1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tuan_red

    tuan_red Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Kqndvn đây rồi, truyện của bạn rất hay, post tiếp cho anh em đọc với. Thanksalot.
    Tặng 1 sao nhé
  2. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Người Liên Xô trong ?orừng rậm? Việt Nam (tiếp theo và hết)
    Ngày 26 tháng 04 năm 2005
    Chiến thuật ?otên lửa Liên Xô, cao xạ Việt Nam?
    Trận địa của tiểu đoàn 82 nằm ở phía Bắc Hà Nội trên một vị trí khá bằng phẳng gần đường nhựa. Ngay bên cạnh là cánh đồng lúa và xa hơn một chút là ngôi làng nhỏ. Vũ khí được triển khai ngay ngoài trời và chỉ được ngụy trang bằng lưới. Tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao liên tục được phát ra nên vũ khí và con người hoạt động tới 12-14 tiếng mỗi ngày. Thời tiết nóng ẩm nên máy móc rất nhanh hỏng, đặc biệt là biến thế. Vì thiết bị thay thế không có nên việc sửa chữa phải tiến hành bằng tay. Cứ sau mỗi lần phóng tên lửa là tiểu đoàn lại chuyển vị trí. Trong thời gian tôi phục vụ ở Việt Nam, tiểu đoàn 82 đã chuyển vị trí 17 lần. Công việc này được tiến hành vào ban đêm, việc tháo dỡ thiết bị chỉ bắt đầu từ 5 giờ chiều. Sau một thời gian, các bạn Việt Nam thành thục dần và bắt đầu có thể tác chiến độc lập.
    Chiến tranh ngày càng ác liệt buộc các bạn Việt Nam phải áp dụng thêm các biện pháp bảo vệ tên lửa. Xung quanh trận địa của chúng tôi xuất hiện các khẩu đội pháo cao xạ và số lượng ngày càng tăng. Chúng tôi bắt đầu được phát mũ sắt, còn bộ đội Việt Nam thì được trang bị súng tiểu liên. Các trận địa tên lửa được ngụy trang bằng các cây tre và chuối, bên cạnh trạm ra-đa điều khiển và bệ phóng người ta cho đào hầm trú ẩn, thỉnh thoảng bộ đội Việt Nam cho đắp thêm các bờ đất quanh bệ phóng. Công việc này nhiều khi được thực hiện với sự giúp đỡ của người dân địa phương. Bởi thời tiết quá nóng và độ ẩm cao, hầu như các chuyên gia Liên Xô khi trực chiến chỉ mặc mỗi quần đùi, đầu đội mũ lưỡi trai, tay thì cầm bi đông nước.
    Từ mùa thu năm 1965, không quân Mỹ đánh phá ngày càng ác liệt. Cứ chủ nhật là chúng giội bom dữ dội nên ngày nghỉ của chúng tôi chuyển sang thứ hai. Tôi nhớ nhất 2 trận đánh diễn ra vào tháng 10-1965. Đó là những kỷ niệm thời chiến không bao giờ quên. Khoảng 12 giờ sáng chủ nhật 31-10, ra đa phát hiện một loạt mục tiêu từ hướng tây-nam. Cách trận địa của tiểu đoàn 82 khoảng 17 km về phía tây là sân bay Kép, nơi bố trí các máy bay tiêm kích Mig-17 của Việt Nam. Ngày hôm đó, không quân Mỹ huy động khoảng 30 máy bay phong tỏa sân bay Kép, ném bom và bắn tên lửa xuống đường băng để không cho Mig-17 có thể cất cánh. Từ hướng tây, từng tốp 2-3 chiếc bay ở độ cao rất thấp tiến về phía trận địa của chúng tôi. Bắt được mục tiêu, tiểu đoàn phóng liền hai quả, hạ 2 máy bay Mỹ. Đúng lúc đó từ hướng đông dội về tiếng nổ của đạn cao xạ. Các máy bay Mỹ đã phát hiện vị trí của trận địa trên lửa và lao vào tấn công nhưng bị các đơn vị phòng không của Việt Nam đánh chặn, duy nhất chỉ có một chiếc bay cực thấp lọt qua lưới lửa cao xạ, ném bom và bắn rốc két vào trận địa của chúng tôi. Tôi nghe một tiếng nổ lớn rồi toàn bộ các thiết bị trên xe điều khiển ngừng hoạt động. Nhảy ra ngoài, tôi thấy quả tên lửa đã bị bom làm hư hại. Gần hầm trú ẩn, một người bạn của tôi người đầy máu vì mảnh đạn. Đúng lúc đó từ phía sân bay Kép xuất hiện 4 chiếc Mig -17 đang lấy dần độ cao hướng về phía chúng tôi. Bất ngờ 2 quả tên lửa không biết từ đâu bay tới. Sau này đại úy Mi-xây-ép, sĩ quan dẫn đường của tiểu đoàn 83 bên cạnh, cho biết lúc đó do không có thiết bị nhận biết địch-ta, tất cả máy bay xuất hiện đều bị coi là của địch nên mới xảy ra sự cố như vậy.
    Ngay sau trận đánh, chúng tôi được lệnh chuyển trận địa. Các đơn vị cao xạ của bộ đội Việt Nam cũng hành quân theo sau. Gặp nhau trên đường, chúng tôi không quên cảm ơn các bạn Việt Nam đã phối hợp bảo vệ rất tốt trận địa tên lửa.
    Bài học không thể nào quên
    Trận đánh ngày 31-10 có thể coi là thành công nhưng ngày chủ nhật hai tuần trước đó là một thử thách nặng nề. Lúc đó, vị trí đóng quân của đơn vị hoàn toàn không thuận lợi cho tác chiến. Dãy núi bên cạnh cản tầm quan sát, còn bệ phóng tên lửa và trạm điều khiển triển khai giữa nơi trống vắng, chỉ được ngụy trang bằng lưới. Sáng sớm chủ nhật 17-10, chúng tôi ra trận địa kiểm tra tình trạng vũ khí. Mọi việc đều bình thường nên chỉ có đội trực chiến ở lại còn tất cả ra xe về nơi nghỉ. Vì là ngày chủ nhật nên mỗi người dự định một việc. Người thì định viết thư, người thì chuẩn bị giặt giũ, đánh bài?Chưa ăn sáng xong thì còi báo động đã vang lên. Tất cả lại nhảy lên xe lao ra trận địa. Lúc chúng tôi đến, các thiết bị đã bật, ra-đa bắt đầu sục sạo dò tìm mục tiêu. Trên tiêu đồ theo dõi các mục tiêu ở xa, tình hình xem ra có vẻ rắm rối. Nhân viên tiêu đồ nhận thông tin rồi báo cáo với tiểu đoàn trưởng rồi sau đó phiên dịch mới dịch nội dung cho các chuyên gia biết. Ra-đa phát hiện một tốp máy bay của địch đang bay vào nhưng không thể định được tọa độ chính xác bởi nhiễu rất nặng. Trung tá Li-a-ki-xếp tỏ ra sốt ruột liền lệnh cho tôi chạy sang dõi tiêu đồ tác chiến ở đài chỉ huy bắn theo rồi qua điện thoại báo cáo góc phương vị và khoảng cách đến các mục tiêu.
    Tất cả sự tập trung của tiểu đoàn đều hướng về các mục tiêu ở hướng bắc. Tuy nhiên, vì màn hình ra đa bị nhiễu nặng nên không thể phát lệnh phóng tên lửa. Tất cả mọi người đều rất căng thẳng và bực bội. Bất chợt tôi nghe có tiếng kêu từ phía trận địa pháo phòng không bên cạnh. Vén lều bạt lên, tôi giật mình khi thấy một chiếc máy bay Mỹ đang lao tới từ phía nam. Nó chỉ cách trận địa chúng tôi khoảng 1,5 km - 2 km và bay thấp đến mức như sắp đâm vào núi. Tôi vội thông báo cho trung tá Li-a-ki-xếp biết đồng thời liếc mắt xem bệ phóng tên lửa hướng về đâu. Tất cả chúng đều quay sang phía bắc. Chưa kịp điều chỉnh bệ phóng hướng về mục tiêu thì trận địa pháo phòng không của bộ đội Việt Nam nổ súng. Chiếc máy bay bốc khói, bay được khoảng 500 m nữa thì đâm vào núi. Những tiếng hò reo vang lên.
    Đúng lúc đó thì từ hướng tây vọng đến tiếng gầm của động cơ máy bay. Sau đó vài giây là 3 tiểng nổ lớn ngay đằng sau trạm điều khiển. Tôi nhìn ra thì thấy quả tên lửa trên bệ phóng số 1 đã bị trúng bom tan ra từng mảnh. Trên trời, 3 chiếc máy bay của Mỹ bắt đầu vòng lại và tiếp đó là một loạt những tiếng nổ nữa. Bệ phóng số 6 bốc cháy. Mọi người lao vào dập lửa nhưng trung tá Li-a-ki-xếp hét lên, lệnh tất cả phải sơ tán khẩn cấp bởi quả tên lửa với 3600 mảnh đạn có thể nổ bất cứ lúc nào. Chúng tôi chạy vào hầm trú ẩn và cảm thấy vô cùng tức giận. Không ai có thể nghĩ rằng tên lửa thì cháy mà máy bay của địch còn chưa bị trừng trị. Vài giây sau, một tiếng nổ cực mạnh vang lên phá nát bệ phóng số 6.
    Khi bầu trời yên tĩnh trở lại, tôi chạy sang hầm trú ẩn bên cạnh thì nghe thấy tiếng rên. Lao vào thấy các bạn Việt Nam đang khiêng binh nhì Xmi-rơ-nốp, máu chảy ướt đẫm ở bụng và chân. Kiểm tra quân số đơn vị thấy thiếu mất 3 người. Hóa ra trong lúc chạy tìm chỗ tránh bom, 3 anh lính trẻ của chúng tôi bị dân quân Việt Nam bắt làm ?otù binh? vì tưởng là phi công Mỹ nhảy dù. Trở lại với Xmi-rơ-nốp, anh nhanh chóng được đưa về Hà Nội cứu chữa. Một tuần sau, mặc dù đã được mổ cắt quả thận giập nát vì mảnh bom nhưng vì vết thương quá nặng, Xmi-rơ-nốp đã ra đi mãi mãi. Thi hài của anh được đưa về nước bằng máy bay. Gia đình Xmi-rơ-nốp hoàn toàn không biết con trai mình đã hy sinh anh dũng trong tình huống nào.
    Cuộc chiến không cho chúng tôi nghỉ ngơi. Kiểm tra 4 bệ phóng còn lại, 2 bệ đã bị bom làm hư hại. Như vậy cả tiểu đoàn chỉ còn 2 bệ phóng và 2 quả lên lửa. Đến 12 giờ trưa, lại có một tốp máy bay Mỹ lao vào trận địa từ phía bắc. Lần này ra-đa xác định chính xác mục tiêu, chúng tôi phóng liền 2 quả, hạ gọn 2 máy bay của địch.
    2 trận chiến đấu tháng 10-1965 ác liệt nhưng thật đáng nhớ. Nó đã đem lại cho chúng tôi nhiều kinh nghiệm quý kể cả về lý thuyết và thực tế. Nhiều điểm yếu của thiết bị kỹ thuật đã được phát hiện. Chẳng hạn, qua khai thác các phi công Mỹ bị bắn rơi, chúng tôi biết được bí mật rằng các tên lửa của Liên Xô không được sơn nên màu bạc của nó bị phát hiện từ rất xa. Chúng tôi lập tức báo cáo về nước đề nghị phải khẩn cấp sơn ngụy trang cho tên lửa, đài chỉ huy và ăng-ten điều khiển. Tuy nhiên, các kiến trúc sư cho biết sơn sẽ ảnh hưởng đến tính năng khí động học của tên lửa nên phải một thời gian sau, điểm yếu này mới được khắc phục. Cùng với các bạn Việt Nam, chúng tôi đã tìm ra cách đối phó rất hiệu quả với tên lửa không đối đất Sơ-rai của Mỹ chuyên tìm diệt SAM-2. Đến lúc đó chúng tôi mới nắm bắt được chiến thuật của không quân Mỹ đối phó với hệ thống phòng không và những kinh nghiệm đúc kết bằng máu đó đã giúp rất nhiều cho việc hoàn thiện nghệ thuật tác chiến của chúng tôi.
    Đầu năm 1966, khi các bạn Việt Nam đã khá thuần thục với kỹ thuật, một số chuyên gia được thông báo sẽ về nước, tôi cũng có tên trong danh sách. Chúng tôi được nghỉ ngơi một thời gian. Tận dụng lúc rỗi, mọi người ra đồng giúp đồng bào địa phương cấy lúa. Thế nhưng sắp đến ngày về thì tôi lại nhận được lệnh ở lại. Hóa ra, trong trận đánh chỉ có một máy bay trinh sát không người lái mà hai tiểu đoàn 81 và 82 bắn liền 7 quả tên lửa. Tìm hiểu nguyên nhân vì sao tiêu tốn đạn nhiều như vậy mới biết kỹ năng chỉ huy cùng sự phối hợp giữa các đơn vị của trung đoàn vẫn còn nhiều vấn đề nên tôi được giữ lại. Cuối tháng 2 tôi mới rời Việt Nam. Buổi tối trước ngày về nước, đơn vị lại điện yêu cầu tôi quay lại gấp để khắc phục một sự cố về kỹ thuật. Đêm khuya, trên đường về khách sạn Kim Liên nghỉ để sáng hôm sau ra sân bay, tôi rẽ vào thị trấn ven đường, móc túi thấy còn 15 đồng Việt Nam cuối cùng, tôi mua 5 chai rượu Đồng Tháp đặt tiếp vào túi những vật kỷ niệm về một thời chiến tranh không thể nào quên ở Việt Nam.
    MẠNH TƯỜNG (Trích dịch)
  3. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Người Liên Xô trong ?orừng rậm? Việt Nam (tiếp theo và hết)
    Ngày 26 tháng 04 năm 2005
    Chiến thuật ?otên lửa Liên Xô, cao xạ Việt Nam?
    Trận địa của tiểu đoàn 82 nằm ở phía Bắc Hà Nội trên một vị trí khá bằng phẳng gần đường nhựa. Ngay bên cạnh là cánh đồng lúa và xa hơn một chút là ngôi làng nhỏ. Vũ khí được triển khai ngay ngoài trời và chỉ được ngụy trang bằng lưới. Tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao liên tục được phát ra nên vũ khí và con người hoạt động tới 12-14 tiếng mỗi ngày. Thời tiết nóng ẩm nên máy móc rất nhanh hỏng, đặc biệt là biến thế. Vì thiết bị thay thế không có nên việc sửa chữa phải tiến hành bằng tay. Cứ sau mỗi lần phóng tên lửa là tiểu đoàn lại chuyển vị trí. Trong thời gian tôi phục vụ ở Việt Nam, tiểu đoàn 82 đã chuyển vị trí 17 lần. Công việc này được tiến hành vào ban đêm, việc tháo dỡ thiết bị chỉ bắt đầu từ 5 giờ chiều. Sau một thời gian, các bạn Việt Nam thành thục dần và bắt đầu có thể tác chiến độc lập.
    Chiến tranh ngày càng ác liệt buộc các bạn Việt Nam phải áp dụng thêm các biện pháp bảo vệ tên lửa. Xung quanh trận địa của chúng tôi xuất hiện các khẩu đội pháo cao xạ và số lượng ngày càng tăng. Chúng tôi bắt đầu được phát mũ sắt, còn bộ đội Việt Nam thì được trang bị súng tiểu liên. Các trận địa tên lửa được ngụy trang bằng các cây tre và chuối, bên cạnh trạm ra-đa điều khiển và bệ phóng người ta cho đào hầm trú ẩn, thỉnh thoảng bộ đội Việt Nam cho đắp thêm các bờ đất quanh bệ phóng. Công việc này nhiều khi được thực hiện với sự giúp đỡ của người dân địa phương. Bởi thời tiết quá nóng và độ ẩm cao, hầu như các chuyên gia Liên Xô khi trực chiến chỉ mặc mỗi quần đùi, đầu đội mũ lưỡi trai, tay thì cầm bi đông nước.
    Từ mùa thu năm 1965, không quân Mỹ đánh phá ngày càng ác liệt. Cứ chủ nhật là chúng giội bom dữ dội nên ngày nghỉ của chúng tôi chuyển sang thứ hai. Tôi nhớ nhất 2 trận đánh diễn ra vào tháng 10-1965. Đó là những kỷ niệm thời chiến không bao giờ quên. Khoảng 12 giờ sáng chủ nhật 31-10, ra đa phát hiện một loạt mục tiêu từ hướng tây-nam. Cách trận địa của tiểu đoàn 82 khoảng 17 km về phía tây là sân bay Kép, nơi bố trí các máy bay tiêm kích Mig-17 của Việt Nam. Ngày hôm đó, không quân Mỹ huy động khoảng 30 máy bay phong tỏa sân bay Kép, ném bom và bắn tên lửa xuống đường băng để không cho Mig-17 có thể cất cánh. Từ hướng tây, từng tốp 2-3 chiếc bay ở độ cao rất thấp tiến về phía trận địa của chúng tôi. Bắt được mục tiêu, tiểu đoàn phóng liền hai quả, hạ 2 máy bay Mỹ. Đúng lúc đó từ hướng đông dội về tiếng nổ của đạn cao xạ. Các máy bay Mỹ đã phát hiện vị trí của trận địa trên lửa và lao vào tấn công nhưng bị các đơn vị phòng không của Việt Nam đánh chặn, duy nhất chỉ có một chiếc bay cực thấp lọt qua lưới lửa cao xạ, ném bom và bắn rốc két vào trận địa của chúng tôi. Tôi nghe một tiếng nổ lớn rồi toàn bộ các thiết bị trên xe điều khiển ngừng hoạt động. Nhảy ra ngoài, tôi thấy quả tên lửa đã bị bom làm hư hại. Gần hầm trú ẩn, một người bạn của tôi người đầy máu vì mảnh đạn. Đúng lúc đó từ phía sân bay Kép xuất hiện 4 chiếc Mig -17 đang lấy dần độ cao hướng về phía chúng tôi. Bất ngờ 2 quả tên lửa không biết từ đâu bay tới. Sau này đại úy Mi-xây-ép, sĩ quan dẫn đường của tiểu đoàn 83 bên cạnh, cho biết lúc đó do không có thiết bị nhận biết địch-ta, tất cả máy bay xuất hiện đều bị coi là của địch nên mới xảy ra sự cố như vậy.
    Ngay sau trận đánh, chúng tôi được lệnh chuyển trận địa. Các đơn vị cao xạ của bộ đội Việt Nam cũng hành quân theo sau. Gặp nhau trên đường, chúng tôi không quên cảm ơn các bạn Việt Nam đã phối hợp bảo vệ rất tốt trận địa tên lửa.
    Bài học không thể nào quên
    Trận đánh ngày 31-10 có thể coi là thành công nhưng ngày chủ nhật hai tuần trước đó là một thử thách nặng nề. Lúc đó, vị trí đóng quân của đơn vị hoàn toàn không thuận lợi cho tác chiến. Dãy núi bên cạnh cản tầm quan sát, còn bệ phóng tên lửa và trạm điều khiển triển khai giữa nơi trống vắng, chỉ được ngụy trang bằng lưới. Sáng sớm chủ nhật 17-10, chúng tôi ra trận địa kiểm tra tình trạng vũ khí. Mọi việc đều bình thường nên chỉ có đội trực chiến ở lại còn tất cả ra xe về nơi nghỉ. Vì là ngày chủ nhật nên mỗi người dự định một việc. Người thì định viết thư, người thì chuẩn bị giặt giũ, đánh bài?Chưa ăn sáng xong thì còi báo động đã vang lên. Tất cả lại nhảy lên xe lao ra trận địa. Lúc chúng tôi đến, các thiết bị đã bật, ra-đa bắt đầu sục sạo dò tìm mục tiêu. Trên tiêu đồ theo dõi các mục tiêu ở xa, tình hình xem ra có vẻ rắm rối. Nhân viên tiêu đồ nhận thông tin rồi báo cáo với tiểu đoàn trưởng rồi sau đó phiên dịch mới dịch nội dung cho các chuyên gia biết. Ra-đa phát hiện một tốp máy bay của địch đang bay vào nhưng không thể định được tọa độ chính xác bởi nhiễu rất nặng. Trung tá Li-a-ki-xếp tỏ ra sốt ruột liền lệnh cho tôi chạy sang dõi tiêu đồ tác chiến ở đài chỉ huy bắn theo rồi qua điện thoại báo cáo góc phương vị và khoảng cách đến các mục tiêu.
    Tất cả sự tập trung của tiểu đoàn đều hướng về các mục tiêu ở hướng bắc. Tuy nhiên, vì màn hình ra đa bị nhiễu nặng nên không thể phát lệnh phóng tên lửa. Tất cả mọi người đều rất căng thẳng và bực bội. Bất chợt tôi nghe có tiếng kêu từ phía trận địa pháo phòng không bên cạnh. Vén lều bạt lên, tôi giật mình khi thấy một chiếc máy bay Mỹ đang lao tới từ phía nam. Nó chỉ cách trận địa chúng tôi khoảng 1,5 km - 2 km và bay thấp đến mức như sắp đâm vào núi. Tôi vội thông báo cho trung tá Li-a-ki-xếp biết đồng thời liếc mắt xem bệ phóng tên lửa hướng về đâu. Tất cả chúng đều quay sang phía bắc. Chưa kịp điều chỉnh bệ phóng hướng về mục tiêu thì trận địa pháo phòng không của bộ đội Việt Nam nổ súng. Chiếc máy bay bốc khói, bay được khoảng 500 m nữa thì đâm vào núi. Những tiếng hò reo vang lên.
    Đúng lúc đó thì từ hướng tây vọng đến tiếng gầm của động cơ máy bay. Sau đó vài giây là 3 tiểng nổ lớn ngay đằng sau trạm điều khiển. Tôi nhìn ra thì thấy quả tên lửa trên bệ phóng số 1 đã bị trúng bom tan ra từng mảnh. Trên trời, 3 chiếc máy bay của Mỹ bắt đầu vòng lại và tiếp đó là một loạt những tiếng nổ nữa. Bệ phóng số 6 bốc cháy. Mọi người lao vào dập lửa nhưng trung tá Li-a-ki-xếp hét lên, lệnh tất cả phải sơ tán khẩn cấp bởi quả tên lửa với 3600 mảnh đạn có thể nổ bất cứ lúc nào. Chúng tôi chạy vào hầm trú ẩn và cảm thấy vô cùng tức giận. Không ai có thể nghĩ rằng tên lửa thì cháy mà máy bay của địch còn chưa bị trừng trị. Vài giây sau, một tiếng nổ cực mạnh vang lên phá nát bệ phóng số 6.
    Khi bầu trời yên tĩnh trở lại, tôi chạy sang hầm trú ẩn bên cạnh thì nghe thấy tiếng rên. Lao vào thấy các bạn Việt Nam đang khiêng binh nhì Xmi-rơ-nốp, máu chảy ướt đẫm ở bụng và chân. Kiểm tra quân số đơn vị thấy thiếu mất 3 người. Hóa ra trong lúc chạy tìm chỗ tránh bom, 3 anh lính trẻ của chúng tôi bị dân quân Việt Nam bắt làm ?otù binh? vì tưởng là phi công Mỹ nhảy dù. Trở lại với Xmi-rơ-nốp, anh nhanh chóng được đưa về Hà Nội cứu chữa. Một tuần sau, mặc dù đã được mổ cắt quả thận giập nát vì mảnh bom nhưng vì vết thương quá nặng, Xmi-rơ-nốp đã ra đi mãi mãi. Thi hài của anh được đưa về nước bằng máy bay. Gia đình Xmi-rơ-nốp hoàn toàn không biết con trai mình đã hy sinh anh dũng trong tình huống nào.
    Cuộc chiến không cho chúng tôi nghỉ ngơi. Kiểm tra 4 bệ phóng còn lại, 2 bệ đã bị bom làm hư hại. Như vậy cả tiểu đoàn chỉ còn 2 bệ phóng và 2 quả lên lửa. Đến 12 giờ trưa, lại có một tốp máy bay Mỹ lao vào trận địa từ phía bắc. Lần này ra-đa xác định chính xác mục tiêu, chúng tôi phóng liền 2 quả, hạ gọn 2 máy bay của địch.
    2 trận chiến đấu tháng 10-1965 ác liệt nhưng thật đáng nhớ. Nó đã đem lại cho chúng tôi nhiều kinh nghiệm quý kể cả về lý thuyết và thực tế. Nhiều điểm yếu của thiết bị kỹ thuật đã được phát hiện. Chẳng hạn, qua khai thác các phi công Mỹ bị bắn rơi, chúng tôi biết được bí mật rằng các tên lửa của Liên Xô không được sơn nên màu bạc của nó bị phát hiện từ rất xa. Chúng tôi lập tức báo cáo về nước đề nghị phải khẩn cấp sơn ngụy trang cho tên lửa, đài chỉ huy và ăng-ten điều khiển. Tuy nhiên, các kiến trúc sư cho biết sơn sẽ ảnh hưởng đến tính năng khí động học của tên lửa nên phải một thời gian sau, điểm yếu này mới được khắc phục. Cùng với các bạn Việt Nam, chúng tôi đã tìm ra cách đối phó rất hiệu quả với tên lửa không đối đất Sơ-rai của Mỹ chuyên tìm diệt SAM-2. Đến lúc đó chúng tôi mới nắm bắt được chiến thuật của không quân Mỹ đối phó với hệ thống phòng không và những kinh nghiệm đúc kết bằng máu đó đã giúp rất nhiều cho việc hoàn thiện nghệ thuật tác chiến của chúng tôi.
    Đầu năm 1966, khi các bạn Việt Nam đã khá thuần thục với kỹ thuật, một số chuyên gia được thông báo sẽ về nước, tôi cũng có tên trong danh sách. Chúng tôi được nghỉ ngơi một thời gian. Tận dụng lúc rỗi, mọi người ra đồng giúp đồng bào địa phương cấy lúa. Thế nhưng sắp đến ngày về thì tôi lại nhận được lệnh ở lại. Hóa ra, trong trận đánh chỉ có một máy bay trinh sát không người lái mà hai tiểu đoàn 81 và 82 bắn liền 7 quả tên lửa. Tìm hiểu nguyên nhân vì sao tiêu tốn đạn nhiều như vậy mới biết kỹ năng chỉ huy cùng sự phối hợp giữa các đơn vị của trung đoàn vẫn còn nhiều vấn đề nên tôi được giữ lại. Cuối tháng 2 tôi mới rời Việt Nam. Buổi tối trước ngày về nước, đơn vị lại điện yêu cầu tôi quay lại gấp để khắc phục một sự cố về kỹ thuật. Đêm khuya, trên đường về khách sạn Kim Liên nghỉ để sáng hôm sau ra sân bay, tôi rẽ vào thị trấn ven đường, móc túi thấy còn 15 đồng Việt Nam cuối cùng, tôi mua 5 chai rượu Đồng Tháp đặt tiếp vào túi những vật kỷ niệm về một thời chiến tranh không thể nào quên ở Việt Nam.
    MẠNH TƯỜNG (Trích dịch)
  4. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tiểu đoàn 81 và 82 là hai tiểu đoàn tên lửa được phong danh hiệu anh hùng sớm nhất.
    Đọc hồi ký thấy rõ trên thực tế đơn vị tên lửa là của Liên xô, tổ đội trực chiến trên xe chiến đấu là lính Liên xô, bảo dưỡng kỹ thuật cũng Liên xô, chỉ có đơn vị bảo vệ xung quanh là cao xạ Trung quốc viện trợ do lính Việt nam bắn. Kể cả giai đoạn về sau khi bộ đội ta dần trực tiếp tham gia chiến đấu thì chuyên gia Liên xô vẫn không rút hết, mà vẫn được biên chế đến từng tổ chiến đấu của tiểu đoàn.
    Ngoài tên lửa Liên xô, một số khá lớn các đơn vị cao xạ Trung quốc đã trực chiến ở Việt nam và chỉ rút đi sau năm 68, khi mà Mỹ đã tuyên bố ngừng ném bom.
    Vì từ trước đến nay không có tài liệu nói đến lính Liên xô và Trung quốc trực tiếp tham chiến ở Việt nam được tiết lộ, nên cảm giác chung hình như là chúng ta đã tự đánh giá quá cao phần bản lĩnh Việt nam, cho rằng chiến thắng chủ yếu là do tự sức ta, mà không nhận thấy sự giúp đỡ khổng lồ và vô giới hạn về vật chất, con người và trí tuệ của Liên Xô và Trung quốc cũng góp phần sống còn cho chiến thắng. Chiến thắng này đâu có phải do bản lĩnh Việt nam làm nên tất cả. Tôi chẳng chắc không có nó Việt nam thắng được.
    Thế nên ông Lê Đăng Doanh, trợ lý cho mấy đời Tổng Bí thư vẫn nói, ca ngợi bản lĩnh Việt nam thuộc dạng hàng đầu thế giới chỉ ta nghe với nhau thôi, chứ các nước nó chẳng nghĩ thế đâu.
    Cái bọn Ả rập đánh nhau với Israel mà nó được giúp đỡ cả nhân tài vật lực vô giới hạn thế này thì nó cũng chả thua đâu.
    Nói ra thì ối kẻ nhao nhao lên lão này "sổ toẹt vào quá khứ". Đành chịu thôi.
  5. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tiểu đoàn 81 và 82 là hai tiểu đoàn tên lửa được phong danh hiệu anh hùng sớm nhất.
    Đọc hồi ký thấy rõ trên thực tế đơn vị tên lửa là của Liên xô, tổ đội trực chiến trên xe chiến đấu là lính Liên xô, bảo dưỡng kỹ thuật cũng Liên xô, chỉ có đơn vị bảo vệ xung quanh là cao xạ Trung quốc viện trợ do lính Việt nam bắn. Kể cả giai đoạn về sau khi bộ đội ta dần trực tiếp tham gia chiến đấu thì chuyên gia Liên xô vẫn không rút hết, mà vẫn được biên chế đến từng tổ chiến đấu của tiểu đoàn.
    Ngoài tên lửa Liên xô, một số khá lớn các đơn vị cao xạ Trung quốc đã trực chiến ở Việt nam và chỉ rút đi sau năm 68, khi mà Mỹ đã tuyên bố ngừng ném bom.
    Vì từ trước đến nay không có tài liệu nói đến lính Liên xô và Trung quốc trực tiếp tham chiến ở Việt nam được tiết lộ, nên cảm giác chung hình như là chúng ta đã tự đánh giá quá cao phần bản lĩnh Việt nam, cho rằng chiến thắng chủ yếu là do tự sức ta, mà không nhận thấy sự giúp đỡ khổng lồ và vô giới hạn về vật chất, con người và trí tuệ của Liên Xô và Trung quốc cũng góp phần sống còn cho chiến thắng. Chiến thắng này đâu có phải do bản lĩnh Việt nam làm nên tất cả. Tôi chẳng chắc không có nó Việt nam thắng được.
    Thế nên ông Lê Đăng Doanh, trợ lý cho mấy đời Tổng Bí thư vẫn nói, ca ngợi bản lĩnh Việt nam thuộc dạng hàng đầu thế giới chỉ ta nghe với nhau thôi, chứ các nước nó chẳng nghĩ thế đâu.
    Cái bọn Ả rập đánh nhau với Israel mà nó được giúp đỡ cả nhân tài vật lực vô giới hạn thế này thì nó cũng chả thua đâu.
    Nói ra thì ối kẻ nhao nhao lên lão này "sổ toẹt vào quá khứ". Đành chịu thôi.
  6. lehahai

    lehahai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2003
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    0
    Bạn KQNDVN nhầm rồi, trong đoạn hồi ký trên đã nói rõ la chuyên gia LX không tham gia trực tiếp vào chiến đấu:
    "Trên tiêu đồ theo dõi các mục tiêu ở xa, tình hình xem ra có vẻ rắm rối. Nhân viên tiêu đồ nhận thông tin rồi báo cáo với tiểu đoàn trưởng rồi sau đó phiên dịch mới dịch nội dung cho các chuyên gia biết"
    Như vậy ở thời điểm đó chỉ huy trực tiếp là người Việt rồi, chuyên gia chỉ đóng góp ý kiến thôi.
  7. lehahai

    lehahai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2003
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    0
    Bạn KQNDVN nhầm rồi, trong đoạn hồi ký trên đã nói rõ la chuyên gia LX không tham gia trực tiếp vào chiến đấu:
    "Trên tiêu đồ theo dõi các mục tiêu ở xa, tình hình xem ra có vẻ rắm rối. Nhân viên tiêu đồ nhận thông tin rồi báo cáo với tiểu đoàn trưởng rồi sau đó phiên dịch mới dịch nội dung cho các chuyên gia biết"
    Như vậy ở thời điểm đó chỉ huy trực tiếp là người Việt rồi, chuyên gia chỉ đóng góp ý kiến thôi.
  8. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Tóm lại là đến tháng 2/1966, chúng ta đã học tập xong và đa số chuyên gia đã có thể về nước.
  9. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Tóm lại là đến tháng 2/1966, chúng ta đã học tập xong và đa số chuyên gia đã có thể về nước.
  10. Phudongthienvuong

    Phudongthienvuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/11/2004
    Bài viết:
    1.442
    Đã được thích:
    0
    Theo tôi thì cho dù có hay không cố vấn Nga , Tầu ở miền Bắc cũng như mức độ can thiệp và số lượng binh sĩ của họ như thế nào thì kết quả cuộc chiến cũng đã định rồi không thể thay đổi được . Vì thế tôi nghĩ ta nên tìm vào tương lai là hơn . Bỏ dĩ vãng vào dĩ vãng , chỉ cần chúng ta là người Việt vậy thì hãy cùng nhau nhìn vào tương lai . Tự mản quá khứ mà quên là ta đã đi sau láng giềng của ta trong hiện tại là sai lầm lớn .
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này