1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Dịch tạm:
    Việc đưa tên lửa Sơ rai vào đã làm giảm hiệu lực của SAM, vì thời gian người lính radar tên lửa có thể thao tác phát sóng an toàn đã giảm đáng kể.
    Ví dụ, để đảm bảo mức độ bắn trúng cao, lính tên lửa phải thực hiện một quy trình tương đối dài. Đầu tiên, anh phải "tóm" được mục tiêu trên rađa, sau đó "bám" theo mục tiêu đó từ lúc phóng đạn cho đến lúc đạn lao vào mục tiêu.
    Nhưng do sự đe doạ của Sơ rai, thời gian truy tìm tóm bắt mục tiêu bị rút ngắn, khi đó chỉ có đơn giản là phóng đạn hướng về mục tiêu [1].
    Thêm vào đó, nếu pha bắt bám cũng bị cắt ngắn, nên đạn phải phóng ở chế độ đạn đạo cực kỳ kém chính xác. [2]
    Với những lý do đó, Sơ rai có những tác động cực kỳ ấn tượng trong nỗ lực làm giảm hiệu lực của tên lửa phòng không SAM.
    kqndvn:
    [1] Như vậy là nếu chưa kịp tìm ra tung tích địch trong quá trình tìm kiếm thì vẫn có thể phóng "ném cát vào mặt nó" (lời một bác sỹ quan tên lửa ở trường KTế QDân nay làm bảo vệ).
    [2] Không biết giai đoạn này cần bật những đài phát sóng nào? Lehahai cho biết được không?
    Trong cuốn Thường thức vũ khí ở Thư viện Qgia Hà nội có sơ đồ một trận địa tên lửa giải thích sẽ có 2 thiết bị phát. (1) Một thiết bị phát chiếu xạ mục tiêu. (2) Một thiết bị phát sóng lái điều khiển tên lửa: Tên lửa sẽ bay theo hình sin trong chùm sóng đó.
    Vậy trường hợp bị chế áp, nếu ta tắt rada chiếu xạ mà vẫn bật sóng lái (command radio) thì vẫn lái được tên lửa bay lên? Khi tên lửa vào pha cuối cùng mới bật rađa chiếu xạ cập nhật tham số rồi chuyền qua sóng điều khiển cho tên lửa chỉnh hướng?
    Có bạn nào là "chuyên gia tên lửa" không nhỉ?
  2. Jet_Ace

    Jet_Ace Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/12/2003
    Bài viết:
    830
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghĩ là đúng đấy.
  3. lehahai

    lehahai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2003
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    0
    Không đúng hoàn toàn, đúng là có hai thiết bị phát:
    1- Chiếu xạ mục tiêu.
    2- Phát lệnh ĐK TL.
    Chú ý là TLPK bay theo lệnh đ/k của đài ĐK chứ không phải bay trong "chùm sóng lái"", ở đây command radio phải hiểu là lệnh vô tuyến.
    Để có được lệnh này, đài ĐK phải biết được toạ độ của mục tiêu (góc và cự ly) trường hợp xấu nhất chỉ biết được toạ độ góc thì phải sử dụng p/p bắn 3 điểm kém chính xác hơn.
    Còn câu tiếng Anh trên phải dịch là "nếu pha bắt bám cũng bị cắt ngắn, nên đạn phải phóng ở chế độ có đường đạn cực kỳ kém chính xác" chứ không phải là "nếu pha bắt bám cũng bị cắt ngắn, nên đạn phải phóng ở chế độ đạn đạo cực kỳ kém chính xác". Không phải lúc này TL phóng theo kiểu của Rocket, mà la lúc này chế độ phóng của TL làm cho quả đạn phải đi theo một quỹ đạo kém chính xác hơn.
    Các bạn cũng chú ý trong đọan tiếng Anh trên cũng có nói là giai đoạn bắt và bám mục tiêu bị giảm đi chứ không phải là không có.
  4. lehahai

    lehahai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2003
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    0
    Chỉ đạo biên soạn hay là trực tiếp biên soạn? kể cả trực tiếp cũng không nhất thiết phải là người phải nắm vững tất cả mọi thứ của TL. Các bạn chú ý đọc đoạn mà người trực tiếp bắn rơi B52 kể lại, nó ngược lai hoàn toàn với tướng Khánh.
    "Tài liệu KQ Mỹ cho rằng ta thường xuyên bắn tên lửa theo kiểu rifle fire, tức là bắn không điều khiển vào đám mù. Các tài liệu của ta về 12 ngày đêm đều ghi nhận trung bình mất 9,27 quả đạn mới diệt được một B-52 cho thấy địch có lý phần nào. (34 B-52 cộng với ~50 máy bay chiến thuật khác bị bắn hạ chứng tỏ ta bắn tối thiểu phải 34*9,3 + 50*2 ~ 450 đạn - so sánh với tài liệu địch là 884 đạn)"
    Cái này tôi đã nói rồi không phải là không điều khiển vào đám mù mà phải hiểu là SQĐK coi đám mù đó là mục tiêu. Có lẽ cũng phải nhắc lại là từ "Mục tiêu" trong TLPK không đồng nhất với máy bay. Đó chính là một điểm sáng nào đó trên màn hình được SQĐK hiểu là (coi là) mục tiêu, trường hợp không nhận rõ được thì lúc này lai phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của SQĐK. Sau khi đã quyết định đâu là mục tiêu thì lúc này mới bắt đầu vào bám sát khi này lại xảy ra hai trường hợp: 1/ nếu thông tin của mục tiêu rõ ràng thì bám sát tự động lúc này trắc thủ không cần phải đk tay quay của mình và xác xuất tiêu diệt rất cao.
    2/ Thông tin mục tiêu không đủ để bám tự động thì lúc này trắc thủ phải sử dụng tay quay để bám sát mục tiêu giống như khi bắn qua quang truyền hình trong đoạn trích này:
    "Theo Sự kiện và Nhân chứng, sỹ quan TL của ta tự cải tiến gắn thêm ống kính nhìn xa loại mạnh lên nóc đài điều khiển và bắn không phụ thuộc vào phần tử radar mà theo ống nhòm và lái bằng tay quay (có phải thế thì không cần bật guidance radar ?). Tên lửa có ngòi nổ gần cảm ứng khi mục tiêu ở trong vùng sát thương, hoặc có thể được ra lệnh nổ vào lúc bất kỳ từ trung tâm điều khiển."
    Bắn qua quang truyền hình như thế chỉ sử dụng được ban ngày trong thời tiết tốt, cự ly không quá 20km (với hệ thống của TL C75M của LX có sẵn trong đài đk) và lúc này TL được đk theo phương pháp dẫn 3 điểm (do chưa có đo xa). Do vậy rất ít được sử dụng.
    Còn nói: "Khả năng trắc thủ lái TL theo hướng quy định sẵn rồi hẹn giờ cho TL nổ khi đã bay một khoảng thời gian nhất định" là không thể. Hơn nữa, nếu có thể lái như thế cũng không có ý nghĩa gì vì phải luôn luôn phát lệnh lên TL >>> chỉ tắt 1 máy phát thì để làm gì?
    Còn nói "Tôi nghe xong mừng quá, như vậy là ta chỉ việc bắn thật nhiều tên lửa ở nhiều dải tần số khác nhau lên là địch sẽ khó lòng phá sóng kịp" điều này thì quá đúng. Bao giờ thì cũng phải sử dụng các tần số khác nhau để đk các quả TL khác nhau để đảm bảo cho lệnh đk được gửi lên đúng quả TL đang được đk.
    "Nhưng do sự đe doạ của Sơ rai, thời gian truy tìm tóm bắt mục tiêu bị rút ngắn, khi đó chỉ có đơn giản là phóng đạn hướng về mục tiêu [1].
    Thêm vào đó, nếu pha bắt bám cũng bị cắt ngắn, nên đạn phải phóng ở chế độ đạn đạo cực kỳ kém chính xác. [2] "
    Điều này hiểu là sau khi đã phóng TL thì phát hiện địch phóng Sơ rai lúc này có hai lựa chọn:
    - Tắt Radar chiếu xạ hoặc quay hướng khác lúc này TL mất đk và tự huỷ không tiêu diệt được mục tiêu.
    - Chấp nhận nguy hiểm đk TL đến cùng, có nguy cơ bị Sơ rai bắn trúng đài ĐK.
    Tôi không nhớ rõ là đã đọc ở đâu lời kể của một SQĐK là sau khi phóng đạn, phát hiện có Sơ rai thì kíp chiến đấu vẫn quyết định đk TL tới cùng, sau khi diệt mục tiêu vẫn còn kịp tắt Radar, lúc này quả Sơ rai nổ cách đài ĐK có mấy chục mét.
    Còn giai đoạn [2] của bạn KQNDVN hỏi ở trên vẫn phải có Radar chiếu xạ mục tiêu vì vẫn có bắt và bám mục tiêu (nếu pha bắt bám cũng bị cắt ngắn).
    Tóm lại tôi không nói là tướng Khánh phét lác mà ý của tôi chỉ là ông nói chưa đúng hoàn toàn.
    Thêm một ý nữa "ném cát vào mặt nó" không có nghĩa là bắn TL như là Kachiusa, mà là phóng TL vào một đám nhiễu nào đấy nghi có máy bay ở trong. Điều này hình như trong một topic nào đó đã nói rồi.
    Được lehahai sửa chữa / chuyển vào 03:05 ngày 01/02/2006
  5. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tạp chí Sự kiện và Nhân chứng.
    Phân tích


    Hệ thống phòng không nhân dân của Việt Nam - nỗi kinh hoàng của giặc lái Mỹ

    Ngày 19 tháng 12 năm 2005


    Tên lửa phòng không SAM2 của Liên Xô là loại tên lửa tầm trung cơ động đầu tiên trên thế giới. Từ 1965, Liên Xô đã bắt đầu viện trợ-cung cấp cho Việt Nam một số bộ khí tài tổng hợp và cử chuyên gia sang huấn luyện về SAM2 cho bộ đội phòng không Việt Nam. Tháng 7-1965, tên lửa SAM2 bắt đầu tham chiến, ngay trận đầu đã bắn rơi 3 máy bay Mỹ. Từ đó trở đi, loại tên lửa này chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống phòng không của Việt Nam. Ban đầu, hiệu suất của SAM2 bắn rơi máy bay Mỹ rất cao, nhưng điều đó cũng chưa nói lên tính hoàn thiện của loại tên lửa này, mà cái chính là phía Mỹ bị ?ođòn? bất ngờ. Sau những tổn thất ?ođau đầu?, Mỹ đã tìm mọi cách đối phó như: tiếp cận mục tiêu ở tầm thấp và rất thấp, phi công dùng chiến thuật bay dích dắc và sử dụng cả máy bay tác chiến điện tử EB-66 để gây nhiễu tích cực chống lại các ra-đa và khí tài điều khiển tên lửa SAM2. Những biện pháp này đã có kết quả nhất định, làm cho hiệu suất diệt mục tiêu của SAM2 giảm rõ rệt...
    Tuy nhiên, ?ovỏ quýt dày có móng tay nhọn?, đối phó với những thủ đoạn trên của không quân Mỹ, bộ đội phòng không Việt Nam cũng áp dụng nhiều biện pháp chiến thuật mới chống lại và nâng cao hiệu quả chiến đấu của SAM2 như: cải tiến một bộ phận của tên lửa này, tạo ra những tín hiệu giả điều khiển tên lửa phòng không để đánh lừa không quân Mỹ... Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các chuyên gia Xô-viết, bộ đội phòng không Việt Nam đã bỏ công nghiên cứu và phát hiện ra đầu tự dẫn bị nhiễu, bởi tất cả các máy bay Mỹ đều lắp đặt hệ thống gây nhiễu điện từ. Trong một lần bị công kích, các chuyên gia cho mở đầu tự dẫn và trang bị hệ thống điều khiển giống như đang phóng tên lửa đi, nhưng không phóng thực, từ đó đo đạc nhiễu trên màn hình điều khiển; sau đó tiến hành điều khiển tần số thích hợp, thoát khỏi tần số bị nhiễu... Cùng đó, họ đã lập tức thiết kế và sản xuất đầu tự dẫn với tần số mới cho SAM2. Sau khi tên lửa được cải tiến, nó có khả năng tác chiến trong điều kiện nhiễu điện tử mạnh. Tính năng này có một ý nghĩa đặc biệt vì nó làm cho các trắc thủ của hệ thống SAM2 hoàn toàn thoát khỏi tên lửa Bun-phớt chống ra-đa của không quân Mỹ. Bộ đội phòng không Việt Nam còn tìm ra chiến thuật mới là cho ra-đa điều khiển làm việc nhưng không phóng tên lửa, khiến cho những máy bay chiến lược của Mỹ bộc lộ trên màn huỳnh quang ra-đa điều khiển tên lửa và bị bắn hạ. Sau nhiều lần cải tiến, SAM2 thực sự trở thành nỗi kinh hoàng của giặc lái Mỹ...
    ... Hai bên đối địch trong chiến tranh không ngừng đấu trí, đấu lực làm cho kỹ thuật, chiến thuật sử dụng binh khí không ngừng được cải thiện và hoàn chỉnh hơn. Như vậy, nếu không kịp thời tìm cách cải tiến trước những đấu pháp của phía Mỹ, tên lửa SAM2 sẽ mất tác dụng. Theo thống kê, cuối 1967 tỷ suất tiêu hao tên lửa khoảng 8-9 quả trên một máy bay Mỹ bị hạ, nhưng đến 1972 thì chỉ còn 4,9 quả trên một mục tiêu bị bắn hạ. Mà điều cần nhớ là 90% số lần bộ đội Việt Nam phóng tên lửa trong điều kiện tác chiến ác liệt. Rõ ràng việc cải tiến kỹ thuật và chiến thuật tác chiến phòng không của bộ đội Bắc Việt Nam đã có nhiều hiệu quả không cần bàn luận. Ngoài ra, để giành được kết quả chiến đấu tốt đẹp như nói trên, một điều không thể thiếu là kỹ thuật thao tác và xử lý thông minh của các trắc thủ bộ đội phòng không Việt Nam... Điển hình là trong cuộc đọ sức 12 ngày đêm cuối 1972 chống cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B52 của Mỹ, không quân Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Đối với MIG bay đêm, phương tiện duy nhất để tìm thấy kẻ thù là ra-đa. Thế nhưng mỗi chiếc B52 Mỹ có tới hàng chục máy gây nhiễu tự động, với hệ thống tần số choán hết dãy tần số của các đài ra-đa dẫn đường cũng như ra-đa ngắm bắn của phi công Việt Nam. Nhưng bằng những sáng tạo, cố gắng phi thường, không quân Việt Nam đã vượt qua tất cả, để cuối cùng MIG vẫn tồn tại, vẫn cất cánh chiến đấu và lập công xuất sắc. Có được kết quả như vậy chính là do bộ đội phòng không-không quân biết tìm ra những cách đánh phù hợp, độc đáo. Trước kia, do chưa có điều kiện tiếp xúc với B52 nhiều, chưa hiểu được thủ đoạn chiến thuật của chúng, nên không quân Việt Nam chưa có cách đánh phù hợp. Nhưng về sau, bộ đội không quân Việt Nam đã tìm hiểu nắm chắc quy luật hoạt động của không quân Mỹ, nghiên cứu khả năng khống chế của ra-đa và tên lửa của Mỹ từ trên các chiến hạm lởn vởn ở ngoài biển Đông. Phương án đánh B52 đã được vạch ra. Sau khi cất cánh, họ đã bay thật thấp để tránh ra-đa từ các tàu chiến Mỹ phát hiện. Còn các trạm ra-đa của bộ đội phòng không Việt Nam đã thực hiện những quy ước về mật hiệu cất-hạ cánh và dẫn đường rất chặt chẽ, nghi binh rất khôn khéo. Ngoài ra, phi công Việt Nam còn có thành tích đáng khâm phục nữa là bằng những cánh bay MIG ít ỏi, họ đã dũng mãnh lao vào đêm tối, xông thẳng vào đội hình dày đặc của máy bay tiêm kích Mỹ, buộc phi công Mỹ phải quay ra đối phó, đội hình bay rối loạn, khiến cho cường độ nhiễu giảm đi, để lộ ra hình thù B52 trên màn hiện sóng, tạo điều kiện cho các trắc thủ tên lửa nhìn thấy đối tượng chính mà tiêu diệt...
    Một hãng tin phương Tây đã nhận xét: ?o... Những cuộc tấn công tàn bạo của Mỹ chỉ khích lệ ông Hồ Chí Minh xây dựng một hệ thống phòng không tuyệt vời gồm máy bay tiêm kích phản lực, tên lửa đất đối không và pháo phòng không. Lúc Mỹ khởi đầu ném bom Bắc Việt Nam không có máy bay phản lực, không có tên lửa, không có tới 20 giàn ra-đa, chỉ có một số pháo phòng không lỗi thời. Nhưng đến 1967, máy bay Mỹ đã phải bay qua lưới lửa phòng không kinh khủng hơn nhiều so với lưới lửa gặp phải ở Đức năm 1944. Đó là một hệ thống phòng không nhân dân hiện đại, rộng khắp và hiệu quả, nặng cân nhất, ghê gớm nhất mà không quân Mỹ vấp phải trong lịch sử. Các chuyên gia ước tính mật độ pháo phòng không có uy lực trên bầu trời Bắc Việt Nam lớn hơn trên bầu trời châu Âu trong chiến tranh thế giới lần thứ hai đã làm đau đầu không quân Mỹ. Và lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ tiến hành cuộc tấn công chiến lược bằng B52 vào Thủ đô của Việt Nam, nhưng đã thất bại thảm hại và trở thành nỗi kinh hoàng đối với không quân Mỹ...
    -----------------------------------
    *Theo tạp chí Binh khí hiện đại

    Hà Quảng (Trung Quốc)*

    http://www.quandoinhandan.org.vn/sknc/sk_phai.php?id=1496
    kqndvn: bài báo nhầm tên lửa Sơrai chống rađa phòng không với tên lửa Bunpớt chống mục tiêu kiên cố.
  6. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Kỷ niệm 61 năm Ngày thành lập quân đội nhân dân (22.12.1944 - 22.12.2005):
    Thăm nơi sản xuất "rồng lửa"
    Phân đội 45 đoàn tên lửa Quang Trung làm nhiệm vụ kiểm tra, lắp ráp, nạp nhiên liệu cho tên lửa và cấp đạn tên lửa cho các đơn vị chiến đấu trong đoàn tên lửa Quang Trung thuộc B67.

    Nạp nhiên liệu
    Đến phân đội 45 trong những ngày này, không ai không cảm thấy ngỡ ngàng thích thú. Cả đơn vị ngập tràn một màu xanh tươi mát. Những con đường nội bộ thẳng tắp, được rải sỏi sạch sẽ, những bồn hoa cây kiểng đua nhau khoe sắc. Tiếp xúc với chúng tôi, đại úy Lê Mỹ Hòa, phân đội phó chính trị cho biết: Để có được cơ ngơi như hôm nay, cán bộ chiến sĩ trong đơn vị đã đầu tư hàng ngàn ngày công, hàng triệu đồng từ quỹ tăng gia để củng cố, sửa sang làm đẹp doanh trại. Thiếu tá Khắc Ngọc Thủy, Phân đội phó quân sự đưa chúng tôi ra khu huấn luyện. Anh giới thiệu quy trình sản xuất đạn tên lửa khép kín có 9 bãi. Nào là bãi đưa đạn từ trong thùng ra, bãi kiểm tra đánh giá chất lượng đạn, bãi nạp khí nén... Tại bãi lắp đầu đạn và cánh ổn định, bãi trưởng Hoàng Đình Hải đang cùng 5 chiến sĩ thoăn thoắt thực hành các động tác lắp các cánh tên lửa, chiếc cần cẩu đưa mũi tên lửa ra và nhân tên lửa được đưa vào. Tại bãi nạp nhiên liệu chất G, 4 chiến sĩ mặc quần áo phòng độc từ đầu đến chân, chẳng nhận rõ ai vào ai. Họ ra mệnh lệnh cho nhau bằng cách đập tay. Bằng những ký hiệu ấy, các chàng trai đưa vòi khí nạp vào thân tên lửa và làm các động tác tra nạp khí G. Thượng tá Đỗ Quang Thống, Bí thư Đảng ủy đoàn tên lửa Quang Trung nói:
    - Anh em phân đội 45 biết phát huy truyền thống của thế hệ cha anh đi trước, thường xuyên bảo đảm hệ số tên lửa tốt cho đoàn. Năm 2004 vừa qua, trong hội thao dây truyền sản xuất đạn do Quân chủng tổ chức tại Đà Nẵng, phân đội đã tham gia thi và xếp thứ nhì. Tám năm qua, phân đội 45 liên tục đạt đơn vị Quyết thắng...
    Tôi đã được gặp những gương điển hình của phân đội. Trung tá Nguyễn Vĩnh Xuân, phân đội trưởng là cán bộ dày dạn kinh nghiệm trong chuyên môn và trong xây dựng đơn vị. Đại úy chuyên nghiệp Phan Văn Đại tận tụy với công việc, có nhiều sáng kiến cải tiến trong sửa chữa khôi phục khí tài như thiết kế hệ thống thông thoại nội bộ trên xe với mặt đất, làm các mô hình học cụ huấn luyện chuyển loại binh chủng. Thiếu tá chuyên nghiệp Hoàng Kim Trung gia đình hoàn cảnh khó khăn, nhưng gắn bó với đơn vị, gương mẫu trong công việc. Đại úy Nguyễn Đức Quang, trợ lý kỹ thuật thường xuyên bảo đảm cơ sở vật chất cho đơn vị...
    Đóng quân trên đất Bình Dương, cán bộ chiến sĩ phân đội 45 đã có mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền và nhân dân địa phương. Đơn vị đã tổ chức kết nghĩa với 2 trường và Đoàn xã An Bình huyện Dĩ An. Thường xuyên tổ chức giao lưu văn hóa, văn nghệ và có những hoạt động thiết thực giúp đỡ nhân dân địa phương.
    Chia tay phân đội 45, tôi mang theo về niềm tin vào những người lính sản xuất ra những con "rồng lửa", góp phần bảo vệ bầu trời phương nam Tổ quốc.
    Đoàn Hoài Trung
    http://www.laodong.com.vn/pls/bld/display$.htnoidung(90,146057)
  7. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tạp chí Sự kiện và Nhân chứng.
    Ngày tháng năm xưa


    Chiếc B52 cuối cùng rơi trên thành phố cảng

    Ngày 19 tháng 12 năm 2005


    Trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? đánh thắng cuộc tập kích chiến lược đường không chủ yếu bằng B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng cuối tháng 12-1972 là một chiến công vẻ vang của lực lượng Phòng không-Không quân Việt Nam. Trong thành công chung đó, có đóng góp của tiểu đoàn 81, trung đoàn tên lửa 238, bảo vệ thành phố cảng Hải Phòng, với thành tích bắn rơi 2 máy bay B52 Mỹ, một chiếc ngày 16-4 và một chiếc ngày 26-12. Cựu chiến binh Trần Đình Ngư-người đã tham gia trận đánh hạ chiếc B52 cuối cùng ở Hải Phòng kể lại:
    Sau nhiều đêm đánh vào Hà Nội bị thất bại, nhân lễ Nô-en (25-12-1972), Ních-xơn ra lệnh tạm ngừng cuộc tập kích để củng cố lực lượng và lấy lại tinh thần cho bọn giặc lái. Chúng tôi được nghe phổ biến nhận định của cấp trên: trong những ngày tới địch sẽ đánh ác liệt hơn, thủ đoạn phức tạp hơn, các đơn vị nhân dịp địch ngừng đánh phá tranh thủ chuẩn bị, dồn mọi nỗ lực cao nhất để đánh đòn quyết định. Theo lệnh của Quân chủng, 2 tiểu đoàn 71, 72 của trung đoàn 368 được lệnh điều động lên bảo vệ hướng đông bắc Hà Nội. Ở lại Hải Phòng chỉ còn 6 tiểu đoàn của trung đoàn 238 là lực lượng nòng cốt, trong đó có tiểu đoàn 81 của chúng tôi đóng tại trận địa An Hồng.
    Sau 36 giờ tạm ngừng hoạt động, ngày 26-12 đế quốc Mỹ huy động 105 lần chiếc B52 vào đánh Hà Nội, Hải Phòng và Thái Nguyên. Trong đó, ở Hải Phòng, từ 12 giờ trưa, máy bay chiến thuật của địch bắt đầu đánh phá trở lại. Chúng sử dụng 24 lần chiếc B52 đánh vào cảng mới, sở dầu, xưởng đóng tàu 3 và nhà máy xi-măng. Nếm trải thất bại ở Hà Nội, địch đã nhận ra đối thủ chính của chúng là tên lửa. Do đó, trước khi đội hình B52 vào, chúng sử dụng máy bay A6 chế áp các trận địa tên lửa, phóng tên lửa tự dẫn chế áp mạnh các đài ra-đa tên lửa của ta, đồng thời tăng cường nhiễu các loại.
    Sau chiến công hạ chiếc B52 đầu tiên của tiểu đoàn ngày 16-4 tại Minh Kha, chúng tôi đã bước đầu phát hiện được triệu chứng hoạt động của B52, phân biệt tín hiệu và nhiễu của B52 với các loại nhiễu khác. Tuy chỉ là những khám phá ban đầu nhưng đó là kinh nghiệm rất quý giá, là cơ sở xây dựng lòng tin đánh thắng.
    Có lệnh báo động từ chiều khi đơn vị nhận được thông báo có B52 từ hướng hạm đội 7, Thái Bình Dương vào. Chúng tôi đã sẵn sàng chờ đánh địch với khí thế chiến thắng và chủ động. Kíp trắc thủ hôm đó gồm có Nguyễn Văn Thanh (trắc thủ góc tà), Trần Minh Thanh (trắc thủ cự ly) và Nguyễn Mạnh Tấn (trắc thủ phương vị), dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Khiển và sĩ quan điều khiển Kiều Thanh Tịnh? Từ 20 giờ, B52 của địch đã bắn phá đông nam Hà Nội. Đến 22 giờ, trên máy thu nhiễu, chúng tôi mới bắt được một tốp máy bay đầu tiên, bay theo hướng đông bắc từ biển Quảng Ninh, vượt qua đỉnh núi Yên Tử vào. Hai tiểu đoàn bạn phóng liên tiếp 2 quả đạn nhưng không trúng. Tiểu đoàn chúng tôi ở trận địa An Hồng bị máy bay chiến thuật hải quân của địch gây nhiễu, phóng sơ-rai liên tục. 20 phút sau, một tốp khác xuất hiện, trắc thủ Nguyễn Mạnh Tấn phát hiện thấy tín hiệu mục tiêu xuất hiện, là dải nhiễu đậm quét ngang trên màn hình, nhưng trắc thủ cự ly Trần Minh Thanh không kẹp được nhân mục tiêu, nên mục tiêu cứ trượt dài. Không khí thật căng thẳng. Đồng chí Khiển quát to: ?oĐồng chí Ngư lên thay!?. Tôi kẹp được nhân mục tiêu ở khoảng cách 30-32km. Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Khiển hạ lệnh phóng tên lửa. Hai quả tên lửa được phóng lên. Hai tín hiệu đạn hiện rõ lên trên màn hình và nổ tốt. Tín hiệu nhiễu B52 biến mất. Lúc đó là 22 giờ 36 phút.
    Chúng tôi không được tận mắt chứng kiến hình ảnh chiếc B52 bị bắn trúng do chúng thường bay ở độ cao 9-10km, trong đêm, mắt thường không thể nhìn thấy được. Nhưng sau đó cấp trên đã công nhận tiểu đoàn 81 bắn được một chiếc B52, máy bay rơi xuống biển.
    Thắng lợi của trận đánh chứng tỏ bản lĩnh chiến đấu chung của cả đơn vị tên lửa, trong đó có sự nhanh nhạy, kịp thời của người chỉ huy, của sĩ quan điều khiển và trình độ bám sát điêu luyện của kíp chiến đấu. Đó cũng là trận đánh cuối cùng của bộ đội tên lửa Hải Phòng kết thúc chiến dịch phòng không tháng 12-1972.


    Vân Hương (ghi

    http://www.quandoinhandan.org.vn/sknc/sk_phai.php?id=1494
  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Chưa có chỗ post. Tớ post tạm vào đây.
    (ANH HÙNG PHẠM VĂN CÁN)

    Anh hùng Phạm Văn Cán sinh năm 1952, dân tộc Kinh, quê ở xã Minh Tân, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, trung sĩ, chiến sĩ lái xe dắt, đại đội 11, Đoàn 26, Phòng kỹ thuật Bộ Tư lệnh Thiết giáp Miền.
    Tháng 9 năm 1972, Phạm Văn Cán cùng đơn vị hành quân 2.000km vào chiến trường Đông Nam Bộ, anh không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, vượt qua bom đạn ác liệt do máy bay địch bắn phá, cứu kéo được 73 lượt chiếc xe tăng, xe thiếp giáp sa lầy, đổ hoặc chết máy trên dọc đường. Từ tháng 5 năm 1973 đến tháng 4 năm 1975, Phạm Văn Cán làm nhiệm vụ dắt xe tăng, xe thiết giáp trong chiến đấu. Anh đã tham gia 3 chiến dịch, cứu kéo được 40 chiếc xe về tới nơi an toàn. Trong chiến dịch Bến Cát từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1974, trời mưa nhiều, đường lầy lội, địch bắn phá ác liệt, Phạm Văn Cán vẫn bất chấp gian nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Có lần, giữa hỏa lực dày đặc của địch, anh vẫn bình tĩnh lái xe vào sát căn cứ địch (100m), cứu kéo được 1 xe tăng ra ngoài. Ca chiến dịch, anh cứu kéo được 18 chiếc xe tăng về sửa chữa, khôi phục lại, tiếp tục chiến đấu. Trận đánh quận lỵ Chơn Thành (Bình Long) tháng 4 năm 1975, có 2 xe tăng của ta bị hỏng nằm sát trận địa địch, nguy cơ sẽ bị chúng cướp xe hoặc phá hủy, Phạm Văn Cán dũng cảm mở nắp xe, nhô ra ngoài vừa lái vừa quan sát tránh bãi mìn, thà hy sinh chứ không để xe và đồng đội bị thương, anh đã cứu được 2 xe tăng về an toàn, cổ vũ cho đồng đội xông lên tiêu diệt địch.
    Đồng chí đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, được tặng 4 bằng khen và giấy khen. Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Phạm Văn Cán được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


    NGƯỜI CHIẾN SĨ CỨU HỘ TĂNG - THIẾT GIÁP
    MINH YÊN
    Từ điển Từ và ngữ tiếng Việt (Nguyễn Lân) định nghĩa cứu: làm thoát khỏi tai nạn; hộ: giúp đỡ, che chở, cứu hộ là giúp thoát khỏi tai nạn. Cảng Sài Gòn có một, hai tàu cứu hộ cho cả vùng biển phía Nam rộng lớn, từng lái dắt một số tàu biển dân sự sắp đắm về bến an toàn. Nó cũng lập thành tích kéo tàu quân sự ta bị hỏng trong cuộc xung đột ở quần đảo Hoàng Sa (vào đầu những năm 80) về cảng sửa chữa. Song tàu cứu hộ chủ yếu đối mặt sóng to gió lớn, dòng biển chảy xiết... là những khó khăn nguy hiểm do thiên nhiên gây ra.
    Còn lính cứu hộ tăng thiết giáp phải trần thân xông pha giúp xe đồng đội không còn hoạt động được ra khỏi chiến trường tơi bời bom rơi, đạn nổ. Năm 1972, lần đầu tiên xe tăng-thiết giáp ta xung trận ở chiến trường An Lộc (Bình Long). Trước kia địch quen thói lấy sắt thép đè người, năm ấy, ?oquả đấm thép? lợi hại này của ta tung ra gây bao kinh hoàng cho quân đội Sài Gòn. Song có xe ta bị bom pháo hư hỏng bỏ lại trận địa, địch trục kéo về triển lãm tuyên truyền rùm beng thắng lợi của ?oquân đội quốc gia?. Sau đó hơn nửa năm, một xe đặc chủng chuyên cứu hộ xe tăng-thiết giáp hư hỏng trong chiến đấu được phái từ miền Bắc vô. Đó là chiếc tăng T.54 không tháp pháo; chỉ gắn một khẩu trọng liên 12,8 ly để tự vệ, nhưng có thêm thiết bị kích, kéo đặt trên thùng thép (gắn ở vị trí tháp pháo): một cần cẩu xếp gọn, hai cuộn dây cáp dài 150 mét lắp vào cuộn tời có sức kéo 120 tấn; phía sau xe lắp lưỡi ben nâng hạ bằng thủy lực để neo xe khi cần kéo xe khác sa lầy xuống hố... Xe đặc chủng lập chiến công bằng việc cứu kéo đưa xe đồng đội hỏng hóc ra khỏi trận địa rồi dắt về hậu cứ sửa chữa.
    Tháng 5 năm 1971, học xong năm thứ ba khoa Chế tạo máy trường Đại học Bách khoa Hà Nội loại giỏi, Phạm Văn Cán được tuyển vào bộ đội tăng-thiết giáp ở tuổi 21. Có sức khỏe A.1, trình độ văn hóa cao, anh học lái và nắm vững kết cấu máy móc xe tăng khá nhanh tại trường huấn luyện binh chủng đặt ở huyện trung du Tam Dương (Vĩnh Phúc) chân dãy Tam Đảo. Xong khóa đào tạo mấy tháng, đáng lẽ anh đi B ngay, nếu vậy đã có dịp cùng đồng đội tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ xuân 1972 tung hoành trên chiến trường An Lộc (tỉnh Bình Long cũ). Nhưng nước bạn viện trợ hai xe đặc chủng, lãnh đạo binh chủng cử anh và Mạnh ở lại học sử dụng thành thạo mọi thiết bị kích kéo của loại xe này, chuẩn bị phục vụ bộ đội tăng thiết giáp ra quân qui mô lớn ở tiền phương chống Mỹ. Tháng 3 năm 1972, anh cùng đồng đội nhận xe tại Bằng Tường, rồi theo đường bộ vào bảo vệ Khu 4. Đoàn tăng thiết giáp trong đó có hai xe cứu hộ, mới đến khu vực tập kết bãi Nai (Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình), đã bị máy bay địch đánh tới tấp, các chiến sĩ tăng thiết giáp râm ran nghi vấn: gián điệp chui vào hàng ngũ ta? Tâm tư một số anh em trĩu nặng: liệu xe mình có vào đến đích an toàn?
    Tháng 9 năm 1972, xuất phát từ Nam Đàn (Nghệ An), xe Cán được lệnh đi B.3. Đoàn tăng thiết giáp 25A rùng rùng nghiến xích mặt đường đầy khí thế nhưng thận trọng, tiến về phương Nam. Cánh lính trẻ sung sức, tinh thần hăng hái phấn khởi ?ođường ra trận mùa này đẹp lắm?, ?ođời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi?. Các anh vào Quảng Bình rồi lật cánh sang đường 20 ?" Trường Sơn Tây, nhiều người lần đầu đi qua những địa danh hồi đó báo, đài thường nhắc tới: At tô pơ, Hạ Lào... Xe đặc chủng do Mạnh lái đáng lẽ đi B.2 nhưng chạy tới Hạ Lào thì hỏng nặng, phải nằm chờ thiết bị mang vào sửa. Xe Cán vì vậy đi cuối đội hình, xưa gọi là đi đoạn hậu vào thẳng B.2, sẵn sàng sửa, kích, kéo các voi thép nặng hàng chục tấn hỏng máy, sa hố bom... Xe ta không hành quân như phim ảnh chiếu. Mỗi đại đội chừng 10 xe, mỗi xe đi cách nhau cả ki-lô-mét, chứ không nối đuôi nhau lăn xích thành thế đội dài dằng dặc, bụi đường mù mịt bốc cao như xe tăng Hồng quân Liên Xô năm 1943 ra trận vòng cung Kuốcxcơ.
    Để giữ bí mật, tăng thiết giáp ta chỉ chạy ban đêm. Máy bay Mỹ khống chế bầu trời tương đối chặt nên chiến sĩ lái lâu lâu mới bật đèn rùa, còn chủ yếu chạy mò. Ngồi trong xe, Cán thường thò đầu ra ngoài, hoặc căng mắt nhìn đường qua kính ngắm với góc nhìn rất hẹp. Vì vậy, thỉnh thoảng xe húc vào một gốc cây to cỡ hàng ôm, mặt anh đập vào cửa xe, môi sưng vều chảy máu, răng cửa lung lay may mà chưa gãy, di chứng còn lại đến tận bây giờ.
    Nếu có máy bay vận tải hạng nặng chở nổi xe tăng thiết giáp như của Mỹ, binh chủng cơ giới hiện đại này sẽ cơ động rất nhanh. Nhưng chúng ta đành phải bằng lòng với cảnh túc tắc nhích từng vòng xích ra phía trước. Các chiến sĩ tăng thiết giáp được hưởng tiêu chuẩn cao, đến mỗi trạm giao liên trên đường Trường Sơn các anh được cấp phát gạo, thực phẩm, xăng dầu theo đúng chế độ. Không phải mang vác cực nhọc, nhưng các anh liên tục chịu tiếng ồn đinh tai nhức óc, chịu cái nóng như nung, xe chạy sau hứng bụi mù mịt khi qua đất bạn Lào vào mùa khô trên đường Trường Sơn Tây. Đến trạm nghỉ, các anh mới hưởng làn gió thổi trong lành và sự tĩnh lặng đáng quý giúp hồi sức. Lúc còn ở miền Bắc, anh em hàng ngày nghe tin qua đài, đọc nhiều loại báo nên nắm vững thời sự trong nước và quốc tế. Nhưng từ khi đặt chân tới đất Quảng Bình, các anh đói tin thật sự. Lâu lâu đồng chí chính trị viên tiểu đoàn vai đeo chiếc radio bán dẫn Lido lắp 6 pin đại to đùng nặng trĩu ghé đến, các anh mới tranh thủ nghe vài mẩu tin thời sự. Đói tin khổ không thua đói gạo là bao!
    Địch đánh hơi đoàn xe, máy bay chúng săn lùng suốt dọc đường dài. Nhiều lần, xe ta nhờ ánh pháo sáng mà đi, song máy bay C.130 trang bị máy dò hồng ngoại thay phiên nhau đánh dai dẳng cả đêm. Thằng C.130 bắn đại bác 20 và 40mm dai như bò đái! Nhiều xe ô tô bị chúng ?oxin thùng? cháy đen, cong queo đành gạt qua bên đường hoặc ủi xuống vực, giải phóng đường cho các đơn vị khác đi tiếp. Phát hiện máy bay địch tới qua mấy phát súng báo hiệu của anh chị em bảo vệ đường, xe tăng thiết giáp ta tạm rẽ vào đường tránh mang cá, mặt khác đậy nắp thép lại thì ngồi trong vô tư mặc đạn nổ lốp bốp trên nóc. Đoàn 25A bị đánh dữ dội lúc vượt ngầm Bạc, Xêxan, xe Cán may chỉ bị tróc sơn nham nhở. Anh đã tận mắt chứng kiến một số đồng đội trong đoàn xe hy sinh trên đường hành quân do không đóng kịp nắp cửa. Những lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi chút đỉnh, mấy anh em cùng xe bù khú chuyện trò tâm sự, không mấy ai không nhắc đến cha mẹ, anh chị em, quê hương làng xóm thân yêu, những kỷ niệm đời học sinh tươi rói với nỗi nhớ da diết cồn cào. Mắc võng nằm bên nhau, có người nêu câu hỏi:
    ?" Nếu bây giờ cho mày đi bộ quay ngược ra Bắc nhưng phải cõng hai bánh xích xe (nặng 36kg), dám đi không?
    ?" Đi liền!...
    Nhớ nhà và những người thân quá thì anh em nói thế thôi, chớ đơn vị không ai ?oB quay?. Cuối tháng 12 năm 1972, đoàn xe vào tới Kràché (Cam-pu-chia) thì Cán nghe tin máy bay B.52 đánh thủ đô Hà Nội và một số tỉnh thành khác ở miền Bắc. Anh được biết hiệp định Pa-ri lập lại hòa bình ở Việt Nam (27 tháng 1 năm 1973) ký kết, lính Mỹ và chư hầu lần lượt rút hết khi xe về tới km 0 gần biên giới Đông Nam Bộ ?" Cam-pu-chia.
    Suốt chặng hành quân dài 5 tháng, anh cứu kéo, sửa chữa được nhiều xe hỏng hóc. Vì vậy anh được bầu chiến sĩ thi đua, dự hội nghị thi đua binh chủng ở Lộc Ninh. Sau đó các đơn vị tăng thiết giáp B.2... bước vào đợt học tập chính trị, mặt khác tu sửa xe thật kỹ chuẩn bị bước vào đối mặt thật sự với kẻ địch.
    Ở Cam-pu-chia, Lon-non đảo chính Xi-ha-núc từ vài năm trước. Lương thực, thực phẩm, xăng dầu... hoàn toàn do các đoàn hậu cần đảm nhiệm mua từ các cửa khẩu trong nước. Địch phong tỏa chặt, gạo và nhu yếu phẩm mua khó khăn, hậu phương lớn quá xa vì vậy bộ đội ăn uống cực hơn trước suốt thời gian dài. Tiêu chuẩn gạo rút xuống, trong khẩu phần từng bữa thì khoai mì, đậu xanh, đậu phộng... chiếm tỷ lệ đáng kể, gạo độn thêm một ít gọi là. Ăn nhiều đậu phộng, người yếu dạ bị sình bụng rất khó chịu, quân y tốn thêm mớ thuốc. Anh em tranh thủ đi kiếm thêm củ mài, củ chụp cho no bụng, chỉ khi đi chiến đấu, anh em mới được ăn 100% gạo! Lúc đó, số ở lại căn cứ phải rút gạo nữa (vì hậu cần phát định lượng cho đơn vị từng đó ký, anh đi chiến đấu ăn đủ 100% thì tỷ lệ gạo của những ai ở lại sẽ giảm xuống).
    Trên chiến trường B.2, Mỹ, Thiệu ký hiệp định hòa bình Pa-ri chưa ráo mực đã lật lọng. Lính ngụy Sài Gòn rất hung hăng, liên tục lấn chiếm nhiều nơi do chiến trường xen kẽ theo hình thái da beo.
    Cuối năm 1973, chiến dịch Mặt trận 75 khai thông hành lang chiến lược đường 14 ở tỉnh Quảng Đức (Nam Đắc Lắc). Mở được đoạn này, ta nối thông đường Trường Sơn Đông vào tới Lộc Ninh.
    Đêm 2 tháng 11 năm 1973, xe đặc chủng theo tiểu đoàn 21 tăng thiết giáp B.2 từ hậu cứ ở Bù Đốp cắt rừng theo đường do công binh mở, ngược hướng Bắc phối thuộc trung đoàn bộ binh cùng một đơn vị đặc công của trung đoàn 429 đánh yếu khu Bù Bông bảo vệ vòng ngoài chi khu quân sự Kiến Đức và sân bay Nhân Cơ (thuộc tỉnh Đắc Lắc). Xe anh chạy hai đêm, 3 giờ sáng ngày 4 tháng 11 năm 1973 tập kết ở cửa mở gần bìa rừng thông chờ lệnh ứng cứu. Trời tối thui, đêm cao nguyên Mnông đầu mùa khô lạnh tê tái. Chiếc áo len cấp phát mang theo từ miền Bắc mặc chẳng thấm vào đâu.

  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Bù Bông là vị trí phòng thủ vòng ngoài rất rắn, do lính ngụy người Mnông giữ. Địa hình toàn vùng có dạng đồi bát úp sườn khá dốc, rừng già um tùm nhưng một số đỉnh đã bị phá quang (bằng máy ủi, bằng bom pháo, bằng hóa chất diệt cây cối...). Một trận địa pháo ở ngọn đồi cao nhất khống chế phạm vi rộng lớn. 4 giờ sáng, bộ đội đặc công nổ súng mở màn trận đánh. Tiểu đoàn tăng thiết giáp triển khai thành hai mũi đánh vu hồi căn cứ. Lần đầu tiên Cán chính thức ra trận. Pháo ta bắn cấp tập dập trận địa địch. Đạn xé gió qua đầu Cán, nổ chát chúa đằng xa. sau ít phút địch hồi tỉnh, pháo của chúng từ đồi pháo binh chúc nòng bắn xuống. Chớp đạn địch nổ nhoáng nhoàng liên tục trước mặt xe đặc chủng một quãng. Anh để ga nhỏ, óc vẫn nhẩm để nhớ mật khẩu quy ước: 01 triển khai. 02 cửa mở..., 07 xuất kích... Tuy đã học trong sa bàn ở căn cứ, nhưng trời tối như bưng mắt, lại không thông thạo địa hình nơi này nên anh chỉ biết xe đang ém ở vị trí A.3. Tới 6 giờ sáng, trời sương lờ mờ, anh nghe tiểu đoàn phó Khuê lệnh qua điện đài: cho xe đặc chủng chạy theo vết xích. Đến một chỗ thì mất dấu, quay ngang xe, qua kính ngắm anh thấy chiếc K.63 cháy cách đó không xa. Cây cối bít bùng chắn mất tầm nhìn cộng với khói mù mịt; xe anh tiến lại gần trong lúc pháo địch vẫn nã không ngớt. Cán bảo pháo thủ trọng liên:
    ?" Mày bắn đi chứ!
    ?" Không thấy gì cả, bắn sao được...
    Chiếc thiết giáp K.63 hành tiến bị hở sườn trúng đạn chống tăng của địch, thủng toác một lỗ lớn, bên trong đang cháy. Khói đen cuồn cuộn bốc lên, mấy chiến sĩ của xe đều hy sinh. Xe đặc chủng vòng lại, một thợ sửa chữa nhảy ra, thò tay qua cửa lái trả lại số 0 ở cần lái chiếc K.63 rồi móc cáp vào. Cán rồ ga, kéo xe hỏng ra bìa rừng.
    Sở chỉ huy lệnh cho xe Cán tiếp tục tiến sâu vào trận địa cứu một xe khác. Xe này trúng đạn phốtpho, không cháy nhưng không ai sống sót. Xe đặc chủng lợi dụng địa hình, nhanh chóng móc cáp kéo xe này ra ven rừng.
    Trời sáng rõ, pháo địch càng bắn dữ, khói bụi mịt mù. Máy bay A.37 tới yểm trợ mới đầu rà sát, bắn tên lửa và đại bác xuống trận địa ta. Súng phòng không ta ở rải rác bắn lên rất mạnh. Khẩu 12,8 ly ở xe Cán cũng góp phần lên tiếng, xua chúng bay tít lên cao.
    Đến gần trưa, anh em bộ binh giải quyết được phần lớn căn cứ Bù Bông, được lệnh tạm ngưng, giạt vào rừng chờ đến tối đánh tiếp. Tiếng súng thưa dần, Cán không thấy xe tăng thiết giáp ta đâu, vẫn cố chạy vào tìm xe hỏng. Một lính thợ sửa chữa trên xe phát hiện có tiếng người lao xao rì rầm ở rừng cây ven suối, hóa ra lính ta đang nấu cơm. Cán xuống xe, hỏi thì được biết đơn vị xe tăng tập kết cách đó 1 ki-lô-mét. Khi cánh bộ binh cho biết đã có lệnh tạm ngưng chiến đấu, Cán tức quá, văng ra một câu:
    ?" Tạm ngưng mà không nói với bố! Máy bay nó bắn chết mẹ bây giờ!...
    Máy bộ đàm trong xe phát sóng liên tục, lời của anh được máy thu vào băng ở sở chỉ huy. Câu văng tục là vạ miệng, sau này bị quy là ?odám chửi cấp trên? (một cán bộ làm chiến lệ ở sở chỉ huy kể lại).
    Đêm 5 tháng 11 bộ đội ta đánh tiếp, xóa sổ căn cứ Bù Bông. Máy bay trực thăng hạng nặng bốc hết số pháo địch trên đồi cao đi nơi khác lúc nào không biết, đặc công diệt hụt bọn này. Nhờ trinh sát dẫn đường, xe đặc chủng mất ba đêm liền mới kéo hết năm xe ta bị hỏng (bốn chiếc K.63, một chiếc T.54) ra nơi an toàn. Cán và đồng đội còn thu bảy xe M.113 của địch. Khi rút chạy bọn lính lao một số xe xuống bưng lầy, kéo lên rất vất vả. Theo yêu cầu của công binh, xe Cán kéo về hai máy ủi cỡ lớn (sau này tham gia phục vụ mở đường cho xe cơ giới ta). Anh em công binh bắn được một con dê của dân chạy lạc ở đồi pháo binh, cho vào gùi chất lên xe ủi. Vào rừng, anh em nấu một song to, chia một phần thịt cho xe Cán. Sau những ngày vất vả, bữa thịt tươi ngon đó giúp anh em tổ xe đặc chủng lấy lại phần nào sức khỏe. Nhưng bữa thịt đó gây ra vạ miệng thứ nhì. Kiểm điểm bình xét thành tích sau chiến dịch, Cán được đề nghị cấp trên thưởng Huân chương Chiến công giải phóng. Không biết do đâu mà chính ủy bộ đội tăng thiết giáp Tám Hải biết được vụ thịt dê. Ông cho là anh em phạm kỷ luật chiến trường, ra lệnh ?ocắt? từ huân chương đến danh hiệu thi đua ?ođảng viên 4 tốt?, ?ođoàn viên 4 tốt?... Sau này, Cán gặp trực tiếp thắc mắc, chính ủy hỏi:
    ?" Có ăn không?
    ?" Tôi không bắn, trên cắt thì không hợp lý!
    ?" Có ăn không? ?" ông hỏi gặng lần nữa.
    ?" Có!
    ?" Anh nào ăn thì kỷ luật hết!
    Xe đặc chủng ở lại Bù Bông đến nửa tháng mới giải quyết hết việc cấp trên giao.
    Lính địch là dân địa phương thông thạo địa hình, tổ chức phản kích lấn chiếm lai rai vùng ngã ba Lâm Bí. Bộ binh ta đánh bật chúng khỏi địa bàn để giữ hành lang đường chiến lược số 14, có xe tăng thiết giáp phối thuộc, xe Cán bám theo sẵn sàng ứng cứu. Hai bên ?okéo cưa? dằng dai một thời gian ở vùng ?oda beo? này cho tới sát biên giới Cam-pu-chia.
    Đầu tháng 12 năm 1972 Tiểu đoàn 21 và đại đội 6 (của Tiểu đoàn 20) thiết giáp B.2 phối thuộc trung đoàn bộ binh đánh sân bay Nhân Cơ gần thị xã Gia Nghĩa (tỉnh lỵ tỉnh Quảng Đức).
    7 giờ tối ngày 4 tháng 12 từ khu tập kết Bù Bông khá xa, xe đặc chủng theo công binh dẫn đường, xuyên cánh rừng le tiến vào cửa mở. Le mọc dày đặc xòa ra cà sàn sạt vào thước ngắm khẩu trọng liên 12.8 ly làm trầy tróc lớp mạ.
    Tăng thiết giáp ta tiến công theo hai mũi. Đại đội 6 có khoảng 10 xe đánh từ phía đông tức là hướng Đà Lạt tới. Anh Quận, đại đội trưởng đại đội 6, sau trận đánh kể lại: khi xe tăng ta tới, nhiều vợ con lính Sài Gòn ra ven đường, khoát tay rối rít vẻ nôn nóng chờ đón, tưởng đó là quân tiếp viện của chúng. Một tên nói to:
    ?" Cộng sản vào, nó giết hết bà con tôi rồi! Các ông đi nhanh lên, giết hết tụi nó đi!
    Anh bắn chết tên này, số vợ con thân nhân lính ù té chạy tứ tán.
    Xe đặc chủng đi với mũi Tiểu đoàn 21 tăng thiết giáp (do anh Khuê chỉ huy). Lúc bộ đội đặc công nổ súng, địch bắn pháo sáng, cả bầu trời khu vực trắng lóa, mọi vật nhìn rõ như ban ngày. Vừa từ rừng ra, xe Cán đụng bãi be toàn các khúc gỗ tròn chờ vận chuyển về Sài Gòn chế biến. Cán nghe tiếng nổ lụp bụp trên trời, chớp chớp xanh lét. Tai nghe của máy bộ đàm vang lên lời nhắc nhở từ sở chỉ huy:
    ?" Dùng kính để quan sát, tuyệt đối không thò đầu ra, địch đang bắn pháo chụp! (lần đầu tiên Cán mới biết pháo chụp).
    Qua kính mắt cua có góc nhìn rất hẹp, anh thấy xác địch nằm rải rác. Mặt đất ở đây tương đối bằng phẳng, chè mọc lúp xúp chưa đến thắt lưng. Sở chỉ huy ra lệnh cứu một xe cháy. Anh điện hỏi:
    ?" Xe ta đi hướng nào?
    ?" Xe ta đi hai bên đường, không sợ mìn...
    Qua khu phòng thủ, xe đặc chủng tiến vào tung thâm. Một số phát tên lửa vác vai chống tăng M.72 bay ra thành vệt vàng xanh. Địch cố chống cự, quân vào ta vì đặc công nổ súng thì tăng thiết giáp xông vào ngay, bộ binh chưa kịp thời có mặt hợp đồng. Cán bảo pháo thủ:
    ?" Bắn đi!
    ?" Không nhìn thấy gì!
    ?" Cứ bắn đi! Bắn đại đi! Cốt uy hiếp tinh thần chúng nó!...
    Từ trong xe, Cán thấy một xe K.63 cháy. Xe đặc chủng tiến lại dần, vừa dừng lại, qua ánh đèn dù, Cán nhìn rõ Tiến từ xe đó chạy vọt tới, leo lên nhảy vọt vào trong, giọng gấp gáp thiếu bình tĩnh:
    ?" Nó bắn cháy xe rồi! Anh em hy sinh hết rồi!
    Cán báo cáo tình hình qua máy bộ đàm. Sở chỉ huy lệnh cho kéo ra. Xe đặc chủng rê gần, móc cáp kéo chiếc K.63 ra rìa bãi gỗ sát bìa rừng.
  10. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Thêm một chiếc T.54 bị bắn đứt xích. Xe Cán quay vào móc cáp vào xe và móc sợi cáp thứ nhì vào bộ xích đứt. Kéo xe đứt xích rất khó, bên không còn xích, dàn bánh đỡ lún sâu xuống, bụng xe cà trịt mặt đất, lực ma sát cực lớn. Bình thường, chỉ cần vài phút đã giải quyết xong, nhưng Cán phải đánh vật với chiếc T.54 này mấy giờ liền mới đưa ra được ven rừng. Một số chiến sĩ bộ binh hy sinh, Cán và anh em đưa lên thùng xe mang ra, đúng chính sách và kỷ luật chiến trường.
    Chỉ trong đêm nay, ta dứt điểm Nhân Cơ vì ở đây địch phòng thủ yếu hơn Bù Bông. Ta mất hai xe, Xe đặc chủng rút vào rừng kéo theo xe hỏng để sửa tạm. Chiếc T.54 không có xích dự trữ, thiếu một số mắt xích hỏng vì trúng đạn. Cán và đồng đội sáng tạo: chỉ gắn xích vào ba bánh đỡ (đáng lẽ đủ thì xích gắn trên năm bánh). Giáo trình đã học không cho phép làm như vậy: xe sẽ đi lệch, hai bên lún không đều nhau... Nhưng cứ đúng bài bản thì chỉ có cách vứt xe đi, mà chúng ta thì đang rất thiếu quả đấm thép.
    Ở vùng này, ta và địch còn cù cưa một vài trận chống lấn chiếm cho đến hết năm 1973. Hoàn thành nhiệm vụ cứu hộ, xe đặc chủng rút về hậu cứ tu sửa tiếp, rồi Cán và đồng đội bước vào đợt học chính trị.
    Khoảng tháng 5 năm 1974, đầu mùa mưa, Tiểu đoàn 22 tăng thiết giáp B.2 (mới từ miền Bắc vào) phối thuộc Sư đoàn 9 mở chiến dịch lộ 7 ngang ở khu vực Bến Cát ?" Rạch Bắp. Trung ương Cục và Quân ủy Miền chủ trương phá vỡ tuyến phòng ngự trung gian, kìm chân lính chủ lực ngụy tại Sài Gòn, ngăn chặn ý đồ địch đưa quân bình định vùng ven Sài Gòn và lấn chiếm Lộc Ninh ?" vùng giải phóng của ta.
    Xe đặc chủng đi cùng đơn vị tăng thiết giáp. Từ căn cứ Bù Đốp, đoàn xe theo đường do công binh cắt rừng mở, đi hai đêm thì tới căn cứ Minh Hòa. Đây là vùng rừng chồi lúp xúp. Củng cố đội hình trong thời gian rất ngắn, đoàn voi thép ta xung trận, đánh đồn An Điền. Các chiến sĩ tăng thiết giáp lúc nghiên cứu sa bàn được thông báo: đây là một vị trí phòng thủ rắn, mìn đủ loại gài dày đặc, pháo từ Đồng Dù, Bến Cát, Lai Khê, Phú Hòa Đông... sẵn sàng chi viện hỏa lực. Đồn này ở ấp cùng tên, có bốn khu với con đường chạy ra bốn cổng.
    8 giờ tối, bộ đội đặc công nổ súng mở màn trận đánh. Công binh đã gỡ mìn tạo lối đi an toàn cho tăng thiết giáp thọc vào theo hai mũi sau khi pháo ta bắn chế áp. Xe đặc chủng nằm chờ ở cửa mở. Pháo địch từ nhiều hướng bắn cấp tập về đây. Tiếng nổ dồn dập làm đinh tai nhức óc, chiến dịch Mặt trận 75 so với lần này không là gì cả. Sở chỉ huy lệnh cho xe đặc chủng vào cứu xe hỏng. Trinh sát leo lên chỉ hướng cho xe chạy, tới hướng đó xong nhiệm vụ, nhảy xuống quay ra. Cỏ Mỹ mọc cao ngang vai. Qua ánh sáng lửa đạn lờ mờ, xe đặc chủng chạy đúng vết xích tiến sát chiếc xe hỏng. Cán nhảy xuống đất, quan sát nắm tình hình. Hóa ra công binh gỡ mìn tạo vệt đường đi an toàn cho xe tăng, song mìn lại bỏ ngay sang bên, xe ta đi chệch, đè trúng mìn, mìn nổ nên đứt xích, nằm đó. Anh em từ trong xe nhảy ra lại đạp trúng số mìn râu tôm để rìa đường, thương vong một số. Y sĩ, y tá đến cứu đạp trúng mìn nữa, thương vong hai, ba đợt liền. Xe đặc chủng móc cáp, rồ ga nhưng không kéo được vì bánh đỡ xích lún sâu có độ ma sát quá lớn. Cán và đồng đội đành giải quyết khiêng 13 thương binh liệt sĩ lên thùng xe chở ra ngoài.
    Ở hướng khác, một xe tăng ta cũng bị mìn như vậy. Trời gần sáng, tiếng súng các loại thưa dần. Xe đặc chủng được lệnh vào cứu kéo. Ấp An Điền có hai cổng vào, hai cổng ra nhưng Cán không thể hình dung địa hình ấp. Suốt đêm pháo hai bên dập tơi bời, cảnh vật thay đổi hẳn: hai cổng vào và nhiều nhà cửa lúp xúp trong ấp đã bị san bằng. Theo kế hoạch, công binh ta đánh một khối thuốc nổ rất lớn, cắt con đường vào cầu băng ngang sông Thị Tính để xe tăng thiết giáp địch không rút chạy được về Bến Cát. Gần 6 giờ, trời sáng dần, Cán điện về sở chỉ huy:
    ?" Chưa thấy ấp đâu, không thấy cổng...
    ?" Cứ tới đi! Cứ tới đi theo trinh sát dẫn đường.
    Một lính trinh sát trèo lên xe, dẫn tới cổng thì nhảy xuống:
    ?" Ông chạy thẳng vào đường này!
    Máy bay trực thăng vũ trang địch quần dữ dội. Cán thúc pháo thủ của xe:
    ?" Thắm bắn đi! Bắn đi, không bắn nó bắn mình chết bây giờ!
    Anh thò hẳn đầu ra khỏi xe, tăng hết ga. Chớp xanh lét nhay nháy bay dọc sườn xe. Địch bắn M.72 và BK.106 ly định diệt xe đặc chủng. Anh điện xin pháo binh chi viện. Ngồi trong xe không nghe tiếng pháo ta bắn. Bỗng nhiên xe khựng lại. Đề máy. không nổ! Một mùi khét lẹt xông lên, đèn báo cháy nhấp nháy liên tục.
    ?" Chết mẹ rồi, cháy xe!
    Khói tuôn mù mịt. Cán nhấn nút xả hơi chống cháy vào nơi khói bốc ra. Pháo địch từ Bến Cát, Lai Khê... nã dồn dập vào trận địa. Anh tụt đầu vào trong, đậy cửa thép lại. Pháo chụp nổ lụp bụp, nhảy ra khỏi xe dễ dính mảnh lắm (khi chở tử sĩ ra, Cán phải dùng kềm mới nhổ được mảnh pháo chụp có ngạnh đâm sâu tới xương một anh!). Anh bình tĩnh dùng bình khí nén để khởi động thử. Máy lại nổ, mừng quá trời!
    Nhìn ra xa qua kính mắt cua, anh thấy xe ta sa gần hết thân xuống hố bộc phá của công binh đêm rồi. Anh thấy một lính ta ngoắc tay, vừa dừng xe thì anh này nhảy bổ vào. Xe đặc chủng quay ngang xả cáp, một lính thợ nhảy ra móc tời. Mảnh đạn va vào vỏ thép chan chát; chụp nắm trọng liên 12,8 ly bay đi mất, thùng xe nham nhở, thùng dầu ngoài xe bị thủng (lúc về nơi an toàn, xem kỹ mới thấy xe đặc chủng bị thủng một lỗ đạn sâu hoắm, nếu vết đó nhích lên cao một chút thì Cán ?ohúp cháo? rồi!). Xe đặc chủng hạ lưới ben thủy lực căm xuống lớp đất tơi vụn, rồi tăng ga hết cỡ mới lôi được xe hỏng lên khỏi hố, quay vòng lại dắt xe hỏng ra ngoài.
    Đến đêm, nhờ trinh sát dẫn đường, công binh gỡ sạch mìn, Cán và đồng đội vào nghiên cứu cách kích kéo chiếc xe đứt xích. Trời mưa, đất nhão, xe bị lún, phải thử đất và tính toán kỹ. Dưới làn đạn bắn thẳng và pháo các loại không ngớt, anh em kích đội xe lên, lắp xích vào mới kéo ra được. Ban chỉ huy chiến dịch đánh giá tổ cán bộ, chiến sĩ xe đặc chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cán được thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.
    Là đối tượng Đảng đã lâu, nay Đảng bộ Phòng kỹ thuật Cục Hậu cần B.2 gửi hồ sơ lý lịch Cán xuống để Đảng bộ Tiểu đoàn 22 kết nạp. Anh được vinh dự đứng trong đội ngũ tiên phong của giai cấp và dân tộc ngày 6 tháng 6 năm 1974. Anh rất vui:
    ?" Thế là chỉ riêng gia đình mình đủ lập một chi bộ!
    (Cha anh là đảng viên thời chống Pháp, chị đi bộ đội trước và được kếp nạp Đảng khi anh chưa đi B.
    Chiến dịch lộ 7 ngang kéo dằng dai khoảng mấy tháng, tới gần cuối mùa mưa mới kết thúc. Xe tăng thiết giáp ta nếu không ra trận thì về nằm ụ đào âm xuống đất. Bộ binh làm hầm, pháo khoan nã trúng sát thương khá nhiều.
    Ăn Tết 1975 xong, Cán và đồng đội học chính trị bốn ngày. Sau đó bộ đội ta bước vào Chiến dịch mùa khô 1974 ?" 1975. Tháng ba năm 1975 bộ đội khu Đông Nam Bộ đánh chi khu Dầu Tiếng. Xe đặc chủng đi phối thuộc tiểu đoàn tăng thiết giáp 20 có đại đội 6 Tiểu đoàn 22 tăng cường. Đây là một trong các vị trí địch phòng thủ vững chắc hơn vùng Nam Tây Nguyên rất nhiều, hơn cả đồn An Điền. Tăng thiết giáp ta đánh hướng chính, đêm đầu vào khá sâu nhưng chưa diệt được chi khu phải lui ra. Đêm sau, xe ta vào theo hướng cũ thì không hiểu địch tháo nước từ đâu làm một vùng rộng lớn ngập nước mênh mông, không tiến được. Hướng thứ yếu dù không có quả đấm đàn voi thép hỗ trợ vẫn nổ súng, nhưng không thành công đành rút ra. Đại đội 6 của Tiểu đoàn 22 bị thiệt hại nặng, một số xe cháy hỏng nằm lại. Đêm thứ ba, tăng thiết giáp ta vào theo hướng thứ yếu cũ. Ban chỉ huy lênh qua điện đài cho xe đặc chủng kéo ra năm xe trúng đạn hỏng máy. Pháo 175 ly ?" vua chiến trường ?" bắn rất dữ. Ba xe hỏng nằm ở đầu sân bay Dầu Tiếng kéo ra tương đối ít nguy hiểm mất gần trọn đêm.
    Đêm thứ tư, xe đặc chủng vào cứu kéo tiếp. Đạn bắn thẳng các cỡ của địch dày đặc. Cán và đồng đội kiểm tra 2 xe còn lại. Một xe bị trúng đạn BK.106,7 ly tạt sườn cháy toàn bộ, chiến sĩ bên trong da thịt chín thui, bắt đầu bốc mùi. Cán gọi điện yêu cầu pháo ta bắn chế áp địch rồi nhảy ra khỏi xe, chạy tới thò tay qua cửa lính lái, gài về số 0. Xe đặc chủng quay áp sát che chắn để thợ máy móc cáp vào xe hỏng chỉ nửa phút rồi rú ga, vọt ra ngay. Chiếc xe cuối cùng trúng bom laser, tháp pháo lún hẳn xuống, bụng xe thụng trịt sát đất, kéo ra khá nặng và mất nhiều thời giờ.
    Giải phóng chi khu Dầu Tiếng, ta thu năm xe địch, trong đó có chiếc xe M.48 chiến lợi phẩm đầu tiên ở hướng Truông Mít. Xe này lọt hố bom, xe đặc chủng kéo lên không nổi; đất hố bom tơi vụn, xích xe không có độ bám cứ trượt hoài. Cán và đồng đội lấy bạt trùm kín xe M.48, công binh giúp xúc đất phủ một lớp ngụy trang. Ban chỉ huy điều một số cán bộ chiến sĩ đại đội 33 đã học về xe địch. Các anh xúm lại tìm hiểu chức năng từng công tắc, từng búi dây điện giữa ban ngày... rồi đề máy. Máy xe khởi động, xe đặc chủng vào, móc cáp và tời trục kéo chiếc M.48 ngoan ngoãn ra khỏi hố bom, sau đó tham gia đội hình chiến đấu của đơn vị.
    Đầu tháng 4 năm 1975 bộ đội tăng thiết giáp toàn B.2 chia hai cánh: một cánh đánh Xuân Lộc, một cách đánh Chơn Thành. Xe đặc chủng đi với cánh sau.
    (Sau ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam, Cán có dịp đi khảo sát thực địa nhiều địa điểm chiến đấu cũ, thấy Chơn Thành là vị trí kiên cố lợi hại bậc nhất. Bên ngoài là hào, kế đến lớp bờ bao cao gần 2 mét đắp đất dày che chắn, xe tăng thiết giáp và pháo địch núp sau bờ ao có thể hạ nòng bắn ngang ra ngoài. Chốt pháo binh đặt ở trung tâm vị trí).
    Khi tăng thiết giáp ta xông vào chi khu Chơn Thành, mật độ đạn pháo địch đủ loại dày đặc chưa từng thấy. Ba chiếc bị hỏng. Xe đặc chủng vào, thấy một chiếc đang cháy đỏ, không thể kéo được. Sở chỉ huy lệnh cho Cán lấy ra bằng được chiếc thứ nhì. Pháo ta bắn cấp tập mấy phút dập đầu địch xuống xe để xe đặc chủng vào kéo ra. Cán cho xe chạy một đoạn lại dừng. Pháo sáng trên bầu trời không dứt, soi rõ mọi vật. Trinh sát chỉ:
    ?" Xe nằm kia kìa!
    Cán ra khỏi xe, xác định đường đi cốt tránh hố bom, pháo chi chít. Sở chỉ huy thông báo:
    ?" Bộ binh địch áp sát rất gần! Cẩn thận, chú ý địch gài mìn trong xe!...
    Theo vệt xích, Cán bò lại, leo lên lan can, thò đèn pin qua cửa lái soi bên trong, trả lại số 0. Các chiến sĩ trong xe đều hy sinh (sau này anh mới biết có một chiến sĩ tên Thật kịp thoát ra ngoài, chạy lạc hướng bị bọn biệt động quân ngụy tóm gọn, anh gặp Thật ở trại tù binh Cần Thơ). Anh chỉ sợ địch bắn tỉa. Quay trở lại, anh tăng ga, cua xe đụng ?okịch? xe hỏng, phân công thợ sửa móc cáp rồi rú ga chạy ra ngoài luôn. Khi trở vào kéo chiếc thứ ba thì xe đặc chủng cháy . Đạn địch bắn trúng thùng còn một ít dầu, dầu cháy theo lỗ thủng chảy vào trong, bốc cháy tiếp ở sàn xe. Cán bị bỏng ở cạnh sườn, lái xe đặc chủng ra ngoài, nhanh chóng xử lý chống cháy; lửa vừa tắt lại vào dắt xe kia ra. Kết thúc trận đánh, anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất. Anh đi quân y chữa chạy hơn chục ngày thì lành vết thương.
    Lãnh đạo binh chủng tăng thiết giáp B.2 bố trí anh không lái xe đặc chủng nữa, cử một chiến sĩ khác về thay. Anh được sung vào Ban đảm bảo kỹ thuật sửa chữa của Miền, đi cùng cánh hướng Tây trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Anh đi theo đoàn xe tăng thiết giáp qua sông Vàm Cỏ, xuống Đức Hòa, Đức Huệ, Hóc Môn, Ngã tư Bảy Hiền, vào tới Sài Gòn lúc 12 giờ 30 phút trưa 30 tháng 4 năm 1975.
    Thiếu úy Phạm Văn Cán trực tiếp chiến đấu ở chiến trường B.2 khoảng một năm rưỡi, cứu kéo khoảng 20 xe của ta thu được hàng chục tăng thiết giáp của địch trong mưa bom bão đạn. Chiến công anh lập được có phần đóng góp xương máu của nhiều đồng đội: trinh sát dẫn đường tiếp cận, công binh gỡ sạch mìn, cán bộ cấp trên chỉ huy đúng... Anh viết bản thành tích mà không quên vô số gương mặt đồng chí đồng đội. Bản nháp xé đi viết lại nhiều lần, mất đứt cuốn tập 100 trang. May mắn không bị thương tích nặng, cuộc chiến ác liệt cuốn hút anh cũng như vô số người khác vào vòng xoáy của nó, giúp anh trưởng thành dần.
    Ngày 12 tháng 1 năm 1976, anh được Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu cao quý ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN. Trong buổi lễ trang nghiêm này, Cán nhìn lá cờ Tổ quốc đỏ thắm rực rỡ thấy thấp thoáng những gương mặt thân quen của mấy bạn cùng khóa tăng thiết giáp Tam Dương vừa ngã xuống ở Chơn Thành, Dầu Tiếng... mấy tháng trước. Họ như còn giơ bàn tay vẫy anh, chúc anh đi tiếp đoạn đường mà họ còn bỏ dở. Chiến công của anh thật nhỏ bé so với sự hy sinh của họ.
    M.Y
    http://www.dongnai-industry.gov.vn/anhhung/ah_phvancan.html
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này