1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Masan_1

    Masan_1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    2.330
    Đã được thích:
    14
    According to the Chinese government''''''''s own calculations,
    Liệu có bị phóng đại không nhỉ???
    Được Masan_1 sửa chữa / chuyển vào 15:46 ngày 26/08/2005
  2. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Không lọai trừ được. Con số 320,000 phía TQ đưa ra năm 1978, có kèm theo hồ sơ minh họa. Nhưng nếu họ có muốn phóng đại thì hồ sơ kiểu đó làm giả dễ như trở bàn tay. Ngòai họ ra chẳng ai có con số thực, kể cả VN. Chả ai kiểm tra được. Đọc thế biết thế.
    Đọan trích này gây tò mò không phải vì con số, mà vì trích dẫn trao đổi giữa HCM và MTĐ, trong đó yêu cầu đưa quân TQ sang VN là do phía VN chủ động đưa ra. Nhưng cũng không lọai trừ tác giả sách này cố ý không trích hết. Làm sao mà kiếm được cái cuốn ''77 cuộc nói chuyện'' này để kiểm chứng nhỉ...?
  3. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Phi công Mỹ duy nhất bị bắn rơi, bắt làm tù binh, nhưng đã đào thoát thành công ngược về Nam Việt nam.
    Maj. George E. Day


    On Aug. 26, 1967, the North Vietnamese captured Maj. George E. "Bud" Day, a downed F-100 Super Sabre pilot who was severely wounded. He was taken to a prison camp where he was interrogated and tortured. Days later, Major Day became the only known American to escape into South Vietnam after being captured in the north. Within two miles of freedom, he was re-captured by the *********. He wouldn''t know freedom again for 5 1/2 years. For his bravery, he received the Medal of Honor.
    Perhaps the only stroke of fortune for him that day was that his parachute opened. Upon reaching the ground he was immediately captured and severely beaten. The torture continued for two days during most of which Day was hung upside down with ropes. So severe were his injuries and so swollen was his left knee that Day''s captors considered his incapable of resistance or escape and only loosely bound him for three more days in a damp ****. On the sixth night Day escaped. Barefoot and injured he traveled south for two days, both feet repeatedly cut by sharp rocks and battle debris. Later he would recount the sounds of his pursuers and their dogs all around him day and night, but through great will *****rvive he managed to stay one step ahead of them.
    On his second night of freedom, unable to continue without rest, the 41 year old pilot sought refuge under a bush. His fitful sleep was suddenly shattered by the nearby explosion of a rocket or bomb, he never knew which. The detonation was so close it threw his body into the air and ruptured his eardrums and sinuses. Shrapnel ripped into his right leg cutting large, open wounds. Disoriented and with no equilibrium, he languished in the brush for two more days. Then he resumed his trek south to what he hoped would be freedom.
    For several days meager meals of berries, as well as two frogs, provided the sustenance he needed to continue. After more than a week of struggle Day finally reached the Ben Hai River marking the boundaries of the Demilitarized Zone. Hiding from enemy patrols during the day, he left the cover of jungle that night and used a bamboo log to float across the river and into "no-man''s-land". For another week he avoided enemy patrols and several times came close to attracting the attention of American helicopters and reconnaissance airplanes. With unbelievable strength of character he continued south in hopes of reaching an American patrol that had ventured into the zone.
    Somewhere between his 12th to 15th days of escape he began to hear the nearby sounds of American artillery and helicopters. During the darkness of night he continued until the basecamp was in sight. Not wanting to approach the friendly fortress during the darkness that might make the defenders mistake him for an enemy, Day lay down in the jungle to await dawn. Shortly before the sun arose to afford him rescue he looked up to see a North Vietnamese soldier pointing an AK-47 rifle at him. Attempting to escape yet again, Day was shot in his left hand and thigh. A day and a half later he was recaptured and returned to his original prison camp.
    Refused medical treatment, Day''s gunshot wounds festered and became infected. He was tortured for 48 hours without rest before the enemy finally believed they had broken his will. Day had answered their questions. What they didn''t realize was that the man who appeared so broken on the outside had answered every important question with false information. Two months later, totally destroyed physically, Day was sent north to the infamous Hoa Lo prison camp, where further torture continued.
    Most Americans are already aware that con***ions at the "Hanoi Hilton" were barbaric. American prisoners faced isolation, humiliation, and torture that lasted for year after year.
    In February 1971 several American prisoners at the Hoa Loa camp gathered for a forbidden religious service. Suddenly they were interrupted by the enraged enemy guards. As the guards burst into the meeting room with rifles pointed at the prisoners, one of the Americans stood to his feet. Ragged, battered but unbroken, it was George Day. Looking into the muzzles of the enemy rifles he began to sing. The song was the national anthem, "The Star Spangled Banner." Next to him another prisoner stood. Commander James B. Stockdale was the ranking American in the prison and he lended his voice to Day''s anthem of freedom. Soon the other prisoners joined the refrain, and then from throughout the entire prison camp, came the sounds of others. Stockdale, who would join "Bud" Day in receiving Medals of Honor five years later wrote that, although he was punished for the episode, it was exhilarating: "Our minds were now free and we knew it."
    Day was born in Sioux City, Iowa, February 1925. He attended Central High School in Sioux City. He earned his bachelor''s degree and a Doctor of Humane Letters from Morningside College in Sioux City, Iowa. He was awarded a Master of Arts degree from St. Louis University, a Juris Doctor from the University of South Dakota and a Doctor of Laws from Troy State University. Colonel Day was admitted to the South Dakota Bar in 1949 and in Florida Bar in 1977.
    He joined the Marine Corps in 1942 and served 30 months in the South Pacific as a noncommissioned officer. He received an appointment as a second lieutenant in the National Guard in 1950. He was called to active duty in the Air Force in 1951 and entered pilot training. While serving in England, Day is also cre***ed with living through the first "no chute" bailout from a burning jet fighter in 1955. He served two tours in the Far East as a fighter-bomber pilot during the Korean War.
    In April 1967, Colonel Day was assigned to the 31st Tactical Fighter Wing at Tuy Hoa Air Base, Republic of Vietnam. He later moved to Phu Cat Air Base where he organized and became the first commander of the "Misty Super FACs (Forward Air Controllers)," an F-100 squadron.
    At the time of his shoot-down, Colonel Day was one of the nation''s most experienced jet fighter pilots, with 4,500 hours of single engine jet time, and more than 5,000 hours of flying time.
    Day holds nearly 70 military decorations and awards, of which more than 50 are for combat. Most notable are: the Medal of Honor, the Air Force Cross, the Distinguished Service Medal, the Silver Star, the Legion of Merit, the Distinguished Flying Cross, the Air Medal with nine oak leaf clusters, the Bronze Star for Valor with two oak leaf clusters, the Bronze Star, and the Purple Heart with three clusters. Colonel Day was presented Vietnam''s highest medal by their president, two Vietnamese Gallantry Crosses, and Vietnamese Wings, and wears 12 Campaign Battle Stars.
    He was released March 14, 1973. Three days later Day was reunited with his wife and four children at March Air Force Base, Calif. After a short recuperative period, Day was returned to active flying status. He retired from active duty in 1977. Following his retirement, Day wrote an autobiography, "Return with Honor," detailing his suffering as a captive in Vietnam. On March 14, 1997, the new Survival School Building at Fairchild AFB, Wash., was named in his honor.
  4. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Có nguồn thì nói chính thức Mỹ không công nhận B52 bị bắn rơi bởi Mig21. Tất cả số bị rơi đều quy cho tên lửa, cao xạ 100mm, hoặc operational loss.
    Nguồn khác thì có công nhận B52 bị Mig bắn hạ.
    Trước kia, ta chỉ công nhận có 2 chiếc do Phạm Tuân (bắn đêm 28/12) và Vũ Xuân Thiều (29/12/1972). Nhưng theo tài liệu của Lê Thành Chơn (Tia chớp giữa Bầu trời, Thư viện QG Hà nội), tướng Ralf khi đi thăm Việt nam đã thừa nhận tổng cộng 3 B52 bị bắn rơi, trong đó một chiếc bị bắn từ năm trước đó.
    Qua so sánh, chiếc đầu tiên bị phi công Vũ Đình Rạng (nay là Đại tá nghỉ hưu) bắn rơi đêm ngày 20/11/1971. Trận này đặc biệt ở chỗ địch cho B52 vào thu hút toàn bộ sự chú ý của KQ ta để hơn 3 giờ sau đó chúng tấn công cướp phi công ở Sơn tây (21/11/1971).
    Chiếc này Rạng bắn 1 phát tên lửa nổ trúng một động cơ nhưng... không bõ bèn gì vì B52 to quá, có tới 8 động cơ. Anh bay trượt lên phía trước thì lại gặp ngay một chiếc B52 khác bay ngay bên cạnh, nhưng tốc đố máy bay ta đã quá cao, không hãm tốc để tụt lại sau xạ kích được. Anh liền ước cự li đón đầu bắn trực xạ quả tên lửa còn lại. Quả tên lửa bay vượt trước đầu máy bay địch trong gang tấc. Anh quay về hạ cánh.
    Chiếc này về hạ cánh được ở Thái lan, nhưng phải tháo bỏ chở về Utapao, không bao giờ bay trở lại được nữa.
  5. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Theo Lê Thành Chơn thì Sở Chỉ huy Quân chủng nhiều lần không biết máy bay bị mất tại sao. Do đó khi phát hiện địa điểm máy bay rơi thì Quân chủng sẽ tìm cách đến tận nơi và dò hỏi người ở địa phương.
    Thực ra tư liệu của Lê Thành Chơn nửa mang tính lịch sử, nửa mang tính tiểu thuyết văn học, nên ko biết mức chính xác tới đâu. Tuy nhiên các chuyện đều dựa theo các trận đánh có thực.
    Theo Lê Thành Chơn, đoàn tìm kiếm đã dò hỏi qua người dân tại địa điểm máy bay bị bắn rơi để xây dựng lại trường hợp hi sinh của Mẫn; và những người chứng kiến trận đánh đã mô tả lại như vậy.
    Tên lửa không đối không từ lúc bắn ra cho tới lúc chạm mục tiêu chỉ hơn 10 s nên rađa mặt đất khó mà phát hiện được (rada refresh sau mỗi 10s).
    Rađa dẫn đường về nguyên tắc vẫn có thể phát hiện ra được AA nhưng không thể báo động kịp cho người lái.
  6. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Thông tin mang tính chất tham khảo. Không biết được đúng sai.
    Bùi Tín
    Nguyên Trưởng Ban Biên tập Báo Nhân dân (Cơ quan Ngôn luận tối cao của Đảng Cộng sản). Đào tẩu sang Phương Tây từ đầu những năm 90. Việt nam coi Bùi Tín là kẻ đào tẩu, kẻ phản bội.
    Xin ông cho biết thêm, trong điều hành chiến tranh, Mỹ có những sai lầm lớn gì nữa?
    Theo tôi, trong một thời gian dài các ông đã có những sai lầm khi lượng định về khả năng can thiệp trực tiếp của Liên xô và nhất là của Trung Quốc vào cuộc chiến ở Việt nam. Các ông e ngại khi tiến công miền Bắc Việt nam, Trung Quốc có thể vào tham chiến như ở Triều Tiên hồi năm 1952. Do đó, phía Mỹ leo thang thận trọng, vừa đánh vừa nghe ngóng, thăm dò phản ứng của Mát-xcơ-va và đặc biệt là của Bắc Kinh.
    Do vậy, hành động quân sự của Mỹ ở Việt nam đã không thực hiện đúng những nguyên lý quân sự: tới tấp, liên tục, táo bạo, bất ngờ...
    Tôi có thể kể ra những vấn đề, những sự kiện đã đi vào lịch sử, nay không còn là bí mật. Từ đầu năm 1963, khi Mỹ để lộ ý định đánh phá miền Bắc và đang đón đường dư luận, bộ Quốc phòng quân đội nhân dân Việt nam, Quân ủy Trung ương và các bộ tổng Tham mưu của Việt nam và Liên xô cũng như của Việt nam và Trung Quốc đã có những thỏa thuận bí mật về việc tăng cường chi viện cho Việt nam, vừa là một thành viên, vừa là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa. Một đoàn đại biểu quân sự cấp cao Liên xô do đại tướng Ba-tốp (Batov)[4] dẫn đầu và một đoàn đại biểu quân sự cấp cao của Trung Quốc do nguyên soái Diệp Kiếm Anh dẫn đầu đã sang Việt nam để tìm hiểu kỹ tình hình tại chỗ, nhằm triển khai thỏa thuận quan trọng ấy.
    Giữa năm 1963, lại một đoàn quân sự của Trung Quốc do đại tướng La Thụy Khanh cầm đầu sang Việt nam. Lúc ấy tôi đang ở Bộ chỉ huy Quân khu 4 đóng tại Vinh, tướng Nguyễn Đôn là Tư lệnh và tướng Chu Huy Mân là Chính ủy. Tôi thuộc trong ban đón tiếp các đoàn trên, góp phần vào báo cáo tình hình mọi mặt của Quân khu, tổ chức cho các đoàn tham quan và giải trí (biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, thăm quê hương ông Hồ Chí Minh, thăm đền Bà Triệu, thăm vùng giới tuyến Vĩnh Linh...) Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc La Thụy Khanh và các tướng khác của Trung Quốc đi trong đoàn đã thỏa thuận với Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt nam một nguyên tắc: nếu Hoa Kỳ dùng không quân xâm phạm không phận miền Bắc, thì không quân Trung Quốc sẽ tham chiến; nếu Hoa Kỳ dùng hải quân xâm phạm hải phận miền Bắc, thì một bộ phận hạm đội Đông Hải của Trung Quốc sẽ tham chiến cùng với hải quân Việt nam và nếu Hoa Kỳ đưa bộ binh vào địa phận miền Bắc, thì lục quân Trung Quốc sẽ vào tham chiến. Địa hình Quân khu 4 (từ Thanh Hóa vào đến Vĩnh Linh) được coi là trọng yếu. Các sĩ quan cao cấp của Trung Quốc nghiên cứu tỉ mỉ khu vực này trên thực địa, từ bãi biển, sông ngòi, rừng núi đến đường xá, cầu cống, phương thức vận chuyển và đã bàn đến các phương án tác chiến có thể sẽ triển khai, cách phối hợp các đơn vị của hai quân đội Việt nam và Trung Quốc khi chiến đấu chống lại quân đội Hoa Kỳ. Các cán bộ chỉ huy của không quân Việt nam và không quân vùng Hoa Nam của Trung Quốc (gồm các Quân khu Quảng Tây, Quảng Đông và Vân Nam) đã tìm hiểu các sân bay ở miền Bắc Việt nam và vùng Hoa Nam Trung Quốc để làm quen, rồi sẽ sử dụng chung, để có thể hợp đồng chiến đấu chặt chẽ, có thể cất cánh ở sân bay Việt nam rồi hạ cánh ở sân bay Trung Quốc hoặc ngược lại v.v... Chính tướng Đào Đình Luyện, Tư lệnh không quân Việt nam (sau này lên Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt nam) đã kể lại cho tôi nghe những điều trên đây.
    Thế rồi sự kiện vịnh Bắc Bộ (Tonkin Gulf) xảy ra vào đầu tháng 8.1964. Hải quân Hoa Kỳ xâm phạm hải phận miền Bắc Việt nam và đã chạm súng với hải quân Bắc Việt nam. Trung Quốc không hề có phản ứng gì! Vì sao? Vì Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh không thuyết phục được các ông Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh ngả hẳn về phía Bắc Kinh và công khai lên án ?Tbọn xét lại Khơ-rút-xốp phản bội trong khi đảng Lao động Việt nam cố giữ thế đi dây đứng giữa, nhưng vẫn phần nào nghiêng về phía Trung Hoa. Trung Quốc cho Việt nam có thái độ ba phải, không rõ ràng. Đến đầu tháng 8.1965, Mỹ mở chiến dịch ?TSấm rền?T (?TRolling thunder?T) với cái cớ trả đũa căn cứ quân sự Mỹ đóng ở Plây-ku bị tiến công, oanh tạc bằng không quân một số nơi ở Quảng Bình, Nghệ An, Quảng Yên... thuộc miền Bắc Việt nam. Trung Quốc vẫn bất động! Chẳng những thế, thủ tướng Trung quốc lúc bấy giờ là Chu Ân Lai còn tuyên bố: ?TNgười không động đến ta, thì ta không động đến người!?T.
    Hồi đó ở Hà Nội, giới lãnh đạo miền Bắc rất lo Mỹ biết thái độ tráo trở của Trung Quốc và coi đó là tín hiệu khuyến khích họ leo thang mạnh hơn nữa ra miền Bắc. Nhưng nỗi lo ấy có vẻ thừa! Hồi ấy giới lãnh đạo miền Bắc lo nhất là Mỹ có thể cho quân đổ bộ vào đất liền, trấn giữ một đoạn trên đường mòn Hồ Chí Minh, hoặc chiếm một khu vực thuộc vùng ?Tcán xoong?T ở khu 4, làm đảo lộn kế hoạch vận chuyển chiến lược từ miền Bắc vào miền Nam. (Con đường vận chuyển trên biển qua Xi ha-núc-vin sau này chỉ chiếm dưới 2% tổng khối lượng hàng quân sự từ miền Bắc chuyển vào miền Nam). Nỗi lo này cũng lại thừa! Mỹ đã không hành động như giới lãnh đạo miền Bắc lo ngại. Cho đến năm 1971, quân đội Sài Gòn mới đánh vào đoạn đường vận chuyển vào miền Nam nằm trên đất Lào. Lúc đó, so sánh lực lượng hai bên đã khác hẳn. Quân Mỹ đã rút chân ra khỏi cuộc chiến, thế trận của họ ở miền Nam đã yếu đi rất nhiều.
    Về phía Liên xô, thái độ rất rõ. Một mặt họ coi tình trạng Hoa Kỳ sa lầy ở Việt nam là dịp tốt để vươn mạnh lên đuổi kịp và vượt Mỹ về mọi mặt.. Mặt khác, họ luôn khuyến khích, ép Việt nam tìm con đường thương lượngvới Mỹ vì sợ chiến tranh lan rộng họ bị vạ lây. Họ nói: Việt nam sức mấy mà đọ được với siêu cường Hoa Kỳ! Hãy thi đua hòa bình với Mỹ và các nước tư bản rồi cuối cùng thế nào phe xã hội chủ nghĩa cũng sẽ thắng? Nếu cứ liều lĩnh lao vào cuộc chiến, thì sẽ bế tắc. Những người lãnh đạo hàng đầu của Liên xô lúc đó như Khơ-rút-xốp, Mi-côi-an, Xu-xlốp, Cô-xư-ghin... đều chung một ý kiến ấy. Nguyên soái Grês-cô còn vỗ vai tướng Giáp nói: ?TThế là đủ rồi, chớ có dại lao tiếp vào lửa chiến tranh, sẽ bị tàn phá hết, đến lúc cái quần đùi cũng chẳng còn!?T
    Hà Nội giấu kỹ thái độ lừng khừng, tráo trở của hai ?Tông anh lớn?T, lo Mỹ biết và khai thác. Để nghi binh, Hà Nội luôn nói to: cả phe xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên xô và Trung Quốc, trước sau đều ủng hộ mạnh mẽ, có hiệu quả sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân Việt nam cho đến thắng lợi hoàn toàn. Phía Mỹ đã nhầm khi đáng giá quá cao ?Ttinh thần quốc tế vô sản?T của Mát-xcơ-va và Bắc Kinh đối với Hà Nội trong vấn đề chiến tranh ở Việt nam?
  7. falke_c

    falke_c Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/04/2005
    Bài viết:
    224
    Đã được thích:
    0
    Các chuyên gia cho hỏi 1 cái:
    Trong "Điện Biên Phủ" trên không ta bắn bao nhiêu quả tên lửa SAM2?????
    Chả là VN khoe là Bộ Đội ta học điều khiển tên lửa mất có 3 tháng , trong khi trương trình qui định là 12 tháng (ngày xưa đọc trong "phòng không, không quân", 2 tập dầy cộp, không hiểu giờ còn in không?), hồi bé thấy rất tự hào . Sau này sang Đông Đức đi học, đọc Armee Rundschau thấy bọn nó phê bình thẳng thừng về tính kém hiệu quả của Bộ đội tên lửa VN, nên muốn check lại 1 cái (thực ra đúng thôi, học ăn bớt thì làm sao chuẩn được!!! nhưng chắc không có thời gian lúc đó)
  8. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Cái này hay đây...
    Bác nào có điều kiện tìm số liệu, làm ơn tìm hộ xem ở đâu có số liệu về số SAM 2 bắn lên từng ngày trong 12 ngày đêm đó. Hồi trước bên LS_VH hình như bác B.40 nói là có các số liệu này nhưng bẵng đi một dạo cũng chưa thấy gì cả...
    Chả là tôi vẫn quan tâm cụ thể lý lẽ của hai bên về vụ 12 ngày đêm này ra sao. Ta nói ta thắng, Mỹ bảo Mỹ thắng, nhưng bên nào cũng dùng phán đóan của mình, hoặc trưng số liệu do mình đưa ra nên cũng không tâm phục khẩu phục lắm. Lý luận ''ai thắng ĐBP trên không'' trên cơ sở xem ai đạt được ưu thế trong các điều khỏan ở HĐ Paris thì sau khi bác VanLyTruongChinh post hồi ký của ông Lưu Văn Lợi bên LS_VH tôi thấy cũng chưa được rõ ràng 100%, sau đó TTVNOL bị down thành ra chuyện đang hay bỗng chìm đi. Nhưng thôi cứ từ từ bàn chuyện con số SAM bắn lên trước đã nhỉ,
    Được altus sửa chữa / chuyển vào 02:55 ngày 27/08/2005
  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Theo cuốn "12 ngày đêm năm 72", cuốn "Đánh thắng B52" của Trung tướng Hoàng Văn Khánh, trong 12 ngày đêm, trung bình ta cứ bắn 9 quả đạn mới hạ được một mục tiêu. Theo tài liệu của Pháp thì đợt 12 ngày đêm ta bắn 12 tên lửa mới hạ được một máy bay địch. Trước đó trong đợt tìm đánh B52 đầu tiên 1966-67 ở Khu 4, ta dự kiến tập trung 2 tiểu đoàn tên lửa (81 và 83 của trung đoàn 238 (?)) bắn cùng một lúc để đảm báo chắc thắng (12 bệ phóng - 2 đài cảnh giới, 2 đài điều khiển).
    Trong một tình huống, một trong hai tiểu đoàn tên lửa của Trung đoàn bị chập chờn rada không đánh được; mặc dù B52 đêm đó 3 lần bay đúng vào trận địa phục kích rất ngon ăn, không nhiễu, trung đoàn trưởng đã do dự, sợ trách nhiệm, không dám lệnh đánh, dù các trận địa của tiểu đoàn tên lửa còn lại liên tiếp gọi điện lên tỏ quyết tâm và xin lệnh. Lý do vì muốn đảm bảo chắc thắng, ông muốn đợi có cả hai tiểu đoàn cùng đánh tập trung một lúc.
    Đồng chí này về sau đã bị phê bình nặng nề, cán bộ chiến sỹ oán thán (nguyên văn trong hồi ký) vì thiếu quyết đoán, không những không hạ được địch trong thời cơ lịch sử (gần như chắc chắn 100% bắn rơi tại chỗ), mà còn để địch phát hiện trận địa phục kích và phản kích khiến 2 tiểu đoàn tên lửa hư hỏng toàn bộ khí tài chiến đấu, hy sinh hàng chục chiến sỹ.
    Trận đánh phản kích của địch ngày sau đó cực kỳ ác liệt. Trận địa tiểu đoàn 83 bị địch đánh cả ngày không đánh trả được, mà trận địa của tiểu đoàn 81 bố trí ở ngay cạnh, trong tầm phóng đạn, sẵn sàng chờ lệnh bắn chi viện nhưng vẫn không có lệnh.
    Tiểu đoàn trưởng 81 đề nghị nhiều lần cho bắn nhưng Trung đoàn trưởng vẫn sợ trách nhiệm không dám tự quyết, đợi họp "Thường vụ". Nhưng lúc đó thường vụ chỉ có mỗi 2 người nên không quyết định được gì. Người ta đành gọi điện lên trên xin ý kiến. Đến lúc có ý kiến chỉ đạo của trên thì khí tài của 83 đã bị đánh hỏng toàn bộ, hy sinh tổn thất đau đớn không chịu nổi. Còn mỗi một tiểu đoàn thì mấy hôm sau cũng bị địch dùng Sơ rai đánh hỏng khí tài, hy sinh trắc thủ. Toàn bộ lực lượng tìm diệt không còn bộ khí tài nào để chiến đấu tiếp, phải rút đi trong đêm.
    Số liệu của Mỹ cho rằng ta bắn ít nhất 864 quả tên lửa trong 12 ngày đêm. Số liệu của ta tôi nhớ mang máng chỉ bằng 1/3 số đó. Số liệu của Mỹ do phi công đo đếm bằng mắt nên chắc chắn không thể chính xác được. Nhưng số liệu của ta do mục đích chính trị và an ninh quốc phòng nên cũng chưa chắc đã chính xác.
    Nhưng trong cuốn Đánh thắng B52 của tướng HVKhánh, ông nói rõ trong ngày 26/04/1972, lúc B52 thật bay vào tấn công Hải phòng thì chập chờn không báo rõ, lúc B52 giả bay vào thì số liệu cho như thật. Hôm đó Hải phòng bắn hơn 90 quả tên lửa, nhưng chỉ được công nhận bắn rơi 1 chiếc B52 (không có xác - kết luận theo rada). Cùng ngày hôm đó, rada "phát hiện" B52 xâm nhập Hà nội, Bộ Tư lệnh lệnh xuống cho các tiểu đoàn tên lửa quanh Hà nội và Mig 21 xuất kích đánh mãnh liệt vào các "nhóm mục tiêu". Nhưng hôm đó, B52 hoàn toàn không bay vào Hà nội. Tốn hàng trăm quả đạn tên lửa trong một ngày, vậy mà kết quả lại như vậy. Từ đó nảy sinh tư tưởng không tin rada phát hiện được B52, không tin tên lửa bắn trúng được B52.

    Cũng theo tài liệu này, chỉ ngay ngày đầu tiên 18/12, riêng ở Hà nội ta bắn 64 quả. Không có số liệu ở Hải phòng và Thái Nguyên. Sư đoàn của tướng Hoàng Văn Khánh lúc đó đóng ở khu 4 đánh địch lúc bay ra bắn ít nhất 4 quả tiêu diệt 1 B52 (được công nhận, nhưng không có xác. Sau giải phóng ta được biết chiếc B52 đó hạ cánh bắt buộc xuống sân bay Đà nẵng). Tướng Khánh trích tác giả cuốn Chiến tranh Việt nam xuất bản ở Luân đôn 1979 nói số liệu Mỹ là bắn khoảng 200 quả trong đêm đầu tiên, nhưng nói đó là số liệu phóng đại.
    Đọc trong 2 cuốn Ký sự Quân chủng Phòng không Không quân cũng thấy rõ nhiều trận trong năm 66, 67 ta phóng đến hơn 20 đạn làm thành một dãy điểm nổ dọc đường tiến vào của đội hình đánh phá nhằm cản trở địch tạo đội hình.
    Đánh B52, ta không nhìn thấy được địch trên màn hiện sóng do bị nhiễu dày đặc, trắng xoá cả màn hình, nên chỉ có khả năng bắn theo khu vực của dãi nhiễu (nhưng trắc thủ phải học thuộc đâu là dải nhiễu của B52), nên phải bắn nhiều quả một lúc và do trắc thủ điều khiển bằng tay. Chỉ có duy nhất một trường hợp một tiểu đoàn tên lửa trong đêm đầu tiên, 18/12/1972 đã mưu trí sáng tạo không những phát hiện được B52 mà còn bám tự động, và bắn rơi địch (Hoàng Văn Khánh)
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 03:52 ngày 28/08/2005
  10. lehahai

    lehahai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2003
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    0
    Bạn KQNDVN nhầm hoàn toàn rồi, chắc là bạn chưa nhìn thấy các bộ khí tài tên lửa bao giờ. Trong một tiểu đoàn tên lửa, tiểu đoàn trưởng là người quyết định và ra lệnh phóng tên lửa (ấn nút). Tiểu đoàn trưởng và các trắc thủ điều khiển ngồi chung trong một xe gọi là xe điều khiển, xe này không có Radar. Radar đặt trên xe khác cách biệt hoàn toàn với xe điều khiển, trên xe này có 2 KTV (S75) hoặc không có người (S125). Đấy là toàn bộ một tiểu đoàn tên lửa (không tính đại đội bệ), còn đài 1 (theo KQNDVN) là các Radar của trung đoàn hay cấp cao hơn tuỳ trường hợp. Theo tôi các sỹ quan LX hi sinh ở trên là các chuyên gia kỹ thuật có nhiệm vụ thu thập dữ liệu thực tế để cải tiến khí tài thôi, không trực tiếp tham gia chiến đấu.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này