1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Theo tài liệu "Đọ cánh" của Lê Thành Chơn (2002)
    "Người anh hùng chưa được tuyên dương"
    Tóm tắt nội dung:
    Những ngày giữa tháng năm năm 67 là những ngày xảy ra cuộc không chiến ác liệt nhất chưa từng có trong cả cuộc chiến tranh trên không ở Việt nam. Nhiều phi công kinh nghiệm đã hy sinh không trở về.
    Trận ác liệt nhất là trận ngày 14/05/67. Trận này ta xuất kích 4 Mig17 (Võ Văn Mẫn [1], Hai Bôn (quê Hà đông), Thế Hôn (quê Thường Tín)), Lê Hải (An giang) ) [2]. Hôm đó trời có một lớp mây trắng dày ngay trên đỉnh các ngọn núi.
    Biên đội gặp địch kéo đến đông nghịt, đến từ nhiều tầng, nhiều hướng. Do địch quá đông (gần 60 chiếc cả F4 và F105 tập trung bao vây tìm diệt Mig), biên đội chỉ lo bay quần vòng giúp nhau quan sát để tránh tên lửa, lúng túng và hoàn toàn bị động. Mắt đất sốt ruột nhưng cũng chỉ biết im lặng theo dõi trận đánh.
    Trước tình huống cực kỳ căng thẳng, lực lượng quá chênh lệch, các phi công thấm mệt do phải cơ động liên tục, Tư lệnh không quân đã chỉ thị cho biên đội quay về và nhiều lần yêu cầu mặt đất tìm đường an toàn dẫn các phi công bay thoát, nhưng địch bay quá kín kẽ, rẽ hướng nào cũng giơ đuôi ra cho tên lửa, nên phi công ta quần vòng liên tục mà không thể thoát được.
    Biên đội đánh ngay sát trên tầng mây, nhưng không dám xuống dưới mây tránh địch, vì đó là vùng núi rất nguy hiểm. Lúc này, biên đội nhận ra rằng, chỉ có tấn công mới là cách phòng vệ tốt nhất. 4 Mig tách thành 2 tốp, Võ văn Mẫn và Hà Bôn một tốp, Thế Hôn và Lê Hải bay tốp kia. Các anh chủ động lăn xả vào địch, vừa đánh vừa lừa thế để rút lui. Bôn và Hôn chớp nhoáng bắn rơi 2 máy bay địch.
    Khác với mọi lần, khi F bị hạ, hội còn lại sẽ nhốn nháo bỏ chạy ngay. Hôm đó, bọn địch càng cay cú, quyết không cho ta chạy thoát.
    Bất ngờ một chiếc mig bùng cháy. Đó là chiếc Mig của Thế Hôn, máy bay gẫy làm đôi, lăn tròn lao xuống. Hải lao theo yểm hộ cho Hôn nhảy dù, luôn miệng hét vào ống nói "Anh Hôn nhảy dù ngay" nhưng không có tiếng trả lời, không có dù nào bung ra. Hôn chắc chắn đã bị hôn mê sâu. Lê Hải tuyệt vọng lao theo Hôn, khi thấy Hôn đâm xuống đất, a lách theo khe núi bay về.
    Lúc này, Mẫn biết Hôn đã bị bắn rơi và hy sinh, tình thế gấp gáp, thời gian không chiến quần vòng đã quá lâu. Anh ra lệnh cho số 2 Hà Bôn tìm cách thoát li về, mình sẽ ở lại yểm trợ. Số 2 đề nghị ở lại hỗ trợ biên đội trưởng chiến đấu, nhưng biết tình hình không thể thoát li an toàn, Mẫn kiên quyết yêu cầu số 2 bay về. Số 2 tận dụng một khe mây hẹp lách xuống dưới, may mắn không đụng phải núi, bay thoát về an toàn.
    Cũng trong lúc đó, Mẫn vòng lại phản kích vào những chiếc máy bay đang đuổi bám. Anh đã bám được một chiếc và bắn cháy nó; nhưng đúng lúc đó anh cũng bị địch ở phía sau bắn trúng. Ở loa đối không tại Sở chỉ huy, mọi người chỉ kịp nghe Mẫn vui mừng "Báo cáo, 36 bắn ..." rồi âm thanh bỗng im bặt. Lê Thành Chơn liên tục bóp ống nói gọi Mẫn, nhưng chỉ có tiếng lào xào của sóng đối không.
    Mẫn hy sinh. Anh bị địch bắn 8 quả tên lửa một lúc. Máy bay rơi xuống Vĩnh Phúc (?), ngập sâu xuống đất tới 3 m. Khi đoàn tìm kiếm tới nơi, Lê Thành Chơn đã không thể tìm được thi hài anh trọn vẹn. Anh đã hoà vào lòng đất. Chỉ có ông chủ của mảnh vườn nơi máy bay rơi đã đi khắp nơi trong khu vực để lượm thân thể anh về. Đồng đội chôn anh tại đó. Ông chủ mảnh vườn, và con ông chăm sóc phần mộ của anh đến tận năm 95 thì đồng đội đưa anh về miền nam, chôn bên cạnh mộ mẹ anh.
    Kết quả trận đánh: Ta bắn rơi 3 chiếc, nhưng mất 2 máy bay và 2 phi công Mig17 giỏi nhất lúc đó. Đau lòng hơn nữa, riêng trong 3 ngày này, ta đã mất 10 phi công kinh nghiệm nữa (một trung đoàn chỉ có khoảng 30 phi công).
    Lê thành Chơn:
    [1]: Võ Văn Mẫn cùng Nguyễn Văn Bảy đều bắn rơi rất nhiều máy bay địch và được đơn vị đề nghị tuyên dương anh hùng đợt đầu tiên. Nhưng Mẫn và Bảy cùng đơn vị nên Mẫn phải đợi đợt sau, nhường cho Bảy đợt đầu (đợt đầu 3 trung đoàn chỉ được một phi công/một trung đoàn). Tuy nhiên do hy sinh, cho đến nay anh "vô tình" bị quên lãng, vẫn chưa được phong anh hùng, dù thành tích chiến đấu cực kỳ xuất sắc.
    Mẫn bắn rất chính xác và dùng ít đạn. Không chắc ăn không bắn (đến mức có nhiều trận mang nguyên cả đạn quay về mặc dù đã quần vòng quyết liệt, anh đã bị mọi người đặt dấu hỏi). Có trận khi đã bắn rơi địch, máy bay về đến nhà, thợ máy chỉ phải bổ sung có 10 viên đạn cho máy bay trực chiến tiếp. Đây là mức tiêu thụ đạn ở mức "không tưởng ": thường thì phi công bắn vài trăm viên đạn một trận.
    Khi Mẫn hy sinh, anh có người yêu tên là Phấn. Năm 95, Phấn tìm đến khách sạn Sài gòn, nơi Lê Thành Chơn hiện đang làm giám đốc, đưa quà nhờ Chơn tặng mẹ Mẫn. Chưa kịp ngồi xuống, chị đã hỏi ngay: "Anh Chơn, anh dẫn đường cho anh Mẫn thế nào mà anh để cho anh ấy chết?" Chơn đã bối rối, không biết trả lời thế nào. Chơn gọi điện nói chuyện với Lê Hải (phi công duy nhất còn sống cho đến nay) Hải đã hồi tưởng lại trận đánh đó, và nói: "Đó là một trận thắng không thể chối cãi". (Vì ta tuy bị mất 2 nhưng bắn rơi được 3 máy bay địch trong thế bị áp đảo hoàn toàn về số lượng). Tuy nhiên, với Phấn, đó là thất bại thảm hại (2 phi công hy sinh).
    kqndvn:
    [2] Địch report ta xuất kích chưa từng có, hàng chục Mig trong một trận.
    Nếu so sánh tư liệu của địch phía trên và tư liệu của ta do Lê Thành Chơn viết thì có thể thấy rõ nhiều biên đội địch khác nhau (50 chiếc) đã cùng tấn công một biên đội 4 mig 17 và tưởng là bắn vào nhiều biên đội khác nhau.
    Đoạn nói một phi đội F4 tấn công 3 chiếc Mig 17 thì có thể thực ra không phải là một biên đối khác, mà vẫn là biên đội ban đầu nhưng đã bị rơi một chiếc (của Hôn). Hơn nữa 3 chiếc này lại có "một chiếc mig bị tụt lại phía sau" nên có thể suy đoán đó chính là chiếc Mig của Võ Văn Mẫn ở lại cản địch cho đồng đội bay về.
    Địch không báo có máy bay rơi, trong khi ta báo đã bắn rơi 3 máy bay địch.
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 00:14 ngày 24/08/2005
  2. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Theo Tạp chí Thế giới mới, tháng 05/2005:
    Có tất cả 12 phi công Bắc Hàn sang học tập đánh Không quân Mỹ. Khi "tốt nghiệp", họ được thực tập đánh thực địa. Họ bay với nhau, với quyết tâm không bắn rơi địch thì cũng không về, các phi công Bắc Triều tiên đã không mang các thiết bị thoát hiểm (?).
    Lần lượt họ đã hy sinh, và được chôn cất trong khu mộ riêng.
    Năm trước, Sứ quán Bắc Triều phối hợp với Quân đội ta đã cải táng đưa các anh về nước.
    kqndvn:
    Tư liệu còn có nhiều thông tin khác nữa về việc ta tự cải tiến vũ khí, nhưng các chú bác tôi chiến đấu trong không quân trong giai đoạn đấy khẳng định là thông tin mang tính "dấm ớt".
  3. steppy

    steppy Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/03/2005
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    1.327
    Chào bac kqndvn, bác vừa nghỉ hè ở VN sang??? Lâu lắm không thấy Bác xuất hiện. Chúc mọi sự tốt lành.
  4. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    Oài cái bác kqndvn này! Lâu rồi mới lại thấy xuất hiện. Bận gì bận dữ vậy bác.
  5. nguoiquansat

    nguoiquansat Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    1.542
    Đã được thích:
    352
    He he biết là vào đây toàn là cao thủ nên em ko dám nói phét bác ạ, những thông tin em nêu bác có thể dễ dàng tìm ở các cuốn sách hồi ký về thời 72 đang bán nhan nhản trên thị trường, rõ nhất là cuốn " Điện Biên Phủ trên ko, chiến thắng của trí tuệ và tinh thần Việt Nam" của bác Giáp và một số sách hồi ký của bác L.T.Chơn.
    Các thông tin bác thắc mắc Trường Sơn đã giải đáp giùm rồi đấy.
    Thêm 1 ít thông tin: Cụm từ "Chiến tranh giữa các vì sao" được anh Ních xơn nhắc đến đầu tiên, chứ ko đến anh Bút xơ( ý nói đến thời kỳ các cuộc chiến được giải quyết bằng các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, vệ tinh quân sự dẫn đường, hệ thống chống tên lửa đạn đạo Anti Balistic Missile (ABM)... đó là 1 trong những thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh lạnh, sau đó đã được giải quyết bằng việc Ních xơn và Brêgiơnhép (hay Khơ rút xốp, ko nhớ) ký ABM, START1,2...
    Trước đó bác Mao đã đề nghị gửi quân chí nguyện sang VN, nhưng ***** từ chối khéo, chỉ có chuyên gia Tàu, một số thanh niên tình nguyện, một lượng nhỏ pháo binh phòng ko Tàu làm nhiệm vụ bảo vệ các cơ sở kinh tế Tàu giúp ta xây dựng như nhà máy phân đạm Bắc Giang, gang thép TN, xăng dầu Đức Giang... Sau này do hiệu suất chiến đấu kém , tổn thất nên đã rút về nước. Cậu đến thăm các nghĩa trang Trung Quốc thì sẽ rõ (có 1 cái ở Gia Lâm đấy, gần nhà tớ). Các bác lãnh đạo nhà mình khôn thật, nợ vật chất thì giả được chứ nếu là nợ máu thì phiền lắm.
    u?c chiangshan s?a vo 17:49 ngy 23/08/2005
  6. 929rr

    929rr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/12/2004
    Bài viết:
    1.158
    Đã được thích:
    0
    kq mới đi VN về hả? Có gì vui không?
  7. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tôi không nhầm đâu. Nếu bạn biết hệ thống một trận đánh thì sẽ biết ngay.
    Bạn đọc lại cả loạt bài đó thì sẽ thấy, sỹ quan tên lửa Liên xô trực tiếp nắm cần điều khiển và tác chiến. Họ ngồi ngay trong khoang điều khiển của đơn vị tên lửa; nếu trúng Sơrai thì họ sẽ hi sinh ngay.
    Theo sự kiện và nhân chứng, số tháng 11/97, trong 2 trận không quân Mỹ phản kích và tìm diệt các trận địa của một tiểu đoàn tên lửa trong năm 1972, 5 sỹ quan tên lửa của Liên xô đã hy sinh ngay tại trận địa (không có người Nga mà toàn là Belarus và Armenia). Trận khác có cả sỹ quan tên lửa Cu ba mới cưới vợ và sang được 5 tháng cũng hi sinh.
    Sơ lược thì tác chiến chống địch đánh phá đường không thời đó như sau:
    Sở Chỉ huy Quân chủng (Tư lệnh Phùng Thế Tài, bên KQ có Nguyễn Văn Tiên. Chính uỷ: Đặng Tính/đã hi sinh khi đi công tác chiến trường năm 71 ). Ở đây có bàn tiêu đồ toàn vùng trời phía Bắc, Nam, ngoài biển và phía Lào. Sở Chỉ huy Quân chủng theo dõi chiến lược cả mặt trận trên không ở Việt nam.
    Sở Chỉ huy trực tiếp nhận báo cáo về các tốp máy bay địch từ các Tổng trạm Rada, căn cứ vào toạ độ do bên các đài rada cung cấp mà các tiêu đồ viên vẽ đường bay của ta và địch lên trên bảng Mica; Các tiêu đồ viên khác thì xê dịch địch/ta trên sa bàn cỡ lớn.
    Sở Chỉ huy Quân chủng căn cứ vào đặc điểm hướng bay, tốc độ, độ cao, sân bay xuất phát mà suy đoán tốp nào là trinh sát trận địa hay khí tượng (RF4C, AC5, RF101), tốp nào tiêm kích hộ tống (F101, F8, F4A/E), tốp nào là cường kích đánh phá (F4B, F105, A1, A4, A6, A7), tốp nào là tiêm kích chặn đánh (ở các khu chờ Mig), tốp nào là ném bom rải thảm (B52), tốp nào là cứu phi công (Trực thăng CH53, A1), tốp nào là chống tên lửa (F105 Bàn tay sắt Iron Hand), tốp nào là tốp thả nhiểu tiêu cực (dải kim loại), tốp nào là tốp gây nhiễu tích cực (EB66), tốp nào là cảnh giới (EC121), tốp nào là trinh sát kết quả trận đánh, tốp nào tiếp dầu (KC-135).
    Sở Chỉ huy Quân chủng cũng suy đoán địch sẽ bay theo đường nào, lấy điểm kiểm tra ở đâu, rồi giao nhiệm vụ (bằng điện thoại) cho các Trung đoàn tên lửa ở hướng địch có thể xâm nhập nhiệm vụ phát sóng tìm và phóng đạn tiêu diệt địch.
    Nhận được điện thoại của Sở Chỉ huy Quân chủng, sở chỉ huy Trung đoàn A sẽ báo động các tiểu đoàn chiến đấu (3 tiểu đoàn tên lửa + một số tiểu đoàn đạn và hậu cần + cao xạ bảo vệ). Sở Chỉ huy Trung đoàn không có tầm nhìn chiến lược, mà chỉ quan sát tình hình chiến thuật trong khu vực mình được bố trí bảo vệ.
    Đài 1 của tiểu đoàn tên lửa phát sóng sục sạo trong khu vực (360độ, hoặc theo hướng cụ thể trên đã cho) để tìm địch. Phát hiện ra rồi thì Tiểu đoàn căn cứ vào hướng bay của địch, thời cơ đánh địch, mà quyết định tấn công hay không. Nếu điều kiện cho phép tiến công, Tiểu đoàn trưởng lệnh bật tiếp đài 2 chiếu theo hướng phương vị, góc tà, độ cao/tầm xa do trắc thủ đài 1 cung cấp để "tóm" luôn tốp mục tiêu, chiếu xạ mục tiêu và phóng đạn.
    Theo hồi ký Tìm đánh B52 của Trung tướng Tên lửa Hoàng Văn Khánh, trong chiến tranh, rất nhiều lần Đài 1 dò ra địch nhưng khi trao lại thông số cho Đài 2 thì Đài 2 lại không thấy địch nên không tấn công được; Nhiều khi Đài 2 phát sóng quá lâu địch sẽ tính toán giao hội đơn giản ra được vị trí của trận địa tên lửa mà đánh phản kích vào khiến tiểu đoàn mất sức chiến đấu. Lực lượng tìm diệt B52 của Hoàng Văn Khánh lúc đó mất hơn 1 năm trời với thiệt hại nặng nề về trang bị khí tài và con người rồi mới bắn trúng được chiếc B52 đầu tiên (Ta căn cứ vào rada, không tìm được xác máy bay địch- địch "cười" và không bình luận. Cũng theo tướng Khánh, cho đến thời điểm trước 12 ngày đêm năm 1972, ta đã bắn rơi gần 30 B52 nhưng đều không thu được xác vì rơi tận rừng rú bên Lào hay ra ngoài biển. Mỹ thì chưa bao giờ công nhận bị bắn rơi, và tuyên bố nếu VN tìm được bằng chứng về B52 bị bắn rơi thì mỗi chiếc sẽ tương đương với thành tích bắn chìm một tàu chiến Mỹ).
    Ngồi trong Đài 2 là các trắc thủ điều khiển tên lửa. Trong các trích đoạn Hồi ký của chuyên gia LXô thì họ chính là các Sỹ quan trắc thủ đến từ Liên xô. Các sỹ quan ở Đài 2 là người trực tiếp đồng bộ hệ thống, bật rada dò tín hiệu, phóng đạn, điều khiển đạn (bằng tay quay hay tự động), kết luận đạn có nổ và mục tiêu có bị bắn rơi hay không (qua tín hiệu ngòi nổ và tín hiệu rađa của mục tiêu).
    Đài 2 là nơi dễ bị trúng phản kích nhất và dễ bị hi sinh nhất vì bố trí ngay bên cạnh 6 bệ tên lửa và có rađa chiếu xạ dễ làm mồi cho loại tên lửa Sơ rai chống rada dẫn đường do bọn F105 phóng.
    Trong trường hợp trên, tôi hiểu là các sỹ quan điều khiển tên lửa ở Đài 2 đang đợi Đài 1 (nơi Tiểu đoàn trưởng và sở chỉ huy tiểu đoàn ngồi) cho mục tiêu để phát sóng tóm và tấn công. Đài 1 nếu bị nhiễu, hoặc trình độ trắc thủ kém, thì sẽ không phát hiện được địch. Đài 2 thì buộc lòng phải đợi Đài 1 thông báo đã thì mới biết chỗ mà "soi" ra đa tấn công. (Rada của Đài 2 chỉ phát chùm sóng hẹp, định hướng - như cái đèn pha).
    Như một lần tôi đã nói, Tạp chí Sự kiện và Nhân chứng (kô nhớ rõ số xuất bản) khi viết lại quá trình chuẩn bị cho trận đầu ra quân đánh thắng của Tên lửa Việt nam ngày 24/07/1965 đã nói rõ, để đảm bảo chắc thắng nhằm lấy thành tích và ngày truyền thống cho quân chủng, trận đánh đã có sự tham gia trực tiếp của các sỹ quan điều khiển tên lửa của Liên xô.
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 04:07 ngày 26/08/2005
  8. vuvanquang

    vuvanquang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/05/2004
    Bài viết:
    134
    Đã được thích:
    0
    Cho tớ hỏi lại một chút nhé
    Mĩ có công nhận chiếc b52 bị VXThiều bắn là bị hạ bằng MIC không , có số hiệu và tên tổ lái không , tổ lái có thoát không
    tks
  9. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Chào bác,
    Cho hỏi cái. Làm sao biết được anh Mẫn bị 8 quả bắn một lúc ? Lúc đó số 2 của anh Mẫn đã chui xuống dưới mây bay về, chắc không còn quan sát được. Radar mặt đất có phát hiện được AAM không ?
  10. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Bác xem thêm cái này xem thế nào:
    =====
    Trích Vietnam, The Necessary War - A Reinterpretation of America''s Most Disastrous Military Conflict, Michael Lind, 1999
    page:85-89
    Like the Truman and Eisenhower administrations during the Korean War, the Johnson Administration minimized what it knew about Chinese and Soviet involvement in Vietnam. Hindsight suggests that this was a public relations blunder, because it permitted critics on the left as well as military conservative critics to argue that the government exaggerated the roles of the communist powers in Indochina. "You will ask why in relation to Hanoi the Chinese and Russians did better," John Kenneth Galbraith wrote in The New York Times on July 12, 1975, after the Soviet-equipped North Vietnamese army invaded and conquered South Vietnam. "One answer is that they were wiser: No Chinese or Russian troops were sent; no great body of advisers debouched....They were not thrown out because they were not there."
    Galbraith did not know what he was talking about. The Chinese and
    Russian troops HAD been there, and, in the case of the Chinese, in great numbers. According to the Chinese government''s own calculations , between 1965 and 1973: 320,000 People''s Liberation Army solders, not disguised but wearing Chinese uniforms, were assigned to North Vietnam.
    The greatest number of Chinese soldiers present in North Vietnam at any one time was 170,000 (18). To put the figure 170,000 into perspective, it should be recalled that the number of troops that the US had in Indochina at the height of its involvement in 1968 was roughly 543,000.
    In short, at the height of the Vietnam War the Chinese uniformed
    military forces in North Vietnam had almost one-third of the maximum
    manpower of the U.S. forces in the South. By the time the last Chinese
    troops left Vietnam in August 1973, 1,1000 are allegedly to have been
    killed and 4,200 wounded. (19)
    .....
    The Chinese logistics troops in North Vietnam freed North Vietnam
    regulars to fight in the South, as the following conversation in Hunan,
    China, on May 16,1965, between Mao and Ho Chi Minh makes clear :
    President Ho : First of all, we need China to help us build 6 roads
    from the border areas. These roads run south through our rear.and in the future, they will be connected to the front. At present, we have 30
    thousand people building these roads. If China helps us those people
    will be sent to the South. At the same time we have to help Lao comrades to build roads from Samneua to Xiengkhoang and then from Xiengkhoang to Lower Laos and to the South of Vietnam.
    Mao Zedong: Because we will fight large-scale battles in the future,
    it willbe good if we also build roads to Thailand President Ho : If Chairman Mao agrees to helps us, we will sent our people to the South.
    Mao Zedong : We accept your order. We will do it. There is no problem
    (21)
    While tensions arose between the Chinese troops and the North
    Vietnamese, Hanoi was pleased to receive the help. On April 13, 1996,
    in Beijing, Le Duan assured the Chinese communist leaders Zhou Enlai, Deng Xiaoping, and Kang Sheng :
    "Concerning China''s assistance to Vietnam, we are very clear and we
    don''t have any concern about it. Now, there are more than a hundred
    thousand Chinese military men in Vietnam, but we think that whenever
    there is something serious happening, there should be more than 500,000 needed....We think that as a fraternal socialist country, you can do that, you can help us like this. (22)"
    Far from being negligible, the Chinese military intervention in the
    Vietnam war was the single most massive and sustained effort of the
    Chinese armed forces outside China''s border since the Korean War. On September 23, 1968, in a conversation with North Vietnamese premier Pham Van Dong in Beijing, Mao commented on the remarkable fact that the U.S. , afraid of provoking a greater crisis, had not publicized the use of China as North Vietnam''s strategic reserve and the assignment to North Vietnam of thousands of Chinese troops :
    Mao Zedong : Why have the Americans not made a fuss about the fact that more than 100,000 Chinese troops help you building railways, roads and airports although they knew about it?
    Pham Van Dong : Of course, they are afraid.
    Mao Zedong : They should have made a fuss about it. Also, their
    estimate of the number of Chinese troops in Vietnam is less than their
    real number. (23)
    The Soviets were in Vietnam, too. The Russian historian Ilya Gaiduk has observed, "Although the Democratic Republic of Vietnam was supported throughout the war by its powerful allies, the USSR and the People''s Republic of China, these supporters have virtually escaped the attention of historians of the conflict in Indochina." In his 1996 book: The Soviet Union and the Vietnam War, Gaiduk shows how the SU competed with Mao''s China for leadership of the communist block and Third World radical movements- by , among other things, replacing China in the mid-1960s as the chief military sponsor of North Vietnam. In 1970 memo to Moscow, the Soviet embassy in Hanoi wrote : "It is not excluded that Indochina may become for us a key to all Southeast Asia."...
    According to two former red army officers, general Oleg Sarin, and
    Colonel Lev Dvoretsky, in Alien Wars : The Soviet Union ''s Aggression
    Against the World 1919-1989 (1996), : " Although the truth about the
    Vietnam War was being carefully concealed, the fact of Soviet military
    participation in this region was becoming more and more widely
    known...It became apparent ...that Soviet pilots were participating actively in flights of the Vietnamese air force in countering American raids into North Vietnam." (26) Soviet antiaircraft teams on the ground in Indochina downed dozen of US planes during Vietnam war. On March 30, 1968 when a Soviet Dvina antiaircraft complex near Hanoi shot down a USAF F-111, Soviet minister of defense Andrei Grechko considered the event important enough to merit a direct phone call to General Secretary Leonid Brezhnev. (27). For its part, the Chinese government has admitted that it provided North Vietnam
    with antiaircraft teams that shot down U.S planes. Beijing claimed that
    these antiaircraft teams suffered four thousand wounded and more than one thousand dead as a result of conflict with American and South
    Vietnamese forces. (28)
    --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    notes:
    18. Chen Jian, China''s Involvement in The Vietnam War Conflict,
    1964-1969, China Quarterly, No 142 (June 1995), pp 366-69
    19. Qiang Zhai, Beijing and the Vietnam Conflict, 1964-1965: New
    Chinese Evidence, in The Cold War in Asia, Cold War International
    History Project Bullentin, Issue 6-7 , p.243
    21. Mao Zedong and Ho Chi Minh, Changsha (Hunan), 16 May 1965 in
    77 Conversations, p.87 (emphasis added)
    22. Zhou Enlai, Deng Xiaoping, Kang Sheng and Le Duan, Nguyen Duy
    Trinh, Beijing, 13 April 1965, in 77 conversations, p. 96
    23.Mao Zedong and Pham Van Dong, Beijing, 23 September 1970, in 77 conversations, p. 177. One of China''s movites for limiting its
    contribution to logistics troops, in the absence of a U.S. invasion of
    North Vietnam, was the fear that if it sent â,"volunteerâ, combat
    troops then it would imspire the rival Soviet Union and its clients to
    do the same. In August 23, 1966, Zhou Enlai told Pham Van Dong : If
    it is said that China has volunteer troops in North Vietnam, then Cuba,
    Algeria, and the Soviet Union, etc., may ask to have their volunteers in
    Vietnam. Zhou Enlai and Pham Van Dong, Hoang Tung, Beijing, 23
    August 1966, in 77 conversations p.99.
    26. General Oleg Sarin and Colonel Lev Dvoretsky : Alien Wars : The Soviet Union ''s Aggression Against the World 1919-1989 (Novato, CA :
    Presidio Press 1996), p. 107
    27. Ilya V. Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War (Chicago: Ivan R. Dee, 1996), p. 62
    28. People''s Daily and Xinhua News Agency, On the Vietnamese
    Foreign Ministry''s White Book Concerning Vietnam-China Relations
    (Beijing: Foreign Languages Press, 1979); Hoang Van Hoan, Distortion
    of Facts About Militant Friendship Between Vietnam and China is
    Impermissible, Beijing Review, No. 49(December 7, 1979), pp. 16-17;
    Hoang Van Hoan, A Drop in the Oceanâ (Beijing Foreign Languages
    Press, 1988). Cite in Douglas J. Macdonald, Communist Bloc Expansion in the Early Cold War:Challenging Realism, Refuting Revisionism, International Security, Vol.20, Nu. 3 (Winter 1995/96), p. 183
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này