1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. long40dphay

    long40dphay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/03/2003
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Các bác cho biết tên lửa đất đối đất có từ khi nào, và đã được sử dụng trong cuộc chiến tranh nào, loại này mà phá cầu thì chắc hơn chứ?
  2. Jet_Ace

    Jet_Ace Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/12/2003
    Bài viết:
    830
    Đã được thích:
    0
    Tên lửa đất đối đất không đủ độ chính xác để đánh trúng cầu.
  3. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    Cầu Hàm Rồng
    Xưa
    [​IMG]
    Và nay
    [​IMG]
  4. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Cầu Hàm Rồng
    Xưa
    [​IMG]
    Bác Gulfoi, sao cái hình này tuy đen trắng nhưng em vẫn thấy cái cầu mới ở phía sau cầu cũ đấy? Cầu mới có từ mấy năm rồi hả bác (5 năm?)
    Và nay
    [​IMG]
    Bác Gulfoil mà sinh năm 55 thì chắc ngày đấy đã biết thế nào là "Hàm Rồng" rồi.
    Trong hình sao địa hình đang phẳng thế lại lồi lên hai ngọn núi nhỉ? Mà sao KQ Mỹ nói xung quanh cầu địa hình trông như mặt trăng? Hay là ảnh lên không thể hiện hết địa hình?
    Ở đây có bạn nào Thanh hoá không nhỉ? giúp cái. Có phải một quả núi mà cầu tựa lên đó tên là núi "Quyết thắng"? Đường nào nối từ Thanh hoá sang Lào? Ngoài cầu Thanh hoá còn đường nào xuôi phía nam nữa?...
    Dịch nhưng không biết thông tin trên nên đành phải lược bỏ qua.
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 10:32 ngày 26/01/2006
  5. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    --
    Núi Rồng, sông Mã, khu vực có 99 ngọn núi bên bờ Nam và một ngọn núi bên bờ Bắc tạo nên nhiều truyền thuyết dân gian, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, nhiều tầng vãn hoá, nhiều chiến tích anh hùng. Ðặc biệt là nãm 1924 tại nơi đây đã khai quật được trống đồng Ðông Sơn, ngày nay gọi là nền văn minh Ðông Sơn, một vùng non nýớc hữu tình đủ ðiều kiện hội tụ thành khu du lịch sầm uất, đa chức năng.
    ----
    Hàm Rồng vốn là tên riêng của ngọn núi hình đầu rồng với cái thân uốn lượn như một con rồng từ làng Giàng theo dòng sông Mã bên phía bờ Nam. Trên núi Rồng còn có động Long Quang có hang ăn thông sang bên kia như hai mắt rồng. Truyền thuyết kể rằng, con rồng đang vờn hạt ngọc ở phía bên kia sông, bỗng bị trúng mũi tên độc vào mắt phải, nên gục ở bên sông. Mắt phải có lỗ ăn thông lên trên, mùa mưa nước chảy xuống màu đỏ, ấy là nước mắt rồng. Hàm dưới ngập trong nước như đang hút nước, nên có tên chữ là Long Hạm. Trong ?oAn Nam chí nguyện? của Cao Trùng Hưng, có ghi ?oNon cao mà đẹp, liền với sông xanh, lên trên trông xuống, nước với trời một vẻ lẫn nhau, thực là một giai cảnh vậy?. Sách Minh Trí nói về danh sơn kể tất cả hai mươi mốt ngọn, trong đó có núi Hàm Rồng được tôn ?oĐệ nhất là Long Đại?.
    Sông Mã mùa này cạn nước, những ngấn nước bên vách đá chứng tỏ lòng sông đã thấp xuống nhiều. Dòng nước vẫn lững lờ trôi, đôi chỗ nước xoáy ngầu bọt phù du, có lẽ chỗ đó có vực đá. Đang mùa khô, hang Mắt Rồng không có nước rỏ xuống. Có thể, đã từ lâu lắm rồi, rồng không khóc nữa. Thế kỷ hai mươi vừa qua, hàng ngàn tấn bom, tấn đạn từ trời Tây xa tít, thình lình trút xuống đầu rồng, lưng rồng mà rồng vẫn hiên ngang nữa là...
    ...
    Đối diện với núi Rồng bên kia sông là núi Ngọc, tên chữ là Hỏa Châu Phong, hay còn gọi là núi Nít. Ngọn núi này tròn trặn, các lớp đá chen dày tua tủa như những ngọn lửa từ trong lòng đất bốc lên, bởi vậy mà có tên gọi là Hỏa Châu Phong.
    Chung quanh núi Hàm Rồng còn có nhiều ngọn núi trông rất ngoạn mục như Ngũ Hoa Phong có hình năm đóa hoa sen chung một gốc mọc lên từ đầm lầy; có hang Tiên với các nhũ đá mang nhiều vẻ kỳ thú; có ngọn Phù Thi Sơn trông xa như một người đàn bà thắt trên mình một dải lụa xanh nằm gối đầu vào thân rồng. Rồi núi Mẹ, núi Con như hình hai quả trứng, núi Tả Ao, vũng Sao Sa có nước trong vắt quanh năm. Rồi núi Con Mèo, núi Cánh Tiên... đều có hình thù kỳ thú như tên gọi.
    ...
    Hàm Rồng không chỉ là danh thắng, mà còn là nơi ghi nhiều chiến tích oai hùng. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến gian nan và oanh liệt chống ngoại xâm ở thế kỷ hai mươi, quân và dân Hàm Rồng đã đương đầu với 1.096 trận oanh tạc của không quân Mỹ với 71.600 tấn bom, đạn (tính bình quân mỗi người dân ở khu vực này phải chịu 5 tấn bom đạn). Nhưng 116 máy bay Mỹ cũng đã phải đền cho cái giá chịu đựng ấy, mặc dù sự chịu đựng đó là vô giá.
    Những năm còn chiến tranh, một lần các bạn Cu Ba đến thăm Hàm Rồng đã nhận xét ?oNếu ở đây không có pháo thì đúng là một công viên?. Đông Sơn - Hàm Rồng hôm nay đúng là một đại công viên, một lâm viên hoành tráng. Tôi còn nhớ, hồi chiến tranh mới kết thúc, Hàm Rồng bừa bộn hoang tàn lắm. Những sườn đồi trơ trọi xác xơ, chi chít những hố bom lở loét, hố nọ đè lên hố kia, không một bóng cây xanh, không một bóng chim chóc. Buổi trưa đi qua đây vắng lặng đến rợn người.
  6. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Người quản trang bên cầu Hàm Rồng
    9:29, 09/01/2006
    --------------------------------------------------------------------------------


    Anh Long bên kỷ vật của những liệt sĩ đã hy sinh cho đất nước.

    Làm nghề quản trang, anh Nguyễn Châu Long đã gặp biết bao chuyện xúc động. Anh kể: Có bà cụ nghèo quá, nhớ con và đến thăm con, nhưng một bó hoa tặng con cũng không có tiền để mua.
    Anh Nguyễn Châu Long, người đã có 18 năm làm Trưởng ban Quản lý nghĩa trang dẫn chúng tôi đến khu đài tưởng niệm thắp hương. Cả nghĩa trang Hàm Rồng có tổng cộng 1.560 ngôi mộ, với hơn 300 ngôi mộ có địa chỉ và tên tuổi rõ ràng. Số này tập trung chủ yếu ở khu A và khu B. Còn lại, hơn 1.200 ngôi mộ đều là liệt sĩ chưa xác định được tên tuổi, quê quán, đơn vị công tác.
    Theo lời anh Long thì từ năm 1987 (năm anh được phân công về trông coi nghĩa trang Hàm Rồng) đến nay, năm nào anh và đội quản trang cũng hai, ba lần đứng ra đón nhận những hài cốt liệt sĩ mới tìm thấy. Có lần chỉ một vài bộ hài cốt, song cũng có lần số lượng lên đến hàng trăm. Nhìn những bao gói hài cốt của đồng đội được xếp thành từng hàng, dù đã dạn dày với cái chết lắm, anh Long cũng không thể cầm được nước mắt. Hầu hết hài cốt quy tập về đây đều là những liệt sĩ vô danh. Hãn hữu lắm mới có một liệt sĩ còn tên tuổi, địa chỉ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc sớm muộn sẽ có một gia đình nhận được hài cốt của người thân.
    Đi cùng với những lần quy tập hài cốt nào cũng là hàng trăm di vật. Những di vật ấy chủ yếu là những vật dụng sinh hoạt bình dị, chẳng hạn như: chiếc lược chải tóc, vòng đeo tai, cặp tóc, nước hoa. Nhiều khi lại là một lưỡi lê đã hoen rỉ, hoặc những viên đạn bong ra từ xương sọ người liệt sĩ. Trong nghĩa trang Hàm Rồng hiện nay có cả một tủ trưng bày các di vật. Theo lời anh Long, nếu nghĩa trang không đem tặng những di vật cho Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam và Bảo tàng Thanh Hóa, thì có lẽ số di vật đủ để có thể thành lập một phòng trưng bày quy mô.
    Gần 20 năm làm nghề quản trang, anh Long đã nhiều lần được chứng kiến những câu chuyện xúc động đến nỗi, khó tin rằng những câu chuyện như thế là có thật ở trên thế gian này. Cách đây hơn chục năm, vào đúng ngày Thương binh liệt sĩ 27-7, có một người phụ nữ trung niên từ đâu đi xe đạp tới, mang theo cả bó hoa hồng lớn đến xin phép được thăm người thân. Vào nghĩa trang, người phụ nữ đi thắp hương và đi xem hết lượt 1.560 ngôi mộ. Xong rồi, chị chia đều hoa cho các ngôi mộ xung quanh và ôm lấy một ngôi mộ mà khóc thảm thiết. Song, điều đặc biệt là những ngôi mộ nhận được hoa cũng như ngôi mộ người phụ nữ kia cứ ôm mà khóc ấy lại là một ngôi mộ vô danh.
    Vào dịp tết Nguyên đán, sự việc tương tự vẫn tiếp tục diễn ra. Rồi năm nào cũng hai lần, vào ngày Thương binh liệt sĩ 27-7 và tết Nguyên đán, người phụ nữ lại đạp xe đến, trên xe mang một bó hoa to, lại chia đều cho các ngôi mộ khác, rồi lại ôm một ngôi mộ vô danh mà khóc thảm thiết. Tên tuổi và quê quán người phụ nữ cho đến bây giờ vẫn chưa ai biết, bởi chị không muốn tiếp xúc với ai. Song, với kinh nghiệm của mình, anh Long chắc chắn rằng, người phụ nữ ấy từng có người yêu đi bộ đội và đã hy sinh.
    Còn một câu chuyện tương tự cũng không kém phần xúc động. Ấy là chuyện về một bà mẹ, năm nào cũng một hai lần về thăm con ở khu nghĩa trang này. Vài năm trước kia, bà cụ đi xe ôm đến cổng nghĩa trang, bảo anh xe ôm đứng chờ trước cửa. Khi thắp hương cho người con rồi, bà cụ mới thấy mình chẳng có gì tặng con. Sau giây lát suy nghĩ, bà mẹ đi ra chỗ bồn hoa, bẻ một cành hoa đẹp nhất đặt lên ngôi mộ con. Lúc ra đến cửa, anh xe ôm hỏi tiền công thì bà mẹ cứ ú ớ sờ khắp người mà chẳng có đồng xu nào. Hóa ra bà cụ nghèo quá, nhớ con và đến thăm con, nhưng một bó hoa tặng con cũng không có tiền để mua.
    Sau này, dù nghèo khó nhưng năm nào anh Long cũng thấy bà cụ tìm cách đến thăm con. Và lần nào, bà cụ cũng bẻ một cành hoa ở bồn tặng riêng cho con trai mình. Quản lý nghĩa trang phải nhiều lần giải thích, rằng hoa không dành cho riêng ai, mà là dành cho tất cả các liệt sĩ, bà cụ mới thôi không bẻ hoa nữa.
    Lại nhớ trong những năm kháng chiến chống Mỹ, chiến tranh đã diễn ra thật ác liệt quanh cây cầu Hàm Rồng. Đã có không biết bao chiến sĩ hy sinh, trong các hố bom để bảo vệ cho sự an toàn của cây cầu. Đến nay, cả cây cầu Hàm Rồng, cả đồi Quyết Thắng từ lâu đã đi vào sử sách. Nhưng, cũng không vì thế mà nghĩa trang Hàm Rồng nằm ngay cạnh các di tích ấy được trở nên nổi tiếng. Nghĩa trang Hàm Rồng vẫn lặng lẽ và bình dị như bao nghĩa trang bình thường khác.
    Và, cho dù chiến tranh đã đi qua lâu lắm rồi, nhưng tại nghĩa trang Hàm Rồng, những câu chuyện vừa xúc động, vẫn lặng lẽ diễn ra. Người phụ nữ vẫn tiếp tục mang hoa đến nghĩa trang và khóc bên những ngôi mộ vô danh. Người mẹ già hàng năm vẫn đến thắp hương cho con trai trong nghĩa trang. Người quản trang vẫn khóc trước những bao hài cốt mới được quy tập của đồng đội. Và ngày ngày, anh vẫn đi lại bên những ngôi mộ câm lặng và trò chuyện, như đang chuyện trò cùng những người đang sống...

    http://www.cand.com.vn/vi-vn/thoisuxahoi/phongsughichep/2006/1/68241.cand
  7. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Làm phim "Ký ức Hàm Rồng"
    (2005-03-18T12:32:34)

    Kỷ niệm 40 năm chiến thắng Hàm Rồng (3-4-1965 - 3-4-2005)
    Vũ Ngọc Tiến
    Tôi sinh ra ở một làng quê nghèo xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Tuổi thơ tôi sống trong nhọc nhằn, đói khổ và khói lửa chiến tranh ác liệt. Từ nhà lên cầu Hàm Rồng chỉ ước chừng một giờ đi bộ mà tôi cứ thấy xa vời vợi. Đêm đêm, trong tiếng gầm rít của máy bay giặc Mỹ, tôi nhìn về quầng lửa Hàm Rồng, bồi hồi nghe tin thắng trận qua chiếc loa phát thanh treo ở cọc tre đầu làng...
    *
    Chiến tranh rồi cũng qua đi. Lớp trẻ chúng tôi được sống, học tập trong hòa bình, rồi tỏa đi khắp mọi miền hăm hở làm cuộc mưu sinh. Tôi như kẻ vô tình, ra Hà Nội học làm đạo diễn, rồi đi làm phim, vào Nam ra Bắc, mỗi lần ngồi tàu qua sông Mã chỉ vẩn vơ ngắm cảnh núi Ngọc, núi Rồng như bao du khách. Đời người không sống bằng quá khứ, nhưng nếu ta lãng quên nó, thờ ơ với lịch sử sẽ là một trọng tội. Cái tội ấy, khi tôi chợt nhận ra vào mùa xuân ất Dậu này thì tóc đã ngả màu sương. Cả nước đang tưng bừng chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Lịch sử mách bảo tôi rằng, không có sự chi viện to lớn của hậu phương miền Bắc, không có sự chịu đựng phi thường và tinh thần bất khuất của quân dân ở Hàm Rồng, ngã ba Đồng Lộc, hay đất lửa Vĩnh Linh... làm sao có chiến thắng 30-4-1975. Tôi như kẻ vừa dứt khỏi sông mê về bến ngộ. Là một đạo diễn, tôi muốn chuộc lỗi với quê hương bằng bộ phim về Hàm Rồng trong những năm tháng xa xưa ấy. Tôi sục tìm trong kho tư liệu, soạn ra những thước phim của đồng nghiệp ghi hình các trận đánh hào hùng quanh cầu Hàm Rồng. ống kính quay phim của chúng tôi soi vào từng vách đá, bãi cỏ, bờ sông còn lưu lại dấu tích của các trận địa cao xạ của trung đoàn phòng không 228, trận địa đại liên của phân đội 3 công an vũ trang hay trận địa súng trường của dân quân các làng Đông Sơn, Nam Ngạn, Yên Vực... Chúng tôi ghi hình và phỏng vấn các nhân chứng lịch sử, từ bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Hằng, Anh hùng Ngô Thị Tuyển đến cụ già Lương Trọng Cẩn giữ đền thờ Trần Khát Chân ở làng Đông Sơn, nguyên là khu đội phó Hàm Rồng năm ấy. Họ là một phần của lịch sử, là thần tượng của tuổi thơ chúng tôi, những đứa trẻ xứ Thanh lấm lem, nhếch nhác.
    Về lại Hàm Rồng lần này, đoàn làm phim chúng tôi có cơ hội hiểu thêm về lịch sử thành phố Thanh Hóa, giá trị của cảnh sắc thiên nhiên một vùng đất với bao huyền thoại xa xưa. 200 năm trước (1804) vua Gia Long đã chọn mảnh đất làng cổ Thọ Hạc để xây "thành chim hạc" theo kiến trúc Vô-băng (Vauban) của người Pháp, tạo cho nó một tiền đề phát triển, để có thành phố Thanh Hóa xinh đẹp, đầy tiềm năng như hôm nay. Hạc là loài linh điểu, giờ đây đang uống nước sông Mã, hít thở khí thiêng núi Hàm Rồng, tắm mình trong công cuộc đổi mới và chiến tích hào hùng thời chống Mỹ, cùng cả nước đi lên. Các quan chức ở tỉnh và thành phố say sưa thuyết trình cho đoàn làm phim chúng tôi về dự án xây dựng Hàm Rồng thành khu du lịch sinh thái và lịch sử, do công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Quy làm chủ đầu tư. Núi Hàm Rồng soi bóng xuống lòng sông Mã, đã từng là niềm kiêu hãnh của người dân xứ Thanh thời chống Mỹ. Giờ đây, sau 40 năm chiến thắng Hàm Rồng, người dân quê tôi lại có điều kiện khai thác vẻ đẹp nước non cẩm tú, linh thiêng của nó. Người xưa mô tả núi này trong các thư tịch cổ: "Mạch núi chạy dài từ đỉnh Ngũ Hoa đất Dương Xá, uyển chuyển uốn lượn ven sông như hình con rồng, cuối cùng vọt lên một ngọn núi cao, lớp đá chồng chất. Dưới chân núi có mỏm đá nhô ra ngoài sông, nom như rồng đang ngậm cát phun nước, đối ngạn có núi Hỏa Châu. Dáng núi hòa trong trời nước một sắc." ống kính quay phim của chúng tôi theo chân các nhà quy hoạch đi vào lòng núi, gặp động Long Quang, dân gian quen gọi là hang Mắt Rồng. Trên vách đá ở đây còn lưu bút tích của các bậc đế vương từ hơn 500 năm trước. Toàn bộ khu vực núi Rồng- Sông Mã gồm 99 ngọn núi, tạo nên nhiều truyền thuyết dân gian, nhiều tầng văn hóa cổ xưa và những chiến tích oai hùng thời chống Mỹ... tất cả sẽ được tái tạo trong quy hoạch của khu du lịch. Diện tích xây dựng khoảng 568 ha với 8 khu chức năng: Khu trung tâm nhà hàng, khách sạn; khu khảo cổ; khu vui chơi giải trí; khu điền dã, cắm trại; khu biệt thự cao cấp; khu du lịch văn hóa các dân tộc tỉnh Thanh; khu lâm viên, vườn thú; khu du lịch thắng cảnh hang động. Tổng kinh phí dự án lên tới 847 tỷ đồng. Hiện công ty Kim Quy đang gấp rút hoàn thành bước 1 của dự án, xây dựng hồ Kim Quy và các công trình ven hồ để kịp khánh thành vào dịp kỷ niệm 40 năm chiến thắng Hàm Rồng (3-4-1965 - 3-4-2005)...
    Tôi đi và tôi mải miết quay phim giữa công trường hồ Kim Quy, lòng bồi hồi bao cảm xúc. Hoài niệm tuổi thơ, quá khứ đau thương, nhưng oanh liệt của vùng đất Hàm Rồng cứ trào lên trong tâm tưởng. Hình như những thước phim của tôi vẫn chưa đủ độ sâu đằm về những điều tôi muốn nhắn gửi tới người đang sống hôm nay và mai sau. Vâng, còn những số phận của nhiều nhân vật anh hùng một thủa giờ đây ra sao, khi họ về với cuộc sống đời thường. Tôi không muốn ống kính của mình chỉ soi vào những gương mặt thành đạt, những số phận may mắn. Tôi muốn đi tìm những nhân vật anh hùng còn đang ẩn dật giữa làng quê.
    Câu chuyện thứ nhất, chuyện tình trên đồi C4 Hàm Rồng. Căn nhà ngói ba gian cũ nát, nằm bẹp bên mép con đường đôi mới mở vào khu du lịch. Đó là tổ ấm của cặp vợ chồng thương binh Nguyễn Thị Phương và Hà Văn Đông. Chị là cô gái tỉnh Thanh, anh là lính phòng không chốt giữ cầu Hàm Rồng quê ở tận Hòa Bình. Ngày đó, tự vệ nhà máy phân lân của chị và đại đội pháo phòng không trên đồi C4 của anh là 2 đơn vị kết nghĩa. Trong số các nữ chiến sĩ tự vệ thường nấu cơm, tiếp nước, vác đạn cho bộ đội, anh yêu thầm, nhớ vụng cô Phương, có gương mặt trái xoan, da trắng nõn, giọng nhỏ nhẹ và bẽn lẽn gợi cảm đến mê mẩn tâm hồn, mỗi khi trò chuyện. Họ làm quen rồi yêu nhau, nhưng vừa mạnh dạn tỏ tình thì chị bị thương, cụt mất một tay. Anh vẫn động viên và tha thiết yêu chị. Năm 1972 anh được điều về chiến trường khu V. Họ ngậm ngùi chia tay, hẹn ngày chiến thắng sẽ sum họp. Năm 1975 anh xuất ngũ, tìm về Hàm Rồng, cùng chị dựng tạm ngôi nhà tranh, vách đất ở chân đồi C4, đắp đổi qua ngày, rau cháo nuôi nhau bằng sức lao động của anh và chút tiền trợ cấp nhỏ nhoi của chị. Chẳng hiểu vì trên đường ra Bắc bị kẻ gian lấy cắp hết tư trang, giấy tờ nên không xin được việc làm, hay vì hồn thiêng đồng đội ngã xuống ở đồi C4 mách bảo mà từ năm 1984, anh Đông âm thầm thui thủi một mình san lấp hố bom, phủ xanh đồi C4 bằng 2,5 ha cây bạch đàn. Rừng cây của anh qua 20 năm dày công chăm sóc ngày một xanh tốt, nhiều người hỏi mua, trả giá vài trăm triệu anh không bán. Anh bảo số tiền ấy có thể giúp anh xây nhà 3 tầng, nuôi 4 đứa con ăn học, nhưng bán thì anh không nỡ. Mỗi cây bạch đàn đều có hồn đồng đội anh trong đó. Nhìn cây, Đông lại nhớ anh Thanh, quê ở Thọ Xuân dũng cảm ôm quả bom bi xòe ra khỏi mâm pháo để cứu đồng đội, hay nhớ anh Linh quê ở Vĩnh Phúc bị mảnh bom cưa ngang cổ mà tay vẫn nắm vững càng pháo trong tư thế chiến đấu... Vậy mà nay anh Đông, chị Phương đang sắp mất rừng, mất nhà bởi một công ty đến thuê đất của phường xây dựng trụ sở và nhà ở cao tầng. Anh bảo: "Rừng cây của tôi ngoài sự thiêng liêng của nghĩa tình đồng đội còn đem lại cảnh quan cho Hàm Rồng, là một phần lá phổi xanh cho thành phố. Nay một công ty cổ phần mượn cớ quy hoạch đòi chặt hạ cây, phá chuồng lợn, đuổi vợ chồng thương binh đi nơi khác, chỉ bồi hoàn 50 triệu đồng, gọi là hỗ trợ di chuyển là nghĩa làm sao, hở Trời!" Tôi ghi hình, thu lại lời anh rồi đóng máy mà mắt cứ cay cay, trán vã mồ hôi, sống lưng ớn lạnh.
    Câu chuyện thứ hai, người nữ anh hùng tài sắc đa đoan. Bà là Lương Thị Thục, nữ dân quân Nam Ngạn nổi tiếng một thời, chiến đấu dũng cảm, đặc biệt có tài nấu cả chảo cơm 50 kg gạo không một lần khê, sống, nát. Bà tuổi Tân Tỵ, mùa xuân này vừa tròn 65 tuổi nhưng vẫn còn giữ được vóc dáng mảnh mai, cặp mắt đen láy và đuôi mắt thì dài, điểm thêm nụ cười tươi trẻ như thời con gái. Chuyện của bà, nếu thi hào Nguyễn Du sống lại, hẳn sẽ có thêm kiệt tác để đời. Năm 1959, cô Thục nổi tiếng xinh đẹp khắp vùng Đông Sơn, Nam Ngạn. Nhiều chàng trai có học thức, lại giàu có si mê, nhưng Thục chỉ yêu anh con trai một nhà nghèo nhất làng Đông Sơn. Anh đi bộ đội, hẹn sau 3 năm hết nghĩa vụ họ sẽ nên vợ nên chồng. Mùa thu năm 1962, anh hết nghĩa vụ, hai nhà làm lễ dạm ngõ trầu cau, chị hớn hở chuẩn bị được đôi lợn, đỡ bạn trai nghèo lo trả nợ miệng xóm làng trong ngày kết hôn, dự kiến vào cuối năm. Thục có ngờ đâu một căn bệnh hiểm nghèo đã cướp đi người chồng chưa cưới. Chị đấm ngực, lăn lộn gào khóc rồi bất chấp sự can ngăn của mẹ, chị cắt ngang mớ tóc dày có đuôi sam dài treo ở góc nhà, nguyện để tang người chồng chưa cưới đủ 3 năm. Khi vừa đoạn tang, cũng là lúc giặc Mỹ đem máy bay bắn phá Hàm Rồng, chị vào dân quân chiến đấu quên mình, việc gì cũng thạo: vác đạn, nấu cơm, tiếp nước hay trực chiến ngoài trận địa. Ngày ấy, các nữ dân quân như chị Hằng, chị Tuyển đều cảm phục, yêu mến Thục, coi như người chị cả. Nhiều đêm trong hầm trực chiến, họ thường rúc đầu, vào nách hay cắn nhẹ vào gò má mịn hồng, đòi chị Thục nhường cho mình một ít nhan sắc hay san bớt một nét duyên mặn mòi, làm say lòng bao anh bộ đội trẻ của trung đoàn phòng không 228. Thế rồi chuyện gì đến ắt phải đến. Anh sĩ quan tuyên huấn Tùng Linh gặp và yêu Thục ngay từ cái nhìn đầu tiên. Hai người đã có những đêm trăng đầy thơ mộng ngay giữa những trận đánh bom ác liệt của giặc Mỹ. Nhưng cái số phận của Thục vẫn là "vừa vui gặp gỡ đã sầu chia ly". Linh có lệnh đột xuất phải vào chiến đấu ở đất lửa Vĩnh Linh và hy sinh ở đó. Ngày họ chia tay, chị đã không tiếc gì, dâng hiến cho anh tất cả và chị chỉ còn biết lao vào cuộc chiến đấu khốc liệt bên cầu Hàm Rồng để quên đi nỗi nhớ người yêu. Trong một trận đánh trả máy bay địch, bộ đội hết vải lau đạn, Thục đã không ngần ngại lần lượt cởi hết 2 lần áo ngoài ra lau đạn cho chiến sĩ. Khi người pháo thủ số 1 trên mâm pháo bị thương, Thục liền nhảy ra thay thế, tiếp tục chiến đấu. Vào thời ấy, một cô gái trẻ đứng giữa các chàng trai trên cùng mâm pháo là cả một sự phi thường. Sau trận đánh ấy, Bác Hồ đã tự tay viết thư khen ngợi và thưởng huy hiệu của Người cho Thục. Nhưng, cái thai trong bụng của chị cứ ngày một lớn dần lên. Thục bị kỷ luật vì tội chửa hoang, bị mất dần quyền lợi và thành tích cùng nhiều danh hiệu cao quý lẽ ra chị xứng đáng được hưởng. Năm 1969, ông Đặng Quang Thắng, sinh năm 1930, là chiến sĩ thời chống Pháp, từ chiến trường Lào trở về đã dũng cảm đứng ra nhận là cha đứa bé, cùng chị xây dựng gia đình. Họ có với nhau thêm 4 người con nữa. Nay ông bà đã có 2 cháu nội, 5 cháu ngoại, gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Thật là "một cây cù mộc, một sân quế hòe" như thơ Nguyễn Du từng viết 200 năm trước!...
    Câu chuyện thứ ba, người thương binh Hàm Rồng khát chờ chính sách. Đoàn làm phim chúng tôi bước sang ngày thứ 5, ghi hình và phỏng vấn ông Nguyễn Xuân Chuẩn, đại tá về hưu, nguyên phân đội trưởng phân đội 3, công an vũ trang Hàm Rồng, những năm 60 của thế kỷ trước. Câu chuyện của ông Chuẩn dẫn chúng tôi trở lại những trận chiến đấu ác liệt của phân đội ở núi Ngọc bờ Nam Hàm Rồng. Nhưng có một đồng đội của ông cứ ám ảnh tôi, buộc đoàn làm phim ngừng hết mọi kế hoạch trong ngày, tìm về Bỉm Sơn gặp gỡ ông Nguyễn Văn Bê. Ông Bê quê ở Nga Sơn, chiến đấu rất dũng cảm trong đơn vị anh hùng của ông Chuẩn. Năm 1965 ông Bê nhập ngũ, bị thương vào đỉnh đầu trong trận đánh Hàm Rồng ngày 10-9-1966. Năm 1968, ông được chuyển sang ngành giao thông và đến năm 1976 thì về nghỉ hẳn vì vết thương trên đầu làm suy giảm trí nhớ và sức khoẻ. Do không biết chữ, lại kém minh mẫn nên ông Bê không biết gì về thủ tục làm hồ sơ xác nhận thương tích. Trở về quê, ông sống nheo nhóc với bà vợ Lê Thị Thấm và 5 đứa con, đành phải đi lang thang làm thuê kiếm sống hoặc đào gốc cây lấy củi đem ra chợ bán. Hiện ông Bê đang làm thuê trong trang trại trồng dứa của ông Tô Văn Lĩnh ở tổ 4, khu 10, phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Từ năm 1992, các ông Chuẩn, ông Duyên, ông Nông và nhiều đồng đội khác đã hết lòng giúp đỡ ông Bê làm thủ tục để được hưởng chính sách thương binh nhưng chưa được. Nghe nói chiếc mũ sắt có vết đạn xuyên thủng của ông Bê năm ấy đã được thu gom trưng bày ở bảo tàng, còn vết thương trên đầu vẫn phập phồng một lớp da non suốt mấy chục năm. Đoàn làm phim vác máy lên tận đồi dứa, ghi lại cảnh ông Bê mắm môi cuốc đất làm thuê, trán vã mồ hôi mà lòng chúng tôi tê tái một nỗi buồn hậu chiến.
    *
    Tôi trở về Hà Nội, mang theo cả một hòm chứa các cuộn băng ghi hình cho phim Ký ức Hàm Rồng để bước vào giai đoạn hậu kỳ, chờ ngày phát sóng. Là một đạo diễn, tôi hiểu rằng sẽ phải chắt lọc hình ảnh, sự kiện sao cho vừa vặn 28 - 30 phút của bộ phim tài liệu, theo quy định của Đài truyền hình. Biết dựng phim thế nào đây cho thoả nỗi khao khát trả món nợ lòng với lịch sử, với Hàm Rồng và quê hương xứ Thanh?
    (Báo Văn nghệ Trẻ)

  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Theo nguồn này thì KQ Mỹ từng hạ cầu Hàm Rồng từ những năm chiến tranh thế giới thứ 2.
    trang web *********
    u?c spirou s?a vo 11:47 ngy 26/01/2006
  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Ông Phạm Quế Dương, sống tại 37 (?) Lý Nam Đế, từng là Tổng Biên tập báo Phòng không - Không quân những năm chống Mỹ, từng trực tiếp tham gia chiến đấu ở Thanh hoá và Quảng bình.
    Ông có nhiều bài sâu sát về tinh thần vận động toàn dân chống lại chiến tranh đường không.
    e***ed
    u?c spirou s?a vo 11:47 ngy 26/01/2006
  10. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    THAM KHẢO THÊM VỀ SỐ LƯỢNG MÁY BAY CỦA KQ VN
    Battle 4 the sky over the North Vietnam
    Trước năm 64, VN không có khả năng không quân. Họ chỉ có 30 máy bay huấn luyện, 50 máy bay vận tải, và 4 trực thăng hạng nhẹ [1].
    Ngày 7/8/64, chỉ 2 ngày sau sự kiện Vịnh Bắc bộ, thám không phát hiện Mig xuất hiện ở Sân bay Phúc yên gần Hà nội, bao gồm cả Mig-15 và Mig-17 do TQ cung cấp.
    Số lượng KQNDVN vẫn thế cho đến giữa tháng 6/65 khi LXô gửi thêm Mig-15 và 17 tới, nâng tổng số máy bay lên 70 chiếc [2]
    Hơn 1 năm sau Vịnh Bắc bộ, vào tháng 12/65, Việt nam bắt đầu nhận Mig-21, một máy bay có thể so sánh được với máy bay tiêm kích tốt nhất của Mỹ.
    ...
    Mig-15 không có thành tích nào được biết đến trong chiến tranh [3], nhưng Mig-17 thì ngược lại. Đây là những máy bay đầu tiên được không quân sử dụng.
    ...
    Vào cuối 1964, họ chỉ có mỗi 34 máy bay Mig-15/17 tại Phúc Yên.
    kqndvn:
    [1]- Vận tải đây chắc tính cả An-2 vào chứ không riêng gì Li-2 (của TQuốc viện trợ) và IL-14 (cả TQ và LXô viện trợ). Máy bay huấn luyện là loại Aero -40 của Tiệp khắc (ảnh bác Gulfoi cung cấp).
    [2] So với số liệu của Lê Thành Chơn thì trung đoàn 921 mới thành lập và bay về Việt nam chỉ có gần 30 máy bay và 20 phi công.
    [3] trang acig.org thì lại khi một số công của Mig-15 trong các trận đánh đầu tiên dưới tên TQ là J-4.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này