1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    1967:
    Phân tích giữa hè.
    Mid Summer Analysis.

    Trang 116-117.
    Các lực lượng tham gia chiến dịch Sấm rền đã có thể nhìn lại kết quả không chiến của nửa đầu năm 1967 với sự hài lòng. Không quân Bắc Việt (KQBV) đã mất 55 Mig trên trời và khoảng 30 chiếc nữa ở mặt đất - số lượng tương đương với toàn bộ lực lượng. Chỉ tính riêng tháng 4 và 5, kqbv mất 38 máy bay trong không chiến, trong khi thiệt hại của Mỹ vẫn thấp và Migs ít khi buộc được các máy bay ném bom phải bỏ vũ khí dọc đường [1].
    Không quân thành công trong các chiến dịch nhờ 3 phát triển. Trước hết là việc sử dụng ECM pod [2] cho F4. Vào tháng 5, tất cả F4 đã có ECM pod, cho phép chúng hộ tống đoàn cường kích đến mọi nơi. ECM cho phép F4 thâm nhập vào khu vực có SAM, với đội hình gắn chặt với cường kích; Vì KQBV tránh không cho Mig đối đầu với các F4 chuyên tuần phòng chống Mig, F4 sẽ có cơ hội tấn công nhiều hơn khi họ bay cùng với cường kích [3]
    Thứ hai, với việc trang bị gun pod (súng không-không treo bên ngoài) cho F4, F4 có thể tấn công Mig ở khoảng gần, bổ sung cho tên lửa vẫn đang gặp vấn đề về hiệu quả, nhất là khi bắn vào Mig17.
    Cuối cùng, việc trang bị mới bộ hỏi đáp QRC-248 (interrogator) trên EC121 cải thiện đáng kể khả năng phát hiện Mig và dẫn đường cho F tấn công chúng.
    Hải quân cũng "chơi" tốt, với 12 kills từ tháng 4 và tăng đáng kể hiệu quả sử dụng tên lửa với Aim-9D, với 9 kills.
    PHân tích vũ khí của Không quân Mỹ trong các trận không chiến giai đoạn tháng 4-6 cho thấy vấn đề tên lửa vẫn tồn tại. Trong 61 lần chạm trán, F4 KQ bắn 72 Aim-7, trúng 8 lần, tỷ lệ 11% thành công; và 59 Aim-9Bs, trúng 10 (17%). Thật ngạc nhiên, F105 bắn 11 lần Aim9 thì trúng 3 lần, đạt 27%, cao hơn nhiều so với F4 (7 trúng trong 48 lần bắn, hay 14%). 10 Aim-4d đã được bắn, nhưng không trúng lần nào.
    Cho đến lúc đó, kết quả dùng súng cannon lại rất khích lệ. F105 công kích 21 lần bằng súng và diệt 6 (hiệu quả 28%); F4 công kích 9 lần bằng súng và diệt 5, đạt 55%. THêm vào 11 kills, có 4 Mig bị thương do trúng đạn, đưa tỉ lệ trúng của cannon lên tới 50%. Kết quả tuyệt vời của dùng cannon bắt nguồn từ nhiều yếu tố.
    F-105 được sử dụng ngày càng nhiều để tuần phòng chống Mig (MigCAP) và rất nhiều trường hợp họ đã gặp Mig, do đó gunsight (kính ngắm của cannon) được điều chỉnh ở chế độ không đối không [4]
    Với F4, vì Mig cơ động chỉ để tránh tên lửa, và không nghĩ rằng bị tấn công bằng cannon. Việc cơ động tránh tên lửa này lại đưa Mig lại gần F4 hơn, trong tầm hiệu quả của cannon. [5]
    Cuối cùng, khả năng cơ động và trình độ phi công cũng là nhân tố quan trọng cho thành công của việc sử dụng súng.
    Giải thích:
    Cái này là theo tớ hiểu từ các chú bác và anh em làm trong không quân nói lại. Có cái thuộc quan điểm riêng của từng người.
    [1] Số máy bay thiệt hại ở mặt đất chắc thế nào cũng bao gồm cả máy bay bằng...cót tre do công binh ta đặt vào để nghi binh.
    Khi mig tấn công, để cho dễ cơ động tránh đạn, máy bay ném bom phải vứt bom đạn giữa đường, do đó phải quay về luôn vì chẳng còn bom mà tấn công mục tiêu).
    [2] Electronic Counter Mesure - Thùng treo trên cánh, có hệ thống gây nhiễu điện tử chống SAM-2 ngắm bắn
    [3] Không quân ta chủ trương chỉ tìm diệt cường kích vì nó ném bom phá hoại, và khó tự phòng vệ. Tránh tiêm kích, vì nó chẳng gây thiệt hại gì cho cơ sở vật chất, mà dây vào nó lại phiền hà). Đọc thêm Vùng trời - Hữu Mai.
    [4] Mỹ biết là KQBV sẽ chọn F105 thay vì F4, F8 do đó là loại cường kích nặng nề, khả năng cơ động phòng vệ và tấn công kém hơn hẳn so với Mig17, 21, hơn nữa F105 mới là đối tượng phá hoại chính.
    Do đó họ huấn luyện và trang bị nhẹ cho một số phi đội F-105 để dụ Mig đến thì sẽ bất ngờ dùng ưu thế số đông, bố trí nhiều phi đội vòng tròn tạo thế thuận lợi quây Mig lại tiêu diệt. Mig bị bất ngờ, vì nghĩ rằng F105 gặp Mig sẽ chạy, chứ không phản kích.
    Phi công ta số giờ bay rất ít, và trình độ tiếp thu các kỹ thuật còn hạn chế, nên dù máy bay có tính năng cơ động tốt hơn, nhưng phi công ta không tận dụng được ưu thế này, bị địch tấn công gây thiệt hại.
    Đọc thêm Ký sự Quân chủng Phòng Không - KQ tập 2.
    [5] Bình thường từ trước cho đến lúc đó F4 không có cannon. Mig bay càng gần F4 thì F4 càng không thể bắn tên lửa, do dùng tên lửa đòi hỏi phải có khoảng xa nhất định mới bắn được. Bay càng gần F4 tức là phi công ta đã tự bảo vệ mình)
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 17:09 ngày 10/04/2005
  2. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Lược dịch
    Mig phản đòn.
    The Migs strike back

    Trang 118 - ...
    Tháng 8, Hội đồng Nghị sỹ về "Sự sẵn sàng của Quốc phòng" đã tổ chức đối chất về cuộc chiến, trong đó Tướng William W.Momyer cựu tư lệnh Lực lượng Không quân 7 (phụ trách các hoạt động trên lãnh thổ Bắc Việt) bình luận về thành công trong mùa hè:
    "Chúng ta đã đuổi Mig khỏi bầu trời...". Thật không may, giống như phần lớn các dự đoán của các tướng lĩnh Mỹ về cục diện chiến tranh VN, nó đã sai.
    Lời bình luận sai vì:
    - QRC-248 vẫn chưa được sử dụng hiệu quả nhất.
    - Hiệu quả sử dụng tên lửa nói chung vẫn tồi, và không có dấu hiệu cải thiện.
    - Aim-4d dùng riêng cho F-4D đặc biệt không hiệu dụng, trong khi đó là tên lửa tìm nhiệt duy nhất F4D có thể sử dụng -> Khả năng của F4 mới không tăng nhiều.
    Mig21 đã chứng tỏ rõ ràng (demonstrate conclusively) ưu việt hơn F105. Báo cáo cho thấy GCI của Bắc Việt đã nâng chất đáng kể.
    Nửa đầu 67, Mỹ có những phi công F4 kinh nghiệm tốt nhất + lãnh đạo tuyệt vời, trong khi Mig chỉ có phi công không kinh nghiệm sử dụng chiến thuật kém cỏi.
    Vào tháng 8, do chính sách thay đổi đã có tác động tới KQ.
    - Phi công huấn luyện kém hơn so với trước. Do thời gian phục vụ ngắn (quay vòng sau 100 phi vụ hoặc 1 năm phục vụ ở VN) nên phi công kém hiểu và gắn kết với nhau trong chiến đấu. Nguồn phi công cạn kiệt.
    ...
    Thống kê vào 6/1966, trung bình phi công tại ĐNÁ bay 500 giờ chiến đấu. 6/68 giảm xuống còn 240.
    Hầu như tất cả tốt nghiệp trường bay đều ngồi sau ở F4, vị trí mà kỹ năng của phi công không có ý nghĩa. Phi công thực sự (F105 và phi công ngồi trước F4) vốn được coi là có kỹ năng chiến thuật chỉ chiếm 30% giữa năm 67 so với 65% trước đó.
    Tàu sân bay:
    Carrier operations (trang 119-...)
    Tàu sân bay tiến hành hai loại chiến dịch chính:
    - Chu kỳ (cyclic operation): cứ mỗi 1.5 tiếng dùng khoảng 1/2 số máy bay (từ 25 -40); hoặc là 8 chu kỳ trong vòng 12 giờ. Tối đa 20 máy bay cho một mục tiêu (chủ yếu là mạng vận tải).
    - Alpha: khi cần tấn công tối đa. Toàn bộ máy bay của một tàu được tổ chức thành một lực lượng tấn công một mục tiêu chỉ định (thường trong Route Packages VI). Cần có phối hợp với các tàu và sân bay khác ở Thái.
    Một Sỹ quan liên lạc ghi nhận: Trong một tấn công trong ngày, trong vòng 20 dặm hoặc ít hơn từ bờ biển Bắc Việt, lực lượng 8 máy bay tấn công (A4 hoặc A6) + CAP (4-6 F4 + 2-4 F8 trang bị Aim9b), 4-6 A1 hoặc A4 trấn áp cao xạ, hai máy bay tiếp dầu, và tối thiểu 2 máy bay ECM [1]. Đa phần chỉ A4 và A6 ném bom.
    Giữa 1966, hẩi quân báo cáo thiếu phi công trầm trọng, có phi công phải bay 2 chuyến trong vòng 12 giờ.
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 17:06 ngày 10/04/2005
  3. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Lược dịch
    Mig phản đòn.
    The Migs strike back

    Trang 118 - ...
    Tháng 8, Hội đồng Nghị sỹ về "Sự sẵn sàng của Quốc phòng" đã tổ chức đối chất về cuộc chiến, trong đó Tướng William W.Momyer cựu tư lệnh Lực lượng Không quân 7 (phụ trách các hoạt động trên lãnh thổ Bắc Việt) bình luận về thành công trong mùa hè:
    "Chúng ta đã đuổi Mig khỏi bầu trời...". Thật không may, giống như phần lớn các dự đoán của các tướng lĩnh Mỹ về cục diện chiến tranh VN, nó đã sai.
    Lời bình luận sai vì:
    - QRC-248 vẫn chưa được sử dụng hiệu quả nhất.
    - Hiệu quả sử dụng tên lửa nói chung vẫn tồi, và không có dấu hiệu cải thiện.
    - Aim-4d dùng riêng cho F-4D đặc biệt không hiệu dụng, trong khi đó là tên lửa tìm nhiệt duy nhất F4D có thể sử dụng -> Khả năng của F4 mới không tăng nhiều.
    Mig21 đã chứng tỏ rõ ràng (demonstrate conclusively) ưu việt hơn F105. Báo cáo cho thấy GCI của Bắc Việt đã nâng chất đáng kể.
    Nửa đầu 67, Mỹ có những phi công F4 kinh nghiệm tốt nhất + lãnh đạo tuyệt vời, trong khi Mig chỉ có phi công không kinh nghiệm sử dụng chiến thuật kém cỏi.
    Vào tháng 8, do chính sách thay đổi đã có tác động tới KQ.
    - Phi công huấn luyện kém hơn so với trước. Do thời gian phục vụ ngắn (quay vòng sau 100 phi vụ hoặc 1 năm phục vụ ở VN) nên phi công kém hiểu và gắn kết với nhau trong chiến đấu. Nguồn phi công cạn kiệt.
    ...
    Thống kê vào 6/1966, trung bình phi công tại ĐNÁ bay 500 giờ chiến đấu. 6/68 giảm xuống còn 240.
    Hầu như tất cả tốt nghiệp trường bay đều ngồi sau ở F4, vị trí mà kỹ năng của phi công không có ý nghĩa. Phi công thực sự (F105 và phi công ngồi trước F4) vốn được coi là có kỹ năng chiến thuật chỉ chiếm 30% giữa năm 67 so với 65% trước đó.
    Tàu sân bay:
    Carrier operations (trang 119-...)
    Tàu sân bay tiến hành hai loại chiến dịch chính:
    - Chu kỳ (cyclic operation): cứ mỗi 1.5 tiếng dùng khoảng 1/2 số máy bay (từ 25 -40); hoặc là 8 chu kỳ trong vòng 12 giờ. Tối đa 20 máy bay cho một mục tiêu (chủ yếu là mạng vận tải).
    - Alpha: khi cần tấn công tối đa. Toàn bộ máy bay của một tàu được tổ chức thành một lực lượng tấn công một mục tiêu chỉ định (thường trong Route Packages VI). Cần có phối hợp với các tàu và sân bay khác ở Thái.
    Một Sỹ quan liên lạc ghi nhận: Trong một tấn công trong ngày, trong vòng 20 dặm hoặc ít hơn từ bờ biển Bắc Việt, lực lượng 8 máy bay tấn công (A4 hoặc A6) + CAP (4-6 F4 + 2-4 F8 trang bị Aim9b), 4-6 A1 hoặc A4 trấn áp cao xạ, hai máy bay tiếp dầu, và tối thiểu 2 máy bay ECM [1]. Đa phần chỉ A4 và A6 ném bom.
    Giữa 1966, hẩi quân báo cáo thiếu phi công trầm trọng, có phi công phải bay 2 chuyến trong vòng 12 giờ.
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 17:06 ngày 10/04/2005
  4. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Các chiến dịch của KQ
    Trang 121?
    Chủ yếu sứ vụ hàng ngày của KQ là tấn công Alpha vào Route Package VI, khi thời tiết cho phép.
    KQ tiếp tục nhận thùng ECM, đủ cho máy bay ném bom và hộ tống, vào giữa 67.
    Vì đội hình 4 máy bay mang ECM rất hiệu quả, F105 bắt đầu bay theo đội hình 4 hoặc 5 phi đội 4 chiếc, bay gần nhau để tăng tối đa hiệu quả che dấu của ECM. Đội hình có thể tiến vào Bắc Việt ở độ cao trên 10,000 feets, an toàn khỏi cao xạ (85% mất mát do cao xạ là ở dưới 6,000 feets). Tất cả máy bay cùng lao xuống bom một lúc, khiến cao xạ phải lựa chọn giữa hàng loạt mục tiêu. Hơn nữa, Phi đội F105 đầu tiên bao giờ cũng mang bom chế áp cao xạ bằng cluster bom.
    Các phi đội Iron hand và MigCap cũng hưởng lợi. Iron hand F105 đến trước một vài phút, kiểm tra khí tượng và chế áp SAm, ở lại cho đến khi lực lượng ném bom cuối cùng rút đi. So với đội hình trải dài, đội hình lớn với các phi đội bay sít nhau (compact flights) tiến vào và thoát ly khu chiến rất nhanh, giảm thời gian Iron hand F105 phải chờ.
    F4 MigCap do bay gần F105 nên cũng được chia sẻ độ bao phủ của ECM, và có ưu thế so với Mig21 ở độ cao dưới 15,000 feets mà phi đội ném bom sử dụng.
    Chỉ cần 2 phi đội F4, một ở sau biên đội ném bom dẫn đầu đội hình, và một ở sau biên đội đi cuối đội hình, F4 có thể bảo vệ toàn bộ lực lượng.
    Một sỹ quan: "Bây giờ F4 sẽ bay chung với lực lượng ném bom 28-32 máy bay, tốc độ 520 - 560 knots, cao độ 13-17,000 feets, ném bom một tới 3 mục tiêu trong khu vực cận kề trong 1 phút, rồi rút đi với tốc độ 600 knots ra khỏi vùng nguy hiểm.
    Nhưng Hải quân coi đây là chiến thuật kém linh hoạt.
  5. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Các chiến dịch của KQ
    Trang 121?
    Chủ yếu sứ vụ hàng ngày của KQ là tấn công Alpha vào Route Package VI, khi thời tiết cho phép.
    KQ tiếp tục nhận thùng ECM, đủ cho máy bay ném bom và hộ tống, vào giữa 67.
    Vì đội hình 4 máy bay mang ECM rất hiệu quả, F105 bắt đầu bay theo đội hình 4 hoặc 5 phi đội 4 chiếc, bay gần nhau để tăng tối đa hiệu quả che dấu của ECM. Đội hình có thể tiến vào Bắc Việt ở độ cao trên 10,000 feets, an toàn khỏi cao xạ (85% mất mát do cao xạ là ở dưới 6,000 feets). Tất cả máy bay cùng lao xuống bom một lúc, khiến cao xạ phải lựa chọn giữa hàng loạt mục tiêu. Hơn nữa, Phi đội F105 đầu tiên bao giờ cũng mang bom chế áp cao xạ bằng cluster bom.
    Các phi đội Iron hand và MigCap cũng hưởng lợi. Iron hand F105 đến trước một vài phút, kiểm tra khí tượng và chế áp SAm, ở lại cho đến khi lực lượng ném bom cuối cùng rút đi. So với đội hình trải dài, đội hình lớn với các phi đội bay sít nhau (compact flights) tiến vào và thoát ly khu chiến rất nhanh, giảm thời gian Iron hand F105 phải chờ.
    F4 MigCap do bay gần F105 nên cũng được chia sẻ độ bao phủ của ECM, và có ưu thế so với Mig21 ở độ cao dưới 15,000 feets mà phi đội ném bom sử dụng.
    Chỉ cần 2 phi đội F4, một ở sau biên đội ném bom dẫn đầu đội hình, và một ở sau biên đội đi cuối đội hình, F4 có thể bảo vệ toàn bộ lực lượng.
    Một sỹ quan: "Bây giờ F4 sẽ bay chung với lực lượng ném bom 28-32 máy bay, tốc độ 520 - 560 knots, cao độ 13-17,000 feets, ném bom một tới 3 mục tiêu trong khu vực cận kề trong 1 phút, rồi rút đi với tốc độ 600 knots ra khỏi vùng nguy hiểm.
    Nhưng Hải quân coi đây là chiến thuật kém linh hoạt.
  6. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Lược nội dung
    Trang 123
    KQ chỉ trích chiến thuật của HQ và ngược lại. HQ chủ yếu sử dụng đội hình tấn công nhỏ và linh hoạt, được bảo vệ mạnh, không có effective ECM. Phóng từ tàu sân bay ở gần mục tiêu, đội hình HQ đến và rời mục tiêu rất nhanh; ý tưởng đội hình máy bay ném bom lớn bay cạnh nhau như thời WW 2 là lạ lẫm.
    KQ tấn công Route Package VI chuẩn mực hoá phần lớn các chiến thuật. Bình thường KQ lên lịch 4 tấn công lớn, 2 vào buổi sáng gián cách 5-30 phút và 2 vào buổi chiều. Đội hình điển hình là 4 phi đội F105 hoặc F4 cường kích, 2 phi đội phòng Mig, 2 phi đội F105 bàn tay sắt. Mỗi đợt ném bom cần 8 KC135 tiếp dầu trên không. Cộng với EB-66 và EC-121, máy bay tìm kiếm cứu hộ, máy bay trợ chiến khác, tổng số máy bay liên quan lên tới 110 chiếc.
    Thường số phi đội cường kích được tăng gấp đôi lên 8. Nhóm 4 phi đội ném bom thứ 2 tiếp cận không cách xa đội hình để tăng cường khả năng gây nhiễu, tận dụng bảo vệ chống Mig. Nhóm 2 ném bom cùng mục tiêu với nhóm 1, rút ra cùng đường. Nó tăng số lượng bom ném xuống mục tiêu, nhưng làm nảy sinh vấn đề điều hành (coordination).
    MB ném bom thường là f105 mang 6 bom 750pound Mark 117 ở giá treo dọc thân (center line rack), 2 thùng nhiên liệu ở cánh, và hoặc là 2 ECM pods, hoặc là 1 ECM và 1 Aim9b ở giá treo phía ngoài cánh. Một lựa chọn khác là thùng dầu ở dọc thân (thay chỗ bom Mark 117) và 2 bom 2000pound Mark 84 hoặc 3000pound mark 118 thay chỗ thùng dầu. Phi đội đầu sẽ trấn áp cao xạ, cluster bomb units (CBUs), rải số lượng lớn bom nhỏ (small bomblets) vào một khu vực rộng, thay cho bom thông thường. F4 phòng Mig và cũng dùng để ném bom.
    F4 mang tên lửa tìm nhiệt - Aim 4D hoặc Aim-9b - và một ECM pod ở mỗi giá treo phía trong ở trên cánh, 4 aim-7E, và 2 thùng dầu ở cánh. Với F4 chống Mig sẽ mang hoặc là thùng dầu, hoặc là thùng cannon ở giá treo dọc thân; Với F4 ném bom hoặc hộ tống ném bom sẽ mang hoặc là 6 bom 500 pound Mark 82 hoặc 5 bom 750 pound Mark 117 ở giá treo dọc thân. Trong phi vụ ném bom, ngay khi đã thả bom vào mục tiêu, F4 có thể chống Mig.
  7. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Lược nội dung
    Trang 123
    KQ chỉ trích chiến thuật của HQ và ngược lại. HQ chủ yếu sử dụng đội hình tấn công nhỏ và linh hoạt, được bảo vệ mạnh, không có effective ECM. Phóng từ tàu sân bay ở gần mục tiêu, đội hình HQ đến và rời mục tiêu rất nhanh; ý tưởng đội hình máy bay ném bom lớn bay cạnh nhau như thời WW 2 là lạ lẫm.
    KQ tấn công Route Package VI chuẩn mực hoá phần lớn các chiến thuật. Bình thường KQ lên lịch 4 tấn công lớn, 2 vào buổi sáng gián cách 5-30 phút và 2 vào buổi chiều. Đội hình điển hình là 4 phi đội F105 hoặc F4 cường kích, 2 phi đội phòng Mig, 2 phi đội F105 bàn tay sắt. Mỗi đợt ném bom cần 8 KC135 tiếp dầu trên không. Cộng với EB-66 và EC-121, máy bay tìm kiếm cứu hộ, máy bay trợ chiến khác, tổng số máy bay liên quan lên tới 110 chiếc.
    Thường số phi đội cường kích được tăng gấp đôi lên 8. Nhóm 4 phi đội ném bom thứ 2 tiếp cận không cách xa đội hình để tăng cường khả năng gây nhiễu, tận dụng bảo vệ chống Mig. Nhóm 2 ném bom cùng mục tiêu với nhóm 1, rút ra cùng đường. Nó tăng số lượng bom ném xuống mục tiêu, nhưng làm nảy sinh vấn đề điều hành (coordination).
    MB ném bom thường là f105 mang 6 bom 750pound Mark 117 ở giá treo dọc thân (center line rack), 2 thùng nhiên liệu ở cánh, và hoặc là 2 ECM pods, hoặc là 1 ECM và 1 Aim9b ở giá treo phía ngoài cánh. Một lựa chọn khác là thùng dầu ở dọc thân (thay chỗ bom Mark 117) và 2 bom 2000pound Mark 84 hoặc 3000pound mark 118 thay chỗ thùng dầu. Phi đội đầu sẽ trấn áp cao xạ, cluster bomb units (CBUs), rải số lượng lớn bom nhỏ (small bomblets) vào một khu vực rộng, thay cho bom thông thường. F4 phòng Mig và cũng dùng để ném bom.
    F4 mang tên lửa tìm nhiệt - Aim 4D hoặc Aim-9b - và một ECM pod ở mỗi giá treo phía trong ở trên cánh, 4 aim-7E, và 2 thùng dầu ở cánh. Với F4 chống Mig sẽ mang hoặc là thùng dầu, hoặc là thùng cannon ở giá treo dọc thân; Với F4 ném bom hoặc hộ tống ném bom sẽ mang hoặc là 6 bom 500 pound Mark 82 hoặc 5 bom 750 pound Mark 117 ở giá treo dọc thân. Trong phi vụ ném bom, ngay khi đã thả bom vào mục tiêu, F4 có thể chống Mig.
  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tiếp
    123-125
    Tiến vào Bắc VN từ phía đông (từ Vịnh Bắc bộ) hay từ Lào phụ thuộc vào quỹ đạo của máy bay tiếp dầu, gọi là "tracks", assigned to the strike force. Track được chọn dựa theo nhiều yếu tố, và tham mưu KQ đảm bảo track sẽ không gắn với bất cứ mục tiêu cụ thể nào, tránh để VN có thể suy luận được. Tiếp dầu trước trận đánh thực hiện ở 14,000 và 22,000 feet, rồi cả đoàn rời máy bay tiếp dầu ở khoảng kinh độ 20.
    NẾu tiếp dầu ở Lào, đoàn bay đi qua một trạm dẫn đường radio bí mật, gọi là TACAN channel 97, rồi vào tiếp tây Bắc Việt. Nếu đoàn bay được tiếp dầu ở Tan hoặc Brown anchors trên vịnh Bắc bộ, đoàn tiến vào Bắc việt qua bờ biển ở đảo Cát Bà, đông Hải phòng, và tập hợp ở một dãy núi nhỏ được biết đến với tên gọi "Little thud ridge" hoặc "Phantom ridge", để rồi tiến tới mục tiêu.
    Với lượng lớn máy bay, giao tiếp radio, sự hiện diện của máy bay gây nhiễu rada cảnh báo, gần như không thể che dấu Bắc Việt lực lượng ném bom đang tiến đến.
    Gây nhiễu (jamming) không cung cấp bảo vệ thực sự, nhưng làm giảm hiệu quả của dẫn đường mặt đất của VN, họ khó mà đánh giá được size và probable target. Dù gây nhiễu có thể được xem chỉ có tác động nhỏ (marginally), tốc độ của lực lượng tấn công khiến thời gian từ lúc tiến vào Bắc Việt cho đến lúc ném bom mục tiêu chỉ trong vòng 7-10 phút. Điều này là quan trọng.
    ECM bảo vệ quan trọng chống lại Sam, nhưng cũng gây ra nhiều bất lợi cho các phi đội. Do sơ đồ gây nhiễu JP (Jamming pattern), lực lượng bị hạn chế chỉ được nghiêng cánh 15 độ trong khu vực có cao xạ và SAm, và 20 độ ngoài khu vực này, khiến cho phi đội chỉ có thể điều chỉnh hướng từng tí một --> đường bay hầu như thẳng khiến dẫn đường mặt đất của VN có thể dự đoán được khu vực mục tiêu mà điều Mig đến hướng đó.
    Lực lượng tấn công tiến vào trên độ cao từ 11,000 đến 16,000 feets (18,000 feets là độ cao tối đa thực tế của một F105 mang tối đa vũ khí và dầu), và bay tốc độ cao, khoảng 540knot khi vào khu vực được bảo vệ. LLTC được dẫn đường bởi 2 phi đội Wild Weasel F105F đến trước đó vài phút. Mỗi phi đội WW chiếm một bên trong quỹ đạo và thực hiện 1 trong hai nhiệm vụ. Thứ nhất là Iron Hand: chế áp hay tấn công SAM và hệ rada cao xạ. Họ theo chiến thuật tìm-diệt, chủ động tìm rada và tấn công chúng.
    2 phi đội F4 hộ tống (escort) mỗi cuộc tấn công. Vì GCI của Bắc Việt có khả năng nhận diện được phi đội chuyên phòng Mig (MigCap) và các phi đội phòng vệ khác, chiến thuật này không hiệu quả. Do đó, thường một phi đội F4 hộ tống sẽ đi gần với đội hình dẫn đầu, và phi đội thứ hai ở phía sau; hoặc cả hai sẽ được bố trí ở phía sau.
    Từ 6/1967, QRC248 của EC121 có thể đưa thông tin tin cậy về hoạt động của Mig, cảnh báo cho MigCap và máy bay ném bom.
    Nếu Mig tấn công đội hình ném bom đang hướng tới mục tiêu, một phi đội MigCáp sẽ tấn công Mig, trong khi phi đội còn lại sẽ ở lại với đội hình ném bom. Khi đã đuổi xong Mig, phi đội này quay về với đội hình. Nếu Mig tấn công tất cả các phi đội MigCap, các phi đội ném bom phải tự bảo vệ lấy mình. Khi đó, họ bay theo đội hình Kim cương. Nếu Mig tấn công, phi đội dưới cùng gần nhất với Mig sẽ vứt bom và tiếp chiến Mig, trong khi phần còn lại tiếp tục may đến mục tiêu. Sau khi đánh trả Mig, các phi đội nhanh chóng tập hợp lại theo đội hình pod (kqndvn: pod formation: đội hình chống nhiễu). Các phi đội ném bom và migCap dùng tần số radio khác nhau, nhưng F4 có radio phụ để nghe F105.
    Các phi đội F4 nhanh chóng nhận ra vị trí sau đội hình ném bom của họ unsatisfactory, F4 phía sau nói chung không thể xua đuổi Mig. Nhưng Mig ít hoạt động trong qúy 3 1967 nên F4 chậm thay đổi đội hình.
    Khi đoàn đến mục tiêu, MigCap F4 thường tách ra, một phi đội bay trước phi đội Wild Weasel, phi đội kia đợi ở đường rút rồi đi theo. Máy bay ném bom cùng lúc thực hiện bổ nhào ném bom theo đội hình pod, giảm thiểu thời gian trên mục tiêu. Một đội hình ném bom bổ nhào của 24 hay 36 máy bay rất ấn tượng và hiệu quả, nhưng người dẫn đoàn phải có kỹ năng greate để dẫn mọi người đúng vị trí.
    Sau khi tấn công, cả đoàn rút ra với tốc độ cao và thực hiện tiếp dầu trên không (post-strike refuelling).
  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tiếp
    123-125
    Tiến vào Bắc VN từ phía đông (từ Vịnh Bắc bộ) hay từ Lào phụ thuộc vào quỹ đạo của máy bay tiếp dầu, gọi là "tracks", assigned to the strike force. Track được chọn dựa theo nhiều yếu tố, và tham mưu KQ đảm bảo track sẽ không gắn với bất cứ mục tiêu cụ thể nào, tránh để VN có thể suy luận được. Tiếp dầu trước trận đánh thực hiện ở 14,000 và 22,000 feet, rồi cả đoàn rời máy bay tiếp dầu ở khoảng kinh độ 20.
    NẾu tiếp dầu ở Lào, đoàn bay đi qua một trạm dẫn đường radio bí mật, gọi là TACAN channel 97, rồi vào tiếp tây Bắc Việt. Nếu đoàn bay được tiếp dầu ở Tan hoặc Brown anchors trên vịnh Bắc bộ, đoàn tiến vào Bắc việt qua bờ biển ở đảo Cát Bà, đông Hải phòng, và tập hợp ở một dãy núi nhỏ được biết đến với tên gọi "Little thud ridge" hoặc "Phantom ridge", để rồi tiến tới mục tiêu.
    Với lượng lớn máy bay, giao tiếp radio, sự hiện diện của máy bay gây nhiễu rada cảnh báo, gần như không thể che dấu Bắc Việt lực lượng ném bom đang tiến đến.
    Gây nhiễu (jamming) không cung cấp bảo vệ thực sự, nhưng làm giảm hiệu quả của dẫn đường mặt đất của VN, họ khó mà đánh giá được size và probable target. Dù gây nhiễu có thể được xem chỉ có tác động nhỏ (marginally), tốc độ của lực lượng tấn công khiến thời gian từ lúc tiến vào Bắc Việt cho đến lúc ném bom mục tiêu chỉ trong vòng 7-10 phút. Điều này là quan trọng.
    ECM bảo vệ quan trọng chống lại Sam, nhưng cũng gây ra nhiều bất lợi cho các phi đội. Do sơ đồ gây nhiễu JP (Jamming pattern), lực lượng bị hạn chế chỉ được nghiêng cánh 15 độ trong khu vực có cao xạ và SAm, và 20 độ ngoài khu vực này, khiến cho phi đội chỉ có thể điều chỉnh hướng từng tí một --> đường bay hầu như thẳng khiến dẫn đường mặt đất của VN có thể dự đoán được khu vực mục tiêu mà điều Mig đến hướng đó.
    Lực lượng tấn công tiến vào trên độ cao từ 11,000 đến 16,000 feets (18,000 feets là độ cao tối đa thực tế của một F105 mang tối đa vũ khí và dầu), và bay tốc độ cao, khoảng 540knot khi vào khu vực được bảo vệ. LLTC được dẫn đường bởi 2 phi đội Wild Weasel F105F đến trước đó vài phút. Mỗi phi đội WW chiếm một bên trong quỹ đạo và thực hiện 1 trong hai nhiệm vụ. Thứ nhất là Iron Hand: chế áp hay tấn công SAM và hệ rada cao xạ. Họ theo chiến thuật tìm-diệt, chủ động tìm rada và tấn công chúng.
    2 phi đội F4 hộ tống (escort) mỗi cuộc tấn công. Vì GCI của Bắc Việt có khả năng nhận diện được phi đội chuyên phòng Mig (MigCap) và các phi đội phòng vệ khác, chiến thuật này không hiệu quả. Do đó, thường một phi đội F4 hộ tống sẽ đi gần với đội hình dẫn đầu, và phi đội thứ hai ở phía sau; hoặc cả hai sẽ được bố trí ở phía sau.
    Từ 6/1967, QRC248 của EC121 có thể đưa thông tin tin cậy về hoạt động của Mig, cảnh báo cho MigCap và máy bay ném bom.
    Nếu Mig tấn công đội hình ném bom đang hướng tới mục tiêu, một phi đội MigCáp sẽ tấn công Mig, trong khi phi đội còn lại sẽ ở lại với đội hình ném bom. Khi đã đuổi xong Mig, phi đội này quay về với đội hình. Nếu Mig tấn công tất cả các phi đội MigCap, các phi đội ném bom phải tự bảo vệ lấy mình. Khi đó, họ bay theo đội hình Kim cương. Nếu Mig tấn công, phi đội dưới cùng gần nhất với Mig sẽ vứt bom và tiếp chiến Mig, trong khi phần còn lại tiếp tục may đến mục tiêu. Sau khi đánh trả Mig, các phi đội nhanh chóng tập hợp lại theo đội hình pod (kqndvn: pod formation: đội hình chống nhiễu). Các phi đội ném bom và migCap dùng tần số radio khác nhau, nhưng F4 có radio phụ để nghe F105.
    Các phi đội F4 nhanh chóng nhận ra vị trí sau đội hình ném bom của họ unsatisfactory, F4 phía sau nói chung không thể xua đuổi Mig. Nhưng Mig ít hoạt động trong qúy 3 1967 nên F4 chậm thay đổi đội hình.
    Khi đoàn đến mục tiêu, MigCap F4 thường tách ra, một phi đội bay trước phi đội Wild Weasel, phi đội kia đợi ở đường rút rồi đi theo. Máy bay ném bom cùng lúc thực hiện bổ nhào ném bom theo đội hình pod, giảm thiểu thời gian trên mục tiêu. Một đội hình ném bom bổ nhào của 24 hay 36 máy bay rất ấn tượng và hiệu quả, nhưng người dẫn đoàn phải có kỹ năng greate để dẫn mọi người đúng vị trí.
    Sau khi tấn công, cả đoàn rút ra với tốc độ cao và thực hiện tiếp dầu trên không (post-strike refuelling).
  10. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Lược nội dung:
    Trang 126.
    Trong khi đội hình lớn, bay ở độ cao trung bình có nhiều ưu điểm, nó cũng có các nhược điểm chiến thuật, chủ yếu là do nó dễ bị phát hiện.
    Ngoài tín hiệu ra đa lớn của đoàn bay khi tiếp dầu và đường bay tương đối thẳng để tận dụng bảo vệ của ECM pod, đuôi khói dày đặc từ đoàn bay cũng khiến cho Mig dễ dàng nhận diện, dù tầm nhìn hạn chế. Phi công Mỹ có thể dễ dàng thường xuyên nhìn thấy nhau từ 20-30 dặm.
    Trong thời gian thời tiết không thuận lợi, KQ dùng phương thức ném bom bay bằng, ở tốc độ ổn định, độ cao trung bình, đường bay thẳng, dẫn hướng bởi đài Tacan trên đất Lào. (Commando Nail hoặc Commando Club strikes). Ném bom qua mây dùng radar của hệ thống internal bombing system, vốn được thiết kế cho ném bom nguyên tử nên không đủ độ chính xác cho bom thông thường.
    Đường bay qua nhiều khu vực được phòng ngự mạnh nên thường là mục tiêu cho SAM và Mig. Nhiều khi do heavy losses, kiểu ném bom này bị huỷ bỏ.
    HỌ dùng hệ thống ném bom của máy bay
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này