến và phương pháp áp mạn tầu.
    Chiến thuật chính và truyền thống của Hải quân Nhật Bản là "áp mạn tầu và đánh giáp lá cà", đó chính là các thủy thủ sẽ cố gắng nhảy sang boong của tàu địch và chiến đấu bằng gươm trên sàn tầu. Phương pháp này đã được sử dụng chủ yếu bởi vì lính Nhật xuất sắc ở kỹ năng chiến đấu tay đôi và bởi vì tàu của họ chạy rất nhanh. Khái niệm của Hải quân Nhật Bản về hải chiến cuộc chiến giữa các đội thủy thủ của họ hơn là cuộc chiến giữa các tầu chiến của họ. Đây là chiến lược hải quân phổ biến nhất trên thế giới trong thời gian này, và cũng đã được sử dụng bởi hạm đội của nhà vua Tây Ban Nha trong vùng Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương tại thời đó. Tuy nhiên hải quân Hàn Quốc sử dụng tàu chiến và hỏa lực vượt trội để đốt cháy và chìm các tàu đối phương, đây có thể nói là một chiến thuật hiện đại hơn, và là một trận hải chiến ở khoảng cách xa. Trong thời kỳ Hideyoshi xâm lăng Triều Tiên, một số lượng lớn các tàu vận tải và tàu chiến của Nhật Bản đã bị phá hủy bởi các chiến thuật của Đô đốc Yi Sun-shin, đó là dùng hỏa lực vượt trội, kiến thức chiến lược về hàng hải tốt hơn và lợi thế về vùng biển sân nhà.

    Thêm một số mô tả chi tiết về tầu chiến con rùa của Hải quân Triều Tiên thế kỷ 16
    Tầu con rùa, tiếng Hàn Quốc là Geobukseon hoặc Kobukson, đây là một loại tàu chiến lớn thuộc lớp Panokseon của Hàn Quốc, loại tầu này đã được sử dụng liên tục bởi Hải quân Triều đình Hàn Quốc trong Triều đại Joseon từ thế kỷ 15 cho đến đầu thế kỷ 19.
    Theo các tài liệu tham khảo, tàu thế hệ rùa đầu tiên xuất hiện từ năm 1413 đến 1415 trong hồ sơ Biên niên sử của triều đại Joseon trong đó đề cập đến một cuộc tập trận thủy chiến giữa một tầu con rùa và một tàu chiến Nhật Bản. Tuy nhiên, tàu con rùa sớm bị loại khỏi hải quân Hàn Quốc do bị cắt giảm trong một thời gian dài tương đối hòa bình.
    Tầu con rùa tham gia nhiều trận chiến chống lại Lực lượng hải quân Nhật Bản lúc chúng đang hỗ trợ các cố gắng của Toyotomi Hideyoshi để chinh phục Hàn Quốc từ 1592-1598, tầu con rùa đã gây tổn thất nặng nề cho hải quân Nhật Bản. Tuy nhiên, vai trò lịch sử của chúng có thể đã được phóng đại vì "toàn bộ hạm đội Triều Tiên có lẽ không có hơn nửa tá tầu con rùa hoạt động trong một trận".Đô đốc hải quân Hàn quốc Yi Sun-sin được cho là đã cải tiến thiết kế của con tàu, trong khi đó một trong các phó của ông, Na Dae Yong, phụ trách phần đóng tầu. Tàu con rùa của ông đã được trang bị với ít nhất năm loại pháo khác nhau. Tính năng khác biệt rõ rệt nhất của nó là phần boong được bao phủ bởi một chiếc khiên kim loại hình mu rùa để làm đạn pháo đối phương trượt đi, và với rất nhiều gai sắt để ngăn cản binh lính của đối phương nhảy sang tìm cách chiếm tầu ( mấy bác Samurai Nhật đi guốc vác kiếm nhảy sang thủng chân hết he he).

    Một số thông số chi tiết về tầu con rùa:
    Lớp: Panokseon
    Chiều dài: 100-120 feet
    Chiều rộng: 30-40 feet
    Lực đẩy: 80 tay chèo
    Bổ sung: 50 binh sĩ
    Vũ khí: Bột lưu huỳnh, gai sắt, 11 khẩu pháo có tầm xa từ 200 yds đến 600 yds

    (Để khỏi làm loãng trận hải chiến em xin bổ sung chi tiết về tầu con rùa ở phía phần cuối )
    Quay trở lại trận hải chiến Đảo Hansan
    Giai đoạn đầu của trận đánh
    Đô đốc Yi đã nhận được tin tình báo từ một nông dân địa phương rằng một lượng lớn tầu của Nhật Bản (tầu của Wakizaka) đang tiến đến phía tây hạm đội của ông ta và đã thả neo ở phía bắc của Eo biển Gyeonnaeryang, một kênh hẹp giữa Geoje Đảo và đất liền.
    Sáng hôm sau, ngày 14 tháng tám Đô đốc Yi tung ra sáu chiếc tàu chiến lớp panokson vào con kênh này để thu hút sự chú ý của Wakizaka. Wakizaka đã cắn mồi và tàu của ông ta đuổi theo sáu chiếc panokson của Đô đốc Yi theo con kênh ra biển lớn ở phía trước của Đảo Hansan. Wakizaka nhận ra hạm đội của Đô đốc Yi trước và tìm cách áp sát vào hạm đội Hàn Quốc. Lúc đó Đô đốc Yi đang bắt đầu sắp xếp hạm đội của mình theo đội hình cánh hạc.
    Đội hình cánh hạc
    Trong hai chiến dịch trước đó, người Hàn Quốc đã đụng độ các tàu Nhật Bản theo chiến thuật đội hình chiến đấu đường thẳng, hoặc nếu trong khoảng không bị hạn chế, với chiến thuật tấn công xoay vòng tròn hoặc xa luân chiến, tầu chiến của người Hàn Quốccó khả năng duy trì các đợt pháo kích liên tục. Mặc dù các chiến thuật này đã có hiệu quả, một số lượng đáng kể tầu Nhật Bản đã chạy thoát và lính Nhật bơi thoát lên bờ. Sự hình thành đội hình cánh hạc được tính toán để không chỉ đánh chìm tàu, mà còn để tiêu diệt kẻ thù mà quân mình lại không bị mất nhiều binh lính.
    Đội hình này giống như một hình chữ "U", với các tầu bọc sắt nặng nhất ở trung tâm và tàu nhẹ trên cánh. Lực lượng dự trữ được đặt phía sau tàu trung tâm và tạo khoảng trống rộng hơn khi đội hình này mở rộng. Tàu ở mặt trước của đội hình sẽ phải chiến đấu theo phương thức pháo mạn để tối đa hóa số lượng pháo nhằm vào kẻ thù. Hơn nữa, hình dạng chữ "U" sẽ cho phép các tầu chiến của Hàn Quốc ***g vào nhau để khai hỏa làm cho nhiều tàu Nhật Bản sẽ bị bắn lia từ nhiều góc độ. Chức năng này của đội hình cánh hạc chia sẻ với những chức năng tương tự của chiến thuật ''''Crossing T'''' của tàu chiến vào cuối những năm 19 và đầu thế kỷ 20.
    Chiến thuật của Nhật Bản là tung ra những tầu nhanh nhất trong các tầu tiên phong để gây khó khăn cho tàu Hàn Quốc, sau đó cơ động các tàu chiến lớn của họ nhanh chóng đến áp mạn, tung binh lính và thủy thủ đoàn ra để chiếm các tàu của Hàn Quốc. Tuy nhiên, chiến thuật này lại đúng vào kế hoạch của Đô đốc Yi, như các tầu Nhật Bản cứ thế bơi sâu hơn vào cái bẫy của ông này. Số lượng và tầm bắn pháo của Hàn Quốc ngăn ngừa các tầu Nhật Bản trong việc sử dụng chiến thuật ưa thích của họ và hai cánh của đội hình cánh hạc sẽ bao quanh và cuối cùng có tác dụng xô các tàu Nhật Bản lại với nhau, làm cho nó khó cơ động hoặc rút lui và quây trọn các con tàu này lại và làm chúng trở thành một mục tiêu dễ dàng hơn cho các loại pháo của Hàn Quốc.
    Giai đoạn thứ hai
    Wakizaka Yasuharu là một chỉ huy cao cấp năng nổ và là một trong "Bảy ngọn giáo Shizugatake, " huyền thoại. Ông ta có được danh tiếng đó từ chiến trường và Hideyoshi đã có những yêu cầu quá nặng nề với Wakizaka vì muốn ông này trở thành người kế nghiệp Oda Nobunaga (Oda Nobunaga là tướng thủy quân giỏi nhất của Hideyoshi). Rõ ràng chiến thuật Wakizaka đã cố gắng sử dụng là càng áp vào gần càng tốt tới các tàu của Triều Tiên để ông ta có thể đấu tay đôi và chiếm tầu của họ, đây là truyền thống chiến thuật của hải quân Nhật Bản. Wazikaka không chỉ bám theo sáu tàu Hàn Quốc làm mồi dử qua eo biển Kyonnaeryang với toàn bộ hạm đội 73 tàu của ông ta, mà còn áp sát càng nhanh càng tốt vào trung tâm của đội hình cánh hạc, nhưng ông ta lại không biết đến một thực tế là ông ta đã phơi bày tàu của mình và cánh quân của mình để cho hỏa lực từ nhiều hạm tầu của Hàn Quốc bắn vào tập trung và với mức độ sát thương xa hơn.
    Trận đánh tiếp tục kéo dài từ giữa buổi sáng đến cuối buổi chiều. Một vài boong tàu Nhật Bản bị quân Hàn Quốc chiếm, nhưng Đô đốc Yi chỉ cho phép làm như vậy nếu chiếc tàu Nhật đã bị hư hỏng và tê liệt. Chỉ huy Wakizaka Sabei và Watanabe Shichi''emon bị giết. Chỉ huy Manabe Samanosuke làm seppuku ( mổ bụng tự sát) trên boong tầu đang bốc cháy và chìm của mình. Wakizaka Yasuharu bị trúng nhiều mũi tên, nhưng không phát nào xuyên qua nổi áo giáp. Sau khi đã mất 59 tàu, Wakizaka bỏ kỳ hạm của mình và lên một chiếc tàu nhanh hơn nhẹ hơn. Tổng cộng, 14 tàu Nhật đã kịp rút lui ngay lập tức khỏi khu vực của trận đánh. Tuy nhiên, rất nhiều tầu sống sót cũng bị đánh hỏng nặng vì vậy mà chúng đã bị bỏ lại trong một số rải rác xung quanh các hòn đảo ở bờ biển phía nam Hàn Quốc. Chỉ còn có một vài tàu trở về được căn cứ của Hải quân Nhật Bản tại Pusan.
    Ý nghĩa của trận đánh
    Chiến thắng của Đô đốc Yi tại Đảo Hansan có ý nghĩa kết thúc giấc mơ của Hideyoshi về việc chinh phục Trung Quốc, mà mục tiêu ban đầu của ông ta là chinh phục Hàn Quốc. Các tuyến đường cung cấp thông qua biển Hoàng Hải phải được mở để nhằm mục đích bảo đảm cho quân đội của mình có đủ nguồn cung cấp và tiếp viện để xâm lược Trung Quốc. Do đó, Konishi Yukinaga, chỉ huy của quân đội Nhật đang đóng tại Bình Nhưỡng không thể tiến xa hơn về phía bắc do thiếu nguồn cung cấp, và cũng không thêm viện binh được gửi cho ông ta vì không có đủ lương thực để nuôi họ. Tốn gấp năm lần các nguồn lực thực phẩm và người để di chuyển nguồn cung cấp thông qua con đường đất trên đường cổ xưa của Hàn Quốc. Hơn nữa, vận chuyển bằng đường bộ dễ bị tấn công bởi các lực lượng chính quy của Trung Quốc và Hàn Quốc cũng như du kích Hàn Quốc (các thủ lĩnh của lực lượng công bình quân đội) mà họ ngày càng hoạt động tích cực cùng với sự loang rộng của chiến tranh.
    Sau khi trận Đảo Hansan (và Trận Angolpo ngay sau đó), Hideyoshi thấy cần thiết để một lệnh trực tiếp cho các chỉ huy hải quân của mình để chấm dứt mọi hoạt động của hải quân không cần thiết và giới hạn ngay lập tức các hoạt động xung quanh cảng Pusan. Ông ta nói với các chỉ huy của ông rằng ông sẽ đến Hàn Quốc để tự mình lãnh đạo các lực lượng hải quân, nhưng Hideyoshi không bao giờ có thể thực hiện điều này vì sức khỏe của ông bị xấu đi nhanh chóng.
    Trận Đảo Hansan là trận đánh quan trọng nhất của cuộc Chiến tranh Imjin. Nó cho thấy rằng tất cả các trận đánh chỉ có thể nổ ra tại Hàn Quốc, chứ không thể nổ ra được ở Trung Quốc, và rằng Bình Nhưỡng là bước tiến xa nhất về phía Tây Bắc của quân đội Nhật Bản ( bước tiến xa nhất về phía Bắc của quân đội Nhật Bản trước đó là các đội quân của Kato Kiyomasa đã có thời gian ngắn tiến vào vào Mãn Châu , tuy nhiên, Mãn Châu không phải là một phần của Trung Quốc trong thế kỷ 16). Trận Đảo Hansan có thể được coi là một trong những trận đánh quan trọng nhất trong lịch sử Đông Á tại thời điểm đó. Hideyoshi đã có thể xâm lược Trung Quốc và chinh phục một phần lớn của đất đai của nó, kế hoạch của ông cũng là đến xâm lược Phillippines và các đảo có vị trí quan trọng về thương mại trong các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc. Các kế hoạch chiến tranh tham vọng hơn của Hideyoshi, đã được tìm thấy ở dạng tài liệu bằng văn bản, gần như giống hệt kế hoạch của Đế quốc Nhật Bản trong cuộc chinh phục ở nửa cuối thế kỷ 20.
    ( Thời này chỉ một dúm Oa khấu độ vài nghìn người hoành hành ở ven biển Phúc Kiến mà nhà Minh mãi không dẹp được, may nhờ có tướng Thích Kế Quang mới yên nổi, vậy 300.000 quân Nhật Bản trang bị súng hỏa mai và tinh thần võ sỹ đạo ùa được vào Trung Quốc thì không biết tình hình ra sao các bác???)
    Quốc tế công nhận
    George Alexander Ballard (1862-1948), một Phó đô đốc của Hải quân Hoàng gia Anh, đã tỏ sự khâm phục chiến thắng của Đô đốc Yi tại trận Hansan-do :
    " Đây là kỳ công hoàn toàn chói lọi của vị Đô đốc hải quân Hàn Quốc vĩ đại. Trong khoảng thời gian ngắn độ sáu tuần [thực ra khoảng 9 tuần, từ Ngày 07 tháng 5, 1592 -- > Ngày 07 Tháng 7, 1592] ông đã đạt được một loạt những thành công vang dội trong lịch sử hàng hải thời chiến, phá hủy đội tàu chiến của đối phương, cắt đứt đường dây liên lạc của chúng, tiêu diệt các đoàn convoy của chúng, đẩy đội quân đang bách chiến bách thắng của chúng vào tình trạng hiểm nghèo, và đẩy các kế hoạch đầy tham vọng của chúng vào phá sản. Thậm chí không một Đô đốc tài ba nào như Nelson, Blake, hoặc Jean Bart có thể đã làm được nhiều hơn con người hiếm có này, con người được biết đến như là đại diện của một quốc gia nhỏ và bị áp bức tàn bạo; và cũng sẽ là rất đáng tiếc rằng những hồi tưởng về ông không được lưu truyền ra bên ngoài quê hương của ông, không một sự đánh giá khách quan nào có thể chối bỏ quyền của ông được đứng vào hàng ngũ những người sinh ra để làm lãnh đạo ( đoạn này dịch không chính xác, đại loại vậy)? "( Trong quấn The Influence of the Sea on The Political History of Japan, trang 57)
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:16 ngày 23/10/2009
    dragonboy1080 thích bài này.
  3. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    bác hongsonvn dùng lệnh để chèn hình nhé
    [​IMG]
    Được macay3 sửa chữa / chuyển vào 10:06 ngày 23/10/2009
    dragonboy1080 thích bài này.
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tiếp về tầu con rùa của Hải quân Triều Tiên cuối thế kỷ 16
    Thiết kế
    Theo Nanjung Ilgi, Nhật ký thời chiến của Yi, Yi quyết định hồi sinh con tàu con rùa vào năm 1591, từ thiết kế hiện tại, sau khi thảo luận với cấp dưới của ông. Sau khi kết luận rằng một cuộc xâm lược của Nhật Bản có thể sắp xảy ra, Yi và thuộc cấp của ông đóng các tàu con rùa hiện đại đầu tiên. Theo nhật ký của Yi, cùng với cuốn sách tên là Hangrok được viết bởi cháu trai của ông, tên là Yi Beon, miêu tả nhiều chi tiết quan trọng về cấu trúc, quá trình đóng, tiến độ, và việc sử dụng các tàu con rùa trong trận chiến, cũng như việc thử nghiệm vũ khí được sử dụng trên các tàu.
    Việc lắp đặt vũ khí, pháo Triều Tiên sản xuất với phạm vi bắn từ khoảng 300-500 mét, đã được thử nghiệm trên 12 tháng 3, 1592. Yi hoàn thành tàu con rùa đầu tiên của ông ta và hạ thủy nó vào ngày 27 tháng 3, 1592, Một ngày trước khi Cuộc vây hãm Busan và Trận Tadaejin nổ ra.
    Cấu tạo của tầu con rùa
    Có một vài phiên bản khác nhau của các tàu con rùa phục vụ trong chiến tranh, nhưng nói chung chúng dài khoảng 100-120ft (30-37 mét dài), và có các cấu trúc đáy mạnh mẽ của lớp tầu Panokseon. Tàu con rùa nói theo kiểu kỹ thuật là một thân tầu được đặt trên đỉnh của một chiếc Panokseon, Với một chiếc neo lớn được đặt ở phía trước của tàu, và một số sửa đổi nhỏ khác.
    Trên mũi tàu được gắn một chiếc đầu rồng ( theo em nghĩ là đầu con rùa thì hợp lý hơn) phát ra khói lưu huỳnh để che dấu một cách có hiệu quả sự vận động của nó tới đối phương trong chiến đấu ở khoảng cách ngắn. Đầu rồng đủ lớn để chứa một khẩu pháo ở bên trong. Người đứng trong đầu rồng chiến đấu như một kiểu chiến tranh tâm lý, Mang sự sợ hãi vào trong tim các thủy thủ Nhật Bản. Các phiên bản đầu của tàu con rùa đốt cháy vật liệu độc hại trong các con rồng đứng đầu để tạo ra một khói màn độc.
    Ở phía trước của con tàu là chiếc neo lớn. Phía dưới là một chuôi neo nhọn bằng gỗ được làm hình khuôn mặt, và chúng được sử dụng để húc vào tàu của đối phương.
    Tương tự như lớp Panokseon, tàu con rùa có hai cột buồm và hai buồm. Chèo cũng được sử dụng cho việc bơi ngoắt nghéo và tăng tốc độ lên. Một ưu điểm khác của tàu con rùa vượt trội hơn kẻ thù của nó là chúng có thể quay bán kính riêng của mình.
    Con tàu có 10 mái chèo và 11 ô cửa để bắn pháo ở mỗi bên. Thông thường, có một ô cửa pháo trong miệng của đầu rồng. Có hai ô cửa pháo ở phía trước và sau của tàu con rùa. Các pháo hạng nặng cho phép các tàu con rùa bắn sang đối phương hàng loạt đạn pháo tròn. Đội thủy thủ thường bao gồm khoảng 50-60 thủy quân lục chiến và 70 tay chèo, và tất nhiên là cả viên thuyền trưởng của chiếc tầu này.
    Có các nguồn tài liệu cho rằng gai nhọn sắt nhô ra từ tấm thép lục giác bao trùm đầu của tàu con rùa. Một lợi thế của sàn tàu đóng chặt là nó bảo vệ các thủy thủ và thủy quân vũ trang Hàn Quốc từ vũ khí hạng nhẹ và đạn bắn. Những chiếc gai làm nản lòng thủy thủ vũ trang Nhật Bản khi họ sử dụng chiến thuâtj chính của chiến hải quân Nhật Bản vào thời điểm đó, áp sát vào nạm của tàu địch, móc vào chúng, nhảy sang bong đối phương và chiến đấu giáp lá cà.
    Người Hàn Quốc đã mô tả bằng văn bản tất cả các điểm của một con tàu cơ động, có khả năng bứt phá tốc độ đột ngột. Cũng giống như lớp Panokseon tiêu chuẩn, Tàu con rùa có đặc trưng là hình chữ U và nó tạo ra một lợi thế đó là sự ổn định khi khai hỏa, và khả năng xoay chuyển trong vòng bán kính riêng của nó. Những bất lợi chính của một đáy tầu hình chữ U so với một đáy tầu hình chữ V là tốc độ bơi dưới nước chậm hơn.
    Trên sàn tầu
    Có nhiều nguồn tin rõ ràng rằng mái của tàu con rùa được phủ đầy gai sắt để ngăn chặn việc đổ bộ lên boong, nhưng không có đủ bằng chứng để hỗ trợ cho tuyên bố rằng đó là chiếc khiên hình mui rùa, Trong thực tế, không có nguồn từ các nghiên cứu của Hàn Quốc hiện đại đề cập đến các tàu con rùa như lớp tầu bọc sắt: Đô đốc Yi Sun-sin, bản thân ông ta không đề cập đến bất kỳ loại mai rùa bằng thép nào trong nhật ký cuộc chiến tranh toàn diện của mình, cũng không có trong nhật ký của Yi Pun, cháu trai của ông ta và là người chứng kiến cuộc chiến tranh. Các biên niên sư? của vua Sonjo, một thu thập dài nhiều ngàn trang biên dịch tất cả các loại tài liệu chính thức về thời kỳ này, cũng im lặng về đề tài này. Ngược lại, theo thủ tướng Hàn Quốc Yu Song-nyong tàu con rùa được mô tả như là "che phủ bởi tấm gỗ trên đầu".
    Các nguồn tin từ Nhật Bản đề cập đến các xung đột trong tháng 8 năm 1592 có liên quan đến ba tàu con rùa Hàn Quốc "che phủ sắt". Tuy nhiên, theo nhà thơ Yip Pee Hawley, điều này không có nghĩa là các tàu trên được che phủ bằng tấm sắt; có thể coi đó chỉ là các gai sắt nhô ra từ nóc tầu của họ, một mô tả phù hợp với các sự kiện trong ba tuần đầu tiên trong nhật ký của Yi Sun-sin. Tuy nhiên theo các hồ sơ, cho thấy chính phủ Nhật Bản đã ra lệnh vào tháng 2 năm 1593 quân đội phải sử dụng các tấm sắt trong việc đóng tàu, có thể để đáp lại các cuộc tấn công của tầu Hàn Quốc.
    Bởi vậy là vì, Yi Sun-shin, người đã bị cắt bỏ phần lớn từ các nguồn cung cấp từ chính quyền trong suốt chiến dịch của mình, đã tìm thấy một số tiền tương đối nhỏ tương đương với 50 bảng từ họ hàng, theo nhật ký chiến tranh của ông. Vì vậy, Hawley tin rằng không chắc rằng Đô đốc Yi đã có thể được cung cấp một cách lặng lẽ hơn sáu tấn sắt ước tính (12.000 bảng) cần thiết để làm mỗi mái thép. Toàn bộ số thép như vậy tương đương với trọng lượng một chiếc tàu bình thường, và sẽ có thể được coi là hữu ích hơn là đúc thêm pháo bổ sung, đặc biệt là kể từ khi Triều Tiên đã nhận thấy rõ rằng tàu chiến Nhật Bản đã thực tế không có súng hải quân. Phải đương đầu với một kẻ thù là người dựa vào hỏa pháo nhỏ và chiến thuật tràn ngập boong, và phải đối mặt với những khó khăn do hậu cần và tài chính liên quan đến việc mua một lượng lớn sắt thép lớn như vậy, bất kỳ tàu bọc sắt nào của Hàn Quốc theo Hawley chỉ được coi là thừa:
    ?o Cho đến khi thêm thông tin để làm sáng tỏ các mâu thuẫn, kết luận hợp lí nhất là tàu con rùa của Yi Sun-sin được bọc bằng gỗ chắc và phủ lên mái tầu với những tấm ván dày đóng gai/ đinh sắt ?" để chống lại hỏa pháo cỡ nhỏ của Nhật Bản là đã đủ giáp?.
    Bằng chứng cho một chiếc tàu con rùa có mai bọc thép đã được tìm thấy theo Turnbull, trong một bản vẽ của tàu con rùa năm 1795 nơi vỏ được hiển thị như đang được bao phủ bởi một mẫu hình lục giác khác biệt, ngụ ý rằng có cái gì đó bao lên lớp vỏ gỗ. Hawley, tuy nhiên, đặt câu hỏi về tính chính xác lịch sử của bản vẽ này vì nó xuất phát từ các bản vẽ của tàu con rùa trong thế kỷ 16 chỉ có các gai sắt báo cáo (xem hình) và hình dạng khác nhau và số lượng rồng được vẽ ở phần mũi tầu. Trong bối cảnh này, có một điều rất đáng ghi nhận rằng cấu trúc lục giác, như là một tính năng tự nhiên của vỏ rùa, không nhất thiết hàm ý phải là giáp kim loại, kể từ khi tên "rùa con tàu" được chứng thực khoảng 180 năm trước khi tàu của Yi Sun-sin được hạ thủy (năm 1413), cho tới bất cứ một kiểu tầu sau này bởi tất cả các ghi chép đều không có cái nào đề cập đến loại giáp kim loại.
    Theo một giả thuyết của Hawley, ý tưởng rằng các tàu con rùa lớp bọc thép của Hàn Quốc đã có nguồn gốc từ các bài viết của những người Phương Tây trở về từ Hàn Quốc. Tiến trình từ so sánh ngẫu nhiên đến một tuyên bố thực tế là các tàu con rùa được phỏng đoán theo các tầu bọc sắt của thế kỷ đó, khoảng năm1880. Khi đến các địa phương mà theo lịch sử có tầu con rùa cổ, bị ảnh hưởng bởi loại tầu chiến phương Tây hiện đại, các tác giả có thể có tự nhiên bị liên cảm tới hình ảnh áo giáp bằng kim loại, thay vì một vỏ gỗ nặng truyền thống hơn. Ví dụ, khi Triều Tiên bị đe dọa bởi Hải quân Pháp, chính phủ ra lệnh cho đóng một tàu bọc thép "giống như chiếc tàu con rùa". Tuy nhiên, bất chấp mọi nỗ lực bản thiết kế không thể nổi . Turnbull tin rằng kinh nghiệm của thế kỷ 19 không thể áp dụng vào "giới hạn các phần bọc giáp thời năm 1592".
    Vấn đề được đề cập đến là người Hàn Quốc tranh cãi về công bố thứ tự của các tầu chiến hiện đại xuất hiện sớm nhất là, chiếc Santa Anna của Hiệp sĩ dòng Cứu tế (1522), Người Nhật lớp Atakebune (1578) và Hà Lan chiếc Finis Bellis (1585).
    Vũ khí của tầu con rùa
    Đầu rồng
    Đầu rồng được đặt trên đầu tàu tại mũi của chiếc tầu. Một vài phiên bản khác nhau của đầu rồng được sử dụng trên các tàu con rùa. Đầu rồng lần đầu tiên được đặt như là một hình thức chiến tranh tâm lý để hù dọa các binh sĩ Nhật Bản. Một phiên bản mang một ống phóng có thể phát ra một làn khói dầy hại dầy đặc được tạo ra từ một hỗn hợp của lưu huỳnh và sanpết ( Diêm sinh?) được trộn ở phía trong của con tàu. Khói này được thiết kế để che khuất tầm nhìn của quân Nhật Bản để tăng cường khả năng cơ động và phối hợp đúng cách.
    Nhật ký của riêng của Yi giải thích rằng một pháo có thể được lắp đặt tại miệng rồng để bắn tàu địch.
    Gai ( chông/ đinh nhọn)
    Gai kim loại đã được sử dụng để che trên đầu của tàu con rùa để ngăn chặn chiến thuật chiếm boong tầu được sử dụng bởi người Nhật. Theo các hồ sơ lịch sử, các gai được che phủ bằng bao tải gạo trống rỗng, hoặc thảm để thu hút các thủy thủ vũ trang Nhật Bản nhảy vào đó, tạo cho thủy thủ Nhật Bản cảm giác an toàn khi sử dụng chiến thuật chiếm boong tầu. Tuy nhiên, các học giả thời hiện đại lại cho rằng điều này không hợp lý vì như vậy sẽ có là mục tiêu tốt cho các mũi tên lửa của kẻ thù.
    Súng/ pháo
    Rùa con tàu được trang bị các khẩu Cheonja (Trời), Gija (Đất), Hyeonja (Đen), và Hwangja (Vàng) loại pháo. Cũng còn có một khẩu súng hỏa mai được gọi là Seungja (chiến thắng). Khẩu Seungja có độ bắn xa 200 mét, trong khi trong khi khẩu Hwangja là loại nhẹ nhất, nhưng bắn xa tới 1.200 mét. Một tài liệu của người Nhật Bản ghi lại trận Angolpo theo kinh nghiệm của hai chỉ huy Nhật Bản vào ngày 09 tháng 7 năm 1592 tại của cuộc chiến chống lại tàu con rùa của họ, " tàu con rùa của người Triều Tiên vẫn tiếp tục tấn công cho đến khoảng 6:00 chiều, bắn những mũi tên cháy lớn liên tục, ngay cả khi ở khoảng cách gần là 18-30 feet. Kết quả là hầu như mọi phần của tàu của chúng tôi - những tháp pháo, khoang chứa quân và các khiên che chắn - đã bị phá hủy hoàn toàn ... "

    Chiến thuật sử dụng
    Đô đốc Y tái sinhtàu con rùa để làm một tầu tấn công cận chiến, ông dự định ram ( húc) tàu địch và đánh chìm chúng, tương tự như chiến thuật được sử dụng trong nhiều thế kỷ qua. Tầu con rùa cơ động bằng mái chèo và đâm trực tiếp vào thành tàu địch để phá vỡ đội hình hàng ngang của chúng. Sau khi đánh đòn ramming, tàu con rùa sẽ phát hỏa các khẩu súng bắn cầu vồng các ở mạn tầu . Bởi vì chiến thuật này, người Nhật gọi là tàu con rùa là mekurabune (>"^), hoặc "tàu mù", bởi vì chúng sẽ phát khói và ram vào tàu của đối phương. Tấn công kiểu này đã được sử dụng trong trận Dangpo Trận và trận Sacheon (1592).
    Cái mai của tàu con rùa được sử dụng như dụng cụ chính để chống lại chiến thuật tràn ngập boong tầu, vì phía trên của chiếc mai có cài gai/ chông sắt. Lính thủy vũ trang Nhật Bản không thể nhảy trực tiếp trên trên mái, và nhảy lên đầu của tàu con rùa được vì thường thương vong vì gai/ chông sắt đâm xiên. Mai bằng gỗ nặng làm chệch hướng mũi tên và đạn súng hỏa mai.
    Sau đó, tàu con rùa đã được sử dụng vào các mục đích khác như mũi nhọn xung kích tấn công hoặc mai phục, phục kích tàu Nhật Bản tại các khu vực chật hẹp như trong trận Noryang.
    Mặc dù trang bị nặng, tàu con rùa không phải là một con tàu quá chậm chạp. Tàu con rùa cơ động bằng chèo, buồm của nó có thể quay quanh trục như lớp panokseon. Đô đốc Yi đóng các tàu con rùa nhằm cho mục đích đánh đòn ramming vì vậy chúng phải khá là nhanh nhẹn và linh hoạt.
    Tàu con rùa ngày nay
    Tàu con rùa đã được đóng lại bởi Trung tâm Nghiên cứu Keobukseon, đây là một công ty thương mại tư nhân, công ty này đã làm rất nhiều nghiên cứu trên thiết kế ban đầu của tàu con rùa; và tái tạo được một số kích thước thực của chúng để sử dụng trong mục đích thương mại. Tầu con rùa ( hàng nhái) xuất hiện ở một vở kịch Hàn Quốc có tên Sự bất tử của Đô đốc Yi Sun-shin. Một số bảo tàng tàu con rùa đang mở cửa, và mọi người có thể chiêm ngưỡng tái bản của tầu con rùa với tỉ lệ 1:1, tái bản này đang neo đậu tại Yeosu.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:35 ngày 24/10/2009
    dragonboy1080 thích bài này.
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận hải chiến nổi tiếng Lịch Sử - Thời Trung Đại ( Tiếp)
    Trận hải chiến eo biển Myeongnyang
    Ngày xảy ra trận đánh: 26 tháng 10 năm 1597 (ngày 16 tháng 9 theo lịch âm của Trung Quốc, 13 tháng 9 theo lịch âm của Hàn Quốc)
    Vị trí: Eo biển Myeongnyang, gần đảo Jindo
    Kết quả: Hàn Quốc quyết định chiến thắng
    Các bên tham chiến
    Hải quân Nhật Bản

    Hạm đội của Toyotomi Hideyoshi (Toyotomi Hideyoshi là vị chúa cao nhất đã thống nhất Nhật Bản)
    Chỉ huy
    Todo Takatora
    Kurushima Michifusa?
    Kato Yoshiaki
    Wakisaka Yasuharu
    Sức mạnh
    133 tàu chiến và ít nhất 200 tàu hậu cần
    Thương vong và thiệt hại
    31 tàu bị phá hủy
    Khoảng 92 tàu bị vô hiệu hóa
    12.000 thương vong
    Hải quân Joseon ( Triều Tiên/ Hàn Quốc)
    Chỉ huy
    Yi Sunsin ( Lý Thuấn Thần)
    Kim Eok-chu
    Sức mạnh
    13 tầu chiến lớp Panokseon
    Thương vong và thiệt hại
    Không có tàu bị mất
    ít nhất 2 người chết và 3 người bị thương trên tàu của Yi sun-shin
    Trận Myeongnyang, diễn ra vào ngày 26 tháng 10 năm1597, đô đốc hải quân Triều Tiên Yi Sunsin đã chiến đấu với hải quân Nhật Bản trên biển tại eo biển Myeongnyang, gần đảo Jindo. Với chỉ 13 tàu còn lại sau trận thua tai hại của đô đốc hải quân Triều Tiên Won Gyun tại trận Chilchonryang, Đô đốc Yi Sunsin đã tổ chức một trận hải chiến với một đội tàu chiến 133 và ít nhất 200 tàu hậu cần của Nhật Bản. Nhiều tàu chiến Nhật bị chìm hoặc vô hiệu hóa trong trận đánh và hải quân Nhật Bản buộc phải rút lui. Do sự chênh lệch quá cao về số lượng, trận chiến được coi là một trong những chiến công đáng chú ý nhất của Đô đốc Yi.
    Bối cảnh chung trước trận đánh
    Do Nhật Bản vận động ngầm và lợi dụng âm mưu chính trị của tòa án Joseon , Đô đốc Yi Sunsin đã bị luận tội và tưởng như ông đã phải chịu án tử hình. Nhưng thay vì bị tra tấn và hành hình ông được ân xá và bị giáng chức xuống cấp của một quân nhân bình thường. Đối thủ chính trị của Yi, đô đốc Won Gyun, thay quyền chỉ huy của hạm đội Hàn Quốc, hạm đội mà trong sự quản lý tài tình của Yi đã tăng từ 63 lên tới 166 chiến hạm hạng nặng.
    Trong Trận Chilchonryang, Hải quân Nhật Bản, dưới sự tổng chỉ huy của Todo Takatora, đã tỏ ra lấn lướt hải quân Hàn Quốc và hầu như xóa sổ nó. Ngay sau đó, người Nhật tăng cường nhiều đơn vị đồn trú của họ ở Pusan và pháo đài khác nhau trong vùng bờ biển phía nam của Hàn Quốc, và bắt đầu cuộc xâm lược lần thứ hai.
    Với sự đại bại nặng nề, hải quân Triều Tiên dường như đã phải ra khỏi cuộc chơi, người Nhật tin rằng bấy giờ họ có thể ra vào biển Hoàng Hải một cách thoải mái và có thể tiếp tế quân đội của họ thông qua tuyến đường biển này khi họ tiến về phía Bắc. Trong chiến dịch 1592, Đô đốc Yi ngăn ngừa các tầu Nhật Bản cung cấp lương thực cho quân đội của họ theo cách này và cầm chân hạm đội Nhật Bản tại cảng của họ ở Pusan.
    ( Em xin giới thiệu vắn tắt về trận thua tan nát của hải quân Triều Tiên trước hải quân Nhật Bản, trận Chilchonryang để mọi người hiểu thêm về cảnh khó khăn của đô đốc Yi - bằng chữ mầu xanh và nghiêng)
    Trận Chilchonryang
    Won Gyun thay thế Đô đốc Yi để thành tổng chỉ huy của hạm đội Hàn Quốc . Won Gyun quyết định tấn công một hạm đội lớn của Nhật Bản khi mà ông ta không biết rõ về số lượng, sức mạnh, và địa điểm đóng quân của đối phương.
    Won Gyun quyết định đi tìm hải quân địch bằng toàn bộ hạm đội Hàn Quốc, hạm đội đã được đô đốc Yi cẩn thận xây dựng và củng cố. Won Gyun tiến sang phía trái Hansando và vào ngày 27 tháng tám năm 1597, ông ta đã sớm gặp một hạm đội rất lớn của đối phương ở gần Pusan. Won Gyun bị sốc khi thấy hải quân Nhật Bản có số lượng tối thiểu là 500-1.000 tàu. Mặc dù biết rằng quân đội của ông bị mệt mỏi, Won Gyun vẫn ra lệnh tấn công. Tại thời điểm của cuộc tấn công, một chỉ huy hải quân Hàn Quốc tên là Bae Seol nhanh chóng bỏ trốn với 12 tàu dưới sự chỉ huy của ông khi biết các kết quả của trận đánh phía trước. Xin lưu ý rằng, đây chính là 12 chiếc tầu mà đô đốc Yi sẽ sử dụng để đánh bại tại hạm đội Nhật Bản tại trận eo biển Myeongnyang sau khi được khôi phục chức vụ của mình. (Chỉ huy Bae Seol cũng đã lại bỏ chạy với tàu duy nhất của mình trước khi trận Myeongnyang diễn ra). Các tầu của Triều Tiên tiến lên rất nhanh nhưng không theo một chiến thuật cụ thể nào cả, trong khi hải quân Nhật Bản bắn trả bằng súng hỏa mai. Tầu chiến Nhật Bản phá hủy ít nhất 30 tàu Hàn Quốc bằng cách chèo tới gần các tàu Hàn Quốc và nhảy trên tàu đối phương để bắt đầu hỗn chiến. Các tầu chiến Hàn Quốc không có cơ hội để nổ súng hay bắn pháo.
    Won Gyun rút lui trở lại đảo Gadeok gần đó, và tại đó hạm đội của ông ta còn bị thiệt hại nhiều hơn. Rõ ràng, đảo Gadeok đang nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Nhật Bản và khi Won Gyun đổ bộ với quân lính của mình xuống đó để tìm tìm kiếm thức ăn và nguồn nước, chỉ huy các pháo đài tại hòn đảo này của Nhật Bản Chikushi Hirokado đã tấn công và giết chết 400 thủy thủ vũ trang của Hàn Quốc. Won Gyun nhanh chóng ra lệnh rút lui về phía trái đảo Gadeok
    Người Nhật Bản đã rất ngạc nhiên trước sai lầm khủng khiếp của hải quân Hàn Quốc và họ tổ chức để tấn công cùng một lúc vào hạm đội Hàn Quốc vào ban đêm. Đó là một thảm họa cho hải quân Hàn Quốc và người Nhật Bản đã sử dụng chiến thuật truyền thống của họ là áp mạn tầu và xung phong để tiêu diệt hải quân Hàn Quốc. Trước đó đô đốc Yi đã luôn luôn giữ một khoảng cách để có thể nổ súng vào các tầu Nhật Bản nhưng Won Gyun đã để cho các tầu Nhật Bản áp sát và tấn công tầu Hàn Quốc bằng kiếm và dáo nhọn. Sau cuộc tấn công bất ngờ, khoảng 200 tầu lớp Panokseons và một số loại tàu khác bị đánh cho tơi tả và chìm vào đáy đại dương. Won Gyun bị sốc vì cuộc tấn công này và lại rút lui nhanh chóng trong khi các tầu Hàn Quốc khác đang chật vật chống trả.
    Won Gyun và Yi Eok-gi, một viên đô đốc khác của Hàn Quốc, lại đổ bộ lên bờ tại một hòn đảo gần đó với một vài người sống sót. Một lần nữa, tại đó có một pháo đài của Nhật Bản với một đơn vị đồn trú Nhật, lính Nhật đổ xô ra ngoài và giết sạch nhóm người Hàn Quốc còn lại, trong đó có Won Gyun và Yi Eok-gi.
    Trận Chilcheollyang là một sự hủy diệt đối với hải quân Hàn Quốc và một mất mát lớn về con người. Khi Vua Seonjo nghe nói về trận chiến, ông đã nhanh chóng ân xá Đô đốc Yi (người đã trải qua một thời gian là một binh nhì dưới sự chỉ huy của tướng Gwon Yul), và đưa ông ta trở lại làm Tổng chỉ huy của hạm đội Hàn Quốc, hạm đội mà bây giờ chỉ còn với độ 200 thủy thủ và 13 tàu đã bỏ chạy của Bae Seol.
    Trận hải chiến eo biển Myeongnyang - tiếp
    Đô đốc Yi Sun-sin được phục chức một cách vội vàng lại làm Tổng tư lệnh hải quân ba tỉnh của Triều Tiên sau khi đô đốc Won Gyun bị giết tại trận Chilchonryang. Đô đốc Yi chỉ có 12 tầu lớp panokseon khi ông nhận lại chức vụ, các tầu này vốn đã được lưu lại bởi Bae Seol, một sỹ quan hải quân Hàn Quốc đã sớm bỏ chạy trong trận Chilchonryang. Sau đó, một tàu nữa tham gia với Yi và làm tăng số lượng tầu của ông lên con số 13. Mặc dù Yi chỉ có 200 thủy thủ ban đầu, một số thủy thủ sống sót sau trận Chilchonryang lần lần kéo với ông, và ông đã có ít nhất 1.500 thủy thủ và lính thủy vũ trang vào cuối tháng Chín.
    Eo biển Myeongnyang có dòng chảy rất mạnh ở khoảng 10 knots, ban đầu chúng chảy theo một hướng, sau đó theo hướng đối diện, hướng ba giờ. Đô đốc Yi quyết định sử dụng điều kiện duy nhất như là một nhân tố để tăng sức mạnh của mình. Sáng ngày 26 tháng 10, người Nhật kéo rất đông vào eo biển vì thuỷ triều thuận lợi cho họ, và Đô đốc Yi đang chờ đợi họ ở cuối dòng chảy đối diện, ông sử dụng bóng của những ngọn đồi để giấu các tàu của mình. khi các tàu Nhật đến gần cuối của eo biển, Đô đốc Yi ra lệnh cho 13 tàu của mình đi ra khỏi nơi ẩn nấp và lập đội hình cho các cuộc tấn công.
    Bằng cách từng loạt pháo bắn một, Các tầu của Hàn Quốc liên tục tung ra những đợt bắn chặn giữ dội mà vẫn giữ được khoảng cách với các tầu Nhật Bản ( do dòng nước đổi chiều bất ngờ?). Eo biển ngăn cản tầu chiến của Hàn Quốc bị đánh thọc sườn từ hai bên, và sóng mạnh bởi thuỷ triều ngăn ngừa các tầu Nhật Bản bao vây chúng một cách có hiệu quả. Hơn nữa, các tàu Hàn Quốc có thiết kế đáy bằng phẳng tạo sự ổn định hơn và bắn pháo chính xác hơn tàu Nhật Bản có đáy hình cong.
    Trôi nổi bập bềnh theo dòng nước xuôi về phía Triều Tiên lúc bấy giờ là một xác chết bọc giáp có nhiều văn hoa của một chỉ huy cao cấp Nhật Bản. Cái xác này được xóc lên bởi một người lính trên tàu của Đô đốc Yi và người ta xác định đây là xác của Kurushima Michifusa, chỉ huy đơn vị tiên phong của hạm đội Nhật Bản và là anh trai cuối của Kurushima Michiyuki, người bị giết trong năm 1592 bởi đô đốc Yi trong trận Dangpo. Yi ra lệnh cắt đầu Kurushima và treo trên cột buồm của kỳ hạm của ông. Chính mắt nhìn thấy đầu chỉ huy của họ, tinh thần quân lính Nhật Bản giảm xuống
    Thuỷ triều nhanh chóng đổi hướng, các tàu Nhật bắt đầu trôi dạt lùi và va chạm với nhau. Nhìn thấy sự lộn xộn này, Đô đốc Yi ra lệnh cho các tàu của mình tiến lên và bắn mạnh hơn nữa, phá hủy nhiều tàu hơn nữa bất chấp sự vượt trội về số lượng của các tầu Nhật Bản. Đội hình dày đặc, đông đúc của các tàu Nhật Bản ở eo biển nhỏ đã trở thành một mục tiêu hoàn hảo cho các tầu Triều Tiên bắn pháo. Triều cường mạnh khiến những người đang chìm trong khi cố bơi vào bờ, và rất nhiều thủy thủ Nhật Bản bị bỏ rơi từ các tầu bị đắm chết đuối. Sau khi Nhật Bản mất 31 tàu chiến và các chỉ huy còn lại nhận ra được sự thiệt hại là quá nặng nề, hạm đội của họ không thể còn chiến đấu hiệu quả, và vì thế họ rút lui.
    Chiến thắng này ngăn cản các cố gắng của Nhật Bản tìm cách thâm nhập vào biển Hoàng Hải và cung cấp đồ hậu cần cho quân đội của họ, mà hiện lúc đó đội quân này đang chiến đấu chống lại quân đội Hàn Quốc và Trung Quốc trong trận Jiksan (Cheonan) và đang hướng về thành phố thủ đô Hanseong (Seoul). Với việc nguồn cung cấp và quân tiếp viện của họ qua đường biển bị cắt đứt, người Nhật đã phải ngừng bước tiến của họ và bắt đầu tổng triệt thoái.
    Sau trận đánh
    Kết quả ngay lập tức của trận đánh này chính là một cú sốc khủng khiếp đến toàn thể bộ chỉ huy Nhật Bản. Đồ hậu cần không được cung cấp hoặc bị giảm đồng thời với việc không có quân tiếp viện mới, tinh thần của binh lính Nhật bị suy giảm. Quân đội Hàn Quốc và Trung Quốc đã có thể tập hợp lại và đẩy người Nhật Bản trở lại hệ thống pháo đài của họ trên bờ biển đông nam của Hàn Quốc.
    Chiến thắng này cũng thúc đẩy lực lượng hải quân Trung Quốc để tham gia tham gia vào lực lượng của Đô đốc Yi vào đầu năm 1598. Sau khi hầu hết các tầu chiến của Hàn Quốc bị tiêu diệt tại trận Chilchonryang, nhà Minh giữ hải quân của họ đồn trú tại các thành phố cảng quan trọng để có thể chống lại các cuộc tấn công của hải quân Nhật Bản. Chiến thắng tại Myeongnyang thuyết phục triều đình nhà Minh rằng họ có thể dễ dàng đảm bảo an ninh tại các cảng chính của họ và huy động một hạm đội để viện trợ cho Hàn Quốc.
    Các ghi nhớ mang tính kỹ thuật của trận đánh
    Điều kiện thủy triều duy nhất của eo biển đã được Đô đốc Yi nghiên cứu cẩn thận từ trước, ảnh hưởng đến các tầu của Nhật Bản theo nhiều cách. Trước hết, khi tấn công tầu Hàn quốc, người Nhật nên tấn công bằng các nhóm tầu nhỏ. Họ rất không nên tung tất cả các tàu của mình vào con kênh cùng một lúc; mặc dù lúc đó dòng chảy đã di chuyển về phía bắc, nó vẫn không thể đoán trước, với các xoáy nước cô lập, và tung ra một số lượng lớn các tàu chiến vào con kênh sẽ làm cho chúng va chạm với nhau. Thứ hai, khi dòng chảy ngược và phía nam vào cuối ba giờ, tầu của người Nhật không chỉ trôi dạt ra khỏi trận đánh, mà còn không thể cơ động và rốt cuộc đâm phải nhau ngay cả khi họ tránh được những xoáy nước. Điều này có lẽ là lý do chính tại sao có quá nhiều tàu thuyền bị hư hại về phía Nhật Bản. Cuối cùng, các dòng nước chảy mạnh của eo Myeongnyang đã gây khó khăn cho những người bị ngã từ bong tầu hoặc nhảy từ tàu đang chìm hoặc cháy để bơi vào bờ; phần lớn binh lính Nhật Bản bơi ở cuối luồng nước đều chết đuối.
    Trái với điều mọi người hằng tin tưởng, không có tàu con rùa nào được sử dụng cho trận đánh này. Nói chung, Đô đốc Yi chỉ có thể có 2-- >6 tầu con rùa tại bất kỳ thời điểm nào trong toàn bộ của cuộc chiến, và chúng đã bị tiêu diệt sạch sành sanh bởi Won Gyun trong trận Chilchonryang. Mười ba tầu mà Yi đã dùng trong trận này rất có thể là lớp panokseon.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 18:29 ngày 24/10/2009
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận hải chiến nổi tiếng Lịch Sử - Thời Trung Đại ( Tiếp)
    Trận hải chiến eo biển Noryang
    Thời gian xảy ra: Ngày 16 Tháng 12 Năm 1598
    Vị trí trận đánh: Eo biển Noryang, ngoài khơi đảo Namhae
    Kết quả: Hải quân liên quân Trung Triều thắng trận

    Các bên tham chiến
    Hải quân Nhật Bản ( quân đội của Chúa Toyotomi )
    Chỉ huy
    Shimazu Yoshihiro
    Tachibana Muneshige
    Wakizaka Yasuharu
    So Yo****oshi
    Sức mạnh
    500 tàu chiến
    Thương vong và thiệt hại
    200 tàu chiến chìm, 100 tàu bị bắt
    Liên quân hải quân Joseon Hàn Quốc và nhà Minh Trung Quốc
    Chỉ huy
    Yi Sun-sin ?
    Chen Lin
    Deng Zilong ?
    Sức mạnh
    83 tầu lớp panokseon
    63 tầu chiến kiểu galley ( nhà Minh)
    tổng số tàu của liên minh nhỏ hơn hoặc bằng 150 tầu chiến
    Thương vong và thiệt hại
    500 binh sĩ và thủy thủ
    Đô đốc Yi Sun-sin hy sinh trong trận này
    Trận Noryang, trận đánh lớn cuối cùng của cuộc xâm lược của Nhật Bản vào Hàn Quốc (1592-1598), là trận chiến giữa hải quân Nhật Bản và các đội tàu kết hợp của Hàn Quốc và hải quân nhà Minh. Trận đánh diễn ra vào sáng sớm của ngày 16 tháng mười hai (19 tháng 11 năm âm lịch) năm 1598 và kết thúc khi bình minh qua.
    Các lực lượng liên minh có tổng cộng khoảng 150 tầu của Triều Tiên và của Trung Quốc, dẫn đầu bởi Đô đốc Yi Sun-sin và Chen Lin, tấn công và tiêu diệt hoặc bắt giữ một nửa hoặc nhiều hơn một nửa trong số 500 tàu Nhật chỉ huy bởi Shimazu Yoshihiro, ngăn chặn sự liên kết của lực lượng của Shimazu Yoshihiro với lực lượng của Konishi Yukinaga . Những tầu còn sống sót của hạm đội của Shimazu thất thểu quay trở lại Pusan và một vài ngày sau đó, chạy trở về Nhật Bản. Vào lúc đỉnh cao của trận đánh, Đô đốc Yi bị bắn trúng bằng một khẩu súng hoả mai Nhật Bản và hy sinh ngay sau đó.
    Bối cảnh chung trước trận đánh
    mời các bác ngó vài Video clip về các trận hải chiến của đô đốc Lý Thuấn Thần
    http://www.metacafe.com/watch/2733166/admiral_yi_sun_sin_and_his_great_achievements/
    http://www.youtube.com/watch?v=Yr_0Ek1usm4&hl=vi
    http://www.youtube.com/watch?v=PMhqw20Jr-A&feature=related
    http://www.youtube.com/watch?v=ReN8bAbJNzQ&feature=related
    http://www.youtube.com/watch?v=wruucp8HkGc&NR=1
    http://www.youtube.com/watch?v=tKKp0tguDYY&feature=related
    http://www.youtube.com/watch?v=mAvgCwEqZ18&feature=related
    http://www.youtube.com/watch?v=TWMvfPwZKFQ&feature=related
    http://www.youtube.com/watch?v=q2gtU4DXsB8&feature=related
    http://www.youtube.com/watch?v=9SlFbc1cwLk&feature=related
    http://www.youtube.com/watch?v=l2ekXN91aiI&feature=related
    Do một số thất bại trên cả đất liền và biển, quân đội Nhật Bản đã bị đẩy lui về hệ thống pháo đài ( wajō ) của họ ở trên bờ biển phía đông nam Hàn Quốc. Tuy nhiên, hệ thống pháo đài cũng không thể chứa nổi toàn bộ quân đội Nhật Bản đông như vậy trong tháng 6 năm 1598, Hideyoshi ra lệnh 70.000 binh sĩ của phần lớn cánh phải của quân đội Nhật Bản rút lui về phía các quần đảo (Nhật Bản?). Trong ngày 18 tháng 9 năm1598 Toyotomi Hideyoshi, Taiko ( Chức danh của lãnh chúa cao nhất Nhật Bản - vua thực sự của Nhật), người ra lệnh cho quân đội Nhật Bản xâm lăng Triều Tiên (1592-1598), qua đời tại lâu đài Fushimi. Mệnh lệnh cuối cùng của Hideyoshi cho các đơn vị còn lại của quân đội Nhật Bản đang đồn trú trong hệ thống pháo đài là bắt đầu rút quân. Tuy nhiên, do sự hiện diện của tầu chiến của Triều Tiên và nhà Minh, các đơn vị đồn trú Nhật Bản tại các đồn trại không thể rút lui và phải ở lại trong các pháo đài của họ.
    Pháo đài Sunchon là pháo đài ở phía tây của hệ thống pháo đài của Nhật Bản và có 14.000 quân dưới sự chỉ huy của Konishi Yukinaga, chỉ huy của đội quân tiên phong của Nhật Bản trong cuộc xâm lược đầu tiên năm 1592 đồn trú ở đó. Đô đốc Yi Lin và Chen chặn không cho Konishi rút lui, nhưng Konishi gửi nhiều quà tặng đến Chen trong một nỗ lực để hối lộ các chỉ huy nhà Minh, để họ dỡ bỏ phong tỏa. Lúc đầu Chen đã đồng ý rút hạm đội liên quân, nhưng Đô đốc Yi đã cương quyết từ chối. Sau đó Chen Lin gợi ý rằng liên quân nên tấn công các đồn nhỏ hơn, dễ bị tổn thương hơn như pháo đài Namhae. Đô đốc Yi đã cho rằng chiến lược là không tốt. Ngược lại Yi cho rằng Konishi, một trong những chỉ huy lớn nhất, sẽ bị để tẩu thoát nếu liên quân tấn công vào nơi khác.
    Trên 15 tháng 12, Khoảng 20.000 quân từ Nhật Bản từ các pháo đài Sachon, Goseong và Namhae lên 500 tàu chiến và hành quân về phía đông của Eo biển Noryang trong một nỗ lực phá vỡ sự phong tỏa của liên quân vào Sunchon. Tổng chỉ huy của lực lượng phá vây này là Shimazu Yoshihiro, chỉ huy của pháo đài Sachon.
    Mục tiêu của hạm đội liên quân là ngăn chặn sự hợp nhất của hạm đội của Shimazu với đạo quân của Konishi, sau đó tấn công và đánh bại hạm đội của Shimazu. Mục tiêu của hạm đội của Shimazu là vượt qua eo biển Noryang, hợp nhất với Konishi và rút lui về Pusan. Shimazu biết rằng Konishi đã nỗ lực để gây sự chia ra trong liên quân và hy vọng rằng họ sẽ đi nơi khác hoặc vẫn đang bao vây pháo đài Sunchon và vì thế dễ bị tấn công từ phía sau.
    Trận đánh
    ngày 15 tháng 12, Một đội tàu lớn của Nhật Bản được tập hợp ở trong vịnh Sachon, cuối phía đông của Eo biển Noryang. Shimazu không có được thông tin chắc chắn về vị trí của hạm đội liên quân. Họ có thể tiếp tục phong tỏa pháo đài của Konishi, hoặc trên đường tấn công một pháo đài bị rời bỏ ở xa hơn về phía đông hoặc chặn đang chặn ở cuối phía tây của eo biển Noryang. Trong khi đó, Đô đốc Yi biết chính xác vị trí hạm đội của Shimazu sau khi nhận được các báo cáo trinh sát và từ ngư dân địa phương.
    Hạm đội Triều Tiên bao gồm 82 chiếc tầu lớp panokseon nhiều bong. Hạm đội nhà Minh gồm sáu tầu chiến lớn ( tàu chiến thực sự rất có thể được sử dụng như kỳ hạm) cơ động bởi cả hai hàng mái chèo và buồm, 57 tầu chiến hạng nhẹ ( galley) chỉ có mái chèo (rất có thể là tầu vận tải được chuyển đổi để sử dụng trong chiến đấu), và hai tầu lớp panokseon Chan Lin và Đô đốc Yi sử dụng. Về nhân lực, hạm đội liên quân có 8.000 thủy thủ và thủy quân vũ trang thuộc quyền Đô đốc Yi, 5.000 quân nhà Minh trong đội tầu Quảng Đông và 2.600 thủy quân vũ trang nhà Ming chiến đấu trên các tàu Hàn Quốc, có tổng cộng gần 16.000 thủy thủ và thuỷ quân vũ trang. Hạm đội của nhà Minh đã được chia thành hai hải đội, trong đó đội lớn hơn do Chen Lin chỉ huy và đội nhỏ do Deng Zilong chỉ huy. Hạm đội liên quân trang bị pháo, súng cối, cung thủ và súng hoả mai. Người Nhật Bản có 500 tàu, nhưng là một phần quan trọng trong hạm đội của họ là tầu vận tải hạng nhẹ. Các tàu Nhật Bản cũng được trang bị súng hoả mai và một số pháo Triều tiên chiến lợi phẩm. Hạm đội liên quân có số lượng ít hơn, nhưng đa số là tầu hạng trung, với hỏa lực vượt trội, và được đóng vững chắc hơn.
    Hạm đội liên quân chờ các tầu của Shimazu ở cuối phía tây của eo biển Noryang. Trận đánh bắt đầu lúc 02:00 sáng ngày 16 tháng 12. Ngay từ đầu, đây là một nỗ lực tuyệt vọng của hạm đội Nhật Bản để đánh xuyên qua hạm đội liên quân và liên quân chỉ xác định là giữ cho đối phương không thể vượt qua và tiến tiếp.
    Cũng giống như các trận chiến trước đây của Đô đốc Yi, súng hoả mai của Nhật không thể hiệu quả như pháo của liên quân Trung Triều, đạn pháo của liên quân chặn không cho họ tiến lên. Sự chật hẹp của eo biển Noryang cũng gây khó khăn cho bất kỳ sự cơ động nào của tầu chiến Nhật.
    Khi hạm đội Nhật Bản đã bị thiệt hại đáng kể, Chen Lin ra lệnh hạm đội của mình tham gia vào chiến đấu cận chiến với tầu của Nhật ( quá sai lầm ). Tuy nhiên điều này cho phép Nhật Bản sử dụng súng hoả mai của họ và chiến đấu bằng cách sử dụng chiến thuật truyền thống của họ là xung phong và chiếm tầu của đối phương. Khi hạm đội của Chen Lin bị tấn công, Đô đốc Yi cũng ra lệnh cho hạm đội của mình tham gia vào chiến đấu tay đôi.
    Song Hui-rip, thuyền trưởng kỳ hạm của Đô đốc Yi, trúng một viên đạn hoả mai vào mũ chiến và ngã bất tỉnh một thời gian. Các tàu rất gần nhau nên tàu Tiều Tiên đã có thể ném gỗ cháy, chất cháy lên sàn tàu Nhật Bản.
    Súng hoả mai hạng nặng Nhật Bản bắn đã buộc thủy thủ Trung Quốc cúi đầu thấp xuống, ngay lập tức quân Nhật Bản nhảy sang chiếm một số phần của kỳ hạm của Chen Lin và các trận đánh tay đôi xảy ra sau đó, con trai của Chen đã bị thương khi đỡ một nhát kiếm hướng vào cha mình. Thấy tàu của Chen sảy ra chuyện, Deng Zilong chỉ huy cánh trái và hai trăm vệ binh của mình chèo lên một chiếc panokseon (một trong hai chiếc của Đô đốc Yi giao cho quân Minh) và và chèo đến để tăng viện cho ông ta. Tuy nhiên, một số tàu của quân Minh tưởng lầm chiếc panokseon là một chiếc tàu của Nhật Bản, họ đã nổ súng và vô hiệu hóa nó. Chiếc panokseon này trôi dạt về phía Nhật Bản và người Nhật đã xung phong và giết tất cả mọi người trên tàu, trong đó có Deng Zilong.
    Đến giữa trận đánh, khi bình minh lên, thì hạm đội liên quân đang chiếm lợi thế và một nửa số tàu của Shimazu hoặc là bị đánh chìm hoặc bị bắt. Người ta nói rằng kỳ hạm của Shimazu Yoshihiro đã bị đánh chìm và Shimazu đã phải bám vào một mảnh gỗ trôi trong nước lạnh trong khi binh lính Trung Quốc dùng câu liêm cố gắng để móc ông ta lên tầu. Tàu Nhật đã đến giải cứu và kéo ông ta lên một cách an toàn ( hú vía). Trong quá trình của trận đánh, các tàu đã đánh sáp chiến từ cuối phía tây của eo biển đến tất cả các phần ở cuối phía đông ở hầu hết các vùng nước không đóng băng. Người Nhật Bản tiếp tục chịu thiệt hại nặng và bắt đầu rút lui dọc theo bờ biển phía nam của đảo Namhae, hướng về Pusan.
    Cái chết của Đô đốc Yi
    Khi tầu Nhật Bản rút chạy, Đô đốc Yi ra lệnh mạnh mẽ đuổi theo. Trong thời gian này một phát đạn hoả mai bắn lạc từ một chiếc tàu địch trúng vào gần nách của Đô đốc Yi phía bên trái ông. Cảm nhận rằng các vết thương có thể gây tử vong, Đô đốc thốt lên, "trận chiến đang ở lúc cao trào của nó; không được thông báo cái chết của tôi .." và sau khi nói câu này, ông qua đời.
    Chỉ có ba người chứng kiến cái chết của ông là Yi Hoe, con trai cả của ông, Song Hui-rip, Và Yi Wan, cháu trai của ông. Con trai và cháu trai của Đô đốc Yi đấu tranh để giữ bìinh ti?nh và mang xác của Đô đốc vào cabin của mình trước khi những người khác có thể nhìn thấy. Đối với phần còn lại của trận đánh, Yi Wan mặc áo giáp của chú mình và tiếp tục thúc trống trận để cho phần còn lại của đội tàu biết rằng của Đô đốc vẫn còn chỉ huy cuộc chiến.
    Tàu của Chen lại một lần nữa gặp rắc rối và chiến hạm của Yi lại xông đến để cứu ông ta. Kỳ hạm của Yi đã chiến đấu và đánh chìm một số tàu Nhật và Chen Lin gửi lời cảm ơn của ông đến Yi vì đã cứu viện cho ông. Tuy nhiên, Chen đã gặp Yi Wan người thông báo rằng chú của ông đã chết. Người ta nói rằng khi nghe được tin này Chen đã sốc và ông ta ngã xuống đất ba lần liền, đập ngực của mình xuống đất và khóc. Tin tức về cái chết của Đô đốc Yi lan truyền nhanh chóng trong suốt hạm đội liên quân và cả thủy thủ lẫn các chiến binh của Triều Tiên và nhà Minh đều chìm trong thương tiếc.
    Sau trận đánh
    Trong số 500 tàu Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Shimazu, ước tính chỉ có khoảng 150-200 chiếc có thể quay trở lại cảng Pusan. Konishi Yukinaga rời pháo đài của mình vào ngày 16 tháng 12 và lính của ông ta rút lui do chèo thuyền qua cuối phía nam của đảo Namhae, vượt qua cả eo biển Noryang và trận đánh. Mặc dù ông ta biết trận đánh đang ác liệt, ông ta không có một cố gắng nào để giúp Shimazu. Tất cả các pháo đài của Nhật bấy giờ bị bỏ không và các lực lượng Trung Triều tiến lên để chiếm lấy chúng, thu nốt đồ hậu cần bị bỏ lại và bắt nốt những người lạc ngũ. Konishi, Shimazu, Kato Kiyomasa và các tướng khác còn lại ở cánh trái của quân đội Nhật Bản tập hợp ở Pusan và rút lui về Nhật Bản vào ngày Ngày 21 tháng 12. Các tàu cuối cùng khởi hành về Nhật Bản vào ngày 24 tháng 12, và cuối cùng cũng mang đến một sự kết thúc cho cuộc chiến tranh kéo dài bẩy năm.
    Xác của Đô đốc Yi Sun-sin được đưa trở về quê hương của mình tại tỉnh Asan và được chôn bên cạnh cha mình, Yi Chong (theo truyền thống Hàn Quốc). Ông được vinh danh ở tất cả nơi của Vương quốc Triều Tiên. Tòa án phong cho ông chức danh Hữu Thừa Tướng. Các Miếu thờ, chính thức và không chính thức, được xây dựng để vinh danh ông trên tất cả các miền của đất nước Triều Tiên. Năm 1643, Đô đốc Yi được trao danh hiệu Chungmugong, "Tướng quân trung thành."
    Chen Lin gửi một bài ca tụng trong khi tham dự tang lễ của Đô đốc Yi. Sau đó ông trở về Trung Quốc để nhận phần thưởng danh dự cao nhất về quân sự, chưa từng được ban cho bất kỳ chỉ huy nào của nhà Minh trong chiến tranh.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 13:12 ngày 25/10/2009
    dragonboy1080 thích bài này.
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Bổ xung thêm về vụ Đô đốc Yi bị xử tội
    Âm mưu loại bỏ Yi Sun-sin
    Năm 1597, Nhật Bản đã quyết định ngừng tất cả các cuộc đàm phán với Hàn Quốc và Nhà Minh, chuẩn bị một kế hoạch tái xâm lược vào Hàn Quốc. Để làm như vậy, họ âm mưu loại bỏ và hãm hại Đô đốc Yi Sun-sin. Điệp viên Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Konishi phao tin đồn từ Yukinaga rằng Kato Kiyomasa đang thúc giục những chỉ huy khác của Nhật để tiếp tục chiến tranh với Triều Tiên và sẽ sớm vượt qua eo biển. Vua Seonjo ra lệnh Đô đốc Yi tiêu diệt Kato, nhưng Yi đã từ chối làm như vậy vì ông biết rằng đây chỉ là những thông tin bịa đặt của gián điệp Nhật Bản. Vua Seonjo sợ hãi cho rằng có thể có một cuộc đảo chính sẽ được tiến hành bởi Yi hoặc từ những người ủng hộ ông, mà thực ra thì chẳng bao giờ có cái kế hoạch đảo chính này cả ( kế hoạch đảo chính này chắc cũng do điệp viên Nhật Bản tiêm nhiễm vào đầu Nhà vua mà thôi), kể từ đó vua Seonjo cứ tự cho rằng cuộc đảo chính này có thể xảy ra bất kỳ lúc nào kể từ khi Yin nhiều lần từ chối thực hiện các mệnh lệnh của mình mặc dù hạm đội của Yi là lực lượng mạnh nhất của cả hai bên. Yi đã từ chối thực hiện các mệnh lệnh đó thuần túy chỉ vì lý do chiến thuật nhưng chính hành động bất phục tùng đó đã không được hiểu một cách đúng đắn làm cho sự sợ hãi của nhà vua tăng lên tới cực điểm. Vua Seonjo cuối cùng đã ra lệnh bắt giữ và tử hình Đô đốc Yi nhưng tòa án hoàng gia chỉ miễn cưỡng thi hành và họ đã kháng lệnh một cách thành công, và giảm hình phạt tới Đô đốc Yi xuống là đi tù và cách chức. Yi sau đó được đặt dưới sự chỉ huy của Gwon Yul để phục hồi những vết thương ông đã phải chịu khi bị tra tấn trong thời gian điều tra về những cáo buộc chống lại ông. Sau đó vua Seonjo tiếp tục dùng Won Gyun để thay thế chức chỉ huy trưởng hải quân của Đô đốc Yi.
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận hải chiến nổi tiếng Lịch Sử - Thời đầu Trung Đại - Châu Âu
    Trận Hải chiến Sena Gallica
    Ngày Mùa thu 551
    Vị trí Ngoài khơi Sena Gallica ngày nay là Senigallia thuộc nước Ý
    Kết quả Byzantine chiến thắng quyết định
    Các bên tham chiến
    Đế quốc Byzantine
    Chỉ huy
    John Valerian
    Sức mạnh
    50 tàu chiến
    Thương vong và thiệt hại
    Tối thiểu
    Vương quốc Ostrogothic
    Chỉ huy
    Indulf
    Gibal
    Sức mạnh
    47 tàu chiến
    Thương vong và thiệt hại
    36 tàu bị mất, phần còn lại bị đốt cháy sau đó
    Trận Sena Gallica là một trận hải chiến ngoài khơi bờ biển Adriatic thuộc nước Ý trong mùa thu năm 551 giữa Đông La Mã (Byzantine) và một hạm đội của người Ostrogoth, trong Chiến tranh Gothic (535-554). Nó đánh dấu sự kết thúc sự thống trị của người Goth ở vùng biển của La Mã, và bắt đầu trỗi dậy của người Byzantine trong cuộc chiến tranh dưới sự lãnh đạo của Narses. Đó cũng là trận đánh lớn cuối cùng chiến đấu trong biển Địa Trung Hải trong hơn một thế kỷ, cho đến khi có trận Masts vào năm 655.
    Trận Sena Gallica là một trong những bước ngoặt của Chiến tranh Gothic và của Lịch sử Tây Âu, sau trận này người Ostrogoth ( Đông Goth) đang chiếm đóng nước Ý không thể gượng lại được trước sức mạnh của người Byzantine ( Đế quốc Đông La Mã), rồi thậm chí cả người VidiGoth ( Tây Goth) đang cát cứ tận Tây Ban Nha cũng bị Byzantine tiêu diệt, nhưng rồi kiệt sức vì chính cuộc chiến tranh này mà người Byzantine cũng chẳng giữ được nước Ý ( Tây La Mã) trong bao lâu cho đến khi rợ người Lombard từ ven bờ Danub tràn xuống, còn Tây Ban Nha thì lại rơi vào tay người Hồi giaó Bắc Phi? mà những tộc người này lại bị người Frank dưới sự lãnh đạo của Charlomagne giòng Carolingian chinh phục và dần lập ra ba nước Pháp, Đức, Tây Ban Nha như ngày nay. Tóm lại ta có thể nói rằng nếu không có trận Sena Gallica thì có lẽ bản đồ Tây Âu đã khác đi rất nhiều so với ngày nay.
    Bối cảnh chung trước khi xảy ra trận đánh
    Vào Năm 550, chiến tranh Gothic đã trải qua mười lăm năm. Những năm đầu của cuộc chiến là một loạt những thành công của đội quân quy mô tương đối nhỏ của Byzantine dưới sự chỉ huy của Belisarius, và những cuộc tấn công này đã dẫn tới sự sụp đổ của thành phố Ravenna ( thủ đô của Vương Quốc Otstrogoth) và dường như đã phục hồi lại được sự thống trị của Đế quốc La Mã tại Ý kể từ trước những năm 540. Sau đó, Hoàng đế Justinian I đã gọi Belisarius quay chở lại Constantinople. Các chỉ huy còn lại sớm bắt đầu quay ra cãi vã với nhau, trong khi người Goth tập hợp lại lực lượng của họ. Dưới sự lãnh đạo của vua mới cực kỳ dũng cảm Totila của họ, người Goth nhanh chóng đảo ngược tình hình, và đánh bại các lực lượng của Đông Đế chế. Thậm chí việc Belisarius quay trở lại cũng không ngăn cản được các đợt sóng tấn công của người Ostrogoth. Đến năm 550, người Đông La Mã chỉ còn lại trong tay một số ít các cứ điểm phòng thủ ở duyên hải ven biển Adriatic, và mùa xuân năm đó thậm chí Totila đã tiến hành xâm lược Sicily, một căn cứ chiến lược của người Đông La Mã. Với mong muốn phá hoại sự xâm nhập dễ dàng của Đế chế vào nước Ý và tăng cường khả năng tiếp viện binh lính hoặc củng cố tiền đồn của họ, Totila đã tạo ra một lực lượng hải quân gồm 400 tàu chiến để chiến đấu với Đông đế quốc tại vùng biển này. Cùng lúc đó hoàng đế Đông La Mã Justinian I cũng gấp rút chuẩn bị một chiến dịch lớn cuối cùng để thu hồi nước Ý, và chiến dịch này được đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của thái giám Narses
    Để các bác hiểu thêm tình hình em xin bổ sung thêm một chút về Lịch sử châu Âu lúc đó dưới dạng chữ in nghiêng ?" xanh

    Đế quốc Byzantine ( 330 -- > 1453) hay còn gọi là Đế quốc Đông La Mã, là Đế quốc La Mã trong thời kỳ Trung Cổ, trung tâm là thủ đô Constantinople, được cai trị bởi các Hoàng đế La Mã. Đế quốc này được gọi là Đế quốc La Mã bởi các thần dân và lân bang của nó. Sự phân biệt giữa "Đế quốc La Mã" và "Đế quốc Byzantine" hoàn toàn chỉ là một quy ước hiện đại, không hề có một ngày cụ thể cho việc chia tách Đế chế Đông và Tây La Mã, , nhưng một điểm quan trọng là Hoàng đế Constantine I chuyển thủ đô của Đế chế từ Nicomedia (trong vùng Anatolia) đển một thành phố Hy Lạp trên vịnh Bosphorus, và thành phố này được đổi tên là Constantinople (hoặc "Roma mới"), nay chính là thành phố Istambul của Thổ Nhĩ Kỳ. Đế chế luôn được duy trỳ là một trong những lực lượng mạnh nhất về kinh tế, văn hóa, và quân sự tại Âu Châu, Bất chấp những thất bại và mất mát về lãnh thổ, đặc biệt là trong các cuộc chiến tranh La Mã-Ba Tư và Byzantine-Arab . Đế chế phục hồi trong thời gian triều đại Macedonus trị vì (867 -- >1056 SCN ), phát triển mạnh mẽ trở lại một lần nữa để trở thành sức mạnh siêu cường tại Đông Địa Trung vào cuối thế kỷ 10. Tuy nhiên, sau năm 1071 phần lớn bán đảo Tiểu Á, khu trung tâm của đế quốc đã bị mất đã bị chiếm mất bởi người Seljuk Turk. Sự phục hồi của vương quốc Komnenia trong thế kỷ 12 làm Đông La Mã lấy lại vùng đất này và tái thống trị nó một thời gian ngắn, thành lập nhưng sau đó lại bị chiếm mất bởi những người thừa kế kém cỏi. Đế quốc Đông La Mã đã nhận được một đòn sinh tử trong năm 1204 bởi quân Thập tự chinh lần thứ tư (thay vì tấn công quân Hồi giáo bảo vệ mộ chúa, quân Thập tự chinh đã xông vào ăn cướp thành phố Constantinople của người anh em theo Ky Tô dòng chính thống giáo, vốn dĩ là để lấy tiền trả nợ cho Cộng hòa Vơnidơ ?" nay Giáo hoàng La Mã đã có lời xin lỗi???), Khi đó nó bị giải tán và chia thành hai quốc gia đối địch là Byzantine Hy Lạp và Latinh. Bất chấp sự hồi phục sau cùng của Constantinople và sự tái lập của Đế chế vào 1261, dưới sự cai trị của Hoàng Đế Palaiologan, các cuộc nội chiến nổ ra trong thế kỷ 14 tiếp tục bào mòn sức mạnh của Đế quốc. Hầu hết các lãnh thổ còn lại của nó đã bị mất trong chiến tranh Byzantine-Ottoman. Đỉnh điểm là sự Sụp đổ của thành phố Constantinople và vùng lãnh thổ còn lại của nó vào tay người Hồi giáo Ottoman Turk trong thế kỷ 15. Có truyền thuyết rằng lúc đó một nàng công chúa thuộc Byzantine dòng Kytô chính thống ( Sophia Paleologue ) chạy đến và xin sự che chở của Giáo Hoàng La Mã đang tại vị, Giaó hoàng công bố thông tin cho các quân vương theo công giáo ở khắp Châu Âu để xem ai hào hiệp ra tay cưu mang nàng (không biết có xinh không, nhưng không có của hồi môn thì các bác ấy cũng khề khà lắm he he ), thì có vua Nga là Ivan III mang quà sính lễ đến đầu tiên, vì vậy người Nga thường cho rằng họ chính thức là thừa kế của Đế quốc Byzantine và quốc huy của nước Nga với con đại bàng có hai đầu chính là biểu tượng thừa kế từ Đông La Mã.
    Hải quân Byzantine
    Hải quân Byzantine là lực lượng hải quân của Đế quốc Byzantine. Cũng giống như đế quốc nó phục vụ, nó được phát triển trực tiếp từ Hải quân của đế quốc La Mã, Nhưng so với tiền thân của nó thì Hải quân Byzantine đã đóng một vai trò lớn hơn trong việc bảo vệ và sự sống còn của nhà nước. Trong khi hạm đội của Đế quốc La Mã chỉ phải đối mặt với rất ít các mối đe dọa lớn bằng hải quân, và hoạt động như là một lực lượng hỗ trợ, bổ sung uy thế cho các chiến đoàn, thì biển lại có giá trị quan trọng sống còn đến sự tồn tại của Byzantine, và à một số nhà sử học đã gọi Byzantine là một "đế chế hàng hải".
    Các mối đe dọa đầu tiên đến quyền bá chủ của Byzantine trong Địa Trung Hải đã được tạo ra bởi người Vandal ở thế kỷ thứ 5, nhưng mối đe dọa này được kết thúc bằng các cuộc chiến tranh của Justinian I ở thế kỷ thứ 6. Việc tái thành lập, duy trì và sử dụng một hạm đội tầu galley dromon ở thời kỳ này cũng điểm đánh dấu khi hải quân Byzantine bắt đầu từ gốc là HQ La Mã và phát triển theo bản sắc, đặc tính riêng của nó. Quá trình này được đẩy mạnh với sự khởi đầu của các cuộc chinh phục của người Hồi giáo ở thế kỷ thứ 7. Sau những thất bại ở Levant và sau đó là ở Châu Phi, lúc này Địa Trung Hải được chuyển đổi từ ?o ao nhà của Đế Chế La Mã " thành một chiến trường giữa Byzantine và người Ả Rập. Trong cuộc đấu tranh này, hạm đội Byzantine đã đóng quan trọng, không chỉ cho việc bảo vệ các tài sản ở xa của đế chế xung quanh lưu vực Địa Trung Hải, mà còn là sự chống trả các cuộc tấn công vào thủ đô của đế chế, thành phố Constantinople từ phía biển. Bằng việc sử dụng vũ khí mới được phát minh "lửa Hy Lạp", hải quân của Byzantine chở nên nổi tiếng nhất và đáng sợ nhất với vũ khí bí mật này, Constantinople đã được bảo vệ từ nhiều cuộc bao vây và rất nhiều trận hải chiến để giành cho được thành phố này.

    [size=3]Chiến thuật và vũ khí của hải quân Byzantine[/size=3]
    Chiến lược và chiến thuật
    Khi nghiên cứu các hoạt động hải quân thời cổ đại và thời Trung cổ, một điều rất cần thiết là phải hiểu được những hạn chế về kỹ thuật của đội tàu galley. Nếu tầu galley không được điều khiển tốt trong vùng nước có sóng lớn thì nó sẽ dễ dàng bị chìm ngập bởi sóng biển, đó sẽ là thảm họa ở vùng biển mở; lịch sử nhiều lần lặp lại với trường hợp các hạm đội galley bị chìm do thời tiết xấu (ví dụ như thất bại của La Mã trong Chiến tranh Punic lần đầu tiên). Thời gian để sử dụng được buồm thường bị giới hạn từ giữa mùa xuân tới tháng Chín. Khoảng xa mà một chiếc galley có thể đi được, ngay cả khi sử dụng được buồm, bị hạn chế và thụ thuộc vào số lượng nguồn cung cấp nó có thể mang theo. Đặc biệt là nước, trở thành một nguồn cung cấp cực kỳ quan trọng. Với mức tiêu thụ ước tính khoảng 8 lít/ ngày cho mỗi tay chèo của nó, đây chính là một yếu tố quyết định cho việc hoạt động trong môi trường khan hiếm nước ngọt và nắng chói trang của bờ biển Đông Địa Trung Hải. Với các tầu lớp Dromon nhỏ hơn ước tính chỉ có thể mang 4 ngày nước uống. Điều này có nghĩa rằng hạm đội các tầu galley bị hạn chế trong việc vận động trên các tuyến đường ven biển, và thường xuyên phải cập bến để bổ sung nguồn cung cấp của cho hạm đội chúng. Điều này cũng được chứng thực trong cuộc viễn chinh của Byzantine ra nước ngoài, từ cuộc viễn chinh của Belisarius trong chiến dịch chống lại người Vandal, cuộc viễn chinh Cretan. Vì lý do này mà Nikephoros Ouranos nhấn mạnh sự cần thiết phải có sẵn " Thủy thủ với những kiến thức chính xác và kinh nghiệm về biển, để nhận biết được gió nào thổi từ những cơn biển động và nào thổi từ đất liền. Họ cũng cần phải biết khu vực nào có đá ngầm trong lòng biển, và nơi nào nước biển không đủ sâu, và vùng đất mà họ đang bơi dọc theo đó cùng với các đảo lân cận các bến cảng và khoảng cách giứa các cảng đó. Họ cần biết ở đâu có nước và các nguồn cung cấp nước.

    Các trận hải chiến thời Trung cổ ở Địa Trung Hải vì thế về cơ bản thường xảy ra ở ven biển và vùng nước cạn, thực hiện việc xâm chiếm miền ven biển và hải đảo, chứ không để kiểm soát biển nó được hiểu ngày hôm nay. Hơn nữa, sau khi từ bỏ đòn đánh ramming, đòn thực sự là vũ khí sát thủ có trước sự ra đời của thuốc súng và đạn nổ, của các trận hải chiến, "không thể đoán trước, không còn có thể có sự hy vọng vào một sức mạnh nào đó để có một lợi thế về vũ khí hoặc kỹ năng của đội thủy thủ mà sự thành công có thể được mong đợi.." theo lời của John Pryor. Nguyên văn "more unpredictable. No longer could any power hope to have such an advantage in weaponry or the skill of crews that success could be expected." Chính vì thế mà các cẩm nang hướng dẫn về hải quân của người Byzantine thường nhấn mạnh chiến thuật thận trọng, với sự ưu tiên cho việc bảo tồn các đội tàu của chính mình, và tìm cách mua các tin tình báo chính xác. Nhấn mạnh được đặt vào việc đạt được chiến thuật bất ngờ và ngược lại, về việc tránh bị đánh một các bất ngờ từ đối phương. Lý tưởng nhất là trận chiến chỉ diễn ra khi người Byzantine hoàn toàn yên tâm rằng họ có ưu thế vượt chội về quân số hoặc các bố trí chiến thuật. Quan trọng là phải có một lực lượng có đủ sức mạnh và một chiến thuật phù hợp để đối phó với một đối phương đã được tìm hiểu kỹ.
    Ví dụ như Leo đệ lục chẳng hạn, ông ta có những chiến thuật khác nhau để đối phó với những tầu chiến nặng nề và chậm chạp của người AiCập (koumbaria), hoặc những tầu nhỏ và nhanh của người Slavs và Rus (akatia, hoặc monoxyla)
    Vẫn theo Leo VI, trong một chiến dịch, sau khi tập hợp các đội tầu khác nhau tại các căn cứ vững chắc dọc theo bờ biển, hạm đội gồm đội tầu chính, bao gồm các tàu chiến có mái chèo, còn đội tầu phụ trợ (touldon) gồm các tàu vận tải buồm và tàu vận tải có mái chèo, sẽ được gửi đi ra xa khỏi khu vực sẽ xảy ra trận đánh.Hạm đội được chia thành các hải đội, và các mệnh lệnh được truyền từ tàu này đến tàu khác thông qua các tín hiệu cờ (kamelaukia) và ***g đèn.
    Khi đã tiếp cận đối phương, và trong một trận chiến, một đội hình tuân thủ theo trật tự là cực kỳ quan trọng, nếu đội hình rơi vào rối loạn, tàu của họ sẽ không thể hỗ trợ cho nhau và rất có thể sẽ bị đánh bại. Hạm đội mà thất bại trong việc giữ trật tự đội hình hoặc không thể tự nó hình thành một đội hình đánh trả (antiparataxis) phù hợp với chiến thuật của đối phương, thường phải bỏ chạy hoặc bị phá vỡ trong cuộc chiến. Diễn tập chiến thuật do đó được dự định để phá vỡ đội hình của đối phương, bao gồm cả việc sử dụng các chiến thuật mưu mẹo khác nhau, như tìm cách chia cắt lực lượng đối phương và thực hiện thao tác tấn công bên sườn, giả vờ rút lui hoặc lẩn trốn trong một trận phục kích. Thật vậy, Leo VI khuyên chống công khai đối đầu trực tiếp và ủng hộ việc sử dụng các chiến thuật mưu mẹo để thay thế. Cũng vẫn theo Leo VI, một đội hình lưỡi liềm dường như là đội hình chuẩn, với kỳ hạm thì ở trung tâm và các tàu nặng hơn ở các mũi của đội hình, để nhằm mục đích đánh vào các cánh của đối phương. Một loạt các biến thể và chiến thuật tấn công, phản công khác rất sẵn có, được sử dung tùy thuộc vào hoàn cảnh.
    Một khi các đội tầu đã tiến lại đủ gần, hai bên bắt đầu tấn công lẫn nhau bằng các tên lửa, bằng cả mũi tên và lao. Mục đích không phải là để đánh chìm tàu địch, mà để gây thiệt hại cho thủy thủ đoàn của đối phương trước khi nhảy sang bong của đối phương để tấn công, đây là hành động quyết định. Khi sức mạnh của đối phương được đánh giá là giảm vừa đủ, các tầu phải tiến thật gần vào tầu địch, mỗi tàu áp mạn một chiếc, và thủy thủ vũ trang cùng các tay chèo nhảy lên tàu địch và tham gia vào các cuộc chiến đấu tau đôi.

    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 18:10 ngày 27/10/2009
  9. phungccuong

    phungccuong Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    17/05/2007
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    1
    Không biết ông đô đốc Lý Thuấn Thuần này có phải con cháu Lý Long Tường không nhỉ, lịch sử nhà việt mình chưa có trận đánh lớn nào trên biển nên quả thực mình không có nhiều kinh nghiệm cũng như truyền thống về hải chiến qui mô lớn, do vậy phải nhịn ở HS-TS thôi.
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    ------------------------------------------------------------------------------------------
    Em đã thử kiểm tra lại nhưng không tìm thấy sự liên quan gì giữa cụ Lý Long Tường và cụ Lý Thuấn Thần cả, tuy vậy dòng giõi của cụ Lý Long Tường về sau vẫn tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ của đất nước Triều Tiên, và ngày nay vẫn tiếp tục mang lại sự hữu hảo trong tình bang giao giữa Việt Nam và Triều Tiên ( cả hai miền)

Chia sẻ trang này