1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Không đoàn 355 sẽ dẫn đầu 3 không đoàn. Sự thích thú được "đi chơi trung tâm" Hà nội (từ phi công Mỹ hay dùng) lan toả khắp đơn vị. Đại tá chỉ huy không đoàn John Giraudo, và đại tá chỉ huy chiến dịch Bob white đều là những phi công thiện chiến từ chiến tranh WW2 và Triều tiên.
    Vì mục tiêu là quan trọng, sự huy động tối đa sự lão luyện (expertise) là cần thiết. John mới đến, nên quyết định Bob sẽ là chỉ huy chiến dịch. Với 19 máy bay còn lại của Không đoàn, các phi công kinh nghiệm nhất sẽ được lựa chọn bay.
    Các phi công vội vã làm việc: nhận bản đồ và đường bay, nhận thứ tự xuất phát, nhận mã hiệu liên lạc [1], số hiệu máy bay, mật ngữ giao thoại...
    Họ làm việc một cách rất hệ thống với cán bộ chiến dịch. Các mật ngữ được nhập tâm lại lần nữa.
    Nhân viên khí tượng thông báo tình hình thời tiết tại khu vực mục tiêu, và dự đoán trên đường bay về. Đường bay gần như trong không mây với gió thổi rất nhẹ ở khu cầu Long biên, một thời tiết rất lý tưởng cho không tập.
    Nhân viên tình báo trao đổi lại điểm cần trúng bom. Phòng không sẽ gồm cả 37, 57, 85, 100, vũ khí tự động, SAm và Mig, toàn bộ các thể loại vũ khí của địch.
    kqndvn:
    [1] call-sign: dùng để gọi nhau: ví dụ Zinc 1, 2... Như ta thì Hồng hà gọi Đại bàng, 40 báo cáo Thăng Long, vv.
  2. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Theo sau buổi nhận nhiệm vụ (briefing), các phi công của mỗi biên đội 4 chiếc F-105 lại trao đổi cụ thể chiến thuật sẽ sử dụng trong các tình huống khác nhau: phương pháp tiếp cận, chiến thuật chống Mig, tránh SAM, cứu phi công nhảy dù.
    Đó là cuộc trao đổi gấp gáp cuối cùng trước một cuộc chơi lớn.
    Các phi công nhanh chóng mặc áo bay, áo chống G, mũ bay, các thiết bị ngoại vi, và thêm cả áo phao (survival vest).
    Một radio 2 chiều được cài vào áo phao, để chống trường hợp như phi công Smitty Harris đã gặp phải ở Thanh hoá, được kiểm tra đi, kiểm tra lại.
    Các chai nước được đổ đầy và cho vào túi. Khẩu súng ngắn .38 đút vào túi vai. Các phi công nhảy lên xe ra hàng máy bay. Thời gian đã là 13 giờ.
  3. lehahai

    lehahai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2003
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    0
    Xin lỗi bác, chỉ co những người không hiểu biết về TLPK (ít ra là về C75 và C125) mới nói như thế. Không bật RADAR đài ĐK thì lấy đâu ra tín hiệu để đồng bộ Đài ĐK và Bệ phóng, làm sao mà khoá được mục tiêu, lúc ấy có ấn nút phóng thì đạn cũng không bay. Cái cách này phải hiểu là đợi mục tiêu vào gần vùng tiêu diệt mới bật RADAR, lúc này thì thời gian từ lúc bật đến lúc tiêu diệt mục tiêu chỉ khoảng vài phút. Nhưng điều này đòi hỏi thông tin muc tiêu được cung cấp bởi các RADAR cảnh giới có độ chinh xác rất cao.
    Còn nữa, nếu cùng một đài ĐK thì không thể đk hai quả TL đi theo hai quỹ đạo khác nhau được (C75 và C125).
  4. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Cho rằng Trung tướng Hoàng Văn Khánh không hiểu biết gì về tên lửa là quá hồ đồ.
    Ông ấy là tư lệnh lực lượng đặc biệt chuyên tìm diệt B-52, là người chủ trì và tham gia tất cả các hội nghị bàn bạc về đánh B-52 từ đầu tới cuối. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông, 2 chiếc B-52 đầu tiên đã bị diệt. Chưa nói đến 1/2 chiếc B-52 đầu tiên trong chiến dịch ĐBP trên không năm 72 khi quay ra bị bắn cháy ở Nghệ an cũng là do công lực lượng do tướng Hoàng Văn Khánh đứng đầu.
    Hơn nữa, sách chính sử của Không quân Mỹ lại có những chi tiết trùng khớp với truyện ký của tướng Khánh. Cả hai chuyện đều được post nguyên văn câu chữ.
    Cách đánh trên tất nhiên không phải là chuẩn. Nó chỉ là sáng tạo ra khi Tên lửa của ta bị chế áp điện tử mạnh nên không thể bắn theo normal pattern.
    Theo Sử ký quân chủng PK-KQ tập II:
    Trong trận đánh ngày ? 9/66, ta cho tên lửa bắn 20 quả làm thành một dãy điểm nổ trên đường bay vào nhằm làm rối loạn đường bay của các đội hình ném bom lớn của địch.
    kqndvn: Ở đây chỉ bắn lên, không hề có khoá mục tiêu ở đây mà vẫn bắn được.
    Chuyện của tướng Hoàng Văn Khánh:
    Ngày 26/04/1972, riêng Hải phòng đã bắn 90 tên lửa vào các đám nhiễu, nhưng cũng chỉ được công nhận bắn rơi 1 B-52 (không có bằng chứng, kết luận qua rađar bắn). Cùng ngày, ở Hà nội, Sở chỉ huy Quân chủng cho tên lửa tập trung bắn dữ dội, và xuất kích hàng chục lượt Mig nhắm vào các "mục tiêu" trên bầu trời. Nhưng hôm đó B-52 lại không vào.
    Từ đó trong Quân chủng nảy sinh và phát triển rộng rãi tư tưởng không tin SAM-2 của ta có thể bắn hạ B-52. Có nhiều ý kiến đề nghị bạn cung cấp vũ khí mới...
    kqndvn: ở đây ta cũng chỉ bắn vào các đám nhiễu, không khoá được mục tiêu.
    Một chuyện không nhớ nguồn gốc:
    Đại ý:
    Những ngày này, để chuẩn bị cho trận đánh lớn, ta cho Mig-21 bay ở độ cao và hướng dự đoán B-52 sẽ vào đánh Hà nội. Cùng lúc đó, các đài rađar tên lửa phát sóng, ghi nhận lại hướng và góc phát, để về sau khi vào chiến dịch, các sỹ quan sẽ theo sổ tay hướng sẵn ra đa về hướng đó bật máy đón lõng, giảm thiểu tối đa thời gian phát sóng dò nên đảm bảo an toàn cho rađar ta, đồng thời lại nhanh chóng phát hiện mục tiêu.
    Cũng về việc này, một tài liệu của Mỹ là Bay đến Hà nội rồi trở về (To Hanoi and Back) chuyên về đợt đánh 12 ngày đêm nói phi công B-52 phát hiện nhiều lần Mig-21 bay trùm bóng song hành(shadow the B-52) đội hình B-52 để báo hướng bay, độ cao, và vị trí tương đối của B-52 cho tên lửa bắn lên (cứ bắn vào xung quanh Mig-21 là trúng B-52 - không cần khoá mục tiêu).
    Theo tài liệu này ta bắn SAM lên như bắn cao xạ, đẹp như pháo hoa ngày Quốc khánh Mỹ 4-7, nhưng tuyệt đại đa số là bắn khu vực, chứ không có dẫn (w/o guidance), vì sau trận đánh tổng kết phát hiện ra không một phi công nào thấy các thiết bị cảnh báo bị rađar bám của B-52 đỏ đèn báo động. Do đó, các phi công phải phân công nhau quan sát tên lửa bằng mắt, chứ không chỉ dựa vào máy móc, để tránh đạn.
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 07:42 ngày 30/01/2006
  5. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Theo sách "Đánh thắng B52" của Trung tướng Hoàng Văn Khánh, in và nộp lưu chiểu 26/09/2004:
    "B52 ném bom khu Uy nỗ, Đông Anh, bom trùm vào trận địa tiểu đoàn 57. Lửa tạt vào cabin điều khiển nóng rát. Mặc, Tiểu đoàn trưởng, Sỹ quan điều khiển, và 3 trắc thủ vẫn kiên quyết căng mắt dõi theo địch...
    Tiểu đoàn trưởng ra lệnh phóng đạn. Đạn vừa có điều khiển thì Sỹ quan điều khiển phát sóng..."
    - - - - -
    Phân tích chiến thuật của KQ Mỹ:
    Trong sử liệu: Tales of two bridges:
    "Chiến thuật bắn của SAM cũng có thay đổi. Họ bắn 2 quả cùng lúc (at once) vào hai độ cao khác nhau. Hơn nữa, biện pháp bắn cũng được thay đổi đa dạng. Đôi lúc họ bắn với radar dẫn bắn (guidance radar) để ở chế độ chờ sẵn (stand-by). Rađa dẫn bắn chỉ được bật khi mà tên lửa đã vào pha tiếp cận cuối cùng (enters its final phase), khi đó tín hiệu sẽ được gửi đến tên lửa để dẫn nó chặn đường máy bay (intercept). Phương pháp bắn này đã "tước đoạt" (deprive) đôi giây quý báu của phi công khi cơ động tránh tên lửa "
    [​IMG]
    [​IMG]
    - - - -

    WAR FROM ABOVE THE CLOUDS
    B-52 Operations during the Second Indochina War and the Effects of the Air War on Theory and Doctrine
    Air University Press Maxwell Air Force Base, Alabama 36112-6615
    July 2002
    Trang 66.
    Lúc đầu, họ dùng chiến thuật bắn ?otỉa?: một đạn cao, một thấp, và một ở giữa để bao trùm cả vùng. Ban đầu chiến thuật này có thành công, nhưng sau đó nó bị mất tác dụng do các biện pháp phòng vệ của Mỹ, gồm cả việc sử dụng nhiễu kim loại và đặc biệt là B52.
    At first, they used ripple firing tactics.one high, one low, and one in the middle.for total coverage. Early enemy successes were later offset by US counter-measures, including the use of chaff and especially by the B-52s. The United States also utilized Iron Hand anti-SAM tactics employing F-105 Wild Weasels, which used the enemy?Ts SAM radar rebound signals to direct laser-guided bombs to the target. The United States also used hunter/killer formations; Wild Weasels spotted sites, and F-4s dropped high-explosives and cluster bombs on them.
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 07:46 ngày 30/01/2006
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 13:48 ngày 30/01/2006
  6. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Người Việt Nam duy nhất ba lần anh hùng
    Huỳnh Dũng Nhân - Hoài Trung
    Trong Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc diễn ra tại Hà Nội
    tháng 10.2005 vừa qua, có một chi tiết làm mọi người trầm trồ
    thán phục và vẫn có chút ngạc nhiên. Đó là có một đại biểu ba
    lần được phong Anh hùng. Người đó không ai khác là Anh
    hùng phi công Phạm Tuân.
    Diệt B52...
    Trước khi nhận lệnh cất cánh tiêu diệt B52, phi công Phạm Tuân lái Mig 21 đã phải trực chiến 27 đêm liền. Và anh đã 2 lần cất cánh với nhiệm vụ tấn công B52, nhưng lần thì mất mục tiêu, lần thì bọn tiêm kích F4 quá đông, chưa thể tấn công được nên phải quay về. Và trong một chuyến trở về tiếp đất ở sân bay Nội Bài, máy bay của anh đã phải hạ cánh bằng đèn pha và đã lao ra khỏi đường băng đầy hố bom, trong tình thế rất nguy hiểm. Máy bay bị hư hỏng, nhưng may mà anh không bị thương.
    Sau những lần xuất quân tiêu diệt B52 chưa thành, toàn quân chủng vẫn nêu cao quyết tâm phải hạ bằng được B52. Tất cả mọi người đều nhớ lời Bác dạy khi đến thăm đơn vị ngày 19.7.1965: "Dù đế quốc Mỹ có B57, B52 hay B gì đi chăng nữa, ta cũng đánh?, mà đánh là nhất định thắng?".
    Là một phi công lái máy bay chiến đấu, Phạm Tuân cũng hiểu rất rõ rằng mỗi phi công có thể phải coi mình là quả tên lửa thứ ba, sẵn sàng hy sinh để giáp lá cà quyết tử với máy bay địch. Rồi thời cơ cũng đến.
    Chiều 27.12, anh được lệnh đưa Mig 21 bí mật di chuyển lên sân bay dã chiến ở Yên Bái phục kích B52. Cấp trên nhận định rằng sau khi nghỉ lễ Noel, không quân Mỹ sẽ tiếp tục tập kích ác liệt và chúng sẽ không ngờ được rằng Mig 21 có thể cất cánh ở sân bay Yên Bái vừa bị địch không kích hư hỏng nặng. Đúng 22 giờ 16 phút đêm 27.12, anh được lệnh xuất kích theo chiến thuật "đi thấp, kéo cao" và hai lần bỏ qua hai tốp F4 để tiếp cận 2 chiếc B52.
    Hai lần anh xin thả thùng dầu phụ để tăng lực lao vào tấn công, nhưng cấp trên sợ bị lộ nên chưa đồng ý. Máy bay anh mỗi lúc một tiếp cận gần B52 hơn, trong lúc bọn F4 đã phát hiện ra chiếc Mig 21 đơn độc. Song anh không bỏ cuộc. Và khi sở chỉ huy ra lệnh "chỉnh đường ngắm, phóng hai quả tên lửa, thoát ly bên trái?" thì anh vẫn chần chừ chưa thực hiện ngay, vì anh muốn vào gần hơn nữa cho chắc ăn, rút kinh nghiệm của một số lần trước các đồng đội của anh đã bắn từ khoảng cách xa hơn nên chỉ làm bị thương máy bay địch.
    Và rồi, khoảng cách đã rất thuận lợi, anh nâng máy bay vọt lên độ cao bằng chiếc B52 và bấm nút phóng tên lửa. Một quầng lửa chói sáng loá mắt bùng lên. Trúng mục tiêu rồi. Anh kéo cần lái lật ngửa máy bay lên cao và quay lại. Bằng cảm giác trận mạc của mình, anh biết chiếc B52 đã bị tiêu diệt và bình tĩnh hạ cánh xuống sân bay Yên Bái trong sự nô nức của những người trên mặt đất đã bao ngày đêm chuẩn bị và chờ đón chiến công này.
    Ngày 3.9.1973, anh được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đầu tiên.
    ... và chinh phục vũ trụ?
    Có thể nói cuộc đời phi công chiến đấu của Anh hùng Phạm Tuân có nhiều trận đánh dũng cảm và gian khổ của thời kỳ ác liệt nhất của lịch sử không quân Việt Nam, nhưng như anh từng tâm sự: Anh được thuận lợi hơn nhiều anh em khác, nhất là được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ tiêu diệt B52 và học tập để trở thành phi công Việt Nam đầu tiên bay vào vũ trụ.
    Sau khi đánh B52, trong mấy năm sau, Phạm Tuân từ một đại đội trưởng lên trung đoàn phó; đến năm 1978, anh được chọn đi học tại Học viện Không quân Gagarin và năm 1979 được học chuyển loại bay vũ trụ để chuẩn bị cho chuyến bay vũ trụ quốc tế. Đây là một sự kiện, một vinh dự tiếp nối theo chiến công hạ gục B52 của người phi công quê lúa Thái Bình này.
    Phạm Tuân bền bỉ và kiên trì tập luyện trong nhiệm vụ mới. Cả đất nước Việt Nam cũng như cả thế giới theo dõi chuyến bay vào vũ trụ của người phi công cách đó 8 năm đã tiêu diệt chiếc B52 được coi là "pháo đài bay " và "kho bom trên không" của Mỹ. Với một thể lực tốt hiếm có đối với thể chất người Việt Nam và ý chí của một phi công chiến đấu, Phạm Tuân đã bay vào vũ trụ từ ngày 23.7.1980 đến ngày 30.7.1980. Tất nhiên đây không chỉ là chuyến bay nghiên cứu khoa học vũ trụ mà còn là chuyến bay quốc tế, chuyến bay nêu lên tinh thần chiến thắng và khát vọng hoà bình của người Việt Nam, khẳng định vị trí Việt Nam trong kháng chiến bảo vệ tổ quốc cũng như trong hoà bình?
    Ngay sau khi trở về trái đất một ngày, Phạm Tuân được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và Huân chương Hồ Chí Minh.

    Anh hùng Phạm Tuân.
    Cùng ngày (31.7.1980), Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết Tối cao Liên Xô cũng đã ký lệnh phong tặng phi công vũ trụ Phạm Tuân danh hiệu Anh hùng Liên Xô và Huân chương Lênin. Khi đó, phi công Phạm Tuân - người ba lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng mới 33 tuổi và mới mang quân hàm trung tá.
    Sau 8 năm đạt ba danh hiệu Anh hùng, được coi là những năm tháng đáng nhớ nhất đời mình ấy, anh Phạm Tuân trở về cuộc sống của một người lính làm kinh tế với cương vị Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp và Kinh tế quốc phòng. Vợ anh là thượng tá - bác sĩ quân y Trần Thị Phương Tiến, từng chiến đấu tại chiến trường miền Nam và Lào, trước khi nghỉ hưu là Chủ nhiệm Quân y Cty bay dịch vụ hàng không Việt Nam. Anh chị có hai người con. Cô con gái đầu là Phạm Thị Hằng sinh năm 1976 đang làm thạc sĩ ở Australia. Còn con trai là Phạm Tuấn Anh đang học đại học. Và có một sự tình cờ, nhưng rất ý nghĩa, gia đình anh hiện sống tại một căn hộ trên con đường từng mang tên Chiến thắng B52 tại thủ đô Hà Nội, nay là đường Trường Chinh.
    http://www.laodong.com.vn/sodara/xuan2006/xahoi/11.htm
  7. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Dịp Tết Ất Dậu vừa qua, Hội thanh niên và sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản có mời tôi tham gia giao lưu với khoảng 200 khán giả. Hầu hết là thanh niên Việt Nam đang làm việc hoặc học tập ở vùng Kan-tô. Trong số những câu MC của chương trình giao lưu hỏi tôi có một câu đại loại là liệu tôi có cho rằng mình là người gặp may không. Tôi đã trả lời như sau:
    - Đúng! Tôi cho rằng mình đã gặp may rất nhiều. Cái may mắn thứ nhất là tôi đã được bố mẹ tôi sinh ra, nuôi dạy thành người, và được hưởng một nền văn hóa của cả Đông lẫn Tây từ bố mẹ mình. Cái may mắn thứ hai là tôi đã thoát chết trong một trận máy bay Mỹ ném bom vào năm 1972, nếu không tôi đã không được hân hạnh giao lưu với các bạn tại đây ngày hôm nay. Cái may mắn thứ ba là?
    Chương trình giao lưu chỉ diễn ra khoảng 20 phút nên tôi không thể kể chi tiết về vụ chạy bom của mình 33 năm về trước. Nay tôi mượn mặt báo để kể câu chuyện này ra. Tôi hy vọng rằng, đọc xong câu chuyện, đặc biệt là trong không khí hân hoan của những ngày đầu xuân có thể coi là sung túc và dư dật này, một số độc giả cũng sẽ đồng ý với tôi, thắp lên nén trầm hương để tưởng nhớ vong linh những người đã không may phải bỏ mình trong những cuộc chém giết của con người, hay những cơn cuồng nộ của trời đất. Trong số họ, biết đâu chẳng có những cá nhân, mà nếu được sống, có lẽ cũng trở thành những tài năng xuất chúng.
    * * *
    Năm 1972 Mỹ ném bom miền Bắc trở lại, nghe nói là để gây sức ép tại bàn đàm phán hòa bình với Việt Nam ở Paris. Mọi người ở thành thị một lần nữa lại phải đi sơ tán. Khác với lần đi sơ tán trước, khi ba anh em chúng tôi đi theo bố, còn mẹ tôi đi theo bệnh viện bà làm việc, lần này gia đình tôi phải chia làm bốn. Anh tôi, lúc đó đang học Đại học Bách khoa năm thứ hai, phải nhập ngũ cùng cả khóa năm đó theo lệnh tổng động viên. Bố tôi đi theo trường bố tôi dạy. Chị tôi theo mẹ tôi đi với cơ quan của mẹ tôi. Còn tôi lại đi theo trường nghệ thuật Hà Nội ở một làng gần Chèm. Lúc đó tôi 14 tuổi, đang học đàn cello ở trường này. Ba nơi này cách nhau vài chục cây số.
    Một ngày tháng mười, mẹ và chị tôi đến chỗ tôi sơ tán để từ đó chúng tôi cùng đi thăm bố tôi. Ba mẹ con tôi đạp ba xe đạp đi từ trong làng ra đường cái. Đường cái dẫn đến thị trấn S.Đ. cách đó chừng mươi cây số. Từ S.Đ. đến chỗ bố tôi còn khoảng hai chục cây số nữa. Chúng tôi đến S.Đ. vào gần trưa. Đấy là một thị trấn nhỏ nằm trên trục đường nhựa đi Hà Nội nhưng khá sầm uất với nhiều hàng phở, quán cơm hai bên đường. Tôi thấy đói bụng. Tôi chắc mẹ và chị tôi cũng đói như tôi, vì thế mẹ tôi bảo dừng lại ăn trưa, sau đó sẽ đi tiếp. Chúng tôi vào một quán phở cạnh đường. Tuy nhiên, trước khi gọi phở mẹ tôi bỗng dưng đổi ý định:
    - Ngồi ăn ở đây cũng mất ít nhất nửa tiếng. - Mẹ tôi nói: Bố chờ lâu sẽ sốt ruột và lo. Thời buổi bom đạn thế này? Hay là các con và mẹ ráng chịu đói, đạp xe đi tiếp. Gặp bố rồi ăn sẽ càng vui.

    Máy bay F4 của Mỹ ném bom Bắc Việt Nam (ảnh USAF photo)

    Thế là chúng tôi lại đứng lên, xin lỗi chủ quán, lên xe đạp và tiếp tục đi. Sau khoảng 200 thước, chúng tôi rời đường nhựa, rẽ vào một con đường đất mới mở, xuyên qua một cánh đồng rộng trồng hoa màu. Tiết trời thu khô ráo nhưng trời không nắng. Đất ải hình viên xếp đống bên bờ ruộng. Đây đó là những ruộng ngô lá xanh mơn mởn khẽ lay động và phát ra tiếng kêu loạt soạt khi gió nhẹ thổi tới. Đạp xe đi được chừng 300 thước nữa, tôi bỗng nghe thấy tiếng máy bay phản lực. Hồi đó máy bay phản lực chiến đấu xuất hiện trên trời là chuyện xảy ra hàng ngày, có lúc là máy bay Mig của ta, có lúc là máy bay của Mỹ - thường là F4. Máy bay của ta thường hay bay thấp hơn, nên tiếng nghe to hơn. Máy bay Mỹ thường bay cao hơn để tránh đạn súng phòng không dưới đất bắn lên. Lần này tiếng máy bay nghe khá to nên tôi cho rằng đó là mấy chiếc Mig 21. Mẹ và chị tôi cũng như mấy người đạp xe đi trên cùng con đường chắc cũng nghĩ vậy nên chẳng ai tỏ vẻ lo lắng. Cũng có lẽ là do chúng tôi đã quá quen thuộc với những tiếng máy bay gầm rít rồi. Chẳng ai buồn ngửng đầu lên trời nhìn máy bay.
    Thình lình đất rung lên kèm theo hàng loạt tiếng nổ đinh tai nhức óc. Có tiếng ai đó hét: ?oBom...!?. Ngay lập tức chúng tôi vứt xe giữa đường chạy nháo nhác tìm chỗ nấp. Ở miền Bắc Việt Nam hồi ấy hai bên đường quốc lộ và đường cái thường có nhiều hầm trú ẩn. Đó là các hố sâu ngang đầu người, được lót bên trong bằng hai ống xi măng cốt thép hình trụ trồng lên nhau với một cái nắp tròn dày chừng 7 ?" 8 phân đậy ở trên. Mỗi hố thường chỉ giành cho một người. Khi máy bay Mỹ đến ném bom, những người đi đường nhảy xuống hố kéo nắp che lên đầu. Những hầm trú ẩn cá nhân loại đó chỉ tránh được các mảnh bom, mảnh đạn, hoặc bom bi của Mỹ ?" là thứ bom mà khi nổ làm bắn ra nhiều viên bi nhỏ như bi xe đạp, nhưng sắc cạnh, có thể cắm sâu vào da thịt của người và súc vật.
    Nhưng lần này, trớ trêu thay, có lẽ do con đường mới được làm cách đây không lâu nên hai bên đường không có một cái hầm trú ẩn nào. Tôi đành nằm sấp úp mặt xuống đất ruộng bên lề đường. Đất rào rào phủ lên lưng tôi. Tôi nghĩ phen này chúng tôi chắc chết ở đây. Bố sẽ không gặp được ba mẹ con mình chiều nay nữa. Chắc bố sẽ đau khổ lắm. Không hiểu sao lúc đó tôi không thấy sợ. Hé mắt liếc xung quanh tôi thấy mẹ và chị tôi cũng nằm úp sấp cách tôi vài thước. Tôi gặp ánh mắt của mẹ tôi - ánh mắt lộ vẻ bình thản và nhẫn nại. Bỗng dưng tôi nhớ đến hình ảnh con gà mái xù lông, xòe cánh, cố che chở cho đàn con nhỏ của mình khỏi sự đe dọa của những con diều nanh ác đang quần đảo trên không. Ngước nhìn lên về phía xa, tôi thấy những cột khói đen cuồn cuộn bốc lên từ cái thị trấn mà chúng tôi vừa đi khỏi. Trên trời là hai chiếc F4 đang cắm đầu lao xuống. Hàng loạt tiếng bom nổ lại vang dậy và các cột khói đen mới lại ngùn ngụt bốc lên. Tôi thấy có cả những cột đất tung lên ở phần cánh đồng bên kia đường chỉ cách chỗ chúng tôi chừng 200 thước. Tôi đã từng đi sơ tán 4 năm trời cho đến năm 11 tuổi, đã nhiều lần xuống hầm tránh bom, nhưng chưa bao giờ thần chết đến gần tôi như vậy. Ngay sau tiếng bom những tiếng nổ chát chúa của các loại súng phòng không thi nhau vang lên.
    Tiếng bom ngừng. Máy bay Mỹ bay đi. Tôi ngồi dậy và sờ khắp ngườị. Không bị thương. Mẹ, chị tôi và mọi người xung quanh cũng không ai việc gì. Tôi nghe có tiếng người nói: ?oPhải chạy thật nhanh cho xa chỗ này. Nó còn quay lại đấy!? Thời chiến tranh phá hoại đại từ ngôi thứ ba số ít ?onó? rất hay được dùng để chỉ ?ogiặc Mỹ?, ?omáy bay Mỹ?.
    Chúng tôi dựng xe đạp dậy, nhảy lên, cố đạp thật nhanh trên đường về phía rặng tre của một ngôi làng trước mặt. Như là trêu ngươi, xe đạp của mẹ tôi tự dưng tuột xích! Thông thường lắp xích xe đạp tuột chỉ mất vài giây. Tuy nhiên lúc đó tay tôi run bần bật. Cả tôi và mẹ tôi thử mấy lần mà không lôi được đoạn xích mắc kẹt. Tôi không thể đạp xe chạy trước để mẹ tôi một mình dắt xe, còn mẹ tôi không dùng xe tôi được vì xe đạp của tôi khá cao. Thế là chúng tôi dắt xe chạy bộ. Tiếng máy bay vẫn ầm ì đằng xa. Chạy được một quãng, tôi thấy yên tâm hơn, nên dừng lại và lắp được xích xe. Chúng tôi đạp xe thật nhanh cùng mọi người khác trên đường. Cuối cùng tất cả đến được rặng tre đầu làng. Chúng tôi tìm được một cái hầm chữ A to đủ cho tất cả khoảng chục người cùng trui vào. Mọi người ngồi ép sát vào nhau trong hầm. Mùi mồ hôi quện với mùi đất âm và hơi thở dồn dập làm không khí bên trong hầm ngột ngạt. Định thần lại sau một lúc, tôi nhìn ra phía trước. Dưới rặng tre tối đối diện với cửa hầm, tôi thấy lù lù một bệ phóng tên lửa phòng không trên một chiếc xe quân sự với cả một quả tên lửa phủ vải bạt rằn ri ngụy trang. Dần dần tất cả mọi người ngồi trong hầm đều nhận ra là dưới các rặng tre tiếp theo còn có vài xe chở tên lửa nữa. Tình trạng bỗng trở nên rõ ràng: Chúng tôi đang ngồi trong hầm thuộc vị trí đóng quân của một đơn vị bộ đội phòng không. Trận bom hồi nãy có thể là nhằm vào đơn vị này, nhưng do chỉ điểm sai, máy bay Mỹ đã ném bom nhầm xuống thị trấn S.Đ. Không ai bảo ai, tất cả chúng tôi hiểu là phải rời bỏ chốn này ngay lập tức, trước khi máy bay Mỹ nhận ra đã ném bom chệch mục tiêu. Tất cả ra khỏi hầm và lại đạp xe chạy tiếp.
    Khoảng 3 ?" 4 giờ chiều chúng tôi mới đến được chỗ bố tôi sơ tán. Lúc này tin về trận bom đã lan đến mọi nơi nên có vẻ bà con nông dân đã biết cả. Chắc trông chúng tôi nhếch nhác lắm vì người lấm bùn đất, nên mấy bà đang gồng gánh ở đầu làng thoạt nhìn thấy chúng tôi đã nói to: ?oMấy người thoát chết bom về đấy a??.
    Ba mẹ con tôi vào đến sân ngôi nhà mà bố tôi đang ở nhờ cũng là lúc bố tôi và mấy thầy giáo khác đang xúm quanh cái đài bán dẫn nghe tin giờ chót về vụ oanh tạc. Bố tôi đã biết trước là hôm nay chúng tôi sẽ đến thăm, nên ông rất bồn chồn. Dường như linh cảm đã báo cho ông rằng chúng tôi đã ở đâu đó rất gần khu vực bị nạn.
    Trận bom đó đã san phẳng thị trấn S.Đ. Nhiều người chết. Người ta thấy cả những xác trâu trúng bom bị hất tung lên nằm vắt trên cành cây to. Dãy hàng quán hai bên đường qua thị trấn bị bom phá sập tan tành, kể cả cái quán phở tại đó chúng tôi suýt nữa đã ngồi lại ăn.

    Phố Khâm Thiên (Hà Nội) sau trậm bom B-52 Mỹ đêm 26.12.1972

    Mùa Giáng Sinh năm ấy máy bay B52 của Mỹ trút bom trải thảm xuống Hà Nội. Vào những đêm thành phố bị ném bom, đứng ở nơi sơ tán cách Hà nội chưa đầy hai chục cây số, tôi nghe thấy tiếng bom ầm ì và nhìn thấy những quầng lửa bùng lên sáng cả một góc trời. Sau trận bom xuống phố Khâm Thiên đêm 26.12.1972, tôi đã đạp xe về Hà Nội. Khu phố đông đúc ngày nào nay chỉ còn là một đống đổ nát.

    Và phố Khâm Thiên ngày nay (ảnh VNTTX)

    Trong bóng tối nhá nhem, nổi lên màu trắng của khăn tang, của vôi bột, của khói hương nghi ngút. Một nhóm dân phòng im lặng đưa xác người chết lên một chiếc xe tải. Tôi thấy một mảng thịt giập nát, hình người đang dang rộng chân tay, dính chặt vào tấm lưới bê-tông của một bức tường đã đổ sập xuống. Trong một góc, có lẽ nguyên là một căn phòng nay chỉ còn là một đống gạch vụn, một người đàn ông gầy gò đứng trước một bát hương, khóc và đôi khi gào lên những tiếng đứt đoạn, không rõ nghĩa. Trong hố mắt của ông ta tôi như thấy niềm đau thương của cả dân tộc tôi.
    Một tháng sau, ngày 27.1.1973, Hiệp định về hoà bình và chấm dứt chiến tranh Việt Nam được ký ở Paris. Chúng tôi trở về Hà Nội. Một lần, sau giờ tan học, tôi cùng lũ bạn học phổ thông trèo lên tường của Tòa án thành phố tò mò đứng xem các tù binh phi công Mỹ được phóng thích từ nhà giam Hỏa Lò. Họ cao to, đầu húi cua, mặc đồng phục gồm áo blouson và quần tây màu xám, đi thành hàng một. Mỗi phi công xách một cái túi du lịch. Có người mang thêm mấy chiếc nón lá, chắc là để làm quà lưu niệm cho vợ con, họ hàng ở quê hương Hoa Kỳ của họ. Họ leo lên mấy chiếc xe buýt chờ sẵn cạnh vỉa hè để đưa họ ra sân bay. Một phi công Mỹ nhìn qua cửa kính về phía tôi đứng. Con ngươi mắt anh ta có màu xám nhạt gần như trong veo.
    * * *
    Năm 1976 tôi xuất dương đi học đại học. Sau nhiều năm tu nghiệp tôi trở thành một nhà vật lý, vì thế có dịp chu du nhiều nước kể cả Hoa Kỳ. Trong thời gian rỗí tôi cũng thích vẽ và chơi piano. Gần đây tôi còn nổi hứng viết bài lăng nhăng đăng báo chí trong nước. Đôi khi các bạn người Âu, người Nhật, hay người Mỹ hỏi sao tôi có thì giờ làm nhiều việc như vậy. Tại buổi giao lưu mà tôi đã nói đến ở đầu câu chuyện này một sinh viên từ khán phòng cũng hỏi tôi một câu tương tự. Tôi trả lời rằng bất kỳ ai có tình yêu và niềm say mê thì luôn tìm ra thời gian. Tuy nhiên, còn có một lý do nữa tôi ít khi nói ra. Tôi vẫn tin rằng hình như trực giác luôn mách bảo cho tôi phải làm thế này mà không làm thế kia. Trực giác này có lẽ tôi được di truyền từ mẹ tôi ?" cái trực giác cách đây hơn 30 năm đã cứu ba mẹ con tôi thoát chết.
    Tokyo, 11.2.2005
    http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/butviet/2005/04/414891/
  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    MIG-21 đã chiến đấu tại đâu?
    XIN cho biết về đặc điểm và tác chiến của máy bay MIG-21 của Nga, theo tôi được biết khi sản xuất ra chưa được sử dụng qua chiến trường nào phải không? (Vũ Đình Hải, 365/22 Trường Chinh, P.13, Q. Tân Bình, Tp.HCM).
    MIG viết tắt của Mikoyan-Gurevich, tên của nhà chế tạo loại máy bay chiến đấu nổi tiếng nhất thế giới.
    Bay lần đầu vào cuối năm 1957 với tên E-66, MIG-21 là một máy bay chiến đấu nhỏ gọn, bay nhanh và cao, có khả năng bẻ cua gắt và cơ động nhanh nhẹn, dành để đánh chặn máy bay địch từ xa bằng tên lửa trong mọi thời tiết, ngày và đêm. MIG-21 được trang bị một động cơ phản lực Tumansky R-25 7.500kg sức đẩy với đốt nhiên liệu phụ trội tăng tốc giúp máy bay đạt đựơc tốc độ tối đa 2.125km/giờ ? độ cao 11.000m hoặc 1.600km/giờ với tải trọng vũ khí đeo bên ngoài và một tầm hoạt động 500km, với trọng lượng rỗng 6.200kg, tối đa 10.000kg.
    Máy bay có sải cánh 7,16m, chiều dài 15,75m, chiều cao 4,49m. trang bị vũ khí gồm có một khẩu pháo GSh-23 23mm 2 nòng, 4 tên lửa không -đối-không AA-2 "Atoll" hoặc "Aphid". MIG-21 đã được phát triển 13 kiểu khác nhau cho các không lực thế giới, như MIG-21F, PF, PFM, PFMA, R, MF, RF, SMT, bis, M, U, UM. Hiện trên thế giới còn khoảng 3.000 MIG-21 thuộc các kiểu sau cùng MIG-21bis và MIG-21MF cần được nâng cấp.
    MIG-21 được sử dụng lần đầu tại chiến trường Việt Nam, từ giữa tháng 12.1966 đến cuối tháng 12.1972 chống cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ.
    Máy bay tiêm kích MIG-21 của Không quân Nhân dân Việt Nam đã bắn rơi hơn 80% tổng số máy bay bị hạ, gồm hơn 20 chủng loại của Mỹ, từ máy bay vận tải C-123, trực thăng đến các máy bay chiến đấu ném bom hiện đại như F-105 Thần sấm, F-4 Con ma và pháo đài bay B-52 Stratofortress.
    MIG-21 cũng được sử dụng trong Cuộc chiến Sáu Ngày năm 1967 và Yom Kippur 1973 giữa Israel và khối Arab; cuộc chiến giữa ?n Độ và Pakistan 1971; cuộc không chiến trên thung lũng Bekaa ? miền nam Lebanon 1982 giữa Israel và Syria; cuộc chiến Iraq-Iran 1980-1988; cuộc chiến vùng Vịnh 1991 và cuộc chiến tại Kosovo 1999.
    Trần Cửu Hưng
    http://www.mofa.gov.vn/quocte/tg23,03/mig%2021%20khampha23,03.html
  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    B52 của giặc Mỹ trên bầu trời Hà Nội
    Đã chín ngày quần nhau quyết liệt với tất cả sức mạnh của lực lượng không quân Mỹ, chúng tôi chỉ mới bắn rơi tại chỗ một chiếc F4 trên vùng trời tỉnh Hoà Bình ngày 23 tháng 12 nZm 1972, trong một đợt đánh quyết liệt nhằm đập tan các cuộc tập kích của không quân Mỹ vào các trận địa tên lửa. Trong khi đó, tiếng súng giòn giã từ khắp các trận địa tên lửa liên tiếp báo tin thắng lợi về sở chỉ huy không quân chúng tôi.
    Đến ngày 24 tháng 12, tất cả mười tám chiếc B52 đã bị bắn rơi tập trung ở khu vực Hà Nôi-Hải Phòng.
    Chiều 24 tháng 12, sau khi làm xong kế hoạch chiến đấu ngày hôm sau, tôi đọc một bản tin do hãng Roitơ phát đi ngày 23 tháng 12 có đoạn "Mỹ càng hoảng hốt về số B52 bị bắn rơi ở Bắc Việt Nam.... Bộ chỉ huy Mỹ báo tin: hai B52 nữa bị bắn rơi hôm qua ở Bắc Việt Nam. Một người phát ngôn nói, tới nay đã có mười B52 bị hoả lực phòng không Bắc Việt Nam bắn rơi kể từ ngày 18 tháng 12 ; nhưng các nguồi tin nói ít nhất mười chiếc B52 nữa đã bị hư hại với mức độ khác nhau vì hoả lực phòng không của Bắc Việt Nam. Không thể nói có bao nhiêu chiếc trong số bị hư hại còn có thể tiếp tục hoạt động được. Các nguồn tin quân sự nói khoảng 60 phi công Mỹ bị mất tích ở Bắc Việt Nam kể từ ngày đó..." và "mất B52 là một thiệt hại nặng nề nhất về kỹ thuật và uy tín cho không quân Mỹ trong cuộc chiến tranh này".
    Chúng tôi càng nóng ruột vì chưa bắn rơi được chiếc B52 nào. Hàng đêm, chúng tôi đều tổ chức cho MIG xuất kích, lần nào cũng vậy, khi đến cự ly tiếp cận bằng ra-đa thì bị nhiễu hoàn toàn, ngày càng nặng hơn, chưa kể mỗi đêm lực lượng tiêm kích bảo vệ cho B52 một đông hơn và hình như có hiệu quả hơn bởi vì đưa MIG lọt được vào phạm vi B52 không còn dễ dàng mà phải vượt qua "hàng rào" nhiều lớp tiêm kích và mỗi "hàng rào" đó là những "bãi mìn" vô cùng lợi hại, sẵn sàng nổ tung những ai dám đột nhập.
    Trên tấm bản đồ "địch" được vẽ hết sức công phu ; từ hướng đột nhập, hướng hành quân trên đường của B52, cách bố trí bảo vệ, yểm hộ của lực lượng tiêm kích... chúng tôi như bị "thôi miên" bởi hình vẽ hàng chục "quả bom" nơi đánh dấu các bị trí B52 thả bom huỷ diệt như:
    - ở phía Bắc Hà Nội có Đông Anh, Yên Viên, Cầu Chui, Gia Lâm, sân bay Kép ở Hà Bắc, Cao Ngạn ở Thái Nguyên, thị xã Bắc Giang, Tân Lập, Đồng Mô.
    - ở phía Nam Hà Nội có Mễ Trì, Bạch Mai, ga Giáp Bát, VZn Điển
    - ở phía Đông, hai vệt bom ném xuống nhà máy Ciment và cảng mới Hải Phòng.
    Một quả bom màu xanh hơi to đuôi nghiêng chếch qua bên phải, đầu cắm vào một điểm có dấu thập với số đề bên cạnh 22/12, đó là bệnh viện Bạch Mai. Đêm 22 tháng 12, bọn Mỹ dùng lực lượng chín chiếc B52, chúng xếp hàng nối đuôi nhau để huỷ diệt một nơi chỉ làm những việc nhân đạo, với 90 tấn, nghĩa là hơn 700 quả bom được thả xuống nơi đây, một vệt bom dài gần một kilômét, bom đè lên bom, chúng cố tình san bằng một cơ sở nghiên cứu khoa học của chúng ta. Rõ ràng, những tướng lĩnh hiếu chiến của không quân Mỹ, không quên lời hZm doạ khi bắt đầu sử dụng không quân đánh phá miền Bắc... cho Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá... Vệt bom đêm 22 tháng 12 đánh vào bệnh viện Bạch Mai như một cái kim đâm nhức nhối những trái tim của các chiến sĩ Không quân nhân dân Việt Nam. Chúng tôi cảm thấy mình không xứng đáng với nhân dân Hà Nội đau thương trong những giờ phút nghiêm trọng này, chúng tôi có vũ khí hiện đại trong tay, lại để mặc cho kẻ thù tung hoành mang bom giội xuóng giết hại hàng loạt dân thường.
    Đêm 26 tháng 12 nZm 1972, sau một ngày đi cầu nguyện, bọn Mỹ lại tung một lực lượng lớn nhất kể từ ngày 18 tháng 12 đến nay. Cả ngày và đêm 26 tháng 12, chung sử dụng hơn 300 lần/chiếc máy bay chiến thuật và một lần nữa chúng tôi lại để cho 42 chiếc B52 giội 3.820 quả bom xuống thủ đô Hà Nội. Một vệt bom dài bắt đầu từ hồ Thuyền Quang và bến xe Kim Liên đến tận chợ Khâm Thiên, đã có 1.100 quả bom và không biết bao nhiêu người đã hy sinh. Sở chỉ huy chúng tôi bàng hoàng khi nghe đài quan sát báo về. Đêm 26 tháng 12, chúng tôi xuất kích sáu lần MIG-21 nhưng lần nào cũng vận, lực lượng tiêm kích của không quân Mỹ đề đối phó có hiệu quả. Chúng tôi không sao lọt được vào B52, mặc dù đêm 26 tháng 12, lực lượng phòng không bắn rơi tám chiếc, trong đó Hà Nội bắn rơi tại chỗ nZm chiếc B52. Tại sở chỉ huy chúng tôi, hai chiếc B52 cháy ngút trời trên đỉnh đầu. Người dân Hà Nội hả hê, bọn giặc lái bị bắt xếp hàng vào Hoả Lò, người xem như mở hội. Còn chúng tôi, từ Tư lệnh cho đến đồng chí chiến sĩ tiêu đồ - đánh dấu đường bay, thấy trong lòng mình như có một cái gì đó, vừa day dứt, vừa dày vò nóng bỏng. Tư lệnh bỏ dở suất cơm, miệng đắng nghét không ai nuốt nổi được, mặc dù chúng tôi đã cố gắng hết sức mình, nhưng chưa mang lại được kết quả mong muốn. Vệt bom ở Khâm Thiên như một vết thương nhức nhối tâm can chúng tôi, thôi thúc cán bộ và chiến sĩ Không quân nhân dân Việt Nam phải trả thù.....
    (Theo "Anh hùng trên chín tầng mây", tác giả: Lê Thành Chơn)
    http://hanoi.vnn.vn/chuyen_de/9810/dienbienphu_hn.html
    kqndvn:
    Theo tài liệu này của Lê Thành Chơn, đêm 26/12 ta bắn rơi tới 8 B-52 (kỷ lục cả chiến dịch) và 6 chiếc rơi tại chỗ. Số liệu này lại khác với số liệu của tác giả ... Lân do Trường Sơn đưa lên trước kia là chỉ có 3 chiếc bị rơi tại chỗ.
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 12:49 ngày 30/01/2006
  10. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Một hồi ức nữa của Lê Thành Chơn.
    Ký ức Long Biên
    26/08/2003 08:31

    Cầu Long Biên

    Tôi đã thử hỏi rất nhiều người rằng ?oCầu Long Biên có bao nhiêu thanh sắt??. Trong ánh mắt của hầu hết những người tôi hỏi, có lẽ là dân Hà Nội chính gốc, sống bao đời ở Hà Nội đều lắc đầu?
    Hồi đó, năm 1961, sau khi học chuyên môn ở Bắc Kinh trở về, tôi luyện thi và trúng tuyển vào Trường Đại học Tổng hợp, ngành lý, khóa ban đêm. Chẳng biết có ai đã từng đi bộ, đi học xa như tôi?? Từ khu nhà đóng quân do người Pháp xây dựng, chúng tôi gọi là nhà ?otò vò?, bên trong phi trường, đến trường đại học chừng 7 kilômét, lúc đầu ngại, đi riết rồi quen. Những đêm trời có trăng, sao khuya lấp lánh, rảo bước trên cầu thật là tuyệt, gió thổi len vào áo mát rượi.
    Trên đường trở về đơn vị, ban đêm, ngày này qua ngày khác? Một hôm, tôi đang đi, trời tối, ánh đèn tròn chiếu xuống mặt cầu, tôi dằn bước, tay rà trên lan can, cứ mỗi đoạn lại có một cái nấm sắt hình trái bã đậu nhô lên. ý nghĩ chợt đến, đếm xem có bao nhiêu trái trên cầu. Thế là? tôi bắt đầu công việc để quên quãng đường dài. Đếm trái bã đậu bằng sắt, xong một bên, tôi nhân đôi. Tôi lại quyết định đếm thanh sắt lan can rồi thanh sắt lớn nhô lên, mỗi nhịp có bao nhiêu thanh, tôi phát hiện ra tất cả những nhịp cầu đều có những thanh sắt bằng nhau. Tôi ghi chép vào cuốn nhật ký, đến nay dù đã trên bốn chục năm, bạn thử kiểm tra, chỉ riêng trái bã đậu thôi, toàn bộ cầu Long Biên đã có 4.896 trái.
    Một lần đi tôi chợt thấy tấm biển số 1898 - 1902, ở đầu cầu, hỏi bậc lão phu, hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp thời đó, thầy Ngụy Như Kontum. Thầy cho biết đó là thời gian xây dựng cầu. Như vậy, chiếc cầu xây trong bốn năm, có chín nhịp dài, mười nhịp ngắn.
    Từ xa nhìn cầu Long Biên như con rồng lượn. Trong những năm chống Mỹ, bộ đội Phòng không - Không quân chiến đấu hàng chục trận bảo vệ cầu, trong đó Mỹ đánh trực tiếp vào cầu 14 trận bằng bom thường, bom laze và cả tên lửa. Suốt từ năm 1965 cho đến 1970, hàng chục đợt không quân Mỹ ném bom, gần như cầu Long Biên vẫn nguyên vẹn. Cho đến 1972, bằng bom laze, bọn Mỹ đã đánh sập những nhịp cầu ở phía bờ Bắc? Điều hết sức tự hào, chiếc cầu bắc qua sông Hồng, chín nhịp bờ Nam vẫn còn giữ được vẻ nguyên sơ của nó, tại đây hàng chục chiếc máy bay Mỹ đã bị bắn rơi.
    Không quân Nhân dân Việt Nam đã cất cánh hàng trăm lần chiếc, chiến đấu bảo vệ Hà Nội, bảo vệ cầu Long Biên. Tôi nhớ mãi trận đánh bảo vệ Hà Nội ngày độc lập 2-9-1972. Hôm đó, chúng tôi được phổ biến, bọn Mỹ sẽ tổ chức đánh lớn Thủ đô Hà Nội, nhằm phá hoại ngày lễ độc lập của ta. Mới sáng sớm, hai chiếc F-4 đã lượn qua Hòa Bình- Mộc Châu. Tàu cấp cứu, trực thăng, được lệnh tiến vào khu vực cứu nạn, 10 giờ 30 phút, máy bay mang bom xuất hiện. Biên đội hai chiếc Mig- 21 cất cánh từ sân bay Nội Bài chặn địch ở hướng Tây Nam, một biên đội Mig-19 do Hoàng Cao Bổng và Nguyễn Văn Quảng cất cánh ra khu vực Việt Trì. Địch vào rất đông. Nhưng hai gọng kìm của Không quân ta với lợi thế cơ động, bất ngờ đã băm nát đội hình của địch, hai chiếc Mig- 21 thu hút toàn bộ tiêm kích hướng về Hoà Bình. ở Việt Trì, 12 chiếc F-4 mang bom từ phía Tây theo đường số 2 tiến vào Hà Nội, gặp biên đội Mig - 19, đã chờ sẵn. Trong chớp mắt, ngay loạt đạn đầu, Hoàng Cao Bổng bắn rơi một chiếc F-4.
    Bọn Mỹ thả bom khẩn cấp, trở thành những chiếc tiêm kích không chiến với Mig-19. Bổng yểm hộ cho Quảng quần nhau với bọn Mỹ. Mig- 19 nhiều lần tiếp cận, chiếm được góc trong, nhưng không bắn được. Cuộc không chiến ác liệt, không gian như nứt ra, bọn Mỹ quyết bắn rơi Mig - 19. Nhưng, hai chiếc Mig của ta yểm hộ nhau rất tốt. Chớp thời cơ một chiếc F-4 lỏng tay lái, Nguyễn Văn Quảng đè đầu chiếc F-4D, xả một tràng đạn cắt chiếc F-4D làm hai tên giặc lái không kịp nhảy dù?
    Ngay chiều hôm đó, từ sở chỉ huy quân chủng ở núi Trầm, tôi cùng đi với Đại tá Đào Đình Luyện, Tư lệnh Binh chủng Không quân, qua cầu Long Biên, đến sân bay Nội Bài rút kinh nghiệm trận chiến đấu bảo vệ Hà Nội ngày 2-9-1972. Đến giữa cầu, nơi có nhịp nhô cao lên, tôi hỏi: ?oThưa anh Luyện, anh có biết lịch sử chiếc cầu này?? Ông Luyện với trí nhớ tuyệt vời, nói với tôi, như một nhà Hà Nội học: ?oCầu này trước 1945 mang tên Đu-me (Doumer), sau 1945 lấy một làng ven sông ở chân cầu để có tên như ngày hôm nay. Năm 1902, cầu Long Biên là chiếc cầu đẹp nhất Viễn Đông, là một trong bốn chiếc cầu lớn nhất thế giới thời đó. 8 giờ 35 phút một ngày cuối năm 1902, cầu được khánh thành, 8 toa xe khởi hành từ ga Hàng Cỏ đi đến ga Gia Lâm. Những hành khách đầu tiên ngồi trên tàu là vua Thành Thái, toàn quyền Pháp Paul Doumer, vua Mã Lai, Hoàng gia Camboge, đô trưởng Vientian và triều đình Mãn Thanh của Trung Quốc. Cầu dài 2 ngàn 500 mét, rộng 30,6 mét, cao 44 mét và phần ngập nước chân cầu tới 30 mét. Cầu nặng 17 ngàn tấn với 30 ngàn mét khối đá và 5 ngàn 300 tấn thép. Để làm nên chiếc cầu này, người Việt Nam của chúng ta đã chết hàng ngàn người?- giọng ông trầm xuống- ?oChiếc cầu là một phần của lịch sử Hà Nội, Thủ đô của chúng ta?.
    Có lẽ hơn 130 ngàn thanh thép lớn nhỏ đều thấm máu người Việt Nam chúng ta. Tôi lặng nhìn dòng nước đỏ chảy qua chân cầu cuồn cuộn.
    Lê Thành Chơn
    http://www.hanoinews.com.vn/vn/40/3669/
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này