1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tháng 6 và 7, năm 1967 - Cường độ giảm
    Trang 113
    Không có chạm trán với Mig từ 6/6 đến 30/6/67, và các cuộc ném bom vào tháng 7 buộc Bắc Việt phải di chuyển thêm các máy bay sang Trung quốc. Cho đến cuối tháng, chỉ còn 11 Mig 21 và 28 Mig 17 còn lại Bắc Việt. Đa số trận đánh cho đến lúc đấy, năm 67, 94%, là với máy bay của KQ, nhưng vào 21/7, sau khi không diệt được địch trong gần 2 tháng, F8 của Hải quân đã trở lại. Phi công F8 không đồng ý với ý kiến của F4 là không nên quần vòng với Mig, với cannon và đặc biệt là loại Aim9D khá tin cậy, họ muốn lao vào quần đảo với các máy bay So viết khi có cơ hội. Hôm đó họ đã có cơ hội. Trận chiến đã thể hiện các điểm mạnh và nhược điểm khi phải quần vòng với các máy bay So viết của kể cả các phi công F8 giàu kỹ năng.
    Page Boy, một phi đội 4 chiếc F-8, giữ vai trò MigCAP cho trận đánh phá Alpha vào khu vực Kho xăng dầu Ta Xa, khoảng 30 dặm tây bắc Hà nội. Khi đang bay vòng chờ, F8 phát hiện 8 Mig 17 xông ra từ các đám mây, họ lao vào tấn công. Số 1 kéo vào sau một Mig 17 và bắn một quả AIM9D, nhưng tên lửa mất điều khiển. Anh ta bắn quả thứ 2, nhưng không ra được bệ phóng, nhưng quả thứ 3 đã bắn tan chiếc Mig. Nhưng cùng lúc số 1 bắn trúng Mig thì anh ta cũng bị ăn đạn từ một Mig 17 khác vào cánh phải khiến hệ thống thuỷ lực bị hỏng và bắt đầu bị cháy.
    Số 2 cũng ngoặt theo một Mig khác và bắn 2 phát AIM9D vào các máy bay Mig khác nhau; cả hai đều trượt. Khi đó anh ta lộn vào chiếc MIg thứ 3 và bắn tiếp, nhưng lại trượt. Anh ta liền lại gần để dùng súng tấn công. Số 2 bắn trúng toàn thân chiếc Mig; khi chiếc F8 lướt qua, phi công Mig nhảy dù. Ngay sau đó, số 2 bị trúng đạn và thương nặng, mất 3/4 cánh ổn định đuôi.
    Số 3 tấn công một Mig 17 khác nhưng không thấy AIM9D trúng mục tiêu, nhưng sau đó họ thấy một phi công Mig nhảy dù, nền số 3 được công nhận một kill. Bất chấp bị thương nặng, số 1 và số 2 đều bay về an toàn.
    Trong khi phi đội F8 Page Boy đang quần vòng với Mig 17, Nickel, một F8 duy nhất, bay cùng với A4C chống SAM, mang theo thùng Rocket không điều khiển Zuni không đối đất và một quả AIM9D. Trong khi Mig tấn công những chiếc A4, Nickel lao vào tấn công một Mig 17; Anh ta bắn trượt quả AIM9D, rồi tiếp tục dùng súng bắn tiếp. Mục tiêu trúng đạn nhưng không rơi. Thêm hai Mig 17 nữa bay ngang qua trước mặt, anh ta liền ngoặt theo. Do ngoài tầm bắn của súng, Nickel bắn 4 quả Zuni hú hoạ mong may mắn. Một quả Zuni trúng vào một trong những chiếc Mig, nó bị lật ra khỏi vòng lượn. Nickel liền tiếp cận và bắn toàn bộ số đạn vào chiếc Mig; phi công nhảy dù.
    kqndvn:
    Kết quả trận đánh ta mất 4 máy bay, địch bị thương nặng 2 chiếc. 3 phi công nhảy dù an toàn.
  2. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Một trong những đơn vị không quân hải quân chính của Mỹ trong chiến tranh Việt nam
    http://www.history.navy.mil/danfs/c13/constellation-iii.htm
    Constellation

    (CV-64: displacement 60,100 tons; length 1,047 feet 6 inches; beam 129 feet 4 inches; extreme width 248 feet 5 inches; speed 33+ knots; complement 5,480; armament two twin "Terrier" HT antiaircraft guided missiles; class Kitty Hawk)
    The third Constellation (CVA-64) was built by New York Naval Shipyard, Brooklyn, N.Y.; laid down 14 September 1957; christened 8 October 1960 by Mrs. C. A. Herter, wife of the Secretary of State. Tragedy struck the ship on 19 December when a catastrophic fire caused the loss of 50 workers and $75 million in damages. Following a seven-month delay, she was commissioned on 27 October 1961, Captain Thomas. J. Walker, in command.
    Following fitting out and acceptance trials, Constellation departed her home port of Norfolk, Va., on 7 February 1962 for initial air operations off the Virginia Capes. She conducted her first catapult launch and arrested landing the same day with Commander George C. Watkins, air group (CVG) 13 commander, at the controls of an A4D-2 Skyhawk of Attack Squadron 34. After a month of operating locally, Connie (as the carrier became known) conducted a two-month shakedown cruise in the Caribbean.
    In summer 1962, Constellation was transferred to the Pacific Fleet and CVG-13 was disestablished. For the two-month trip around Cape Horn to her new home port of San Diego, Calif., Connie embarked elements of CVG-5 and departed Mayport, Fla., on 25 July. In November Constellation, with CVG-14 on board, commenced workup exercises for her upcoming maiden deployment to the western Pacific as a component of the U.S. Seventh Fleet. The uneventful cruise took place from February to September 1963.
    Constellation?Ts second deployment began on 5 May 1964. She relieved Kitty Hawk (CVA 63) on station in the Gulf of Tonkin off Vietnam on 8 June, embarked Carrier Air Wing (CVW) 14 (air groups had been redesignated air wings on 20 December 1963) and flew armed photoreconnaissance missions over Laos until 13 July. Following an upkeep period at Subic Bay, R.P., Constellation reached Hong Kong for a port visit on 27 July, but within a few days was called back into action.
    Following an attack by three North Vietnamese torpedo boats on the destroyer Maddox (DD 731) on 2 August, Constellation got underway to return to the Gulf of Tonkin. Further word was received of a second attack on Maddox and and Turner Joy (DD 951) on 4 August. That day, Connie launched F-4B Phantom IIs to join aircraft from Ticonderoga (CVA 14) in providing air cover over the destroyers. On 5 August both carriers launched retaliatory air strikes on a North Vietnamese oil facility and naval vessels. CVW-14 lost two aviators, one killed in action (KIA) and the other taken as a prisoner of war (POW). Operations returned to a more normal cycle for the remainder of the deployment, and Constellation returned to San Diego on 1 February 1965, ending a nearly nine-month cruise. Connie and CVW-14 were awarded a Navy Unit Commendation (NUC) for the early August operations.
    Constellation?Ts first shipyard period followed, lasting eight months; then workups commenced for her first full-blown war cruise. The carrier, with CVW-15 on board, was underway for operations off Vietnam in May 1966. During 111 days on station, Constellation?Ts aircraft pounded roads, bridges and other targets, attempting to impede the flow of men and war materials south. The F-4B aircrew of pilot Lieutenant William M. McGunigan and radar intercept officer Lieutenant (jg) Robert M. Fowler from Fighter Squadron (VF) 161 shot down a MiG-17 on 13 July, marking the ship?Ts first MiG kill of the war. Connie returned to San Diego in December after her seven-month combat cruise, having lost 16 aircrewmen and 15 aircraft. Subsequently, both Constellation and CVW-15 were awarded a NUC for this deployment.
    After a short workup cycle, Constellation?Ts third combat deployment commenced in April 1967. With CVW-14 embarked, the carrier operated first on Dixie Station (a patrol area about 60 miles off South Vietnam) with strikes in the Iron Triangle region, and then moved north to Yankee Station (a patrol area about 50 miles off North Vietnam) for a total of 121 days on the line. Reflecting the intensive nature of air operations, F-4Bs of VFs 142 and 143 accounted for four MiG kills. The eight-month deployment ended in December, having totaled losses of 16 aircraft and 20 personnel, including 7 KIAs and 8 POWs. Both the carrier and CVW-14 received a NUC.
    Returning to Vietnam in May 1968 after six months stateside, the Constellation/CVW-14 team was restricted to strikes below the 20th parallel of North Vietnam as a result of a March presidential order. This was followed by a complete halt to strikes over the north on 1 November. Connie spent 128 days on the line, flying more than 11,000 combat and support missions and dropping almost 20,000 tons of ordnance. Fifteen aircraft were destroyed, nine due to enemy action. Six aircrew members perished, five were listed as KIAs and three were taken as POWs. The eight-month deployment ended in January 1969.
    By August, it was time for Connie to return to Vietnam for a fifth combat deployment, again with CVW-14. Following an initial 20-day period of supporting strikes in South Vietnam as well as Laos, Constellation sailed to Defender Station in the Sea of Japan, which had been created as a result of increased tensions on the Korean Peninsula. A return to Yankee Station on 1 November also produced a major milestone in the carrier?Ts life when the F-4J aircrew of air wing skipper Cdr. R. K. Billings and Ltjg. Jeff Taylor of VF-143 conducted Connie?Ts 100,000th arrested landing. During a mission on 28 March 1970, the VF-142 F-4 crew of Lts. Jerome E. Beaulier and Steven J. Barkley downed a North Vietnamese MiG-21. Following a total of 128 days on the line, Connie?Ts nine-month deployment ended in May, with CVW-14 suffering the loss of seven total aircraft, five to enemy action. One aircrewman was taken as a POW, but there were no fatalities.
    Upon her return Constellation began a nine-month major shipyard overhaul, her second since commissioning. In spring 1971 she welcomed aboard a new air wing, CVW-9, and departed San Diego on 1 October for what would become a historic combat deployment. Air operations commenced with strikes against mainly logistic targets in Laos as well as reconnaissance missions over North Vietnam into 1972. On 19 January, the VF-96 F-4 Phantom crew of Lt. Randall H. Cunningham and Ltjg. William P. Driscoll scored a kill against a MiG-21, the first for a Navy aircraft since Connie?Ts VF-142 kill on 28 March 1970. The carrier was nearing the end of her scheduled deployment when her tour was extended to meet the threat posed by the North Vietnamese ?oEaster Offensive? of 2 April 1972.
    Initial air strikes in support of ground troops were followed by a new, more intensive series of air strikes against major targets in North Vietnam. On 8 May, the same VF-96 aircrew team of Cunningham and Driscoll scored against a MiG-17. Then on 10 May, Cunningham and Driscoll downed three MiG-17s, becoming the first aces of the Vietnam war. Three more MiG-17s were downed by two other VF-96 crews, two by Lts. Michael J. Connelly and Thomas J. Blonski and one by Lt. Steven C. Shoemaker and Ltjg. Keith V. Crenshaw. Adding to the score, VF-92 aircrew Lt. Curt Dose and Lieutenant Commander James McDevitt downed a MiG-21. All told, Constellation fliers downed seven MiGs on 10 May. The nine-month deployment ended on 1 July, the carrier having spent 154 days off Vietnam. Seven aircraft were lost, two aircrewmen were reported KIA and two became POWs. The Connie/CVW-9 team received the Presidential Unit Citation for their outstanding efforts.
    In January 1973, Constellation headed back to Southeast Asia. The Vietnam Peace Accords took effect on 28 January, but CVW-9 aircraft continued to strike targets in Laos until a cease-fire in that country was called on 21 February. Thus Connie, which had been on station at the beginning of combat operations in Vietnam in 1964, was on station at the end, nine years later. The remainder of the nine-month deployment consisted largely of flights in support of mine-clearing operations in North Vietnam.
    Upon her return in October 1973, Constellation enjoyed a nine-month workup cycle, and departed in June 1974 for her first peacetime deployment in 10 years. On 23 November, she became the first carrier to enter the Arabian Gulf since 1949. The six-month cruise ended on 23 December 1975.
    A 14-month major overhaul and upgrade at Puget Sound Naval Shipyard, Wash., commenced in February 1974, during which Constellation was modified to reflect the Navy?Ts new multipurpose air, surface and antisubmarine warfare role for carriers. She was redesignated a CV on 30 June 1975. With the overhaul completed in April 1976, Connie could now operate both the new S-3A Viking and F-14A Tomcat.
    May quá nó không kịp trang bị F-14 trước 72 chứ không thì gay to.
    http://www.history.navy.mil/danfs/c13/constellation-iii.htm
  3. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Một trong những đơn vị không quân hải quân chính của Mỹ trong chiến tranh Việt nam
    http://www.history.navy.mil/danfs/c13/constellation-iii.htm
    Constellation

    (CV-64: displacement 60,100 tons; length 1,047 feet 6 inches; beam 129 feet 4 inches; extreme width 248 feet 5 inches; speed 33+ knots; complement 5,480; armament two twin "Terrier" HT antiaircraft guided missiles; class Kitty Hawk)
    The third Constellation (CVA-64) was built by New York Naval Shipyard, Brooklyn, N.Y.; laid down 14 September 1957; christened 8 October 1960 by Mrs. C. A. Herter, wife of the Secretary of State. Tragedy struck the ship on 19 December when a catastrophic fire caused the loss of 50 workers and $75 million in damages. Following a seven-month delay, she was commissioned on 27 October 1961, Captain Thomas. J. Walker, in command.
    Following fitting out and acceptance trials, Constellation departed her home port of Norfolk, Va., on 7 February 1962 for initial air operations off the Virginia Capes. She conducted her first catapult launch and arrested landing the same day with Commander George C. Watkins, air group (CVG) 13 commander, at the controls of an A4D-2 Skyhawk of Attack Squadron 34. After a month of operating locally, Connie (as the carrier became known) conducted a two-month shakedown cruise in the Caribbean.
    In summer 1962, Constellation was transferred to the Pacific Fleet and CVG-13 was disestablished. For the two-month trip around Cape Horn to her new home port of San Diego, Calif., Connie embarked elements of CVG-5 and departed Mayport, Fla., on 25 July. In November Constellation, with CVG-14 on board, commenced workup exercises for her upcoming maiden deployment to the western Pacific as a component of the U.S. Seventh Fleet. The uneventful cruise took place from February to September 1963.
    Constellation?Ts second deployment began on 5 May 1964. She relieved Kitty Hawk (CVA 63) on station in the Gulf of Tonkin off Vietnam on 8 June, embarked Carrier Air Wing (CVW) 14 (air groups had been redesignated air wings on 20 December 1963) and flew armed photoreconnaissance missions over Laos until 13 July. Following an upkeep period at Subic Bay, R.P., Constellation reached Hong Kong for a port visit on 27 July, but within a few days was called back into action.
    Following an attack by three North Vietnamese torpedo boats on the destroyer Maddox (DD 731) on 2 August, Constellation got underway to return to the Gulf of Tonkin. Further word was received of a second attack on Maddox and and Turner Joy (DD 951) on 4 August. That day, Connie launched F-4B Phantom IIs to join aircraft from Ticonderoga (CVA 14) in providing air cover over the destroyers. On 5 August both carriers launched retaliatory air strikes on a North Vietnamese oil facility and naval vessels. CVW-14 lost two aviators, one killed in action (KIA) and the other taken as a prisoner of war (POW). Operations returned to a more normal cycle for the remainder of the deployment, and Constellation returned to San Diego on 1 February 1965, ending a nearly nine-month cruise. Connie and CVW-14 were awarded a Navy Unit Commendation (NUC) for the early August operations.
    Constellation?Ts first shipyard period followed, lasting eight months; then workups commenced for her first full-blown war cruise. The carrier, with CVW-15 on board, was underway for operations off Vietnam in May 1966. During 111 days on station, Constellation?Ts aircraft pounded roads, bridges and other targets, attempting to impede the flow of men and war materials south. The F-4B aircrew of pilot Lieutenant William M. McGunigan and radar intercept officer Lieutenant (jg) Robert M. Fowler from Fighter Squadron (VF) 161 shot down a MiG-17 on 13 July, marking the ship?Ts first MiG kill of the war. Connie returned to San Diego in December after her seven-month combat cruise, having lost 16 aircrewmen and 15 aircraft. Subsequently, both Constellation and CVW-15 were awarded a NUC for this deployment.
    After a short workup cycle, Constellation?Ts third combat deployment commenced in April 1967. With CVW-14 embarked, the carrier operated first on Dixie Station (a patrol area about 60 miles off South Vietnam) with strikes in the Iron Triangle region, and then moved north to Yankee Station (a patrol area about 50 miles off North Vietnam) for a total of 121 days on the line. Reflecting the intensive nature of air operations, F-4Bs of VFs 142 and 143 accounted for four MiG kills. The eight-month deployment ended in December, having totaled losses of 16 aircraft and 20 personnel, including 7 KIAs and 8 POWs. Both the carrier and CVW-14 received a NUC.
    Returning to Vietnam in May 1968 after six months stateside, the Constellation/CVW-14 team was restricted to strikes below the 20th parallel of North Vietnam as a result of a March presidential order. This was followed by a complete halt to strikes over the north on 1 November. Connie spent 128 days on the line, flying more than 11,000 combat and support missions and dropping almost 20,000 tons of ordnance. Fifteen aircraft were destroyed, nine due to enemy action. Six aircrew members perished, five were listed as KIAs and three were taken as POWs. The eight-month deployment ended in January 1969.
    By August, it was time for Connie to return to Vietnam for a fifth combat deployment, again with CVW-14. Following an initial 20-day period of supporting strikes in South Vietnam as well as Laos, Constellation sailed to Defender Station in the Sea of Japan, which had been created as a result of increased tensions on the Korean Peninsula. A return to Yankee Station on 1 November also produced a major milestone in the carrier?Ts life when the F-4J aircrew of air wing skipper Cdr. R. K. Billings and Ltjg. Jeff Taylor of VF-143 conducted Connie?Ts 100,000th arrested landing. During a mission on 28 March 1970, the VF-142 F-4 crew of Lts. Jerome E. Beaulier and Steven J. Barkley downed a North Vietnamese MiG-21. Following a total of 128 days on the line, Connie?Ts nine-month deployment ended in May, with CVW-14 suffering the loss of seven total aircraft, five to enemy action. One aircrewman was taken as a POW, but there were no fatalities.
    Upon her return Constellation began a nine-month major shipyard overhaul, her second since commissioning. In spring 1971 she welcomed aboard a new air wing, CVW-9, and departed San Diego on 1 October for what would become a historic combat deployment. Air operations commenced with strikes against mainly logistic targets in Laos as well as reconnaissance missions over North Vietnam into 1972. On 19 January, the VF-96 F-4 Phantom crew of Lt. Randall H. Cunningham and Ltjg. William P. Driscoll scored a kill against a MiG-21, the first for a Navy aircraft since Connie?Ts VF-142 kill on 28 March 1970. The carrier was nearing the end of her scheduled deployment when her tour was extended to meet the threat posed by the North Vietnamese ?oEaster Offensive? of 2 April 1972.
    Initial air strikes in support of ground troops were followed by a new, more intensive series of air strikes against major targets in North Vietnam. On 8 May, the same VF-96 aircrew team of Cunningham and Driscoll scored against a MiG-17. Then on 10 May, Cunningham and Driscoll downed three MiG-17s, becoming the first aces of the Vietnam war. Three more MiG-17s were downed by two other VF-96 crews, two by Lts. Michael J. Connelly and Thomas J. Blonski and one by Lt. Steven C. Shoemaker and Ltjg. Keith V. Crenshaw. Adding to the score, VF-92 aircrew Lt. Curt Dose and Lieutenant Commander James McDevitt downed a MiG-21. All told, Constellation fliers downed seven MiGs on 10 May. The nine-month deployment ended on 1 July, the carrier having spent 154 days off Vietnam. Seven aircraft were lost, two aircrewmen were reported KIA and two became POWs. The Connie/CVW-9 team received the Presidential Unit Citation for their outstanding efforts.
    In January 1973, Constellation headed back to Southeast Asia. The Vietnam Peace Accords took effect on 28 January, but CVW-9 aircraft continued to strike targets in Laos until a cease-fire in that country was called on 21 February. Thus Connie, which had been on station at the beginning of combat operations in Vietnam in 1964, was on station at the end, nine years later. The remainder of the nine-month deployment consisted largely of flights in support of mine-clearing operations in North Vietnam.
    Upon her return in October 1973, Constellation enjoyed a nine-month workup cycle, and departed in June 1974 for her first peacetime deployment in 10 years. On 23 November, she became the first carrier to enter the Arabian Gulf since 1949. The six-month cruise ended on 23 December 1975.
    A 14-month major overhaul and upgrade at Puget Sound Naval Shipyard, Wash., commenced in February 1974, during which Constellation was modified to reflect the Navy?Ts new multipurpose air, surface and antisubmarine warfare role for carriers. She was redesignated a CV on 30 June 1975. With the overhaul completed in April 1976, Connie could now operate both the new S-3A Viking and F-14A Tomcat.
    May quá nó không kịp trang bị F-14 trước 72 chứ không thì gay to.
    http://www.history.navy.mil/danfs/c13/constellation-iii.htm
  4. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0

    Chuyên gia tại chỗ hết sức quan trọng. Theo tinh thần hồi ký thì nếu không có chuyên gia Liên xô, tiểu đoàn tên lửa không thể chiến đấu được.
    Trong tạp chí Sự kiện Nhân chứng có lần có bài về các sỹ quan tên lửa Liên xô đã hy sinh trong chiến tranh Việt nam. Đa phần là dân Kadactan, Tuốc mê nis tan, Belarus. Ông phó thủ tướng Bêlaruxia hiện nay cũng từng là lính chiến đấu ở Việt nam về.
    Kề vai cùng Việt Nam anh em chống Mỹ xâm lược
    Nhân kỷ niệm 30 năm chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ và kỷ niệm 60 năm Chiến thắng phátxít Đức của nhân dân Liên Xô, Nhà xuất bản Ekzamen của Nga đã cho ra mắt cuốn sách với tiêu đề "Chiến tranh ở Việt Nam... như nó đã có (1965 - 1973)". Cuốn sách dày 548 trang, chứa đựng hồi ức của 29 chuyên gia quân sự Liên Xô đã kề vai sát cánh với quân đội và nhân dân Việt Nam trong những năm tháng ác liệt. Những dòng hồi ức cảm động đã ca ngợi tinh thần đấu tranh anh dũng và ngoan cường của nhân dân Việt Nam, cũng như sự giúp đỡ vô tư, tinh thần quốc tế cao cả của những đại diện cho nhiều dân tộc thuộc Liên Xô lúc đó. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số đoạn trích từ cuốn sách này.
    Tâm sự về chiến tranh Việt Nam với bạn trẻ Nga hôm nay

    Thượng uý Anosov A.M.
    Sinh năm 1936;
    Tiến sĩ kỹ thuật, được Giải thưởng Lênin về khoa học kỹ thuật;
    Có mặt tại Việt Nam từ tháng 12.1967 đến tháng 8.1968.
    ... Cuộc sống đã thay đổi 180 độ kể từ đó đến nay. Điều chủ yếu nhất là mọi giá trị đã bị đảo lộn. Giờ đây tất cả đều nói đến tiền. Chẳng lẽ chúng tôi đã đến Việt Nam cũng vì tiền sao? Liệu thế hệ trẻ hiện nay có hiểu chúng tôi không? Một thanh niên đọc hồi ức của chúng tôi và sẽ nói: Ôè đây không phải là chiến tranh, mà là trò tiêu khiển. Nhớ đến nó mà làm gì? Các ông đã đến Việt Nam bò dưới bom đạn, tiêu phí biết bao nhiêu tiền khiến đất nước bị khánh kiệt.
    Chúng tôi sẽ tha thứ sự vô liêm sỉ có mức độ của các bạn trẻ hôm nay. Tôi nghĩ rằng họ cũng giống như những con nhím xù lông tự vệ trước cuộc sống đổ ập xuống đầu chúng ta. Nào hãy thử cùng bình tĩnh xem xét nhé.
    Thứ nhất, về cái gọi là "trò tiêu khiển". Tại Việt Nam, 57 nghìn lính Mỹ đã thiệt mạng, tức là gấp 10 lần so với sự thiệt hại của họ trong Chiến tranh Thế giới II. Việt Nam phải hứng chịu gần 14 triệu tấn bom, đạn và mìn, lớn gấp vài lần so với tổng số bom đạn mà tất cả các bên tham gia vào Chiến tranh Thế giới II đã tiêu tốn. Bạn trẻ ơi, bạn hãy lấy bản đồ địa lý, hãy so sánh diện tích Việt Nam và Châu Âu, để xem xem chết chóc giáng xuống mảnh đất Việt Nam lớn gấp mấy chục lần trong "trò tiêu khiển" ấy?
    Thứ hai, về ký ức. Giờ đây "trụ cột chính của văn minh phương Tây và vật bảo đảm cho nền dân chủ trên toàn thế giới" là thế lực "chúa đất" muốn gì làm nấy. Muốn máu đổ ở Iraq hay Nam Tư là làm ngay. Liệu mọi chuyện cứ diễn ra như thế hay sao? Đối với nhân loại hôm nay thì không có gì quan trọng hơn vấn đề này. Cần phải biết rất nhiều để trả lời trúng câu hỏi này. Nào hãy cùng nhớ lại.
    Tháng 8.1972, đàm phán hoà bình diễn ra tại Paris. Mỹ cố gắng trói buộc Việt Nam vào những điều khoản không thể chấp nhận được. Việt Nam tất nhiên đã từ chối. Đoàn đàm phán Mỹ rời Paris và đến tháng 12 Mỹ huy động khoảng 800 máy bay, trong đó có không ít máy bay B52 từ các căn cứ không quân trong khu vực vào cuộc không kích tổng lực tàn phá Việt Nam. Mỗi con quỷ bay đó mang theo đến 27 tấn bom, ném vào những khu dân cư đông đúc. Nhưng Mỹ đã tính toán sai lầm. Trong 12 ngày tấn công, 81 máy bay Mỹ đã bị bắn hạ, trong số đó có 34 chiếc B52 và có đến 31 chiếc B52 bị tên lửa C-75 của Liên Xô hạ gục. Thất bại đó đã buộc Mỹ phải quay lại bàn đàm phán ở Paris, để rồi đến tháng giêng 1973 ký hiệp định hoà bình công nhận thất bại của mình.
    Thứ ba, về tiền. Đúng, đúng là đất nước ta đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều tiền của. Nhưng bạn trẻ ơi, hãy nói cho tôi, bạn có tiếc không nếu phải rút tiền của chính mình để có được sự thắng lợi của chính nghĩa trên quy mô như vậy? Vâng, đúng là như thế. Sự thắng lợi của chính nghĩa trên quy mô toàn thế giới! Chẳng lẽ bạn lại tiếc? Tôi không tin.
    Nếu có tiếc, thì tiếc là chiến thắng ở Việt Nam lại là ngày chiến thắng huy hoàng cuối cùng của thế kỷ 20. Sau đó thế giới chìm vào dải đen kéo dài. Nhưng điều đó cũng có nghĩa rằng dải đen ấy sắp chấm dứt.
    Cuối cùng, điều phức tạp nhất chính là về nước Nga của chúng ta. Ơ đây, bạn trẻ ơi, bạn tương đối đúng vì chúng ta đã thất bại. Nhưng trong cuộc chiến nào? Trong cuộc chiến của dối lừa, của mua chuộc, của nhen nhóm những bản năng thú tính. Chẳng nhẽ chúng ta có thể đứng vững trong cuộc chiến đó, khi mà đội quân thứ năm (hay còn gọi là bọn gián điệp) xuất hiện ở cả cấp cao nhất. Và cái đội quân ấy được xây dựng bằng chính tiền của thế lực "chúa đất". Số tiền bỏ ra là nhiều triệu đôla và với số tiền ấy thì có thể mua rẻ được không ít những "nhà dân chủ". Tôi khuyên các bạn trẻ hãy đọc báo cáo mà Mỹ trình bày tại phiên họp kín bộ chỉ huy liên quân ngày 25.10.1995 nêu rõ kế hoạch chia nhỏ nước Nga như thế nào. Nhất là các bạn hãy còn đang lơ mơ về cái bánh vẽ dân chủ mà các phương tiện truyền thông độc lập (với chúng ta) của chúng ta đưa ra.
    Có xấu hổ không khi phải thua trong một cuộc chiến như thế? Nói một cách cay đắng thì không. Lũ vi trùng có thể tấn công cơ thể người khiến ta ngã bệnh mà chết. Nhưng có ai thông minh mà lại để lên một bên cán cân là con người, còn bên kia là "kẻ chiến thắng"- tức con vi trùng giết người? Q.A dịch
    "Bộ đội Việt Nam lấy thân mình che chở chúng tôi"
    Thiếu tướng Kanaev V.M.
    Sinh năm 1939;
    Giáo sư - tiến sĩ khoa học quân sự.
    Người Việt học rất nhanh
    Đầu tháng tư năm 1966, chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm và được chở ngay đến trung tâm huấn luyện đóng tại một khu rừng cách Hà Nội không xa. Trung tâm được ngụy trang kỹ càng, chỗ ở và lớp học đều ở trong những ngôi nhà lá. Sau đó khi nhận được khí tài thì đây cũng chính là nơi dựng lên những tổ hợp tên lửa phòng không. Do không được sử dụng sóng liên lạc, nên công việc học tập phải diễn ra theo cách thức mô phỏng. Mặc dù điều kiện thời tiết nóng ẩm rất khó chịu và cường độ làm việc cao kéo dài, nhưng nhóm chuyên gia Liên Xô đã hết sức nỗ lực truyền thụ kiến thức và kinh nghiệm cho bộ đội Việt Nam.
    Tôi ngạc nhiên về khả năng nắm bắt của các chiến sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan người Việt. Mặc dù hầu như không được học về vô tuyến điện tử, nhưng chỉ bằng cách tăng cường tự đào tạo ngoài giờ, họ đã có thể vận hành được khí tài sẵn sàng chiến đấu và bảo dưỡng khí tài theo từng trọng trách được phân công.
    Làm việc vất vả nhất lại là những người phiên dịch. Đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ ánh mắt chăm chú và thiết tha của Tuyên - người phiên dịch làm việc chủ yếu với chúng tôi tại trung tâm cũng như ngoài trận địa. Anh là mắt xích chính trong mối tiếp xúc giữa chúng tôi với các quân nhân Việt Nam, vì không những phải dịch chính xác điều mà các chuyên gia nói, mà còn phải cố gắng để sao cho người học hiểu đúng. Tuyên có một ước mơ cháy bỏng là được một lần đặt chân đến Liên Xô. Rất tiếc đến giờ tôi vẫn không biết ước mơ đó của anh có được thực hiện hay không.
    Sau đó là giai đoạn hai kéo dài khoảng 1 tháng rưỡi với mục tiêu hướng dẫn các khẩu đội thực hiện bắn thật. Trong giai đoạn này các chiến sĩ Việt Nam làm việc chung với các "thầy giáo" Liên Xô. Sang giai đoạn ba, bộ đội Việt Nam tự thao tác dưới sự dìu dắt của các chuyên gia Liên Xô.

    Bộ đội Việt Nam cùng các chuyên gia Liên Xô năm 1965.
    Những tấm gương
    Nhưng đúng trước ngày đưa tên lửa vào đánh thật, thì chỉ huy tiểu đoàn của chúng tôi bị ốm nặng nên được đưa gấp về Liên Xô điều trị. Người thay thế là chỉ huy đội cao xạ 1 - đại uý Gladyshev A.P. Trước khi sang Việt Nam, chàng sĩ quan mới 27 tuổi này đã được tặng thưởng Huân chương Sao Đỏ của Chính phủ Liên Xô vì thành tích nắm vững khí tài mới. Điều kiện chiến tranh ở Việt Nam đã giúp anh phát huy được khả năng của mình đầy đủ hơn.
    Tuân thủ những nguyên tắc chính của phòng không là phải tiêu diệt tất cả những mục tiêu trong vùng bắn trúng của tên lửa, cũng như những mục tiêu tiệm cận với công trình cần bảo vệ, Gladyshev là người ra quyết định bắn trong những điều kiện phức tạp nhất. Bằng sự nhạy cảm và kinh nghiệm chỉ huy, anh đã quyết định không bắn vào một chiếc máy bay vận tải nước ngoài không được trang bị kỹ thuật nhận dạng. Quân đội Mỹ bị tổn thất nặng nề, đặc biệt là ngày 7.8.1966 - ngày mệnh danh là "chủ nhật đen" và quyết định không oanh tạc miền Bắc nữa. Tiểu đoàn chúng tôi đã bắn rơi được 6 máy bay địch, tiêu tốn 15 quả tên lửa. Do tích cực chiến đấu mà chỉ sau một thời gian ngắn, tiểu đoàn chúng tôi đã sử dụng gần hết số tên lửa dự trữ.
    Hạ sĩ Volodia Chernenko - người hiệu chỉnh tầm bắn - bị một loại côn trùng độc hại cắn, chân sưng rất to, phải đưa đi bệnh viện điều trị. Không có ai thay anh cả, mà nếu thiếu anh thì cả đơn vị lại không bắn được. YÁ thức được nhiệm vụ của mình, Volodia đã thuyết phục các bác sĩ cho anh điều trị ngoại trú. Và ròng rã ba tháng trời sau đó anh không rời vị trí chiến đấu của mình, mặc dù có khi cái chân sưng to vì nhiễm trùng. Cho đến tận khi lên đường về nước, anh vẫn làm việc chính xác và làm tất cả có thể để cùng đồng đội giành chiến thắng. Anh được Nhà nước Liên Xô tặng thưởng Huân chương Sao Đỏ.
    Có một chi tiết cảm động mà tôi không bao giờ quên. Khi huấn luyện, tôi để ý thấy các sĩ quan Việt Nam luôn bám sát tôi và vô hình trung gây khó khăn cho công tác chỉ huy chiến đấu. Đầu tiên tôi có cảm giác rằng họ không nhìn thấy hết nên cố gắng xích lại gần tôi. Sau đó tôi vỡ lẽ ra rằng chuyện không phải như vậy, vì tôi chia sẻ mọi bí mật về phương pháp đối với họ. Tìm hiểu thì tôi mới được biết, các sĩ quan Việt Nam quyết tâm không để bất cứ chuyên gia Liên Xô nào bị thương. Nên cứ mỗi khi có máy bay Mỹ oanh tạc, họ lại lấy thân mình che chở cho chúng tôi. Có lần ở khẩu đội bên cạnh, trong lúc máy bay Mỹ oanh tạc, thì thiết bị bắn bị hỏng. Người trung sĩ Liên Xô chạy ra để chỉnh lại. Ngay lập tức các chiến sĩ Việt Nam đã đuổi theo anh và che chở cho anh. 5 người Việt bị thương, nhưng viên trung sĩ không hề hấn gì.
    Sự quả cảm và gan dạ của bộ đội Việt Nam thật đáng kính phục. Quyết tâm không hề lay chuyển phải tiêu diệt bằng được máy bay địch dù hy sinh tính mạng đã giúp họ luôn chiến thắng. Bằng những nỗ lực quên mình như thế, nhân dân Việt Nam đã đi đến thắng lợi cuối cùng, phá tan huyền thoại về sự vô song của sức mạnh quân sự Mỹ. Chúng tôi tự hào đã được đóng góp một phần nhỏ bé trong chiến thắng đó.
  5. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0

    Chuyên gia tại chỗ hết sức quan trọng. Theo tinh thần hồi ký thì nếu không có chuyên gia Liên xô, tiểu đoàn tên lửa không thể chiến đấu được.
    Trong tạp chí Sự kiện Nhân chứng có lần có bài về các sỹ quan tên lửa Liên xô đã hy sinh trong chiến tranh Việt nam. Đa phần là dân Kadactan, Tuốc mê nis tan, Belarus. Ông phó thủ tướng Bêlaruxia hiện nay cũng từng là lính chiến đấu ở Việt nam về.
    Kề vai cùng Việt Nam anh em chống Mỹ xâm lược
    Nhân kỷ niệm 30 năm chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ và kỷ niệm 60 năm Chiến thắng phátxít Đức của nhân dân Liên Xô, Nhà xuất bản Ekzamen của Nga đã cho ra mắt cuốn sách với tiêu đề "Chiến tranh ở Việt Nam... như nó đã có (1965 - 1973)". Cuốn sách dày 548 trang, chứa đựng hồi ức của 29 chuyên gia quân sự Liên Xô đã kề vai sát cánh với quân đội và nhân dân Việt Nam trong những năm tháng ác liệt. Những dòng hồi ức cảm động đã ca ngợi tinh thần đấu tranh anh dũng và ngoan cường của nhân dân Việt Nam, cũng như sự giúp đỡ vô tư, tinh thần quốc tế cao cả của những đại diện cho nhiều dân tộc thuộc Liên Xô lúc đó. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số đoạn trích từ cuốn sách này.
    Tâm sự về chiến tranh Việt Nam với bạn trẻ Nga hôm nay

    Thượng uý Anosov A.M.
    Sinh năm 1936;
    Tiến sĩ kỹ thuật, được Giải thưởng Lênin về khoa học kỹ thuật;
    Có mặt tại Việt Nam từ tháng 12.1967 đến tháng 8.1968.
    ... Cuộc sống đã thay đổi 180 độ kể từ đó đến nay. Điều chủ yếu nhất là mọi giá trị đã bị đảo lộn. Giờ đây tất cả đều nói đến tiền. Chẳng lẽ chúng tôi đã đến Việt Nam cũng vì tiền sao? Liệu thế hệ trẻ hiện nay có hiểu chúng tôi không? Một thanh niên đọc hồi ức của chúng tôi và sẽ nói: Ôè đây không phải là chiến tranh, mà là trò tiêu khiển. Nhớ đến nó mà làm gì? Các ông đã đến Việt Nam bò dưới bom đạn, tiêu phí biết bao nhiêu tiền khiến đất nước bị khánh kiệt.
    Chúng tôi sẽ tha thứ sự vô liêm sỉ có mức độ của các bạn trẻ hôm nay. Tôi nghĩ rằng họ cũng giống như những con nhím xù lông tự vệ trước cuộc sống đổ ập xuống đầu chúng ta. Nào hãy thử cùng bình tĩnh xem xét nhé.
    Thứ nhất, về cái gọi là "trò tiêu khiển". Tại Việt Nam, 57 nghìn lính Mỹ đã thiệt mạng, tức là gấp 10 lần so với sự thiệt hại của họ trong Chiến tranh Thế giới II. Việt Nam phải hứng chịu gần 14 triệu tấn bom, đạn và mìn, lớn gấp vài lần so với tổng số bom đạn mà tất cả các bên tham gia vào Chiến tranh Thế giới II đã tiêu tốn. Bạn trẻ ơi, bạn hãy lấy bản đồ địa lý, hãy so sánh diện tích Việt Nam và Châu Âu, để xem xem chết chóc giáng xuống mảnh đất Việt Nam lớn gấp mấy chục lần trong "trò tiêu khiển" ấy?
    Thứ hai, về ký ức. Giờ đây "trụ cột chính của văn minh phương Tây và vật bảo đảm cho nền dân chủ trên toàn thế giới" là thế lực "chúa đất" muốn gì làm nấy. Muốn máu đổ ở Iraq hay Nam Tư là làm ngay. Liệu mọi chuyện cứ diễn ra như thế hay sao? Đối với nhân loại hôm nay thì không có gì quan trọng hơn vấn đề này. Cần phải biết rất nhiều để trả lời trúng câu hỏi này. Nào hãy cùng nhớ lại.
    Tháng 8.1972, đàm phán hoà bình diễn ra tại Paris. Mỹ cố gắng trói buộc Việt Nam vào những điều khoản không thể chấp nhận được. Việt Nam tất nhiên đã từ chối. Đoàn đàm phán Mỹ rời Paris và đến tháng 12 Mỹ huy động khoảng 800 máy bay, trong đó có không ít máy bay B52 từ các căn cứ không quân trong khu vực vào cuộc không kích tổng lực tàn phá Việt Nam. Mỗi con quỷ bay đó mang theo đến 27 tấn bom, ném vào những khu dân cư đông đúc. Nhưng Mỹ đã tính toán sai lầm. Trong 12 ngày tấn công, 81 máy bay Mỹ đã bị bắn hạ, trong số đó có 34 chiếc B52 và có đến 31 chiếc B52 bị tên lửa C-75 của Liên Xô hạ gục. Thất bại đó đã buộc Mỹ phải quay lại bàn đàm phán ở Paris, để rồi đến tháng giêng 1973 ký hiệp định hoà bình công nhận thất bại của mình.
    Thứ ba, về tiền. Đúng, đúng là đất nước ta đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều tiền của. Nhưng bạn trẻ ơi, hãy nói cho tôi, bạn có tiếc không nếu phải rút tiền của chính mình để có được sự thắng lợi của chính nghĩa trên quy mô như vậy? Vâng, đúng là như thế. Sự thắng lợi của chính nghĩa trên quy mô toàn thế giới! Chẳng lẽ bạn lại tiếc? Tôi không tin.
    Nếu có tiếc, thì tiếc là chiến thắng ở Việt Nam lại là ngày chiến thắng huy hoàng cuối cùng của thế kỷ 20. Sau đó thế giới chìm vào dải đen kéo dài. Nhưng điều đó cũng có nghĩa rằng dải đen ấy sắp chấm dứt.
    Cuối cùng, điều phức tạp nhất chính là về nước Nga của chúng ta. Ơ đây, bạn trẻ ơi, bạn tương đối đúng vì chúng ta đã thất bại. Nhưng trong cuộc chiến nào? Trong cuộc chiến của dối lừa, của mua chuộc, của nhen nhóm những bản năng thú tính. Chẳng nhẽ chúng ta có thể đứng vững trong cuộc chiến đó, khi mà đội quân thứ năm (hay còn gọi là bọn gián điệp) xuất hiện ở cả cấp cao nhất. Và cái đội quân ấy được xây dựng bằng chính tiền của thế lực "chúa đất". Số tiền bỏ ra là nhiều triệu đôla và với số tiền ấy thì có thể mua rẻ được không ít những "nhà dân chủ". Tôi khuyên các bạn trẻ hãy đọc báo cáo mà Mỹ trình bày tại phiên họp kín bộ chỉ huy liên quân ngày 25.10.1995 nêu rõ kế hoạch chia nhỏ nước Nga như thế nào. Nhất là các bạn hãy còn đang lơ mơ về cái bánh vẽ dân chủ mà các phương tiện truyền thông độc lập (với chúng ta) của chúng ta đưa ra.
    Có xấu hổ không khi phải thua trong một cuộc chiến như thế? Nói một cách cay đắng thì không. Lũ vi trùng có thể tấn công cơ thể người khiến ta ngã bệnh mà chết. Nhưng có ai thông minh mà lại để lên một bên cán cân là con người, còn bên kia là "kẻ chiến thắng"- tức con vi trùng giết người? Q.A dịch
    "Bộ đội Việt Nam lấy thân mình che chở chúng tôi"
    Thiếu tướng Kanaev V.M.
    Sinh năm 1939;
    Giáo sư - tiến sĩ khoa học quân sự.
    Người Việt học rất nhanh
    Đầu tháng tư năm 1966, chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm và được chở ngay đến trung tâm huấn luyện đóng tại một khu rừng cách Hà Nội không xa. Trung tâm được ngụy trang kỹ càng, chỗ ở và lớp học đều ở trong những ngôi nhà lá. Sau đó khi nhận được khí tài thì đây cũng chính là nơi dựng lên những tổ hợp tên lửa phòng không. Do không được sử dụng sóng liên lạc, nên công việc học tập phải diễn ra theo cách thức mô phỏng. Mặc dù điều kiện thời tiết nóng ẩm rất khó chịu và cường độ làm việc cao kéo dài, nhưng nhóm chuyên gia Liên Xô đã hết sức nỗ lực truyền thụ kiến thức và kinh nghiệm cho bộ đội Việt Nam.
    Tôi ngạc nhiên về khả năng nắm bắt của các chiến sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan người Việt. Mặc dù hầu như không được học về vô tuyến điện tử, nhưng chỉ bằng cách tăng cường tự đào tạo ngoài giờ, họ đã có thể vận hành được khí tài sẵn sàng chiến đấu và bảo dưỡng khí tài theo từng trọng trách được phân công.
    Làm việc vất vả nhất lại là những người phiên dịch. Đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ ánh mắt chăm chú và thiết tha của Tuyên - người phiên dịch làm việc chủ yếu với chúng tôi tại trung tâm cũng như ngoài trận địa. Anh là mắt xích chính trong mối tiếp xúc giữa chúng tôi với các quân nhân Việt Nam, vì không những phải dịch chính xác điều mà các chuyên gia nói, mà còn phải cố gắng để sao cho người học hiểu đúng. Tuyên có một ước mơ cháy bỏng là được một lần đặt chân đến Liên Xô. Rất tiếc đến giờ tôi vẫn không biết ước mơ đó của anh có được thực hiện hay không.
    Sau đó là giai đoạn hai kéo dài khoảng 1 tháng rưỡi với mục tiêu hướng dẫn các khẩu đội thực hiện bắn thật. Trong giai đoạn này các chiến sĩ Việt Nam làm việc chung với các "thầy giáo" Liên Xô. Sang giai đoạn ba, bộ đội Việt Nam tự thao tác dưới sự dìu dắt của các chuyên gia Liên Xô.

    Bộ đội Việt Nam cùng các chuyên gia Liên Xô năm 1965.
    Những tấm gương
    Nhưng đúng trước ngày đưa tên lửa vào đánh thật, thì chỉ huy tiểu đoàn của chúng tôi bị ốm nặng nên được đưa gấp về Liên Xô điều trị. Người thay thế là chỉ huy đội cao xạ 1 - đại uý Gladyshev A.P. Trước khi sang Việt Nam, chàng sĩ quan mới 27 tuổi này đã được tặng thưởng Huân chương Sao Đỏ của Chính phủ Liên Xô vì thành tích nắm vững khí tài mới. Điều kiện chiến tranh ở Việt Nam đã giúp anh phát huy được khả năng của mình đầy đủ hơn.
    Tuân thủ những nguyên tắc chính của phòng không là phải tiêu diệt tất cả những mục tiêu trong vùng bắn trúng của tên lửa, cũng như những mục tiêu tiệm cận với công trình cần bảo vệ, Gladyshev là người ra quyết định bắn trong những điều kiện phức tạp nhất. Bằng sự nhạy cảm và kinh nghiệm chỉ huy, anh đã quyết định không bắn vào một chiếc máy bay vận tải nước ngoài không được trang bị kỹ thuật nhận dạng. Quân đội Mỹ bị tổn thất nặng nề, đặc biệt là ngày 7.8.1966 - ngày mệnh danh là "chủ nhật đen" và quyết định không oanh tạc miền Bắc nữa. Tiểu đoàn chúng tôi đã bắn rơi được 6 máy bay địch, tiêu tốn 15 quả tên lửa. Do tích cực chiến đấu mà chỉ sau một thời gian ngắn, tiểu đoàn chúng tôi đã sử dụng gần hết số tên lửa dự trữ.
    Hạ sĩ Volodia Chernenko - người hiệu chỉnh tầm bắn - bị một loại côn trùng độc hại cắn, chân sưng rất to, phải đưa đi bệnh viện điều trị. Không có ai thay anh cả, mà nếu thiếu anh thì cả đơn vị lại không bắn được. YÁ thức được nhiệm vụ của mình, Volodia đã thuyết phục các bác sĩ cho anh điều trị ngoại trú. Và ròng rã ba tháng trời sau đó anh không rời vị trí chiến đấu của mình, mặc dù có khi cái chân sưng to vì nhiễm trùng. Cho đến tận khi lên đường về nước, anh vẫn làm việc chính xác và làm tất cả có thể để cùng đồng đội giành chiến thắng. Anh được Nhà nước Liên Xô tặng thưởng Huân chương Sao Đỏ.
    Có một chi tiết cảm động mà tôi không bao giờ quên. Khi huấn luyện, tôi để ý thấy các sĩ quan Việt Nam luôn bám sát tôi và vô hình trung gây khó khăn cho công tác chỉ huy chiến đấu. Đầu tiên tôi có cảm giác rằng họ không nhìn thấy hết nên cố gắng xích lại gần tôi. Sau đó tôi vỡ lẽ ra rằng chuyện không phải như vậy, vì tôi chia sẻ mọi bí mật về phương pháp đối với họ. Tìm hiểu thì tôi mới được biết, các sĩ quan Việt Nam quyết tâm không để bất cứ chuyên gia Liên Xô nào bị thương. Nên cứ mỗi khi có máy bay Mỹ oanh tạc, họ lại lấy thân mình che chở cho chúng tôi. Có lần ở khẩu đội bên cạnh, trong lúc máy bay Mỹ oanh tạc, thì thiết bị bắn bị hỏng. Người trung sĩ Liên Xô chạy ra để chỉnh lại. Ngay lập tức các chiến sĩ Việt Nam đã đuổi theo anh và che chở cho anh. 5 người Việt bị thương, nhưng viên trung sĩ không hề hấn gì.
    Sự quả cảm và gan dạ của bộ đội Việt Nam thật đáng kính phục. Quyết tâm không hề lay chuyển phải tiêu diệt bằng được máy bay địch dù hy sinh tính mạng đã giúp họ luôn chiến thắng. Bằng những nỗ lực quên mình như thế, nhân dân Việt Nam đã đi đến thắng lợi cuối cùng, phá tan huyền thoại về sự vô song của sức mạnh quân sự Mỹ. Chúng tôi tự hào đã được đóng góp một phần nhỏ bé trong chiến thắng đó.
  6. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Người Liên Xô trong ?orừng rậm? Việt Nam Ngày 25 tháng 04 năm 2005

    Đầu năm 2005, Nhà xuất bản Kỳ thi của Nga đã cho ra mắt cuốn sách mang tên ?oChiến tranh ở Việt Nam đã diễn ra như thế nào??. Đây là tập hồi ký của một số chuyên gia Liên Xô trước đây đã từng công tác ở Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh từ năm 1965 đến năm 1973. Vừa ra mắt, cuốn sách đã gây khá nhiều sự chú ý của dư luận và được đưa ngay vào tủ sách giáo dục truyền thống yêu nước trong các trường đại học Nga. Dưới đây là câu chuyện của thiếu tướng I-u-ri A-lếch-xây-ê-vích, nguyên Phó tư lệnh quân đoàn phòng không đặc biệt số 17 thuộc quân khu Mát-xcơ-va, người từ tháng 3-1965 đến tháng 2-1966 là chuyên gia tại tiểu đoàn 82, trung đoàn phòng không 238 của Quân đội nhân dân Việt Nam.
    Đoàn tàu bí mật xuyên Xi-bê-ri
    Năm 1964, tôi nhận được lệnh chuẩn bị làm thủ tục ra nước ngoài công tác. Tháng 8-1964, khi đến địa điểm tập kết tại Trung tâm huấn luyện hạ sĩ quan phòng không thuộc Quân khu Ba-kin, nghe phong phanh sẽ sang công tác tại An-giê-ri. Điểm mặt, nhóm chúng tôi chủ yếu là sĩ quan và chiến sĩ thuộc Quân khu Ba-kin và Trường sĩ quan phòng không mang tên Oóc-giô-nhi-kít-gien-xki. Đến tháng 11 thì mọi công việc chuẩn bị đã hoàn tất và tất cả được đi nghỉ phép năm 1965.
    Đầu tháng giêng năm 1965, tôi đang nghỉ tại I-rơ-cút thì nhận được điện của tiểu đoàn trưởng lệnh quay lại gấp trung tâm huấn luyện. Đến nơi mới biết là kế hoạch đi An-giê-ri đã thay đổi và nhóm chúng tôi được giao nhiệm vụ quan trọng hơn. Dò hỏi mãi cũng chỉ biết đó là một đất nước cũng nóng và ẩm như An-giê-ri. Tôi được lệnh thành lập một đại đội tên lửa để bắt tay vào huấn luyện. Mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch và đầu tháng 2-1965, đại tá Ba-giê-nốp, trung đoàn trưởng, ra lệnh chuyển đơn vị sang tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Tất cả được phát quân phục dã ngoại, chuyển sang khẩu phần ăn thời chiến và được lệnh tuyệt đối không để lộ bất cứ thông tin gì liên quan đến chuyến đi. Sau đó là việc xác định tư tưởng với nhiệm vụ. Chỉ có 2 người tỏ ý không muốn ra nước ngoài công tác vì lý do cá nhân và những người này ngay lập tức được trả về đơn vị cũ.
    Từ trung tâm huấn luyện chúng tôi chuyển đến trường bắn Ca-pu-xtin I-át để tiếp nhận vũ khí và chuẩn bị bắn thử. Đó là hệ thống phòng không C-75 thế hệ đầu với tên lửa B-750. Việc bắn thử diễn ra tốt đẹp, mục tiêu bị diệt gọn không chệch một li. Đến đây thì mọi công việc chuẩn bị đã hoàn thành. Cuối tháng 2, chúng tôi ra ga và đoàn tầu nhằm hướng Đông tiến thẳng. Mọi thông tin về lộ trình tuyến đi được giữ bí mật tuyệt đối, không ai biết điểm cuối ở đâu. Tất cả được lệnh ở nguyên trên tầu và không được tiếp xúc với người dân. Nếu bất ngờ có ai hỏi thì chỉ trả lời là đi diễn tập. Lúc tôi nhận lệnh ra nước ngoài công tác, vợ tôi đang mang thai cháu đầu. Tháng chạp năm 1964, vợ tôi sinh con gái và tôi chỉ ở với cháu một tuần đã phải quay lại trung tâm huấn luyện. Biết tàu đi ngang qua thành phố quê ngoại An-ga-rơ-xcơ, nơi vợ tôi về nghỉ sau khi sinh, tôi nảy ý định gặp vợ và con gái một lần nữa trước khi đi công tác xa. Nhân lúc tàu dừng nghỉ ở một ga ven đường, tôi vội vã xuống ga điện cho vợ biết thời gian đoàn tàu đến An-ga-rơ-xcơ và dặn mang con gái ra ga để gặp mặt. Thế nhưng khi tàu đến An-ga-rơ-xcơ, mọi cửa ra vào đều khóa. Tôi chỉ kịp thoáng nhìn vợ với chiếc xe nôi bên cạnh khi đoàn tàu chạy ngang qua nhà bà ngoại.
    Tàu cứ thế chạy rồi bất ngờ dừng lại ở ga Chi-te vài ngày liền. Sau này chúng tôi mới biết đó là biện pháp nghi binh, tránh để tình báo đối phương có thể phát hiện điều gì. Điểm dừng cuối cùng của đoàn tầu là ga Ngoại Bai-can sát biên giới Trung Quốc. Đón chúng tôi là Trung tướng Go-đun, Tư lệnh phòng không quân khu. Đến lúc đó chúng tôi mới biết mình sẽ sang công tác ở Việt Nam. Khi chúc mọi người lên đường bình an, Trung tướng Go-đun nhắc nhở chúng tôi là đại diện của đất nước Liên Xô vĩ đại nên mọi hành động đều phải thận trọng và phải hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu cùng các bạn Việt Nam một cánh xứng đáng. Ông dặn dò thêm là phải tuyệt đối đúng mực trong quan hệ, yên tâm làm nhiệm vụ. Có thêm 2 người nữa tỏ ra chưa sẵn sàng vì hoàn cảnh gia đình và yêu cầu của họ được chấp nhận ngay. Từ đây, chúng tôi lên tàu Trung Quốc đi tiếp sang Việt Nam.
    Ấn tượng còi báo động và Hà Nội thời chiến
    Buổi tối đầu tiên trên tàu của Việt Nam, chúng tôi bắt đầu gặp khó khăn. Tàu quá hẹp so với toa tầu của Liên Xô, hai người khó có thể lách qua nhau ở cửa ra vào. Giường nằm thì quá ngắn, người khổ bình thường khi nằm thì phải thò chân xuống đất. Nhưng nhìn qua cửa sổ toa tầu tôi thấy rất nhiều điều thú vị. Chúng tôi được lệnh phải giữ bí mật tuyệt đối. Ra ngoài hút thuốc phải che thật kín không để lộ một đốm lửa. Đồng chí đại tá quân đội Việt Nam đi cùng luôn cảnh báo là bất cứ lúc nào máy bay do thám của Mỹ cũng có thể xuất hiện. Thông tin này làm chúng tôi rất ngạc nhiên: Làm sao máy bay Mỹ lại có thể bay tự do như vậy mà không bị trừng phạt?
    Tầu chạy liên tục 8 tiếng và rạng sáng thì đến Trại Cau. Bước xuống ga, cái nóng, cái ẩm phả ngay vào mặt. Trời mưa lác đác. Chúng tôi nhanh chóng bốc dỡ các thiết bị mang theo. Đến 9 giờ, lần đầu tiên tôi nghe thấy còi báo động có máy bay trinh sát của Mỹ và việc bốc dỡ ngay lập tức được ngừng lại. Chỉ đến tối, mọi công việc chuyển thiết bị vào rừng, nơi đặt trung tâm huấn luyện, mới diễn ra. Sự mệt mỏi của chuyến đi dài ngày cùng cái nắng nhiệt đới ngay lập tức đã quật ngã một số người. Những cơn sốt cao và đau đầu hành hạ chúng tôi. Đêm đêm, muỗi và các loại côn trùng thi nhau tấn công không cho ngủ yên. Chỉ đến khi các bạn Việt Nam cấp cho màn chống muỗi, chúng tôi mới có thể ngon giấc. Trong căng tin nhà ăn có bán nước khoáng của Liên Xô nhưng chúng tôi không có tiền Việt Nam để mua. Mỗi người được phát một chiếc bi đông, sáng sáng chúng tôi cho ít trà rồi đổ nước sôi vào để uống cả ngày.
    Nhiệm vụ của chúng tôi là huấn luyện các bạn Việt Nam kỹ thuật tên lửa phòng không. Mọi việc tiến hành với sự trợ giúp của phiên dịch. Cứ mỗi khi nghe từ ?oLiên Xô? là chúng tôi hiểu các bạn Việt Nam đang nói về mình. Trung tâm huấn luyện nằm trong một khu rừng rậm cách Trại Cau khoảng 20 phút đi ô tô. Cùng các bạn Việt Nam, chúng tôi bắt tay vào chuẩn bị nơi triển khai thiết bị cho các giờ lên lớp. Công việc phải tính toán cẩn thận để không phải chặt nhiều cây tránh bị lộ. Mỗi nhóm chúng tôi có nhiệm vụ huấn luyện cho hai khẩu đội tên lửa với biên chế đầy đủ của thời chiến. Giờ lý thuyết diễn ra trong các lán bằng tre, còn thực hành với khí tài thì trực tiếp ngoài thực địa. Vũ khí và các thiết bị kỹ thuật tiếp tục được gửi sang Việt Nam qua đường Trung Quốc hoặc đường tàu biển. Chúng được cất giấu cẩn thận trong khu rừng rậm gần trung tâm huấn luyện.
    Thường thì vào thứ bảy và chủ nhật, chúng tôi được đưa về sở chỉ huy trung đoàn để nghỉ ngơi, xem có thư gia đình và nhận tiền tiêu vặt. Họa hoằn mới được về Hà Nội. Hồi đó hàng hóa rất khan hiếm. Cả Hà Nội chỉ có một cửa hàng quốc tế dành riêng cho người nước ngoài, nơi có thể còn có thứ gì để mua. Tuy nhiên mỗi người chỉ được mua một lượng hàng nhất định. Mọi người nhờ tôi mua tổng cộng 65 cái đèn pin, trong khi mỗi lần xếp hàng cửa hàng chỉ bán cho nhiều nhất là 5 chiếc. Tôi phải vòng đi vòng lại nhiều lần đến mức cô bán hàng nhìn tôi phát chán. Thường thì chúng tôi chỉ mua đèn pin Trung Quốc, bật lửa và chỉ để khâu vá.
    Để có thể đưa trung đoàn huấn luyện vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu cần phải thành lập 4 tiểu đoàn tên lửa, trung tâm chỉ huy hỏa lực và tiểu đoàn bảo đảm kỹ thuật đạn. Các chuyên gia Liên Xô được biên chế vào tất cả các tiểu đoàn này, riêng tiểu đoàn 82 của tôi số lượng chuyên gia có nhiều hơn. Đây chính là cơ cấu biên chế hình thành lên trung đoàn tên lửa 238 của Quân đội Việt Nam. Mặc dù việc ngụy trang được tiến hành rất cẩn thận nhưng có lẽ phía Mỹ đã phát hiện ra điều khả nghi. Một thời gian sau, trên bầu trời Trại Cau xuất hiện 3 máy bay trinh sát bay rất thấp. Ngay ngày hôm sau, vào khoảng 5 giờ chiều, máy bay Mỹ bắn tên lửa xuống trung tâm huấn luyện. Rất may không ai việc gì và cũng không có thiệt hại gì về vật chất. Nhưng đối với chúng tôi, những ngày bình yên đã chấm dứt. Tiểu đoàn 82 bắt đầu bước vào chiến đấu.
    MẠNH TƯỜNG (Trích dịch)
    quandoinhandan.org.vn
  7. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Người Liên Xô trong ?orừng rậm? Việt Nam Ngày 25 tháng 04 năm 2005

    Đầu năm 2005, Nhà xuất bản Kỳ thi của Nga đã cho ra mắt cuốn sách mang tên ?oChiến tranh ở Việt Nam đã diễn ra như thế nào??. Đây là tập hồi ký của một số chuyên gia Liên Xô trước đây đã từng công tác ở Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh từ năm 1965 đến năm 1973. Vừa ra mắt, cuốn sách đã gây khá nhiều sự chú ý của dư luận và được đưa ngay vào tủ sách giáo dục truyền thống yêu nước trong các trường đại học Nga. Dưới đây là câu chuyện của thiếu tướng I-u-ri A-lếch-xây-ê-vích, nguyên Phó tư lệnh quân đoàn phòng không đặc biệt số 17 thuộc quân khu Mát-xcơ-va, người từ tháng 3-1965 đến tháng 2-1966 là chuyên gia tại tiểu đoàn 82, trung đoàn phòng không 238 của Quân đội nhân dân Việt Nam.
    Đoàn tàu bí mật xuyên Xi-bê-ri
    Năm 1964, tôi nhận được lệnh chuẩn bị làm thủ tục ra nước ngoài công tác. Tháng 8-1964, khi đến địa điểm tập kết tại Trung tâm huấn luyện hạ sĩ quan phòng không thuộc Quân khu Ba-kin, nghe phong phanh sẽ sang công tác tại An-giê-ri. Điểm mặt, nhóm chúng tôi chủ yếu là sĩ quan và chiến sĩ thuộc Quân khu Ba-kin và Trường sĩ quan phòng không mang tên Oóc-giô-nhi-kít-gien-xki. Đến tháng 11 thì mọi công việc chuẩn bị đã hoàn tất và tất cả được đi nghỉ phép năm 1965.
    Đầu tháng giêng năm 1965, tôi đang nghỉ tại I-rơ-cút thì nhận được điện của tiểu đoàn trưởng lệnh quay lại gấp trung tâm huấn luyện. Đến nơi mới biết là kế hoạch đi An-giê-ri đã thay đổi và nhóm chúng tôi được giao nhiệm vụ quan trọng hơn. Dò hỏi mãi cũng chỉ biết đó là một đất nước cũng nóng và ẩm như An-giê-ri. Tôi được lệnh thành lập một đại đội tên lửa để bắt tay vào huấn luyện. Mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch và đầu tháng 2-1965, đại tá Ba-giê-nốp, trung đoàn trưởng, ra lệnh chuyển đơn vị sang tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Tất cả được phát quân phục dã ngoại, chuyển sang khẩu phần ăn thời chiến và được lệnh tuyệt đối không để lộ bất cứ thông tin gì liên quan đến chuyến đi. Sau đó là việc xác định tư tưởng với nhiệm vụ. Chỉ có 2 người tỏ ý không muốn ra nước ngoài công tác vì lý do cá nhân và những người này ngay lập tức được trả về đơn vị cũ.
    Từ trung tâm huấn luyện chúng tôi chuyển đến trường bắn Ca-pu-xtin I-át để tiếp nhận vũ khí và chuẩn bị bắn thử. Đó là hệ thống phòng không C-75 thế hệ đầu với tên lửa B-750. Việc bắn thử diễn ra tốt đẹp, mục tiêu bị diệt gọn không chệch một li. Đến đây thì mọi công việc chuẩn bị đã hoàn thành. Cuối tháng 2, chúng tôi ra ga và đoàn tầu nhằm hướng Đông tiến thẳng. Mọi thông tin về lộ trình tuyến đi được giữ bí mật tuyệt đối, không ai biết điểm cuối ở đâu. Tất cả được lệnh ở nguyên trên tầu và không được tiếp xúc với người dân. Nếu bất ngờ có ai hỏi thì chỉ trả lời là đi diễn tập. Lúc tôi nhận lệnh ra nước ngoài công tác, vợ tôi đang mang thai cháu đầu. Tháng chạp năm 1964, vợ tôi sinh con gái và tôi chỉ ở với cháu một tuần đã phải quay lại trung tâm huấn luyện. Biết tàu đi ngang qua thành phố quê ngoại An-ga-rơ-xcơ, nơi vợ tôi về nghỉ sau khi sinh, tôi nảy ý định gặp vợ và con gái một lần nữa trước khi đi công tác xa. Nhân lúc tàu dừng nghỉ ở một ga ven đường, tôi vội vã xuống ga điện cho vợ biết thời gian đoàn tàu đến An-ga-rơ-xcơ và dặn mang con gái ra ga để gặp mặt. Thế nhưng khi tàu đến An-ga-rơ-xcơ, mọi cửa ra vào đều khóa. Tôi chỉ kịp thoáng nhìn vợ với chiếc xe nôi bên cạnh khi đoàn tàu chạy ngang qua nhà bà ngoại.
    Tàu cứ thế chạy rồi bất ngờ dừng lại ở ga Chi-te vài ngày liền. Sau này chúng tôi mới biết đó là biện pháp nghi binh, tránh để tình báo đối phương có thể phát hiện điều gì. Điểm dừng cuối cùng của đoàn tầu là ga Ngoại Bai-can sát biên giới Trung Quốc. Đón chúng tôi là Trung tướng Go-đun, Tư lệnh phòng không quân khu. Đến lúc đó chúng tôi mới biết mình sẽ sang công tác ở Việt Nam. Khi chúc mọi người lên đường bình an, Trung tướng Go-đun nhắc nhở chúng tôi là đại diện của đất nước Liên Xô vĩ đại nên mọi hành động đều phải thận trọng và phải hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu cùng các bạn Việt Nam một cánh xứng đáng. Ông dặn dò thêm là phải tuyệt đối đúng mực trong quan hệ, yên tâm làm nhiệm vụ. Có thêm 2 người nữa tỏ ra chưa sẵn sàng vì hoàn cảnh gia đình và yêu cầu của họ được chấp nhận ngay. Từ đây, chúng tôi lên tàu Trung Quốc đi tiếp sang Việt Nam.
    Ấn tượng còi báo động và Hà Nội thời chiến
    Buổi tối đầu tiên trên tàu của Việt Nam, chúng tôi bắt đầu gặp khó khăn. Tàu quá hẹp so với toa tầu của Liên Xô, hai người khó có thể lách qua nhau ở cửa ra vào. Giường nằm thì quá ngắn, người khổ bình thường khi nằm thì phải thò chân xuống đất. Nhưng nhìn qua cửa sổ toa tầu tôi thấy rất nhiều điều thú vị. Chúng tôi được lệnh phải giữ bí mật tuyệt đối. Ra ngoài hút thuốc phải che thật kín không để lộ một đốm lửa. Đồng chí đại tá quân đội Việt Nam đi cùng luôn cảnh báo là bất cứ lúc nào máy bay do thám của Mỹ cũng có thể xuất hiện. Thông tin này làm chúng tôi rất ngạc nhiên: Làm sao máy bay Mỹ lại có thể bay tự do như vậy mà không bị trừng phạt?
    Tầu chạy liên tục 8 tiếng và rạng sáng thì đến Trại Cau. Bước xuống ga, cái nóng, cái ẩm phả ngay vào mặt. Trời mưa lác đác. Chúng tôi nhanh chóng bốc dỡ các thiết bị mang theo. Đến 9 giờ, lần đầu tiên tôi nghe thấy còi báo động có máy bay trinh sát của Mỹ và việc bốc dỡ ngay lập tức được ngừng lại. Chỉ đến tối, mọi công việc chuyển thiết bị vào rừng, nơi đặt trung tâm huấn luyện, mới diễn ra. Sự mệt mỏi của chuyến đi dài ngày cùng cái nắng nhiệt đới ngay lập tức đã quật ngã một số người. Những cơn sốt cao và đau đầu hành hạ chúng tôi. Đêm đêm, muỗi và các loại côn trùng thi nhau tấn công không cho ngủ yên. Chỉ đến khi các bạn Việt Nam cấp cho màn chống muỗi, chúng tôi mới có thể ngon giấc. Trong căng tin nhà ăn có bán nước khoáng của Liên Xô nhưng chúng tôi không có tiền Việt Nam để mua. Mỗi người được phát một chiếc bi đông, sáng sáng chúng tôi cho ít trà rồi đổ nước sôi vào để uống cả ngày.
    Nhiệm vụ của chúng tôi là huấn luyện các bạn Việt Nam kỹ thuật tên lửa phòng không. Mọi việc tiến hành với sự trợ giúp của phiên dịch. Cứ mỗi khi nghe từ ?oLiên Xô? là chúng tôi hiểu các bạn Việt Nam đang nói về mình. Trung tâm huấn luyện nằm trong một khu rừng rậm cách Trại Cau khoảng 20 phút đi ô tô. Cùng các bạn Việt Nam, chúng tôi bắt tay vào chuẩn bị nơi triển khai thiết bị cho các giờ lên lớp. Công việc phải tính toán cẩn thận để không phải chặt nhiều cây tránh bị lộ. Mỗi nhóm chúng tôi có nhiệm vụ huấn luyện cho hai khẩu đội tên lửa với biên chế đầy đủ của thời chiến. Giờ lý thuyết diễn ra trong các lán bằng tre, còn thực hành với khí tài thì trực tiếp ngoài thực địa. Vũ khí và các thiết bị kỹ thuật tiếp tục được gửi sang Việt Nam qua đường Trung Quốc hoặc đường tàu biển. Chúng được cất giấu cẩn thận trong khu rừng rậm gần trung tâm huấn luyện.
    Thường thì vào thứ bảy và chủ nhật, chúng tôi được đưa về sở chỉ huy trung đoàn để nghỉ ngơi, xem có thư gia đình và nhận tiền tiêu vặt. Họa hoằn mới được về Hà Nội. Hồi đó hàng hóa rất khan hiếm. Cả Hà Nội chỉ có một cửa hàng quốc tế dành riêng cho người nước ngoài, nơi có thể còn có thứ gì để mua. Tuy nhiên mỗi người chỉ được mua một lượng hàng nhất định. Mọi người nhờ tôi mua tổng cộng 65 cái đèn pin, trong khi mỗi lần xếp hàng cửa hàng chỉ bán cho nhiều nhất là 5 chiếc. Tôi phải vòng đi vòng lại nhiều lần đến mức cô bán hàng nhìn tôi phát chán. Thường thì chúng tôi chỉ mua đèn pin Trung Quốc, bật lửa và chỉ để khâu vá.
    Để có thể đưa trung đoàn huấn luyện vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu cần phải thành lập 4 tiểu đoàn tên lửa, trung tâm chỉ huy hỏa lực và tiểu đoàn bảo đảm kỹ thuật đạn. Các chuyên gia Liên Xô được biên chế vào tất cả các tiểu đoàn này, riêng tiểu đoàn 82 của tôi số lượng chuyên gia có nhiều hơn. Đây chính là cơ cấu biên chế hình thành lên trung đoàn tên lửa 238 của Quân đội Việt Nam. Mặc dù việc ngụy trang được tiến hành rất cẩn thận nhưng có lẽ phía Mỹ đã phát hiện ra điều khả nghi. Một thời gian sau, trên bầu trời Trại Cau xuất hiện 3 máy bay trinh sát bay rất thấp. Ngay ngày hôm sau, vào khoảng 5 giờ chiều, máy bay Mỹ bắn tên lửa xuống trung tâm huấn luyện. Rất may không ai việc gì và cũng không có thiệt hại gì về vật chất. Nhưng đối với chúng tôi, những ngày bình yên đã chấm dứt. Tiểu đoàn 82 bắt đầu bước vào chiến đấu.
    MẠNH TƯỜNG (Trích dịch)
    quandoinhandan.org.vn
  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    "Vén màn nhiễu tìm thù"
    Báo Nhân dân Điện tử

    Cuối tháng 4-1972, trong đợt phá hoại miền bắc lần thứ hai, Mỹ đã sử dụng phương tiện "chiến tranh điện tử" mới. Trước tình hình đó, Ban nghiên cứu thiết bị chống nhiễu do Tiến sĩ Trần Thức Vân (Viện Kỹ thuật quân sự), phụ trách, được thành lập với nhiệm vụ tìm cách "vô hiệu hóa" chúng.
    "Chiến tranh điện tử" là cuộc chiến đấu thầm lặng nhưng vô cùng ác liệt và gian khổ. Mỹ đã áp dụng kỹ thuật hiện đại để chống phá các thiết bị điện tử của ta. Ðối tượng chính của chúng là các lực lượng phòng không - không quân. Ðịch dùng thiết bị điện tử để "bịt mắt" ra-đa của ta, làm cho các đơn vị hỏa lực không phát hiện được hướng bay của chúng. Không quân Mỹ đã đưa ra ba biện pháp để bảo đảm cho máy bay là: tránh hỏa lực phòng không; gây nhiễu bằng trang bị máy móc hiện đại ngay trên máy bay hoặc từ máy bay yểm trợ để làm yếu hỏa lực phòng không của đối phương; đánh phá tiêu diệt các trận địa phòng không.
    Làm thế nào để "Vén màn nhiễu tìm thù" ? Ðây là nhiệm vụ hết sức mới đối với những cán bộ khoa học của Viện Kỹ thuật quân sự. GS, TS, Thiếu tướng Trần Thức Vân, nguyên Viện trưởng Viện Kỹ thuật quân sự (xem ảnh) kể cho chúng tôi nghe công việc của những nhà "khoa học chiến sĩ": Lúc đó Ban Nghiên cứu chúng tôi bắt tay vào tìm hiểu hệ thống gây nhiễu từ các máy bay bị bắn cháy với các thiết bị đơn sơ. Nói là nghiên cứu "chiến tranh điện tử" nhưng chúng tôi hầu như chưa có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực đó. Từ năm 1967 chúng tôi đã cùng Phòng Khoa học quân sự của Bộ Tư lệnh Phòng không khảo sát phần đầu của tên lửa chống ra-đa (loại tên lửa tự bán theo cách sóng ra-đa để tiêu diệt ra-đa) tên gọi là Srike "Chiến tranh điện tử" tuy vậy những thông tin thu thập được còn hạn chế.
    Mục tiêu của ban kỹ thuật là: tập trung nghiên cứu tính năng chủ yếu của các thiết bị gây nhiễu và tên lửa chống ra-đa của không quân Mỹ từ đó tìm ra nhược điểm của các thiết bị. Sau đó báo cáo kết quả nghiên cứu lên cấp trên. Bộ Tư lệnh Phòng không xây dựng các biện pháp chiến thuật chống lại nhiễu và tên lửa tìm ra-đa của địch. Thừa kế những kinh nghiệm của Viện Kỹ thuật quân sự về nghiên cứu bom từ trường, Ban Nghiên cứu đã sử dụng một phương pháp tổng hợp tức là sử dụng nhiều nguồn thông tin để hỗ trợ nhau trước khi đưa ra kết luận. Mỗi lần cần khẳng định một vấn đề nào đó vừa nghiên cứu xong, các thành viên trong Ban được tạo cơ hội hỏi cung các phi công Mỹ tại "Khách sạn Hilton - Hà Nội", với các nội dung: trên một máy bay có bao nhiêu máy gây nhiễu, bao nhiêu tên lửa chống ra-đa, thời điểm phóng...
    Nguồn thông tin quyết định nhất để hiểu được cụ thể tính năng thiết bị là nghiên cứu từ vật thực. Với một đống các thiết bị được cán bộ của Viện thu về từ xác những chiếc máy bay bị lực lượng phòng không không quân bắn rơi cho dù bị cháy xém, lấm bùn đất, nhưng rất có giá trị đối với những người làm công tác nghiên cứu. Một thành viên trong Ban đã khôi phục được đèn phát nhiễu từ đó đo được công suất của nó. Cùng với các thông tin thu được sau khi hỏi cung phi công Mỹ tại "Khách sạn Hilton - Hà Nội" về đội hình máy bay, số lượng máy bay Ban Nghiên cứu đã tìm ra cơ sở khoa học của việc hình thành các giải nhiễu trên mô hình ra-đa, từ đó cùng với bên phòng không không quân có giải pháp "vén màn nhiễu tìm thù" (câu nói của bộ đội ra-đa).
    Kết quả nghiên cứu thứ hai đáng được ghi nhận đó là qua tìm hiểu máy gây nhiễu LQ-87 các nhà khoa học quân sự đã xác định được sự phân bố của nhiễu, hướng nào nhiễu yếu, hướng nào nhiễu mạnh. Vùng nhiễu yếu được đặt tên là "vùng mù". Nhờ xác định được "vùng mù" các nhà khoa học đã đề xuất phương án bố trí trận địa phòng không sao cho đánh địch đạt hiệu quả cao nhất.
    Ðến đầu năm 1972, Mỹ đã sử dụng thủ đoạn mới là kết hợp tên lửa chống ra-đa và gây nhiễu. Khi có nhiễu, bắt buộc ra-đa của ta phải mở để xác định mục tiêu. Ðiều đó tạo điều kiện cho tên lửa chống ra-đa của địch mò theo mô hình sóng ra-đa, dễ dàng bắn trúng các trạm ra-đa của ta. Ðể chống lại, bộ đội có giải pháp tắt mở đài ra-đa liên tục. Tuy vậy, có nguồn tin cho rằng tên lửa của địch vẫn "nhớ" được vị trí của ra-đa ngay cả khi ra-đa tắt. Sau khi nghiên cứu một quả tên lửa chống ra-đa còn nguyên vẹn Ban Nghiên cứu đã xác định tên lửa nói trên không có bộ nhớ tín hiệu. Kết quả nghiên cứu đó đã chứng minh cho trắc thủ của ta thông tin tên lửa chống ra-đa của địch có bộ nhớ chỉ là trò quảng cáo lừa bịp.
    Ðể đánh giá hiệu quả lực lượng phòng không, không quân nói chung, Ban Nghiên cứu thiết bị chống nhiễu nói riêng của Viện Kỹ thuật quân sự chúng tôi xin trích dẫn lời của tướng E-đơ nguyên Tham mưu phó của không quân Mỹ ở châu Âu: "Chúng tôi cho rằng bắc Việt Nam có một lực lượng phòng không dày dạn kinh nghiệm nhất trên thế giới. Rõ ràng họ có kinh nghiệm hơn bất kỳ một nước nào trong việc phóng tên lửa SAM hạ máy bay. Họ cũng có kinh nghiệm hơn bất cứ một lực lượng quân sự nào trong việc điều khiển ra-đa dẫn đường từ mặt đất".
    Gghi nhận những thành tích của các nhà khoa học quân sự, bộ đội phòng không, ngày 10-9-1996 ************* đã ký quyết định số 991 KT/ CTN tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt một cho Bộ Tư lệnh Phòng không và Viện Kỹ thuật quân sự vì đã có thành tích trong việc "nghiên cứu chống nhiễu trong cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở miền bắc 1968, 1969, 1970, 1972".

    HÀ HỒNG
  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    "Vén màn nhiễu tìm thù"
    Báo Nhân dân Điện tử

    Cuối tháng 4-1972, trong đợt phá hoại miền bắc lần thứ hai, Mỹ đã sử dụng phương tiện "chiến tranh điện tử" mới. Trước tình hình đó, Ban nghiên cứu thiết bị chống nhiễu do Tiến sĩ Trần Thức Vân (Viện Kỹ thuật quân sự), phụ trách, được thành lập với nhiệm vụ tìm cách "vô hiệu hóa" chúng.
    "Chiến tranh điện tử" là cuộc chiến đấu thầm lặng nhưng vô cùng ác liệt và gian khổ. Mỹ đã áp dụng kỹ thuật hiện đại để chống phá các thiết bị điện tử của ta. Ðối tượng chính của chúng là các lực lượng phòng không - không quân. Ðịch dùng thiết bị điện tử để "bịt mắt" ra-đa của ta, làm cho các đơn vị hỏa lực không phát hiện được hướng bay của chúng. Không quân Mỹ đã đưa ra ba biện pháp để bảo đảm cho máy bay là: tránh hỏa lực phòng không; gây nhiễu bằng trang bị máy móc hiện đại ngay trên máy bay hoặc từ máy bay yểm trợ để làm yếu hỏa lực phòng không của đối phương; đánh phá tiêu diệt các trận địa phòng không.
    Làm thế nào để "Vén màn nhiễu tìm thù" ? Ðây là nhiệm vụ hết sức mới đối với những cán bộ khoa học của Viện Kỹ thuật quân sự. GS, TS, Thiếu tướng Trần Thức Vân, nguyên Viện trưởng Viện Kỹ thuật quân sự (xem ảnh) kể cho chúng tôi nghe công việc của những nhà "khoa học chiến sĩ": Lúc đó Ban Nghiên cứu chúng tôi bắt tay vào tìm hiểu hệ thống gây nhiễu từ các máy bay bị bắn cháy với các thiết bị đơn sơ. Nói là nghiên cứu "chiến tranh điện tử" nhưng chúng tôi hầu như chưa có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực đó. Từ năm 1967 chúng tôi đã cùng Phòng Khoa học quân sự của Bộ Tư lệnh Phòng không khảo sát phần đầu của tên lửa chống ra-đa (loại tên lửa tự bán theo cách sóng ra-đa để tiêu diệt ra-đa) tên gọi là Srike "Chiến tranh điện tử" tuy vậy những thông tin thu thập được còn hạn chế.
    Mục tiêu của ban kỹ thuật là: tập trung nghiên cứu tính năng chủ yếu của các thiết bị gây nhiễu và tên lửa chống ra-đa của không quân Mỹ từ đó tìm ra nhược điểm của các thiết bị. Sau đó báo cáo kết quả nghiên cứu lên cấp trên. Bộ Tư lệnh Phòng không xây dựng các biện pháp chiến thuật chống lại nhiễu và tên lửa tìm ra-đa của địch. Thừa kế những kinh nghiệm của Viện Kỹ thuật quân sự về nghiên cứu bom từ trường, Ban Nghiên cứu đã sử dụng một phương pháp tổng hợp tức là sử dụng nhiều nguồn thông tin để hỗ trợ nhau trước khi đưa ra kết luận. Mỗi lần cần khẳng định một vấn đề nào đó vừa nghiên cứu xong, các thành viên trong Ban được tạo cơ hội hỏi cung các phi công Mỹ tại "Khách sạn Hilton - Hà Nội", với các nội dung: trên một máy bay có bao nhiêu máy gây nhiễu, bao nhiêu tên lửa chống ra-đa, thời điểm phóng...
    Nguồn thông tin quyết định nhất để hiểu được cụ thể tính năng thiết bị là nghiên cứu từ vật thực. Với một đống các thiết bị được cán bộ của Viện thu về từ xác những chiếc máy bay bị lực lượng phòng không không quân bắn rơi cho dù bị cháy xém, lấm bùn đất, nhưng rất có giá trị đối với những người làm công tác nghiên cứu. Một thành viên trong Ban đã khôi phục được đèn phát nhiễu từ đó đo được công suất của nó. Cùng với các thông tin thu được sau khi hỏi cung phi công Mỹ tại "Khách sạn Hilton - Hà Nội" về đội hình máy bay, số lượng máy bay Ban Nghiên cứu đã tìm ra cơ sở khoa học của việc hình thành các giải nhiễu trên mô hình ra-đa, từ đó cùng với bên phòng không không quân có giải pháp "vén màn nhiễu tìm thù" (câu nói của bộ đội ra-đa).
    Kết quả nghiên cứu thứ hai đáng được ghi nhận đó là qua tìm hiểu máy gây nhiễu LQ-87 các nhà khoa học quân sự đã xác định được sự phân bố của nhiễu, hướng nào nhiễu yếu, hướng nào nhiễu mạnh. Vùng nhiễu yếu được đặt tên là "vùng mù". Nhờ xác định được "vùng mù" các nhà khoa học đã đề xuất phương án bố trí trận địa phòng không sao cho đánh địch đạt hiệu quả cao nhất.
    Ðến đầu năm 1972, Mỹ đã sử dụng thủ đoạn mới là kết hợp tên lửa chống ra-đa và gây nhiễu. Khi có nhiễu, bắt buộc ra-đa của ta phải mở để xác định mục tiêu. Ðiều đó tạo điều kiện cho tên lửa chống ra-đa của địch mò theo mô hình sóng ra-đa, dễ dàng bắn trúng các trạm ra-đa của ta. Ðể chống lại, bộ đội có giải pháp tắt mở đài ra-đa liên tục. Tuy vậy, có nguồn tin cho rằng tên lửa của địch vẫn "nhớ" được vị trí của ra-đa ngay cả khi ra-đa tắt. Sau khi nghiên cứu một quả tên lửa chống ra-đa còn nguyên vẹn Ban Nghiên cứu đã xác định tên lửa nói trên không có bộ nhớ tín hiệu. Kết quả nghiên cứu đó đã chứng minh cho trắc thủ của ta thông tin tên lửa chống ra-đa của địch có bộ nhớ chỉ là trò quảng cáo lừa bịp.
    Ðể đánh giá hiệu quả lực lượng phòng không, không quân nói chung, Ban Nghiên cứu thiết bị chống nhiễu nói riêng của Viện Kỹ thuật quân sự chúng tôi xin trích dẫn lời của tướng E-đơ nguyên Tham mưu phó của không quân Mỹ ở châu Âu: "Chúng tôi cho rằng bắc Việt Nam có một lực lượng phòng không dày dạn kinh nghiệm nhất trên thế giới. Rõ ràng họ có kinh nghiệm hơn bất kỳ một nước nào trong việc phóng tên lửa SAM hạ máy bay. Họ cũng có kinh nghiệm hơn bất cứ một lực lượng quân sự nào trong việc điều khiển ra-đa dẫn đường từ mặt đất".
    Gghi nhận những thành tích của các nhà khoa học quân sự, bộ đội phòng không, ngày 10-9-1996 ************* đã ký quyết định số 991 KT/ CTN tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt một cho Bộ Tư lệnh Phòng không và Viện Kỹ thuật quân sự vì đã có thành tích trong việc "nghiên cứu chống nhiễu trong cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở miền bắc 1968, 1969, 1970, 1972".

    HÀ HỒNG
  10. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Ngày 4 tháng 4 năm 1995, theo hãng tin AP, chính phủ Việt Nam công bố con số tử vong và thương tích do hậu quả của cuộc chiến 21 năm là 5 triệu người, gồm hai triệu dân miền Bắc, hai triệu dân miền Nam và một triệu một trăm ngàn binh sĩ. Bản tin cũng giải thích lý do con số được công bố cao hơn những lần công bố khác trong thời chiến bởi vì nhà nước Việt Nam không muốn làm nao núng tinh thần dân chúng. Con số 5 triệu chỉ là con số ước lượng chủ quan và có thể hơi quá cao. Nhưng dù chỉ đúng một nửa thôi, cũng đã quá lớn so với một nước nhỏ về dân số và hẹp về diện tích như Việt Nam. Nếu so sánh với mức độ dân số Việt Nam trung bình khoảng 40 triệu người trong thời kỳ 1954 - 1975 và chấp nhận lời công bố ngày 4 tháng 4 năm 1995, 13 phần trăm dân số đã chết trong cuộc chiến. Tỉ lệ đó tương đương với 28 triệu dân Mỹ, 27 triệu dân Liên Xô và 107 triệu dân Trung Cộng vào thời điểm 1975.
    Trích tin từ báo của người Việt hải ngoại
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này