1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tầu Galeass
    Tầu galleass hoặc "galliass" được phát triển từ loại tầu buôn Galley lớn. Mục đích chuyển đổi để dùng cho mục đích sử dụng quân sự tầu galleass cao hơn và lớn hơn các Galley bình thường. Chúng có tới 32 mái chèo, mỗi mái chèo có tới 5 tay chèo. Chúng thường có ba cột buồm, một forecastle (chỉ phần trên boong của một tàu buồm phía trước của cột buồm mui, nơi thường được đóng cao lên giống như phía trước của một lâu đài Trung cổ để cho cung thủ đướng ngắm bắn và chiến đấu) và aftcastle(là những tầng trên của một chiếc tàu buồm vị trí phía sau cột buồm thứ ba. Nó được thiết kế ở tầu Galley hoặc galleasses thời Trung cổ để tạo ra vị trí thuận lợi về chiều cao mà từ cung thủ có thể đó bắn sang tên lửa sang tầu địch, đây cũng là một nơi bố phòng để đánh trả trong trường hợp đối phương nhảy lên boong). Nhiều nỗ lực được thực hiện ở thành phố Venice để làm cho các galleasses chạy càng nhanh càng tốt để cạnh tranh với các Galley bình thường. Bong súng thường chạy qua phía trên đầu của các tay chèo, nhưng cũng có hình ảnh hiển thị sự sắp xếp ngược lại.
    Galleasses thường mang nhiều buồm hơn loại Galley thật sự, và có nhiều ổ súng hơn; một galley cũng có thể có hệ thống pháo mạn nhưng không thực sự hiệu quả, nhưng pháo mạn của một tầu galleass thì gần như của một chiếc tàu tiền tuyến, tung ra các cuộc tấn công vào kẻ địch bằng súng của nó. Tầu galleass là thí dụ cho một loại trung gian giữa các galley và lớp Men ?"of- war. Tàu Galleass được đóng tương đối ít - một trong những bất lợi là bị phụ thuộc nhiều vào buồm, vị trí của chúng ở phía trước của đội hình tầu galley lúc bắt đầu một cuộc chiến là không thể được đảm bảo - nhưng chúng đã được sử dụng tại Trận Lepanto (Ngày 07 tháng 10 1571), hỏa lực của chúng góp nhiều vào việc giành chiến thắng cho hạm đội Thiên chúa giáo, và một số galleass đủ sức bền để đi kèm theo Hạm đội Armada Tây Ban Nha năm 1588 (e.g. La Girona). Trong thế kỷ 15 có một loại tầu galleass hạng nhẹ, được gọi là các tàu tuần duyên, được đóng ở các nước miền nam châu Âu để trả lời cho những thách thức ngày càng tăng của tầu Galley chạy nhanh của bọn cướp biển Barbary ở bắc Phi.
    Trong biển Địa Trung Hải, với vùng nước nông của mình, thời tiết ít nguy hiểm và gió hay thay đổi, cả hai loại tầu galley và galleass tiếp tục sử dụng, đặc biệt là ở Venice và Thổ Nhĩ Kỳ, từ lâu sau khi chúng đã trở nên lỗi thời ở các nơi khác. Sau đó, galley và galleass đã được thay thế bằng tàu galleon và tàu tiền tuyến, loại có nguồn gốc từ các quốc gia ở biển Đại Tay Dương. Chiếc tàu tiền tuyến đầu tiên của Venezia được đóng vào năm 1660.
    [​IMG]
    Tranh vẽ một chiếc tầu Galeass - không rõ cờ nước nào vì không có mầu
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:16 ngày 02/11/2009
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận hải chiến lịch sử - thời cuối Trung Đại - Châu Âu
    Trân hải chiến Armada - Tây Ban Nha
    Ngày trận đánh: ngày 08 tháng 8 năm 1588
    Vị trí: English Channel, gần Gravelines - Pháp (sau đó diễn ra ở một phần lãnh thổ của Hà Lan)
    Kết quả: nước Anh chiến thắng Chiến lược
    Tương quan lực lượng hai bên
    Vương quốc Anh
    Cộng hòa Hà Lan
    Chỉ huy
    Charles Howard
    Francis Drake ( bác cướp biển lừng danh - em sẽ cố gắng có 1 bài viết về bác này)
    Sức mạnh
    34 tàu chiến
    163 tầu buôn vũ trang, (30 chiếc trên 200 tấn)
    30 xuồng nhỏ
    Thương vong và thiệt hại
    50-100 chết
    400 người bị thương
    8 tầu hỏa công bị cháy
    Đế chế Tây Ban Nha
    Vương quốc Bồ Đào Nha (dưới sự điều khiển của triều đình Habsburg Tây Ban Nha)
    Chỉ huy
    Công tước Medina Sidonia
    Sức mạnh
    22 Tầu Galleon
    108 tàu buôn vũ trang
    Thương vong và thiệt hại
    Trận Gravelines:
    Hơn 600 người chết,
    800 người bị thương,
    397 bị bắt,
    2 tàu chìm
    Trong các cơn bão ngoài khơi Ailen:
    Khoảng 65 tàu bị chìm hoặc đắm
    20.000 người chết
    Tóm tắt
    Hạm đội Armada (Tiếng Tây Ban Nha: Grande y Felicísima Armada, là hạm đội Tây Ban Nha đã tấn công nước Anh dưới sự chỉ huy của Công tước Medina Sidonia năm 1588, với ý định lật đổ Elizabeth I của Anh. Vua Philip II của Tây Ban Nha cũng đồng thời có danh nghĩa là vua của Anh cho đến sau cái chết của vợ ông ta Mary I năm 1558. Là một người Công giáo La Mã mộ đạo, ông ta coi bà chị vợ Elizabeth ( Tín đồ kháng cách và là người đã chặt đầu Mary I) Elizabeth của mình là một người cai trị và bất hợp pháp của nước Anh. Ông đã hỗ trợ âm mưu lật đổ bà của người chị họ theo Công giáo Mary I của Scotland. Nhưng Mary đã bị Elizabeth tống giam và cuối cùng đã bị chặt đầu năm 1587. Ngoài ra Elizabeth, người tìm cách lợi dụng và hỗ trợ các tỉnh Hà Lan nổi loạn ( Hà lan lúc đó là thuộc địa của Tây Ban Nha nhưng theo dòng Kháng cách tựa như Anh) chống lại Tây Ban Nha. Để trả đũa, Philip lập một kế hoạch chinh phục để xâm lược và chinh phục Anh, qua đó hỗ trợ cho việc trấn áp Hà lan - các vùng đất thấp , mà các vùng này rất đang thành công trong việc ly khai khỏi sự cai trị của Tây Ban Nha, và làm giảm các cuộc tấn công của Anh chống lại Tây Ban Nha ở Tân Thế giới mới đồng thời cũng làm giảm sự tấn công vào hạm đội kho báu Đại Tây Dương của Tây Ban Nha (bác Tây Ban Nha cứ hùng hục ăn cướp vàng ở châu Mỹ, trên đường mang về nước bị bác Anh đóng giả cướp biển ăn cướp mới tức chứ, đúng là Thạch Sanh gặp Lý Thông phải không các bác). Vị vua này được hỗ trợ bởi Giáo hoàng Sixtus V, Người coi cuộc xâm lược này là cuộc Thập tự chinh với lời hứa hỗ trợ hạm đội Armada trên đất liền.
    Chỉ huy được bổ nhiệm của Hạm đội Armada là một người giàu kinh nghiệm ?" anh hùng của trận Lepanto, Álvaro de BaZan, nhưng không may ông ta lại qua đời trong tháng hai năm 1588, và Medina Sidonia đã thay thế ông ta. Hạm đội gồm 22 tàu chiến Galleon của Hải quân Hoàng gia Tây Ban Nha và 108 tàu buôn vũ trang, với kế hoạch bơi qua English Channel để neo ngoài khơi bờ biển Flanders, nơi các đội quân tercios ( Lê dương Tây Ban Nha) của Công tước Parma đã sẵn sàng cho một cuộc xâm lược vào phía đông nam nước Anh.
    Hạm đội Armada đạt được các mục tiêu đầu tiên của nó và neo ở ngoài khơi Gravelines, đây là khu vực biên giới ven biển giữa Pháp và Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Trong khi chờ liên lạc từ quân đội của Parma, nó đã bị đẩy khỏi chỗ neo đậu của mình bởi một đợt tấn công bằng tầu hỏa công () của Anh, và trong trận chiến tiếp theo tại Gravelines, hạm đội của Tây Ban Nha đã bị buộc phải rời bỏ điểm hẹn của mình với quân đội của Parma.
    Các tầu chiến của Hạm đội Armada cố gắng tập hợp lại và rút về phía Bắc, với hạm đội Anh canh chừng nó với một khoảng cách đến bờ biển phía đông nước Anh. Một chuyến quay trở về Tây Ban Nha đã được dự tính, và đội tàu Armada khởi hành vào Đại Tây Dương, ngang qua Ai-len. Nhưng cơn bão bị gián đoạn nghiêm trọng chuyến đi của hạm đội, và hơn 24 tàu bị đắm trên bờ biển phía bắc và phía tây của Ai-len, những người sống sót phải tìm nơi ẩn náu tại Scotland. Edinger công bố trong năm 2001 rằng Hạm đội Armada Tây Ban Nha đã bị đánh chìm chủ yếu là do shipworms ( con hà ?" còn được gọi là mối của biển, chúng bám vào làm mục nát thành tầu -- > khi có bão thì tầu bị đắm). Cộng cả số lượng bổ sung ban đầu của hạm đội, khoảng 50 tàu không thể quay trở về Tây Ban Nha. Đoàn viễn chinh có được số lượng tầu tham gia lớn nhất của cuộc chiến tranh không tuyên bố giữa Anh-Tây Ban Nha (1585-1604).
    Những thất bại của Hạm đội Armada Tây Ban Nha đã dẫn đến sự thất bại của Drake-Norris trong cuộc chinh phục năm 1589, cũng còn được gọi là Hạm đội Armada của Anh ( trận này người Anh thua) chống lại các sở hữu của Tây Ban Nha tại Tân Thế giới và chống lại Hạm đội kho báu Đại Tây Dương ( Em cũng xin sẽ giới thiệu với các bác chiến dịch này ở phần sau).
    Kế hoạch xâm lược của Anh
    Trước khi thực hiện, Giáo hoàng Sixtus V cho phép Philip II của Tây Ban Nha thu thuế thập tự chinh và cấp cho người của ông ta sự xá tội. Phước lành được ban cho Hạm đội Armada trong ngày 25 tháng tư năm 1588 tương tự như buổi lễ được tiến hành trước trận Lepanto năm 1571. Ngày 28 tháng năm 1588 Hạm đội Armada, căng buồm từ Lisbon (đã chiếm đóng Bồ Đào Nha), hướng về phía English Channel. Hạm đội này bao gồm 151 tàu, 8.000 thủy thủ và 18.000 binh lính, và được trang 1.500 khẩu súng bằng đồng và 1.000 súng bằng sắt. Phần chính của Hạm đội phải mất hai ngày để rời khỏi cảng. Hạm đội 28 chiếc tàu chiến: 20 galleon, 4 galley và 4 galleasses. Phần còn lại của các đội tầu hạng nặng bao gồm chủ yếu là các tầu buôn vũ trang carrack và hulk, và cũng có 34 tàu hạng nhẹ hiện nay.
    Ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha 30.000 lính đợi sự xuất hiện của Hạm đội Armada, kế hoạch được sử dụng là dùng các tàu chiến để hộ tống đoàn convoy chuyên chở quân đội đến một nơi gần London. Tổng cộng có khoảng 55.000 lính được trang bị súng hỏa mai, một đội quân rất lớn cho thời gian đó. Trong ngày, hạm đội Armada căng buồm, đại sứ Elizabeth tại Hà Lan, tiến sĩ Valentine Dale, đã gặp đại diện của Parma trong cuộc đàm phán hòa bình, và Anh đã thực hiện một nỗ lực vô ích để ngăn chặn các tầu của Hạm đội Armada trong Vịnh Biscay.
    Vào ngày 16 tháng bảy cuộc đàm phán đã bị đổ vỡ, và hạm đội Anh đang đậu để chuẩn bị ở Plymouth, và chờ tin tức từ Tây Ban Nha. Số lượng của Hạm đội Anh thì nhiều hơn Hạm đội Tây Ban Nha, 200 so với 130 tàu. Tuy nhiên, trong Hạm đội Tây Ban Nha lại nhiều súng hơn hạm đội Anh, hỏa lực sẵn có của nó nhiều hơn 50% so với Hạm đội Anh. Hạm đội Anh gồm 34 tàu của hạm đội hoàng gia, 24 trong số đó có trọng tải 200- > 400 tấn, và 163 tàu khác, trong số tầu trọng tải 200-400 tấn có 30 chiếc mang đến 42 khẩu súng mỗi chiếc; 12 trong số này là tầu cướp biển , được đặt dưới sự chỉ huy của Lord Howard của Effingham, Sir John Hawkins và Sir Francis Drake.
    Hạm đội Armada bị trì hoãn do thời tiết xấu, Bốn tầu Galêy và một tầuGalleon bị buộc phải rời hạm đội, và chúng đã không được nhìn thấy ở Anh cho đến 19 Tháng Bảy, khi nó xuất hiện ngoài khơi mũi St Michael của Cornwall. Các tin tức đã được chuyển đến London bởi một hệ thống đèn hiệu đã được xây dựng ở tất cả các con đường dọc theo bờ biển phía nam. Vào tối hôm đó, hạm đội Anh đã phải nằm lại tại cảng Plymouth bởi thuỷ triều đến. Người Tây Ban Nha triệu tập một hội đồng chiến tranh, và mọi người đề xuất rằng tiến vào bến cảng theo triều và vô hiệu hóa các tàu bảo vệ neo tại đó và từ đó tấn công Anh, nhưng Medina Sidonia từ chối hành động như vậy, bởi vì điều này đã được rõ ràng cấm của Philip, và đã chọn cách đi về phía đông và phía Isle of Wight. Ngay sau đó, 55 tàu chiến Anh được tung ra để đuổi theo từ Plymouth dưới sự chỉ huy của Lord Howard của Effingham, Sir Francis Drake có chức danh như là Phó Đô đốc. Howard nhượng lại một số quyền hành cho Drake, bởi kinh nghiệm của ông trong trận chiến, và đô đốc hậu quân là Sir John Hawkins.
    Các đêm tiếp theo, để thực hiện "tuyến đầu" tấn công, tầu Anh chặn theo chiều của Hạm đội Armada, do đó có được weather gage (Vị trí thuận lợi của một tàu buồm từ lợi thế về gió), một lợi thế đáng kể. Qua tuần tiếp theo có hai trận không có ý nghĩa quyết định, ở Eddystone và Isle of Portland. Hai tàu Tây Ban Nha, các tầu carrack Rosario và Galleon San Salvador, đã bị hủy bỏ sau khi bị hỏng nặng do tai nạn; chúng đã bị chiếm lấy bởi người Anh, những người đã bắt giữ được một khối lượng lớn thuốc súng rất cần thiết. Tại Isle of Wight Hạm đội Armada đã có cơ hội để tạo ra một căn cứ tạm thời trong vùng biển được bảo vệ và từ từ chờ quân đội Parma. Trong một cuộc tấn công đủ quy mô, hạm đội Anh đã tác ra thành bốn nhóm -- Martin Frobisher bây giờ cũng được làm tư lệnh của một hải đội - với Drake đến từ phía Nam với một lực lượng lớn. Tại thời khắc quan trọng Medina Sidonia gửi quân tăng cường lên phía nam và ra lệnh cho Hạm đội Armada quay trở lại, ra cửa biển để tránh các bãi cát. Không có cảng an toàn gần đó, do đó, Hạm đội Armada bắt buộc phải tiến về Calais, các sự việc này không liên quan gì đến sự sẵn sàng của quân đội Parma.
    Ngày 27 tháng 7, các tầu của Hạm đội Armada neo ngoài khơi Calais trong một đội hình lưỡi liềm phòng thủ chặt chẽ, không xa Dunkirk, Nơi quân đội của Parma, hiện đang bị giảm tới 16.000 lính do bệnh dịch, được dự kiến là đang chờ họ, và sẵn sàng để gia nhập Hạm đội từ các xà lan được gửi từ các cảng dọc theo bờ biển Flemish. Các thông tin cho thấy rằng có thêm rất nhiều khó khăn hơn so với dự đoán, và bây giờ trở nên rõ ràng rằng quân đội đã chưa được trang bị đầy đủ để vận chuyển, tạp hợp tại cảng, một quá trình mà sẽ mất ít nhất là sáu ngày, trong khi Medina Sidonia neo tầu đợi; và rằng Dunkirk đã bị phong tỏa bởi một đội tàu Hà Lan gồm ba mươi flyboats của Chuẩn Đô đốc Justin nhà Nassau. Parma muốn rằng Hạm đội Armada sẽ gửi các tầu hạng nhẹ của nó để đẩy tầu của Hà Lan ra xa, nhưng Medina Sidonia không thể làm điều này vì ông ta sợ rằng ông cũng có thể cần các tàu này để bảo vệ chính mình. Không có cảng nước sâu, nơi hạm đội có thể trú ẩn - luôn luôn được nhìn nhận như là một khó khăn lớn cho đoàn chinh phục - và người Tây Ban Nha thấy mình dễ bị thiệt hại vì các cuộc tấn công về đêm. Lúc nửa đêm ngày 28 tháng 7, người Anh chuẩn bị tám tầu hỏa công (fireship), bằng cách dùng tầu chiến tiêu chuẩn nhồi vào chúng với hắc ín, diêm sinh, một số lượng thuốc súng, và cho chúng đi xuôi gió về phía các tàu thuyền neo chặt chẽ của Armada. Người Tây Ban Nha sợ rằng những tầu hỏa công này là loại "hellburners", chuyên diệt tầu với đầy thuốc súng lớn, vốn đã được sử dụng với hiệu lực chết người tại Cuộc vây hãm Antwerp. Hai chiếc tầu hỏa công bị chặn lại và kéo đi, nhưng phần còn lại lao vào hạm đội này. Chiếc Kỳ hạm của Medina Sidonia và các tầu chiến chính vẫn giữ được vị trí của chúng, nhưng phần còn lại của đội tàu cắt dây neo của họ và phân tán trong sự hoảng loan. Không có tàu Tây Ban Nha nào bị đốt cháy, nhưng đội hình lưỡi liềm đã bị phá hỏng, và đội tàu bây giờ lại thấy chính nó ở quá xa dưới gió của Calais và phải theo hướng gió Đông nam để trở về vị trí cũ của nó. Các tàu của Anh vẫn ở tại đó chờ trận đánh.
    Trận Gravelines
    Tại chiếc cảng nhỏ Gravelines sau đó là một phần của Flanders trong Hà lan thuộc Tây Ban Nha, gần biên giới với Pháp và các vùng lãnh thổ gần nhất Tây Ban Nha đến Anh. Medina Sidonia đã cố gắng để tái lập đội hình của hạm đội của mình có và đã bị bắt buộc phải căng buồm ra xa hơn về phía đông khi biết sự nguy hiểm từ những bãi cát ngầm ngoài khơi Flanders, mà những kẻ thù Hà Lan của ông ta đã xóa bỏ các biển báo.
    Các tầu Anh đã học hỏi được nhiều từ những điểm mạnh và điểm yếu của Hạm đội Armada trong cuộc giao tranh tại English Channel và có kết luận là cần thiết để tiến đến gần trong vòng 100 mét để có thể bắn xuyên thủng vỏ gỗ sồi của các tàu Tây Ban Nha. Họ dành phần lớn thuốc súng của họ trong trận đầu tiên và sau khi Wight bị buộc phải đạn súng hạng nặng và bột thuốc súng của họ cho một cuộc tấn công cuối cùng gần Gravelines. Trong tất cả các trận đánh, súng hạng nặng của Tây Ban Nha không thể nạp lại đạn vì số lượng hàng hóa chất ở giữa sàn, như Francis Drake đã phát hiện khi thu giữ một chiếc tàu Tây Ban Nha ở Solent. Thay vào đó họ bắn một loạt và sau đó chiến thuật chính là sử dụng lính thủy vũ trang nhảy bằng những dây chằng lên boong của tầu đối phương để đánh xáp lá cà. Trong thực tế, bằng chứng từ những xác tầu của Hạm đội Armada ở Ai-len cho thấy phần lớn đạn dược của hạm đội đã không bao giờ được sử dụng hết. Quyết tâm của họ để có được một chiến thắng theo kiểu chiến đấu giáp lá cà chứng tỏ một điểm yếu của Tây Ban Nha, nó đã được sử dụng hiệu quả trong những dịp như trận chiến Lepanto và Trận Ponta Delgada (1582), nhưng người Anh đã nhận biết được sức mạnh này và tìm cách tránh nó bằng cách giữ khoảng cách của họ.
    Với khả năng cơ động vượt trội của mình, tầu Anh khiêu khích tầu Tây Ban Nha, trong khi họ vẫn giữ ở ngoài phạm vi bị áp mạn. Anh sau đó lao vào gần, bắn đi bắn lại các pháo mạn và làm hư hại tàu của đối phương. Cách này cũng giúp họ duy trì một vị trí để đổi hướng gió và làm cho các các đuôi sống tầu của Hạm đội Armada bọ lộ ra và bị phá hủy dưới dòng nước.
    Năm tàu Tây Ban Nha đã bị phá hủy. Tầu galleass San Lorenzo bỏ chạy và bị mắc cạn ở Calais và đã bị chiếm bởi nười của Howard sau một trận đánh chết chóc giữa các thủy thủ đoàn, các nô lệ chèo tầu galley, là người Anh và người Pháp những người cuối cùng đã sở hữu cái xác tầu. Các tầu buồm San Mateo và San Felipe trôi dạt đi trong tình trạng sắp chìm, bị mắc cạn trên đảo Walcheren ngày hôm sau, và bị bắt bởi người Hà Lan. Một tầu carrack bỏ chạy và bị mắc cạn ở gần Blankenberge. Nhiều tàu Tây Ban Nha khác đã bị hỏng nặng, đặc biệt là tầu buồm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha lớp có khả năng chạy trên Đại Tây Dương vì chúng đã phải phải gánh chịu các cuộc giao tranh trong những giờ đầu của trận chiến trong hành động tuyệt vọng của các cá nhân chống lại các nhóm tàu Anh. Kế hoạch của Tây Ban Nha để vận chuyển đội quân của Parma đã bị đánh bại, và Anh đã dành một số không gian để hít thở. Nhưng Hạm đội Armada hiện diện tại vùng biển phía Bắc vẫn còn là mối đe dọa lớn đến Anh.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 10:11 ngày 03/11/2009
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trân Armada - tiếp
    Bài phát biểu ởTilbury
    Một ngày sau trận Gravelines, đã có gió thổi từ phía nam, cho phép Medina Sidonia di chuyển hạm đội của mình về phía bắc từ bờ biển Pháp. Mặc dù các thùng thuốc súng của họ đã bị dùng gần như trống rỗng, các tầu của Anh theo đuổi trong một nỗ lực để ngăn chặn kẻ thù từ quay lại hộ tống quân đội của Parma. Ngày 2 tháng tám theo lịch cũ (ngày 12 tháng 8 lịch mới) Howard ra lệnh tạm dừng lại với các tầu của Anh đang đuổi theo đuổi ở vĩ độ của 4 of 5 ở ngoài khơi Scotland. Bởi điểm đó các tầu Tây Ban Nha phải chịu đưngh cái khát và kiệt sức, và lựa chọn duy nhất còn lại để Medina Sidonia có thể đưa hạm đội quay về Tây Ban Nha, qua một con đường rất nguy hiểm.
    Các mối đe dọa của cuộc xâm lược từ Hà Lan vẫn chưa bị giảm đi đối với người Anh, và Robert Dudley, Công tước của Leicester duy trì một lực lượng gồm 4.000 lính tại đông Tilbury, thuộc Es***, để bảo vệ các cửa sông của sông Thames chống lại bất kỳ cuộc xâm lăng nào từ phía con sông hướng về London .
    Ngày 8 Tháng Tám lịch cũ (ngày 18 tháng 8 lịch mới) Nữ hoàng Elizabeth đã đến Tilbury để khuyến khích các lực lượng của bà, và ngày hôm sau bà đã đã phát biểu với họ những gì có được gọi là bài phát biểu nổi tiếng nhất của bà:
    Quay trở về Tây Ban Nha
    Sau thất bại của Hạm đội Armada trong trận chiến hải quân của Gravelines, nó cố gắng để trở về Tây Ban Nha qua Bắc Đại Tây Dương, khi đang hướng vào hành trình của mình thì nó đã gặp cơn bão dữ dội và hướng về bờ biển phía tây của Ai-len. Triển vọng của một cuộc đổ bộ của quân đội Tây Ban Nha làm chính phủ Dublin dưới sự kiểm soát Nữ hoàng Elizabeth I lo lắng, và các biện pháp khắc nghiệt đã được tiến hành với cả quân xâm lược Tây Ban Nha và với bất kỳ người Ailen có thể hỗ trợ họ.
    Trong trường hợp này, có tới 24 tàu Tây Ban Nha bị đắm trên một bờ biển lổn nhổn đá trải rộng 500 km, từ phía bắc của Antrim đến phía nam của Kerry, và sự đe dọa vào vương quyền của nước Anh đã dễ dàng bị đánh bại. Hầu hết các nạn nhân của nhiều tầu đắm đã bị chết, và phần còn lại bỏ chạy ngang qua biển đến Scotland. Người ta ước tính rằng 5.000 thành viên của đội tàu Tây Ban Nha chết ở Ai-len.
    Chi tiết của cuộc hành trình chết chóc
    Một cuộc họp của các chỉ huy của Hạm đội Armada đã được tổ chức tại chiếc Kỳ hạm, một số chỉ huy đề xuất một chuyến hành trình qua Na Uy, những người khác lại đề nghị đi qua Ai-len. Medina Sidonia thực hiện sự lựa chọn của mình, và sự chỉ dẫn đã được thông báo tới các đội tàu:
    Lộ trình này là đầu tiên giữ hướng của nó ở phía bắc / đông bắc cho đến khi họ đến được điểm 61 độ 1/2; và sau đó họ phải rất chú ý vì sợ rơi vào bờ biển của Ai-len. Sau đó, họ rời khỏi các hòn đảo ở vị trí 61 độ 1/2, và đi về phía tây / phía tây nam cho đến khi họ đến được vị trí 58 độ và từ đó đến phía tây nam tới vị trí 53 độ; và sau đó ở phía nam / phía tây nam tới mũi Finisterre, và như vậy họ có thể đến được Ferrol, hoặc đến bất kỳ cảng khác của bờ biển Galicia.
    Theo hướng dẫn này, các tàu đã tiếp cận bờ biển Na Uy, trước khi lái tầu đến kinh tuyến của Quần đảo Shetland và đảo Rockall. Điều này cho phép họ di chuyển an toàn qua bên trong mũi phía nam của Shetlands, và hạm đội bơi cách bờ biển Scotland khoảng 100 dặm. Sau khi ra Đại Tây Dương, các chỉ huy nhận được lệnh một điểm vượt ra ngoài cửa sông Shannon khoảng 400 dswmj trên bờ biển phía tây của Ai-len, sau đó chạy một mạch về phía bờ biển Bắc Tây Ban Nha.
    Hạm đội Armada đi theo hành trình được định trước, đoàn tầu đến được Biển Bắc và tiến vào Đại Tây Dương từ bắc Uist thuộc quần đảo Hebrides, cho đến khi nó thấy chính nó đang ở ngoài khơi Rockall. Các sổ nhật ký còn tồn tại cho thấy, hạm đội đã đến được chính xác chỗ nó đã dự định và ước tính khoảng cách từ bờ biển Ailen tới điểm này là 95 league. Một số hoa tiêu của Hạm đội Armada có thể đã sử dụng một bản đồ của Ai Len được xuất bản bởi Mercator mười năm trước đó, bản đồ này đã mô tả bờ biển phía đông Đại Tây Dương với một mức độ chính xác hợp lý. Tuy nhiên, đi biển bờ biển phía Tây của đảo Ailen yêu cầu phải có kiến thức sâu sắc, và những hoa tiêu giàu kinh nghiệm đi biển của Tây Ban Nha trong bờ biển phức tạp Ailen và điều kiện thời tiết là những yếu tố chủ yếu để hạn chế đoàn convoy đi về phía nam và phía tây nam của đất nước này.
    Tại Rockall một phần của đội tàu lạc hướng với các hướng dẫn của Medina Sidonia. Có thể là do đội hình của đội tàu đã bị mất liên lạc trong thời tiết hay sương mù, nhưng sau bảy tuần ở ngoài khơi gần bờ biển của Ailen, sức hấp dẫn của việc tìm kiếm nguồn cung cấp và sửa chữa đã ảnh hưởng đến đội hình của các đội tầu. Trong trường hợp này, chỉ có 84 tàu theo sau kỳ hạm của Medina Sidonia đi đúng hành trình đã dự định. Hầu hết trong số này đã về được nhà, mặc dù vẫn phải chịu những thiệt hại năngh nề.
    Một chỉ huy của Hạm đội Armada, Juan Martinez de Recalde, người có kinh nghiệm. Năm 1580, ông ta đã tham gia đổ bộ lực lương xâm lược Papal vào bán đảo Dingle, dẫn đầu cuộc vây hãm Smerwick. Trong quá trình hoạt động đó, ông đã cố gắng để né tránh một đội Anh gồm cả tầu Revenge. Trong Hạm đội Armada, Recalde là chỉ huy của chiếc Galleon San Juan de Portugal của thuỷ đoàn Biscayan, đã chạm súng với hạm đội Anh tại English Channel và cố gắng để bắt giữ Francis Drake trên chiếc Revenge, John Hawkins trên chiếc Victoria, và Martin Frobisher trên chiếc Triumph.
    Bộ phận của hạm đội bị tụt xuống theo bờ biển Ailen năm 1588 - có lẽ trong số 28 chiếc - dường như đã duy trì được một số liên lạc với đội tầu của Recalde, mặc dù điều kiện thời tiết đã làm cho thông tin liên lạc bị hỗn loạn ( chắc bằng cờ và đèn ). Đã có một số thuyền buồm, nhưng hầu hết các tàu buôn vốn đã được chuyển đổi cho mục đích chiến đấu và bây giờ đã bị rò rỉ nặng nề, với phần lớn neo của họ mất và làm buồm với cột buồm bị hỏng nặng. Vào đầu tháng chín, họ bị mất liên lạc với Recalde ở phía hướng gió tây nam. Trong khoảng vài ngày, đội tàu bị lạc này đã dạt vào bờ biển Ai-len

    Sự chuẩn bị đối phó của Chính phủ Anh

    Người đứng đầu của chính quyền Anh tại Dublin là Phó vương William Fitzwilliam, người đã thay thế John Perrot trong năm 1587. Vào tháng tám năm 1588 Fitzwilliam được đệ trình các tình báo đáng tin cậy rằng các trận đánh English Channel là chiến thắng của người Tây Ban Nha và rằng cuộc xâm lược tới Anh đang được hoàn tất. Sau đó, ông ta lại hiểu rằng người Tây Ban Nha đã vào được biển Đại Tây Dương và toàn bộ hạm đội đã đổ bộ vào bờ biển của Ai-len. Mức độ báo động của người Anh tại Dublin cao cùng cực, và Fitzwilliam đã đưa ra báo cáo sai này về London và nhận được 10.000 quân tiếp viện từ Anh.
    Người Anh sợ rằng người Tây Ban Nha sẽ đổ bộ một cách có kỷ luật, và người Ailen sẽ gia nhập với họ từ vùng lãnh thổ mà hầu như ngoài tầm kiểm soát của chính phủ Elizabeth tại Dublin. Nhưng tin tình báo đáng tin cậy đã sớm đến được Waterford và Dublin, rằng các tàu của người Tây Ban Nha cập bờ một cách hỗn loạn tại các địa điểm khác nhau ở các tỉnh Ulster, Connacht và Munster, trên một bờ biển trải rộng 300 dặm (500 km). Mệnh lệnh của Phó Vương Fitzwilliam là bắt và hành quyết tất cả người Tây Ban Nha, việc sử dụng tra tấn đã được dùng để truy đuổi những người sống sót, và những người giúp đỡ họ được tính như là kẻ phản bội với Hoàng gia.
    Cập bờ
    tại Munster
    Các lần cập bờ đầu tiên của các tàu thuộc Hạm đội Armada ở tỉnh phía nam của Ai-len, mà mới trở thành thuộc địa của Anh tại Plantation of Munster sau sự đàn áp thành công cuộc nổi loạn cuối cùng tại Desmond năm 1583. Fitzwilliam nhận được lệnh từ London để dẫn một đoàn quân đóng ở đó, và tin tình báo từ các thống đốc Connacht, Richard Bingham, sớm xác nhận rằng các đợt đang tiếp tục được thực hiện trong suốt phía tây và phía bắc của đất nước. Bảy tàu neo an toàn tại Scattery Roads, và có thể xảy ra chúng được dẫn đường bởi một hoa tiêu đã biết bờ biển. Một cố gắng để đổ bộ bị đẩy lùi, mặc dù vậy họ đã được bảo đảm bằng một nguồn cung cấp nhất định trong khi việc sửa chữa tầu được thực hiện. Một trong những tàu, chiếc Annunciada, được chuyển giao một cách vội vã với thuỷ thủ đoàn của nó cho de Barco Danzig, người đã đưa nó về Tây Ban Nha một cách an toànsau khi rời cửa sông Shannon, ngày 11 tháng Chín.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 18:29 ngày 03/11/2009
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đảo Blasket
    Phân đội của Recalde gồm ba tầu: San Juan de Portugal (1.150 tấn, 500 lính, 20 súng), San Juan de Bautista (750 tấn, 243 linh), và một tàu nhỏ - gần như chắc chắn là một tầu câu cá của người Scotland đã được thu giữ để hỗ trợ việc thám hiểm gần bờ. Các tàu làm theo cách của họ để đi qua một cơn bão gần bờ biển Kerry, những người quan sát đã nhìn thấy mũi Mount Brandon trên bán đảo Dingle và phía tây hùng vĩ của đảo Blasket, một quần đảo rải rác phức tạp với các rạn san hô.
    Recalde hướng về phía đảo Blasket để tìm nơi trú ẩn, và chọn để đi theo thuỷ triều qua một khoảng hổng nhỏ ở mũi đông của đảo Blasket Lớn. Tầu Galleon của ông đã bơi qua vùng biển lặng và bỏ neo cạnh một vách đá dưới đáy biển toàn cát. Các tâud Bautista và tầu cá theo ngay sau đó. Như vậy sự khó khăn trong cách đi này là nó chỉ có thể được dự tính với kiến thức sâu sắc của đường bờ biển, và việc neo đậu đảm bảo rằng gió chỉ có thể lái tàu ra khơi và đưa họ ra biển rộng
    Các tàu vẫn tạm trú ẩn ở đó trong nhiều ngày, và một lực lượng Hoàng gia dẫn đầu bởi Thomas Norris (anh trai của người lính này, John Norris) và Edward Denny (chồng của Lady Denny) đến Dingle để canh gác chống lại việc đổ bộ. Recalde đã cử trinh sát bên bờ, nhưng tất cả tám thành viên đã bị bắt. Trong một khoảng khắc có gió Tây lớn làm chiếc Portugal va chạm với chiếc Bautista, và khi gió lặng một chiếc tàu khác, chiếc Santa Maria de la Rosa (900 tấn, 297lính: thuộc phân đội Guipuzcoa) nhập vào eo biển từ phía bắc và bắn chào bằng một khẩu súng của nó.
    Khi thủy triều xuống, Recalde tổ chức neo đậu tàu của họ ở che chở phần khác của eo biển, trong khi Rosa trôi dạt và sau đó đơn giản là chìm - có lẽ là do đã giao chiến ở Stromboli Rock - để lại một trong những người sống sót cho người Anh tra ho?i. Những người sống sót đã thông báo rằng thuyền trưởng của chiếc Rosa đã gọi hoa tiêu là một kẻ phản bội và đâm xuyên người anh ta bằng một thanh kiếm khi con tàu bắt đầu chìm, ông cũng khẳng định rằng Hoàng tử Ascoli, con trai của vua Tây Ban Nha, đã chìm với con tàu này - thông tin này là sai, nhưng nó đã chứng minh sự tuyên truyền hữu ích của người Anh.
    Hai tàu nữa vào được eo biển - chiếc San Juan de Ragusa (650 tấn, 285 lính), và một chiếc khác không rõ tên. Chiếc Ragusa đã gặp nạn và chìm - có lẽ trên rạn san hô nổi Dunbinna. Tầu Bautista đã cố gắng tận dụng lợi thế thuỷ triều xuống và căng buồm về phía nam để ra khỏi eo biển, cuối cùng đã chạy theo dòng chảy của thủy triều để tránh rất nhiều các rạn san hô, trước khi bơi qua phía tây bắc. Sau một đêm khó khăn, thủy thủ đoàn đã mất hết can đảm để thấy mình laih ở cửa eo biển một lần nữa. Nhưng gió đã thổi từ phía đông nam, và cuối cùng chiếc Bautista đã trốn thoát vào ngày 25 tháng chín và về Tây Ban Nha qua một cơn bão khủng khiếp.
    Ba ngày sau Recalde dẫn đầu các tàu còn lại eo biển và đưa họ về đến Tây Ban Nha, nơi mà ông ta đã chết ngay sau đó. Những người sống sót trong số những người rơi xuống nước bị bắt bởi lực lượng của Denny và bị giết tại Dingle.
    Tại Fenit: thông báo hạm Nuestra Senora del Socorro (75 tấn) neo tại Fenit, trong Tralee Bay trên bờ biển của Kerry, nơi nó đầu hàng quân đội Hoàng gia. 24 thuỷ thủ trên tàu bị bắt giam và chuyển đến lâu đài Tralee lâu đài.Theo lệnh của Lady Margaret Denny, Tất cả họ đã bị hàng quyết bằng treo cổ.
    Tại các vách đá Moher về phía nam của Mũi Hag
    Đảo Valentia: Chiếc Trinidad (800 tấn, 302 lính) đã bị đắm trên "bờ biển của Desmond" - có thể là tại Valentia Island, ngoài khơi bờ biển phía nam Kerry - mặc dù không có các chi tiết của sự kiện này .
    Tại Clare: Ngoài khơi bờ biển County Clare nhiều tàu của Hạm đội Armada đã được nhìn thấy. Bốn chiếc đã được báo cáo là tại Loop Head, hai trong số đó đã bị đắm, bao gồm chiếc Sant Esteban (700 tấn, 264 lính) ở Doonbeg, và có lẽ là chiếc San Marcos đã bị hỏng nặng (790 tấn, Thuỷ thủ đoàn người Bồ Đào Nha, 409 lính, 33 súng) tại Spanish Point bên trong đảo Mutton Island. Những người sống sót đã bị hành quyết theo lệnh của cảnh sát trưởng của Clare, Boetius MacClancy.
    Tại Liscannor chiếc galleass có mái chèo Zuniga (290, Napoli) neo xa bờ với một bánh lái bị hỏng, nó tìm thấy một lỗ hổng trong các vách đá Moher, các vách đá này mọc thẳng đứng khoảng hơn 220 mét từ mặt nước. Chiếc tàu nằm dưới sự giám sát của cảnh sát của Clare và, khi một thuyền nhỏ được gửi lên bờ để tìm kiếm các nguồn cung cấp, người Tây Ban Nha đã bị tấn công bởi quân đội Hoàng gia và đã phải rút lui về tàu của họ. Một trong số họ đã bị bắt và được gửi đi xét hỏi. Chiếc Zuniga thoát khỏi bờ biển khi sức gió thuận lợi, dừng lại ở Le Havre, và cuối cùng quay trở lại Napoli trong năm sau.
    Tại Ulster
    Tại Donegal: Chiếc La Trinidad Valencera (1.000 tấn, Thuỷ thủ đoàn từ Levant, 360 lính, 42 súng) bị nước vào nhiều và có thể được bơm ra khi nó đến gần bờ biển. Tuy nhiên 264 lính từ chiếc de Barca Amburgo, chiếc tàu đã được thực tế chìm trong biển dữ dội, đã được vớt lên tàu. Chiếc Trinidad neo tại Vịnh Glenagivney mà nay là County Donegal, nơi nó được xác định mức độ phá huỷ là quá lớn và tất cả đã quyết định là bỏ tàu. Một số người dân địa phương đã được trả tiền cho việc sử dụng một chiếc thuyền nhỏ, và trong quá trình hai ngày tất cả 560 người đàn ông đã cập bờ.
    Dunluce Castle. Sau bảy ngày lang thang trong nội địa, những người sống sót đã gặp một lực lượng của kỵ binh dưới sự chỉ huy của- người em nuôi của Hugh ONeill, 3rd công tước của Tyrone. Sau khi có cam kết đảm bảo an toàn tính mạng của Fitzwilliam được đưa trong sự hiện diện của Bá tước của Tyrconnell - người Tây Ban Nha hạ vũ khí đầu hàng. Các quý tộc và sỹ quan được tách ra và 300 lính thường bị tàn sát. Số còn sống sót 150 bị ném vào đầm lầy và chết ở Sorley Boy MacDonnell tại Dunluce hoặc tại nhà của Redmond OGallagher, giám mục của Derry, và sau đó được gửi đến Scotland. Các quý tộc và 45 sỹ quan phải đi bộ đến Dublin, nhưng chỉ có 30 sống sót, trong đó họ đã được chuyển đến London để chuộc. ONeill quở trách Tyrconnell về sự phản bội lời hứa của ông với người Tây Ban Nha, và thực hiện các nỗ lực để hỗ trợ cho tất cả những người sống sót trong lãnh thổ của mình.
    Thêm hai tàu không xác định được tên bị đắm trên bờ biển Donegal, một trong chúng ở Mullaghderg, chiếc khác ở Rinn Chaislean
    Tại Connacht
    Thống đốc Connacht, Richard Bingham, tìm cách xin tiếp viện từ Dublin nhưng yêu cầu của ông đã bị từ chối bởi Fitzwilliam, vì bản thân ông ta cũng không có đủ các nguồn lực để cứu viện. Một tuyên bố là những người giúp đỡ người Tây Ban Nha sẽ bị coi là phản bội và sẽ phải chịu một cái chết đau đớn.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 11:35 ngày 04/11/2009
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Nhiều người sống sót đã được chuyển tới Galway từ khắp nơi trên địa bàn tỉnh. Trong làn sóng đầu tiên của đợt bắt giữ, 40 người có dòng dõi quý tộc được phân loại riêng để lấy tiền chuộc, và 300 thường binh bị xử bắn. Sau đó, theo lệnh của Fitzwilliam, tất cả những người quý tộc cũng bị tử hình, ngoại trừ hai người, cùng với sáu cậu bé người Hà Lan được sống sót nhưng bị quản lý chặt chẽ sau đó. Tất cả có 12 tàu bị đắm trên bờ biển của Connacht, và 1.100 người sống sót đã bị tử hình.
    Tại Galway: Chiếc Falco Blanco (300 tons/103 lính/16 súng) và Concepcion của Biscay (225 lính, 18 súng) và các tàu khác không rõ đi vào Galway Bay. Chiếc Falco Blanco cập bến tại Barna, 5 km về phía tây của thành phố Galway, và những người trên tàu đã cố gắng làm cho nó cập được vào bờ. Chiếc Concepcion cập bờ cách Carna 30 km về phía tây, nó bị thu hút vào bờ do lửa từ kho thuốc súng bị cháy trên xác bị chìm của chiếc OFlaherty.
    Tại Sligo: Ba tàu bị đắm trên bờ biển của Sligo, với 1.800 thủy thủ chết đuối và có lẽ khoảng 100 người bơi được vào bờ. Trong số những người sống sót có thuyền trưởng Francisco de Cuellar, Người đã viết một tự chuyện đáng kể về kinh nghiệm của mình trong đội tàu và trên chạy trốn ở Ai Len.
    Tại Mayo: Vào tháng 9 một tầu Galleon bị đắm tại Tyrawley (hiện nay là Quận Mayo), và một số đã đến bờ, 80 người bị giết trên bãi biển bằng rìu bởi một nhóm chiến binh gallowglass và 72 người (cùng với một giám mục) đã được đưa tới tạm giữ tại nhà tù Hoàng gia và tử hình tại Galway theo lệnh của Fitzwilliam. Dường như một chiếc tàu đã bị đắm trong vùng phụ cận, gần Kid Island, nhưng vẫn không có hồ sơ của sự kiện này. Ngoài ra, còn chiếc Gran Grin đã bị đắm tại Clew Bay.
    Tại đảo Aran: Hai tàu đã được nhìn thấy ngoài khơi Aran đảo, một chiếc không tiếp đất được bởi thời tiết xấu, và không có ai được biết những gì đã xảy ra với họ.
    Chiếc Girona: Sự mất mát duy nhất về cuộc sống xảy ra khi xác của chiếc galleass Girona, vốn đã có trên tàu nhiều người sống sót từ các tàu đắm khác trên bờ biển của Connacht, và sau đó bị đắm ngoài khơi bờ biển Antrim.
    Trong số này là tầu buôn carrack La rata Santa Maria Encoronada (419 lính, 35 súng), vốn đang chạy trên bờ biển Ailen một cách tuyệt vọng vì cần sửa chữa, cùng với bốn tàu khác của đội Levant và bốn thuyền buồm. Chiếc Rata mang một số lượng lớn bất thường các quý tộc từ các gia đình cổ xưa nhất của Tây Ban Nha - trong số đó có Đôn Alonso Martinez de Leyva ?" cùng với con trai của lãnh tụ nổi loạn người Ai Len, James Fitzmaurice Fitzgerald.
    Chiếc Rata đã được điều khiển một cách khéo léo dọc theo bờ biển phía bắc của Mayo, nhưng không thể ra khỏi bán đảo Mullet, Và do đó neo tại Blacksod Bay vào ngày 07 tháng 9. Gió nổi to và kéo đứt neo làm con tàu bị đẩy dạt vào Ballycroy. Tất cả các thủy thủ đoàn đến được bờ biển dưới sự chỉ huy của de Leyva, và hai lâu đài đã bị chiếm giữ và củng cố bằng đạn súng đạn dự trữ, xác tầu ở bờ biển bị đốt. Con trai của lãnh tụ nổi loạn, Maurice Fitzmaurice đã chết trên tàu, và được thả xuống biển bằng những cây bách (chắc là kết thành bè???).
    Người Tây Ban Nha nhanh chóng chuyển sang một lâu đài, nơi họ đã gặp một nhóm đồng bào, những người sống sót, đến từ xác của chiếc Broadhaven, vốn đã đi được vào eo biển mà khôngcó cột buồm. Nhóm của De Leyva bây giờ đã lên tới con số 600, và thống đốc của Connacht, Richard Bingham, đã không chọn phương án để đối đầu với chúng. Sau một số ngày hai tàu của Hạm đội Armada nhập Blacksod Bay ?" các tầu Nuestra Senora de Begona (750 tấn, 297 lính) và chiếc tầu vận tải Duquesa Santa Ana (900 tấn, 23 súng, 357 lính). De Leyva và 600 lính của mình lên chiếc Duquesa. Chiếc Nuestra Senora khởi hành thẳng đến Santander, Tây Ban Nha một thời gian sau đó. Tuy nhiên chiếc Duquesa đã phần nào bị hư hại, và họ đã quyết định căng buồm về phía bắc Scotland. Bão tố đã tẫn công chiếc Duquesa và nó đã đến được vịnh Donegal thuộc Loughros, và tất cả đã tiếp đất an toàn tại một vùng bờ biển thân thiện (người Scotland lúc đó đa số vẫn theo Công giáo và ghét người Anh như mẻ)
    De Leyva bị thương nặng bởi một cây bá lan, phải cắm trại bên bờ vịnh trong chín ngày, cho đến khi có tin tức của một tàu của hạm đội Armeda, chiếc galleass Girona, vốn đã neo tại bến cảng Killybegs, trong khi hai chiếc tàu khác bị mất một ngày để cố gắng vào bến cảng. Với sự hỗ trợ của một thủ lĩnh Ailen, MacSweeney Bannagh, chiếc Girona đã được sửa chữa và căng buồm vào giữa tháng mười với 1.300 người trên tàu, trong đó có de Leyva. Vượt qua Eo biê?n Foyle , nhưng sau đó họ lại gặp gió lớn và chiếc Girona bị đẩy lên bờ ở Dunluce nơi hiện nay là County Antrim. Chỉ có chín người may mắn sống sót, những người này được gửi về đến Scotland bởi Sorley Boy MacDonnell, 260 thi thể được đánh giạt lên bờ.
    Tổng số 24 -- > 28 tầu bị đắm ở bờ biển Ailen (chiếm khoảng 1/3 số tầu bị đắm), khoảng 5.000 người Tây Ban Nha bị chết đuối, chết đói và bị hành hình bởi người Anh khi họ cố gắng để bơi được vào bờ ; chỉ có một nửa số tầu của hạm đội Armada Tây Ban Nha trở về được Tây Ban Nha. Một số người sống sót đã được che dấu bởi những người Ai Len, nhưng vài chỉ vài người Tây Ban Nha sống sót để nhận được sự giúp đỡ của người Ailen, một số ít hơn có thể trở được về nhà. Cuối cùng, tổng số có 67 tàu và khoảng 10.000 người còn sống sót. Nhiều người trong số này đã gần chết do bệnh, như là điều kiện rất chật chội và hầu hết các tàu đã hết thực phẩm và nước. Nhiều người nữa chết ở Tây Ban Nha, hoặc trên các tàu bệnh viện tại cảng của Tây Ban Nha, từ các bệnh bị lây trong chuyến đi này. Người ta nói rằng khi Philip II đã biết được những kết quả của đoàn viễn chinh, ông tuyên bố: "Tôi đã gửi các tầu của Hạm đội Armada để đánh nhau với con người, chứ không phải là đánh nhau với gió và sóng của Chúa Trời". Tuy rất thất vọng, ông vẫn tha thứ cho Công tước Medina Sidonia.
    Kết Thúc
    Người Anh bị thiệt hại tương đối ít, và không có tàu của họ bị chìm. Nhưng sau khi chiến thắng, bệnh sốt Rickettsia, kiết lỵ và thiếu dinh dưỡng đã giết nhiều thủy thủ của họ (ước tính khoảng 6,000-8,000 người) như họ đã bị loại ra mà không cần phải trả tiền: một cuộc tranh chấp làm nản lòng người đã xảy ra bởi sự thiếu hụt tài chính của chính phủ làm nhiều binh lính Anh chưa được trả tiền hàng tháng trời, hoàn toàn trái lập với sự hỗ trợ của chính phủ Tây Ban Nha để nhằm đưa những người còn sống sót của mình về nhà.
    Mặc dù hạm đội Anh đã không thể ngăn chặn được sự tái nhóm của Hạm đội Armada trong trận Gravelines, nó đòi hỏi vẫn phải làm việc này thậm chí là hàng ngàn thủy thủ của nó đã chết, kết quả đã chứng minh chiến lược này là đúng, dẫn đến một cuộc cách mạng trong hải quân với sự cải tiến của thuật bắn đại bác, mà cho đến khi đó nó chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho nhiệm vụ ramming và tấn công lên boong. Trận Gravelines được các chuyên gia trong lịch sử quân sự coi là phản ánh một sự thay đổi lâu dài trong sự cân bằng hải quân đã có lợi thế cho người Anh, một phần vì khoảng cách về công nghệ và trang bị vũ khí hải quân đã được xác nhận giữa hai nước trong thế kỷ đó và tiếp tục vào thế kỷ tiếp theo. Theo lời của Geoffrey Parker, năm 1.588 các tầu chiến hải quân của Elizabeth đã thành lập hạm đội mạnh nhất so vơid bất cứ nơi nào trên thế giới. Tuy nhiên sau thất bại của nó trong các chiến dịch Armada Hải quân Tây Ban Nha cũng trải qua một cuộc cải cách chính giúp nó duy trì việc kiểm soát vùng biển riêng của mình và các tuyến đường biển nhiều trong thế kỷ tiếp theo.
    Ở Anh, là chiến thắng này là động lực để niềm tự hào quốc gia kéo dài trong nhiều năm, và huyền thoại của Elizabeth tiếp tục tồn tại lâu dài sau cái chết của bà. Việc có thể đẩy lùi hải quân Tây Ban Nha đã cổ vũ trái tim của những người Kháng cách trên khắp châu Âu, và niềm tin rằng Thiên Chúa đã đứng sau người Tin lành đã được thể hiện bằng hàng chữ nổi bật của kỷ niệm chương mà khoan dòng chữ, He blew with His winds, and they were scattered (Ngài đã thổi bằng ngọn gió của ngài và họ đã tan rã). Cũng có nhiều kỷ niệm chương mang tính hài hước, chẳng hạn như một chiếc chơi chữ theo câu của ****** Caesar: Venit, Vi***, Fugit (họ đã đến, họ đã thấy,họ đã chạy trốn). Chiến thắng được hoan nghênh lớn nhất bởi người Anh kể từ chiến thắng của họ tại Agincourt.
    Tuy nhiên, một nỗ lực để tạo lợi thế của người Anh đã không thành công năm sau đó, khi một hạm đội tương đương của Anh (so với hạm đội Armada của Tây Ban Nha) khởi hành từ Bồ Đào Nha và Azores vào năm 1589. Cuộc viễn chinh của Norris-Drake hoặc Hạm đội Armada của Anh đã phải te tua chạy về nhà sau khi không phối hợp một cách hiệu quả với người Bồ Đào Nha.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:24 ngày 04/11/2009
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những trận hải chiến lịch sử - thời kỳ cuối Trung Đại - Châu Âu
    Trận hải chiến Hạm đội Armada của người Anh
    Ngày diễn ra trận đánh: trong năm 1589
    Vị trí: trận đánh: Bờ biển Iberia
    Kết quả: Tây Ban Nha chiến thắng quyết định

    Các bên tham chiến
    Hạm đội Vương quốc Anh
    Hà Lan
    Chỉ huy
    Elizabeth I của Anh
    Robert Devereux
    Francis Drake
    John Norreys
    Sức mạnh
    6 tầu Galleon
    60 tàu buôn vũ trang
    60 flyboats Hà Lan
    20 tầu Pinnace
    23.000 binh lính
    Thương vong và thiệt hại
    30 tàu
    13.000 người chết
    5.000 người bỏ ngũ
    Tây Ban Nha
    Vương quốc Bồ Đào Nha
    Chỉ huy
    Philip II của Tây Ban Nha
    Álvaro Troncoso
    Conde de Fuentes
    María Pita ( người nữ anh hùng ở thành phố Corunna)
    Sức mạnh
    4 tầu Galleon
    Tàu buôn vũ trang ( không rõ số lượng)
    15.000 binh lính
    Thương vong và thiệt hại
    900 người chết
    Hạm đội Armada của người Anh (còn được gọi là Counter Armada (Phản công), Hoặc cuộc chinh phục của Drake-Norris) là một hạm đội tàu chiến của Nữ hoàng Elizabeth I của nước Anh được gửi đến các vùng bờ biển Iberia trong năm 1589, trong chiến tranh Anh-Tây Ban Nha (1585-1604). Nó đã được chỉ huy chung bởi các đô đốc Sir Francis Drake và Sir John Norreys, và không thể giành được lợi thế cho nước Anh khi đã đánh tan hạm đội Armada của Tây Ban Nha trong năm trước. Các chiến dịch đều thất bại và cuối cùng người Anh nhận một tổn thất nặng với cả nhân mạng và tàu bè.
    Mục đích và kế hoạch
    Nữ hoàng Elizabeth đã chú ý để lợi dụng những điểm yếu tạm thời của người Tây Ban Nha trên biển sau khi đánh lui thành công của các tầu chiến của Hạm đội Armada thuộc Tây Ban Nha và bắt buộc Philip II phải chấp nhận các điều kiện hòa bình. Đây không phải là một vấn đề đơn giản, và cuộc viễn chinh gồm có ba nhằm mục đích khác biệt: để đốt cháy hạm đội Đại Tây Ban Nha, để đổ bộ xuống Lisbon và tạo ra một cuộc nổi loạn chống lại Philip II, và sau đó tiếp tục ở phía nam và thiết lập một căn cứ thường trực tại Azores. Một mục đích xa hơn là để nắm bắt lấy hạm đội kho báu của Tây Ban Nhai khi nó trở về từ châu Mỹ tới Cadiz, mặc dù điều này phụ thuộc phần lớn vào thành công của chiến dịch Azores.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 15:55 ngày 04/11/2009
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [​IMG]
    Sơ đồ hành trình của Hạm đội Armada trong chiến dịch nước Anh
    Ảnh về trận Gravevinle
    [​IMG]
    [​IMG]
    Tầu của hải quân Anh đang tấn công tầu Tây Ban Nha
    Tầu Tây Ban Nha bị tiêu diệt trong trận Gravevinle
    [​IMG]
    Lính thuỷ Tây Ban Nha đang rút xuống xuồng cứu sinh khi tầu của họ bị cháy
    [​IMG]
    Thuỷ thủ của tầu Tây Ban Nha bị bắn chìm, chú ý là buồm của các chiếc khác lỗ chỗ vết đạn
    Trân Armada - tiếp
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 16:07 ngày 03/11/2009
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    English - Armada (tiếp)
    Các tính toán quan trọng dựa trên sự hiểu biết về chính trị của Bồ Đào Nha. Đế chế Bồ Đào Nha bao gồm Brazil, à Đông Ấn, và một số các khu vực khác, và các cứ điểm thương mại tại Ấn Độ và Trung Quốc. Bởi một liên minh đáng tin cậy với Hoàng gia Bồ Đào Nha, Elizabeth hy vọng sẽ kiềm chế quyền lực Tây Ban Nha tại châu Âu và tạo ra cho bà ta thứ được ưa thích nhất, đó là sự sở hữu các tuyến đường thương mại trên biển.
    Đó là một việc làm cực kỳ khó khăn, bởi vì các tầng lớp quý tộc trong nước của Bồ Đào Nha đã chấp nhận Philip II là vua của họ từ năm 1580. Người đang có yêu cầu đòi lại ngôi báu, António, tu viện trưởng của Crato ?" người cuối cùng còn sống sót là thừa kế của Nhà của Aviz ?" đã thất bại trong việc thành lập một chính phủ hiệu quả trong khi lưu vong tại Azores, và đã chuyển sang nước Anh để nhận hỗ trợ. Nhưng ông ta đã không phải là một nhân vật uy tín, và không đủ các cơ sở hợp pháp của mình, ông ta phải đối mặt với một đối thủ với các yêu cầu có lẽ tốt hơn, trong mắt của các nhà quý tộc của Bồ Đào Nha đó là Cortes, Catherine, nữ công tước xứ Braganza.
    Các mưu đồ chính trị phức tạp không phải là hạn chế duy nhất cho đoàn viễn chinh. Giống như người tiền nhiệm Tây Ban Nha, Hạm đội Armada Anh được lên kế hoạch một cách quá lạc quan, dựa trên hy vọng lặp lại cuộc tấn công thành công của Drake vào Cadiz năm 1587. Một mâu thuẫn quan trọng nằm giữa các kế hoạch riêng rẽ, mỗi kế hoạch riêng rẽ lại có các tham vọng đòi hỏi quyền lợi riêng của nó. Nhưng nhu cầu bức xúc nhất là phải tiêu hủy hạm đội Đại Tây Ban Nha nằm ở cảng tại A Coruña, San Sebastián và Santander dọc theo bờ biển phía Bắc của Tây Ban Nha, đó là mệnh lệnh trực tiếp ra lệnh của nữ hoàng.
    Đoàn viễn chinh được thành lập như là một công ty cổ phần, với vốn đầu tư khoảng £ 80.000 - một phần tư đến từ Nữ hoàng Anh, và 1/8 đến từ người Hà Lan, phần còn lại được góp bởi các quý tộc, các thương gia và các phường hội khác nhau. Những lo ngại về hậu cần và thời tiết xấu trì hoãn sự xuất phát của hạm đội, và sự rối loạn đã xảy ra khi hạm đội đang chờ ở EC. Người Hà Lan thất bại trong việc cung ứng các tàu chiến họ đã hứa, một phần ba số lương thực đã được tiêu thụ, và số binh sĩ chỉ có 1.800 cựu chiến binh trong khi các số lượng của các tình nguyện viên đã làm tăng quân số từ 10.000 đến 19.000 người so với kế hoạch. Hạm đội cũng thiếu súng công thành và kỵ binh ?" những binh chủng đã bị người Tây Ban Nha phung phí trong cuộc viễn chinh của Hạm đội Armada Tây Ban Nha năm trước ?" làm nảy sinh những nghi ngờ nghiêm trọng về mục đích của những người phụ trách khâu chuẩn bị hậu cần.
    Tiến hành chiến dịch
    Hạm đội Armada của người Anh được tạo thành từ 6 Galleon hoàng gia, 60 tầu buôn vũ trang Anh , 60 flyboats Hà Lan và khoảng 20 pinnaces. Ngoài số binh lính, có 4.000 thủy thủ và 1.500 sĩ quan và quý tộc ưa phiêu lưu mạo hiểm. Drake được phân công với tàu của ông ở hải đội thứ5, dẫn đầu đội của mình bằng chiếc Revenge, Sir John Norreys trên chiếc Nonpareil, anh trai Edward của Norrey trên chiếc Foresight, Thomas Fenner trên chiếc Dreadnought, và Roger Williams trên chiếc Swiftsure. Cũng đi với họ - chống lại mệnh lệnh của Nữ hoàng - là Công tước of Es*** (Bác này sau bị nữ hoàng cắt mất cái đầu ).
    Hầu hết các tàu bị mất trong chuyến viễn chinh của Philip II năm 1588 đã được thay thế bằng tầu buôn vũ trang, trong khi cốt lõi của Hạm đội Đại Tây Dươn Armada - các Galleon của Hải quân của Tây Ban Nha - đã sống sót về nhà sau chuyến đi của họ và cập cảng tại các cảng Đại Tây Dương của Tây Ban Nha cho để sửa chữa, nơi chúng nằm hàng tháng, và dễ bị tấn công.
    Sự chậm trễ không lường trước và lo sợ phải quay trở vùng vịnh Biscay làm cho Drake bỏ qua thành phố Santander, nơi mà hầu hết các công việc sửa chữa này đang tiến hành, và thay vì thế ông ta tấn công thành phố Corunna trong vùng Galicia. Norreys tấn công thị trấn thấp hơn, và giết khoảng 500 người Tây Ban Nha, và cướp bóc các hầm rượu vang, trong khi lực lượng của Drake bị phá hủy 13 tàu buôn vũ trang khi tấn công vào cảng. Trong hai tuần kế tiếp gió thổi hướng tây, và trong khi người Anh chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào thị trấn bị bao vây Corunna ở trên cao ( Thành phố Corunna có hai phần, phần thấp bị quân Anh chiếm còn phần cao thì chưa) thì người Tây Ban Nha nỗ lực tăng cường các công sự của họ. Một vài chiếc Galleon của Tây Ban Nha vượt qua hạm đội Anh và nhiều lần cung cấp hậu cần cho những người đang phòng thủ, và khi cơn gió thuận lợi trở lại, các tầu Anh từ bỏ cuộc vây hãm,sau khi đã mất bốn thuyền trưởng và vài trăm lính trong cuộc giao tranh, cùng với 3.000 người khác trong 24 tàu vận tải, trong đó có tầu của Hà Lan, những người này ( bỏ ngũ) để trở về Anh hoặc tới thành phố La Rochelle. Những người ở lại sau đó chuyển sự chú ý của họ vào thành phố tiếp theo là Puente de Burgos, và cũng là nơi Norreys giành một chiến thắng khiêm tốn, và sau đó tất cả kéo đến Lisbon. ( Trong trận bao vây thị trấn Corunna, khi người Anh đang ào ạt tấn công và người Tây Ban Nha đã bắt đầu núng thế thì có một cô gái trẻ tên là María Pita xông ra đâm chết một lính Anh và hô to " tất cả những người Tây Ban Nha, những người còn danh dự hãy xông lên theo tôi" thế là quân Anh chạy như một đàn vịt về phía vị trí ban đầu của họ)
    [​IMG]
    Tượng của María Pita tại thành phố Corunna ( mô tả lúc cô đã đâm chết người lính Anh)
    Lisbon đã được nói đến là được bảo vệ bởi một đơn vị đồn trú bất mãn, nhưng trong khi người Anh đổ máu của mình tại Corunna thì người Tây Ban Nha đã dành một hai tuần quan trọng để chống đỡ cho sự bảo vệ của Bồ Đào Nha. Khi Norreys tiếp cận đến thành phố, các cuộc nổi dậy đã không nổ ra như dự kiến hoặc đã đạt được rất ít thành công. Drake đã bắt lấy cơ hội vào ngày 30 tháng sáu, để thu lấy một đội tầu gồm 20 tầu Pháp và 60 tầu Hanseatic, vốn đã phá bỏ cuộc phong tỏa của Anh với Tây Ban Nha bằng cách căng buồm bơi xung quanh phía bắc của Scotland chỉ để thoát ra trước khi pháo của người Anh nổ lên trong vịnh Tagus. Việc tịch thu này, theo ghi chú của RB Wernham, ( là một đòn hữu ích với sự chuẩn bị của Tây Ban Nha), nhưng sau đó họ được yêu cầu phải có một biện minh công khai ( vì đi đánh Tây Ban Nha nhưng lại bắt giữ tầu Pháp và tầu của Hanseatic ?" một liên minh thương mại hàng hải của người Đức), một Declaration of Causes từ phát ngôn riêng của Nữ hoàng nói rằng đây không phải là chiến lợi phẩm, thì bà ta và người đồng đầu tư người Anh của bà phải đối mặt với các thiệt hại đáng kể.
    Người Anh lại chuẩn bị một đòn nữa để giáng vào nguồn cung cấp thực phẩm của hải quân Tây Ban Nha bằng cách tiêu diệt các kho dự trữ ở Lisbon, nhưng bất chấp sự cố gắng của Công tước vùng Es***, người đã hua thanh kiếm của mình ở tại cổng của thành phố với một vẻ thách thức những người bảo vệ thành phố, người Anh không thể chiếm được Lisbon mà không có pháo binh hoặc sự hỗ trợ của người Bồ Đào Nha trong việc mở cổng thành. Các cuộc tấn công được dự kiến đã không nổ ra, một phần vì sự vắng mặt của Drake, và lực lượng hải quân và bộ binh có thể bị chia cắt và bị mất liên lạc sau khi đổ bộ xuống Peniche, và quân phòng thủ cũng không mạo hiểm dàn quân để chiến đấu đối mặt. Es*** nhận được mệnh lệnh từ Elizabeth là phải quay trở lại Anh, cùng với một từ chối gửi quân tiếp viện hoặc tổ chức một cuộc vây hãm, Nữ hòang không muốn mang gánh nặng chính của một cuộc chiến tranh trên bộ tại Bồ Đào Nha. Vì vậy đã quyết định tập trung vào mục tiêu thứ ba của đoàn đoàn viễn chinh, đó là việc thành lập một căn cứ thường trú tại Azores. Tuy nhiên, chiến dịch đã làm cho người Anh thiệt hại nặng nề. Lực lượng của Drack đã bắt đầu đẩy lui được lực lượng phòng thủ ngoài khơi của Tây Ban Nha nhưng bây giờ người Tây Ban Nha đã chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ trên đất của chính mình và người Anh đã tỏ ra mệt mỏi và ngày ngày phải chịu nỗi khổ từ bệnh dịch hoành hành.
    Người ta đã sớm hiểu rằng bất kỳ nỗ lực trên mặt đất nào tại vùng Azores là đòi hỏi quá sức, và Drake đã cố gắng thực hiện một nỗ lực cuối cùng để hoàn thành nhiệm vụ. Tại thời điểm này, hầu hết binh lính đã bị mất sức chiến đấu và chỉ khoảng 2.000 người còn khả năng đã được tập hợp. Thời tiết bão tố cũng làm hư hại một loạt tàu bè. Trong khi Norreys khởi hành về nhà vì bệnh tật và bị thương, Drake đã nhận trách nhiệm về ông những gì còn lại và tập hợp 20 tàu để săn tìm hạm đội kho báu. Ông bị tấn công bởi một cơn bão ghê gớm và không thể thực hiện được nhiệm vụ của mình, và trong khi Porto Santo Madeira bị đánh cướp thì chiếc kỳ hạm của ông, the Revenge, bị một rò rỉ và hầu như nó đã bị đắm khi dẫn đầu phần còn lại của hạm đội Anh về Plymouth.
    Cuộc viễn chinh là một thảm họa hải quân và một thất vọng lớn. Không một mục đích nào của nó đã được thực hiện, và trong nhiều năm sau đó kết quả này đã không khuyến khích thêm các chiến dịch cổ phần trên quy mô như vậy được thực hiện. Người Anh phải chịu những tổn thất nặng nề của tàu bè, và binh lính (phần lớn là do bệnh tật) và các nguồn lực khác, nhưng chỉ mang về 150 khẩu pháo chiến lợi phẩm và giá trị £ 30.000 của các đồ ăn cướp được. Thành tựu đáng kể duy nhất có lẽ là gián đoạn tạm thời đến các hoạt động vận tải của người Tây Ban Nha. Điều này cũng làm gián đoạn việc gửi quân tiếp viện và các nguồn cung cấp cho quân đội Tây Ban Nha của Parma và tạo ra nổi loạn trong quân đội Tây Ban Nha ở Flanders, và một số thuyên giảm về những áp lực của người Tây Ban Nha lên Hà Lan trong tháng Tám.
    Hậu quả của chiến dịch
    Với cơ hội để ra một đòn quyết định chống lại người Tây Ban Nha đã suy yếu, sự thất bại của cuộc viễn chinh làm trầm trọng thêm sự cạn kiệt của ngân khố Hoàng gia và nó chần phải được phục hồi một cách cẩn trọng trong thời kỳ trị vì lâu dài của Elizabeth I. Cuộc chiến tranh Anh-Tây Ban Nha đã rất tốn kém cho cả hai bên, và Tây Ban Nha chính nó, cũng phải đang trong tình trạng chiến tranh với Pháp ( bác nào có xem mấy quấn Ba người lính ngự lâm thì sẽ thấy lúc đó Tây Ban Nha liên tục có chiến tranh trên bộ với Pháp) và các tỉnh Hà Lan, và đã bị vỡ nợ do không trả nổi các khoản vay nợ của nó trong 1596, sau cuộc đột kích vào Cadiz. Nhưng sự thất bại của Hạm đội Armada của Anh là một bước ngoặt, và vận may của các bên khác nhau bởi vì cuộc xung đột này cho đến khi ký kết Hiệp ước London năm 1604, và tình trạng hòa bình mong manh đã được tái lập.
    Việc xây dựng lại hải quân Tây Ban Nha đã có kết quả nhanh chóng và thậm chí hải quân Tây Ban Nha đã phục hồi và vượt trội về số lượng tầu bè của nó trên biển so với trước khi xảy ra cuộc chiến, cho phép nó duy trì sự kiểm soát đường biển của chính mình, và do đó vận chuyển một cách an toàn số tiền lớn các kim loại quý từ Tân Thế Giới, cho đến có sự xuất hiện của sức mạnh của Hải quân Hà Lan (với một hạm đội tàu chiến nhẹ nhỏ hơn của người Anh nhưng với một hạm đội tầu buôn lớn hơn nhiều) cuối cùng người Hà lan đã hoàn thành mong ước của họ năm mươi năm sau đó. Trong khi đó hải quân của người Anh gây áp lực bắt người Tây Ban Nha phải tập trung vào bảo vệ vùng thuộc địa Ca-ri-bê của mình; J. H. Parry đã viết: ( Các đội tàu chở bạc và đường biển mà họ đi qua đã được bảo vệ tốt; nhưng sự tập trung của rất nhiều các tàu chiến đã làm cho đế quốc Tây Ban Nha không thể bảo vệ các tham vọng của mình cho việc độc quyền kiểm soát ở những vùng biển khác trong Đại Tây Dương).
    Trong suốt cuộc hải chiến, hải quân của Anh với (tất cả những tàu mang súng lớn ) của nó, hưởng lợi từ kinh phí duy trì, cho phép nó để duy trì ưu thế của mình trong trang bị vũ khí, thuật bắn súng, và học thuyết chiến thuật, và nó ra sức tăng cường sức mạnh của mình, đến năm 1595 hải quân Anh đã có 38 tàu chiến, mang tổng số 1.059 khẩu súng (628 khẩu trong số đó bắn đạn nặng 9-pounders trở lên). Hơn nữa, nhà nghiên cứu lịch sử G. Parker viết: ( Mặc dù đã nổi tiếng vì tính keo kiệt và bủn xỉn của mình, Nữ Hoàng Elizabeth vẫn dành rất nhiều chi tiêu vào xây dựng hải quân, và vào việc duy trì một số lượng sỹ quan thường trực trong số nhân sự của lực lương hải quân, trong suốt nhất của triều đại của mình ?" các triều đại khác thường chỉ biết vơ vét trang bị cho tầu buôn khi chiến tranh xảy ra), với kết quả là hải quân Anh Quốc đã trở nêm mạnh mẽ hơn về cả tàu chiến lẫn hỏa lực vào cuối giai đoạn của cuộc chiến hơn là vào lúc đầu.
    Tuy nhiên chiến lược của hải quân Tây Ban Nha về sau các cuộc chiến của Hạm đội Armada đã phần lớn thành công, khi bảo vệ được các thuộc địa thương mại của nó và duy trì áp lực lên nước Anh bằng cách phá hoại và gây thiệt hại cho thương mại của họ tại Bắc Hải và những nơi khác và với sự hỗ trợ về vật chất cho các cuộc nổi loạn ở Ailen. Sự thất bại của hạm đội Anh năm 1589 trong việc ra một đòn tấn công quyết định chống lại các lực lượng hải quân Tây Ban Nha cho phép người Tây Ban Nha củng cố các thuộc địa của họ trên lãnh thổ ở châu Mỹ và ngăn cản có hiệu quả việc người Anh tiến xa hơn trong những nỗ lực thực dân (xâm chiếm nhiều hơn nữa những đất đai ở châu Mỹ) trong suốt phần còn lại của triều đại Elizabeth. Thuộc địa của đế quốc Tây Ban Nha tại lục địa châu Mỹ đã được duy trì cho đến tận đầu thế kỷ 19. Với hiệp ước hòa bình, người Anh đã có thể củng cố quyền lực của mình tại Ai-len và tập trung vào việc thiết lập các thuộc địa trong tương lai ở Bắc Mỹ (cướp trắng trợn từ tay thực dân Hà Lan).
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 13:31 ngày 05/11/2009
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc đời của Sir Francis Drake - Cướp biển lừng danh kiêm phó đô đốc Hải Quân Anh
    [​IMG]
    Ảnh chân dung của Francis Drake
    Biệt danh: El Draque ( tiếng tây ban nha), Draco (latin, The Dragon)
    Nghề nghiệp: Cướp biển
    Nơi sinh: Tavistock, Devon, Anh
    Nơi mất: Portobelo, Colón, Panama
    Phục vụ: Hải quân Anh
    Năm của dịch vụ: 1563 - 1596
    Chức vụ: Phó Đô đốc
    Cơ sở của hoạt động: Biển Caribê
    Tầu sử dung: Golden Hind (trước đây gọi là Pelican)
    Tham gia cuộc chiến: Anh - Tây Ban Nha (1585)
    Trận Gravelines
    Sir Francis Drake, Phó Đô đốc (1540 - Tháng 1 27, 1596), là một thuyền trưởng người Anh, một tên cướp biển, một nhà hàng hải , một kẻ buôn bán nô lệ. Ông được biết đến như là một tên cướp biển nổi tiếng, và nhà chính trị gia của thời đại Elizabeth. Nữ hoàng Elizabeth I đã trao cho Drake một phong tước hiệp sĩ năm 1581. Ông là phó tư lệnh của hạm đội Anh chống lại Hạm đội Armada Tây Ban Nha năm 1588, ông chỉ chịu sự chỉ huy của Charles Howard và đích thân Nữ hoàng. Ông qua đời vì kiết lỵ trong tháng 1 năm 1596 sau khi tấn công không thành công vào thành phố San Juan, Puerto Rico.
    Cuộc đời của ông là huyền thoại, là một anh hùng đối với người Anh nhưng lại là một tên cướp biển với Người Tây Ban Nha, những người chỉ biết đến ông như là El Draque, Draque là cách phát âm của tiếng Tây Ban Nha cho từ Drake ( Rồng ?" theo quan niệm của người phương tây đây là con vật hung dữ chứ không phải là biểu tượng của vua như ở Việtnem ta). Tên của ông theo tiếng Latin là Franciscus Draco ( Francis the Dragon). King Philip II đã tuyên bố trao một phần thưởng là 20.000 đồng ducat, khoảng £4.000.000 (US $6.5m) theo tỷ giá hiện nay cho cái đầu của ông.
    Thủa ấu thơ
    Sir Francis Drake được sinh ra tại Tavistock, Devon, vào tháng hai hoặc tháng Ba năm 1540. Ông là con cả trong mười hai con trai của Edmund Drake (1518-1585), một nông dân Tin lành, người sau này trở thành một mục sư, và vợ của ông là Mary Mylwaye. Ông già cao tuổi Drake đôi khi lẫn lộn với cháu trai của ông John Drake (1573-1634), người là con trai của anh trai của Edmund, Richard Drake. Ông nội mẹ Francis Drake đã Richard Mylwaye. Francis Drake kết hôn lần 1 với Mary Newman; lần 2 với Elizabeth Sydenham năm 585.
    Francis Drake đã được đặt theo tên của cha đỡ của mình Francis Russell, 2nd Bá tước của Bedford, và trong huyết quản của người anh em họ của ông có dòng dõi liên quan trực tiếp đến Hoàng gia và các nhân vật nổi tiếng, như Sir Richard Grenville, Ivor Callely, Amy Grenville và Geoffrey Chaucer. Tuy nhiên, James Froud tuyên bố rằng " Dreck nói với Camden rằng ông có ý lợi dụng vào danh tiếng Hoàng gia. Ông nói rằng ông tự hào về cha mẹ của mình và đã không nghĩ rằng họ là những quý tộc. Cha ông là một người thuê đất của Bá tước của Bedford, và họ đã đối xử tốt với bố ông, cho Francis Russell, người thừa kế lãnh địa bá tước, làm cha đỡ của cậu bé. "
    Cũng như nhiều người trong cùng thời Drake, chính xác ngày sinh của ông chưa được biết và có thể sớm nhất là năm 1535, hoặc muộn nhất là năm 1540, chúng được suy luận từ hai chân dung: một là một thu nhỏ sơn Nicholas Hilliard năm 1581 khi ông được cho là 42 tuổi, và bức vẽ khác năm 1594 khi ông được cho là 53 tuổi.
    Trong cuộc nổi loạn của linh mục Prayer Book năm 1549, gia đình ông bị buộc phải chạy đến hạt Kent. Trước khi ông lên mười ba, Drake bắt đầu sự nghiệp đi biển của mình khi ông trở thành một thành viên thử việc của một thủy thủ đoàn của một tầu buôn barque (tầu có ba cột buồm) giữa các cửa sông Thames và vượt cảng Channel. Ông trở thành chủ sở hữu, chủ tàu ở tuổi hai mươi sau cái chết của tuyền trưởng của nó. Ở tuổi 23, Drake thực hiện chuyến đi đầu tiên của ông đến Tân Thế giới, cùng với người anh em họ thứ hai của mình, Sir John Hawkins, trên một trong một đội tầu thuộc sở hữu của người thân của mình, gia đình của Hawkins Plymouth. Năm 1568 ông cùng với đội tầu của Hawkins bị mắc vào bẫy của người Tây Ban Nha tại cảng Mexico San Juan de Ulua. Ông đã trốn thoát cùng với Hawkins nhưng những kinh nghiệm đã phải chịu đựng khiến ông thù hận người Tây Ban Nha suốt đời.
    Thắng lợi đầu tiên
    Sau thất bại tại San Juan de Ulua, Drake thề sẽ trả thù và do đó đã thực hiện chuyến đi thứ hai đến Tây Ấn, năm 1570 và 1571, trong đó ít được biết đến. Đó là năm 1572 năm mà ông bắt tay vào các hoạt động độc lập đầu tiên của ông. Ông đã lên kế hoạch một cuộc tấn công trên eo biển Panama, được biết đến như là Tierra Firme theo tiếng Tây Ban Nha và người Anh lại gọi là Spanic Main. Đây là điểm mà tại đó các kho tàng vàng bạc từ Peru được bốc dỡ và vận chuyển qua đất liền tới biển Caribê (lúc này chưa có kênh đào Panama), nơi mà tầu Galeon từ Tây Ban Nha sẽ tới và bốc dỡ rồi vận chuyển tới thành phố Nombre de Dios. Ông rời Plymouth ngày 24 Tháng năm 1572, với một thủy thủ đoàn gồm 73 người trong hai tàu nhỏ, Pascha (70 tấn) và Swan (25 tấn), để bắt giữ Nombre de Dios.
    Cuộc đột kích đầu tiên của ông xảy ra vào cuối tháng Bảy năm 1572. Drake và binh lính của ông đã chiếm được thành phố và kho báu của nó. Tuy nhiên lính của ông đã nhận thấy rằng Drake đã chảy nhiều máu từ một vết thương và họ khăng khăng đòi rút lui để cứu cuộc sống của ông, bỏ lại những kho báu. Ông vẫn ở vùng lân cận của eo đất trong gần một năm nay, để cướp tầu Tây Ban Nha và cố gắng bắt giữ một lô kho báu.
    Năm 1573, ông tham gia với một toán cướp biển người Pháp thủ lĩnh là Guillaume Le Testu, trong một cuộc tấn công vào một đoàn vận chuyển bằng la nặng kiũ kịt. Cuộc đột kích này đã thành công vượt quá bất kỳ mong đợi trong những giấc mơ của họ và Drake cùng với những đồng chí của ông thấy rằng họ đã chiếm được khoảng 20 tấn vàng và bạc. Từng ấy là quá nhiều cho những tay cướp biển để họ mang đi và rất nhiều kho báu được chôn (mà có thể là đã được phóng đại lên sau các câu chuyện tiếp theo của cướp biển về số lượng châu báu bị chôn vùi). Le Testu bị thương, bị bắt và sau đó bị chặt đầu.
    Nhóm nhỏ những tay phiêu lưu kéo theo nhiều bao tải vàng và bạc vì họ phải mang chúng trên một trên một quãng đường rừng núi dài 18 dặm để đảm bảo an toàn đến nơi mà họ đã rời chiếc thuyền cướp biển nhỏ của họ. Tuy nhiên, khi họ ở đó, tàu của họ đã biến mất. Drake và các đồng chí của mình, cảm thấy tuyệt vọng, kiệt sức và đói, bấy giờ họ không có nơi nào để trốn và người Tây Ban Nha thì ở không xa phía sau.
    Vào lúc này, Drake đã cho thấy khả năng lãnh đạo đặc biệt. Ông tập hợp những người của mình lại, chôn cất các kho tàng trên bãi biển và đóng một chiếc bè đi biển mình và hai tình nguyện viên bơi mười dặm dọc theo bờ biển đến nơi ông đã rời kỳ hạm của mình. Chiếc bè đã liên tục bị ngập nước lên đến ngực của họ, nước muối và ánh nắng cháy gây ra cho họ nhiều nỗi khổ sở. Tuy nhiên, họ vẫn cố đẩy chiếc bè đi cho đến khi họ gặp con tàu của họ. Khi Drake cuối cùng đứng trên boong của chiếc tầu, người của ông bị báo động tại sự xuất hiện trong tình trạng thảm hại của ông. Sợ điều tồi tệ nhất có thể xảy ra khi họ hỏi kết quả của chuyến đột kích như thế nào. Drake, bất chấp mọi thứ, không thể chống lại một trò đùa và chọc ghẹo họ bằng một cách nhìn tuyệt vọng. Sau đó, ông cười và kéo ra một vòng cổ bằng vàng Tây Ban Nha từ quanh cổ mình và nói "chuyến đi của chúng tôi đã thành công, các cậu bé!" vào ngày 09 tháng 8 năm 1573, ông trở lại Plymouth, và trở thành một người đàn ông giàu có và sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu xa hơn nữa.
    Những chuyến đi biển vòng quanh trái đất
    Tiến vào biển Thái Bình Dương
    Với thành công của các cuộc tấn eo đất Panama, năm 1577 Elizabeth I của Anh gửi Drake đến để bắt đầu một chuyến thám hiểm Thái Bình Dương dọc theo bờ biển châu Mỹ. Ông đã bắt đầu từ Plymouth vào ngày 15 Tháng 11 năm 1577, nhưng thời tiết xấu đe dọa ông và hạm đội của mình, những người đã bị buộc phải đi chốn tránh tại Falmouth, Cornwall, Từ đó họ trở về Plymouth để sửa chữa tầu. Sau những sửa chữa lớn này, ông lại căng buồm một lần nữa vào ngày 13 Tháng 12, trên tàu Pelican, với bốn tàu khác và 164 tay cướp biển. Ông ta ngay lập tức có thêm chiếc tàu thứ sáu, chiếc Mary (trước đây là Santa Maria) Một chiếc tàu buôn Bồ Đào Nha đã bị bắt ngoài khơi bờ biển Châu Phi gần Quần đảo Cape Verde. Quan trọng hơn, ông có thêm thuyền trưởng của nó, Nuno da Silva, một người đàn ông với kinh nghiệm hàng hải rất đáng kể trong vùng biển Nam Mỹ.
    Hạm đội của Drake bị hao lớn; ông phải đánh đắm cả chiếc Christopher và flyboat Swan do mất mát quá nhiều người khi băng qua Đại Tây Dương. Sau đó ông đã đổ bộ xuống chiếc vịnh ảm đạm San Julian, những gì bây giờ là Argentina. Theo cách gọi của Ferdinand Magellan cách đấy nửa thế kỷ trước và ở đây ông đã giết một số tay nổi loạn. Drake và người của ông nhìn thấy những giá treo cổ Tây Ban Nha nghiệt ngã lủng lẳng những bộ xương bị mưa gió tẩy trắng. Ở đây chiếc Mary đã bị hỏng và bị đốt cháy. Drake sau khi nhìn thấy ví dụ của Magellan, đã cố làm theo và xử tử kẻ nổi loạn của mình Thomas Doughty. Drake sau đó quyết định là vẫn trú đông tại San Julian trước khi thử việc vượt Eo biển Magellan.
    Ba tàu còn lại trong đoàn của ông rời đến eo biển Magellan, ở mũi phía nam của Nam Mỹ. Một vài tuần sau đó (tháng 9 năm 1578) Drake đã dẫn họ đến Thái Bình Dương, nhưng một cơn bão khủng khiếp đã phá hủy một trong ba chiếc tàu ở eo biển và làm một chiếc khác phải trở về Anh, chỉ còn lại chiếc Pelican. Sau đó chiếc Pelican đã tiến về phía nam, và Drake cũng như những nhà hàng hải trước ông ta, rất có thể đã đến vĩ độ 55 ° S (theo tài liệu thiên văn trích dẫn trong sách của Hakluyt The Principall Navigations, Voiages and Discoveries of the English Nation năm 1589) dọc theo bờ biển Chile. Mặc dù với kiến thức phổ biến, có vẻ như ông ta không chắc rằng mình đã đến được Cape Horn bởi vì các mô tả của ông không phù hợp với lần đầu tiên và những người đi cùng tầu của ông đã nói không nhìn thấy biển khơi, trong khi báo cáo đầu tiên của ông ta khám phá ra một kênh mở về phía nam của Tierra del Fuego đã viết về điều này sau khi được xuất bản năm 1618 về chuyến đi của Willem Schouten và Jacob le Maire tại Cape Horn khoảng năm 1616.
    Ông đã tiến lên một cách đơn độc chỉ với chiếc kỳ hạm của mình, bây giờ được đổi tên thành Golden Hind để vinh danh Ngài Christopher Hatton. Chiếc Golden Hind đi dọc theo bờ biển phía bắc Thái Bình Dương của Nam Mỹ, tấn công các cảng và thành phố của Tây Ban Nha. Một số tàu Tây Ban Nha đã bị bắt giữ, và Drake sử dụng bản đồ đi biển của họ một cách chính xác hơn. Trước khi đến bờ biển của Peru, Drake ghé thăm đảo Mocha nơi ông đã bị thương nặng do sự thù địch của người Mapuches. Sau đó, ông bị tống ra khỏi cảng Valparaíso xa hơn về phía bắc ở Chile.
    Một hành động mang lại nhiều hậu quả nhất
    Gần Lima, Drake bắt giữ một chiếc tàu Tây Ban Nha đang cất trữ 25.000 peso vàng Peru, có giá trị đến 37.000 ducat tiền Tây Ban Nha (khoảng £ 7 triệu theo tỷ giá hiện đại). Drake cũng phát hiện ra tin tức của con tàu khác, chiếc Nuestra Señora de la Concepción, đang bơi về phía tây Manila. Nó sẽ đến cảng được gọi là Cacafuego. Drake đã đuổi theo và cuối cùng đã bắt được tàu chở kho báu đây là vụ bắt giữ có lợi nhất. Trên tàu Nuestra Señora de la Concepción, Drake tìm thấy 80lb (36 kg) vàng, Một thánh giá lớn bằng vàng, các đồ trang sức, 13 tủ của hoàng gia đầy đĩa bạc và 26 tấn bạc. Vụ bắt giữ này gây ra rất nhiều hậu quả vì các tàu Tây Ban Nha đã bị chặn khi đang bơi ở phía tây biển Thái Bình Dương, nó cho thế giới thấy rằng vào đầu năm 1580 Tây Ban Nha vẫn hoạt động tại vùng Viễn Đông, một vùng vốn đã được trao cho Bồ Đào Nha bởi Đức Giáo Hoàng tại Rome. Khủng hoảng này buộc Philip II của Tây Ban Nha xâm lược Bồ Đào Nha năm 1580 để nắm lấy vương quyền của Bồ Đào Nha.
    Nova Albion
    Ngày 17 Tháng 6 năm 1579, Drake đã đổ bộ xuống một nơi nào đó ở phía Bắc của Point Loma thuộc Tây Ban Nha. Ông ta tìm thấy một cảng tốt, đổ bộ xuống đó, sửa chữa và khôi phục lại tàu của ông, sau đó ở lại đó một thời gian nữa, giữ quan hệ thân thiện với người bản địa. Ông tuyên bố đặt tên vùng đất này theo tên Chúa Ba Ngôi cho Hoàng gia Anh như là Nova Albion--Tiếng La-tinh là "New Britain". Khẳng định rằng ông còn để lại một số người của mình để tạo một phôi thai "thuộc địa" được thành lập trong sự xuy giảm về số lượng người đi với ông ta tới Moluccas.
    Các địa điểm chính xác của cảng này được canh gác cẩn thận để giữ bí mật với người Tây Ban Nha, và một số bản đồ của Drake thậm chí có thể đã được thay đổi để che dấu chỗ này. Tất cả các hồ sơ tay đầu tiên từ các chuyến đi, bao gồm cả nhật ký, tranh vẽ và biểu đồ đều bị mất khi cung điện Whitehall Palace bị đốt năm 1698. một bảng đồng còn sót ghi yêu cầu bồi thường của Drake đến các vùng đất mới, phù hợp với mô tả trong các tài liệu riêng của Drake, được phát hiện tại Marin County, California, Nhưng sau đó nó bị tuyên bố là một trò lừa bịp. Một địa điểm thường được tuyên bố là Nova Albion chính là Whale Cove, Oregon, mặc dù cho đến nay không có bằng chứng cho thấy điều này, ngoài sự tương tự nói chung vào một bản đồ duy nhất đã được vẽ khoảng một thập kỷ sau cuộc đổ bộ này.
    Samuel Bawlf chỉ dẫn rằng "Nova Albion" được thành lập tại Comox trên Vancouver Island, trong một chuyến đi "bí mật" ở phía bắc. Được biết, Drake và người của ông bơi về phía bắc từ Nova Albion để tìm kiếm một lối vào phía tây của Northwest Passage, một tài sản có giá trị tương lai với người Anh vào lúc đó. Trong cuộc phiêu lưu này các thủy thủ đã vẽ bản đồ một cách chính xác góc tây bắc phía tây của lục địa Bắc Mỹ, ngày nay là British Columbia và Alaska. Họ đã có một chuyến đi khó khăn trong số các hòn đảc thuộc vùng tay câ?m cu?a xoong Alaska, và bị buộc phải quay trở lại do thời tiết lạnh.
    Bawlf lập luận rằng tầu của Drake tàu đến vĩ độ 56 ° N, xa hơn về phía bắc hơn nơi đã được ghi lại. Lý do ghi sai, Bawlf viết, là vì các lý do chính trị: cạnh tranh với Tây Ban Nha tại châu Mỹ. Nữ hoàng Elizabeth muốn giữ bất kỳ thông tin bí mật nào về Northwest Passage, với kết quả đó thì vị trí của Nova Albion và vĩ độ cao nhất của đoàn thám hiểm đã tới được vẫn còn một nguồn tranh cãi tới hôm nay. Người anh em của Drake phải chịu đựng một thời gian dài bị tra tấn tại Nam Mỹ trong tay người Tây Ban Nha, và họ đã tìm tin tình báo từ ông về chuyến đi của Francis Drake.
    Chuyến đi của ông tới bờ biển phía tây Bắc Mỹ là quan trọng vì một số lý do. Khi ông cập bến, các giáo sý của ông thành lập Holy Communion; Đây là một trong những nhà thờ Kháng cách đầu tiên Tân Thế giới (mặc dù người Huguenot Pháp đã thành lập một chiếc ở thuộc địa xấu xố Florida trong thập kỷ 1560).
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:00 ngày 06/11/2009
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Francis Drake - tiếp
    Điều chắc chắn cho sự mở rộng của Drake và thách thức về lãnh thổ với Giáo hoàng và vương miện của Tây Ban Nha là cảng của ông ta đã được lập một nơi nào đó phía bắc Point Loma; và tất cả các bản đồ đương đại đã ghi tên tất cả các vùng đất phía trên của vương quốc New Spain và New Mexico là "Nova Albion", và tất cả các thuộc địa bị đòi hỏi từ bờ biển phía Đông năm 1600 là " From Sea to Sea"Những tuyên bố về thuộc địa đã được lập với những kiến thức đầy đủ theo các yêu cầu của Drake, mà chúng đã được bổ xung. và vẫn còn hiệu lực trong tâm trí của thực dân Anh tại vùng bờ biển Đại Tây Dương khi các thuộc địa đã trở thành tiểu bang tự do. Các bản đồ có thể được vẽ ngay sau khi họ đã tìm ra "Nova Albion"bằng văn bản trên toàn bộ biên giới phía bắc của New Spain. Những tuyên bố lãnh thổ đã trở thành rất quan trọng trong quá trình kết thúc các cuộc đàm phán trong Chiến tranh Hoa Kỳ-Mexico giữa Hoa Kỳ và Mexico.
    Tiếp tục cuộc hành trình
    Drake bây giờ hướng về hướng tây vượt Thái Bình Dương, và một vài tháng sau đó đến Moluccas, một nhóm các đảo ở phía tây nam Thái Bình Dương, ngày nay là ở đông phía Indonesia. Trong khi đó, Golden Hind đã bị mắc cạn trên một rạn san hô và đã gần như bị thể sử dụng được nữa. Sau ba ngày chờ đợi cho thủy triều lên và vận chuyển hàng hóa bán phá giá, chiếc barque đã được giải thoát. Drake và kết bạn với một người thân của vua sultan của Moluccas và họ tham gia vào một số mưu đồ với người Bồ Đào Nha ở đó.
    Ông đã thực hiện nhiều điểm dừng trên đường của ông về hướng mũi của Châu Phi, cuối cùng xung quanh các Mũi Hảo Vọng, và đến Xi-ê-ra Lê-ôn vào ngày 22 tháng 7 năm 1580. Vào ngày 26 tháng chín, Golden Hind khởi hành đi Plymouth với Drake và 59 thủy thủ đoàn còn lại trên tàu, cùng với hàng hóa phong phú về các loại gia vị và kho báu Tây Ban Nha bị bắt giữ. Nữ hoàng được chia sẻ nửa hàng hóa, và số này vượt quá thu nhập còn lại cho cả năm của Hoàng gia. Drake đã được ca ngợi là người Anh đầu tiên vòng quanh Trái Đất (và chuyến đi thứ hai với ít nhất một tàu còn nguyên vẹn, sau chuyến đi của Elcano trong năm1520). Drake được trao tặng một phong tước hiệp sĩ, nhưng không phải do Nữ hoàng Elizabeth trên tàu Golden Hind, như mọi người thường nghĩ. Ông thực sự được phong hiệp sĩ bởi một nhà quý tộc Pháp tên là Monsieur de Marchaumont, vào ngày 04 Tháng Tư năm 1581, và trong tháng 9 năm 1581, đã trở thành thị trưởng của Plymouth. Ông cũng là thành viên của Quốc hội năm 1581, cho một khu vực bầu cử mà nay không ai rõ, và một lần nữa trong năm 1584 cho Bossiney.
    Năm 1580 Drake mua Buckland Abbey, Một dinh thự lớn ở gần Yelverton ở Devon. Ông đã sống ở đó cho mười lăm năm, cho đến chuyến đi cuối cùng của ông, và nó vẫn được giữ ở trong gia đình của ông cho nhiều thế hệ. Buckland Abbey bây giờ thuộc sự chăm sóc của National Trust và một số vật lưu niệm của cuộc đời ông được trưng bày ở đó.
    Nữ hoàng ra lệnh rằng tất cả các ghi chép bằng văn bản về chuyến đi của Drake phải được xem xét phân loại thông tin, và người tham gia của nó phải thề sẽ im lặng đến chết, Mục đích của của bà là giữ bí mật cho các hoạt động của Drake từ đôi mắt của đối thủ Tây Ban Nha. Cũng để xem xét các xích mích với Tây Ban Nha, nhân dịp tấn phong hiệp sỹ, Elizabeth I đưa thanh gươm vào Marquis de Marchaumont, đại sứ của Pháp, và yêu cầu ông phong Drake thành hiệp sĩ. Trong thời kỳ Victoria, trong tinh thần dân tộc, câu chuyện này được thăng rằng Elizabeth I đã thực tế tấn phong hiệp sỹ cho Drake.
    Xung đột ở Caribê
    Trong ngày đầu của mình như là một kẻ buôn bán nô lệ, Drake đã ngay lập tức không thích người Tây Ban Nha, ít nhất là một phần do niềm tin Công giáo của họ và tin tưởng cố hữu phi-Tây Ban Nha. Sự thù nghịch của ông được cho là đã tăng lên hơn nữa trong một sự cố tại San Juan de Ulua năm 1568, khi Drake chèo thuyền với hạm đội của anh em họ thứ hai của mình John Hawkins. Trong khi đàm phán về các vấn đề tiếp tế và sửa chữa tại cảng Tây Ban Nha, đội tàu đã bị tấn công bằng tàu chiến Tây Ban Nha, hai trong số các tàu Anh bị tiêu diệt. Drake sống sót sau vụ tấn công bằng cách bơi vào bờ. Các kỷ niệm đáng nhớ nhất là cuộc phiêu lưu của Drake dọc theo bờ biến chính của Tây Ban Nha và ông đã bắt giữ tàu chở bạc Tây Ban Nha Nombre de Dios Tháng 3 năm 1573. Với một đội thủy thủ gồm nhiều cướp biển người Pháp và nô lệ người Phi Maroons được giải thoát khỏi người Tây Ban Nha-Drake đột kích các vùng nước xung quanh Darien (nay thuộc Panama) và theo dõi các tàu bạc vào cảng gần đó Nombre de Dios. Ông đã thoát ra và mang vàng, nhưng đã để lại đằng sau một số lượng bạc lớn, bởi vì chúng quá nặng để mang chở lại Anh. Trong chuyến thám hiểm này rằng ông leo lên một cây cao ở vùng núi trung tâm của Eo đất Panama và vì thế đã trở thành người Anh đầu tiên nhìn thấy Thái Bình Dương. Ông nhận xét khi ông thấy (biển TBD) rằng ông hy vọng một ngày một người Anh sẽ có thể đi thuyền vào vùng biển này (biển TBD) - điều mà ông sẽ làm một vài năm sau đó như một phần của các chuyến thám hiểm của mình vòng quanh thế giới.
    Cuộc tấn Cadiz
    Cuộc viễn chinh của Drake năm 1587 là một cuộc tấn công quân sự do các ta?u tư nhân của Francis Drake chống lại các lực lượng hải quân Tây Ban Nha đang chuẩn bị trong vịnh Cadiz bởi Philip II của Tây Ban Nha cho Cuộc xâm lược Anh. Cuộc tấn công xảy ra trong tháng 4 và tháng 5 năm 1587 và người của Drake đã tiêu diệt một phần lớn hạm đội đang trú ở các bến cảng, phá hủy 37 tầu hải quân và tàu buôn. Cuộc tấn công làm trì hoãn cuộc xâm lược Tây Ban Nha tận một năm, họ còn đổ bộ xuống Algarve, tiêu diệt một loạt pháo đài khác nhau dọc theo bờ biển Bồ Đào Nha đến tận Lisbon và bắt giữ một hạm đội châu báu của Tây Ban Nha đang trên đường trở lại Azores. Drake gọi cuộc đột kích của ông là" đốt cháy bộ râu của Vua Tây Ban Nha". Trong những tháng tiếp theo, Drake tuần tra trên bờ biển Iberia giữa Lisbon và Cape St Vincent ngăn chặn và phá hủy tuyến đường vận chuyển hàng hóa của Tây Ban Nha. Drake ước tính rằng ông đã bắt khoảng 1600-1700 tấn thùng, có chứa khoảng 25.000 đến 30.000 thùng (4.800 m3) lương thực và đồ cung cấp.
    Thất bại của Hạm đội Armada Tây Ban Nha năm 1588 ?" xem phần trước
    Cuộc chinh phục của Drake-Norris hay Hạm đội Armada của Anh năm 1589 ?" Xem phần trước
    Năm cuối cùng
    Sự nghiệp đi biển của Drake tiếp tục đến giữa năm 1595, sau một chiến dịch tai hại đối với Tây Ban Nha tại châu Mỹ, nơi ông phải chịu một số thất bại, ông đã không thành công trong việc tấn công thành phố San Juan, Puerto Rico. Các pháo thủ Tây Ban Nha từ pháo đài El Morro bắn một loạt đạn pháo hình cầu vào cabin của kỳ hạm của Drake, nhưng ông vẫn sống sót. Năm 1596, ông qua đời vì kiết lỵ ở tuổi 56, trong khi neo ngoài khơi bờ biển Portobelo, Panama nơi ông đang tìm một số tàu kho báu Tây Ban Nha đang lẩn tránh. Trước khi chết, ông yêu cầu được mặc áo giáp đầy đủ của mình. Ông được chôn cất tại vùng biển trong một quan tài chì, gần Portobelo. Thợ lặn tiếp tục tìm kiếm quan tài này.
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 09:24 ngày 06/11/2009

Chia sẻ trang này