1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    Phạm Thanh Ngân là phi công xuất sắc. Chiến công lớn nhất của anh là truyền kinh nghiệm cho các phi công nổi tiếng khác (năm 1967, ta chỉ có 72 phi công trực chiến).
    Chiến công trên không lớn nhất của anh là ngày 18 tháng 11 năm 1967. Lần này, anh không dùng chiến thuật tấn công theo chiều thẳng đứng của MIG-21 nổi tiếng mà chính anh thử nghiệm. Địch dùng 12 chiếc F-105 bay trước, sau là 4 chiếc F-4 vòng qua Tam Đảo, định dùng núi khuất để MIG không thấy F-4, lừa kẹp các MIG tấn công F-105. Ngân cùng đồng đội tấn công tốp 105 khi F-4 đang vòng, chưa kịp tiếp cận, tấn công bằng tốc độ rất cao thoát khỏi trận về phía trước. Trận đánh kết thúc 3 F-105 bị hạ bằng không chiến và 6 chiếc máy bay khác bị hạ bằng SAM. Riêng Ngân hạ 2 chiếc F-105.
    Đây là trận đánh mặt phẳng ngang ít gặp của MIG-21, bằng ưu thế gia tốc động cơ. Cả đội hình địch dạt ra tan tác làm mồi cho SAM.
    Được than_dau_tuat sửa chữa / chuyển vào 02:08 ngày 11/01/2006
  2. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    Mở đầu Topic này, bác kqndvn đã làm câu "Triều Tiên, không quân Mỹ thằng Liên Xô 10:1". Như thế tức là Liên Xô rơi 6 ngàn đến 10 ngàn máy bay (tuỳ cách tính, chỉ không chiến hay chỉ F-86).
    Các trang wep Mỹ nếu đọc không suy nghĩ thì rất nhiều vấn đề, như: trong chiến tranh Việt nam, đôi khi tỷ lệ thắng hạ xuống dưới 2:1 (làm như Mỹ luôn thắng 2 lần)!!!! Các bác biết câu đó ở đâu không, ở bài mô tả YF-110 và YF-113, máy bay MIG-21 và MIG-23 Mỹ copy trong chương trình tuyệt mật tại căn cứ Area-51. (vừa ăn cắp vừa la làng ke ke ke ke ke ke ke ke ke ke ke, vì địch thua đau quá nên ta copy máy bay địch về dùng ke ke ke )
    Đây là trận đánh mà bác kqndvn đã mô tả. Các F-4 phục kích đằng sạu 2 chiếc làm mồi đi đầu, đã lừa được Lanh và Phúc ở Ba Vì. Sau khi hai chiếc mồi ngoặt gấp chạy thoát thì Lanh và Phúc trở thành mồi của đội hình đông F-4 không chiến đằng sau. Cuộc chiến gay gắt, MIG lợi dụng ưu thế nhỏ nhanh vòng gấp nhiều lần thoát hiểm. Cuối cùng, Phúc (biên đội trưởng) bám đuôi một F-4, sau Phúc, hai chiếc F-4 bám anh, Lanh (yểm trợ) bám sau cùng, Lanh trở thành chìa khoá. Tình thế cực kỳ nguy hiểm vì Lanh chỉ còn vài chục giây dầu, ta sẽ mất cả 2 máy bay. Lanh đã quyết định thay Phúc, Lanh bắn một đạn vào tốp 2 chiếc ở giữa rồi vọt lên (2 chiếc này tách ra tránh được đạn), Phúc nhẹ người bắn hạ chiếc đầu tiên. Lanh lên đến đỉnh độ cao thì hết dầu. Các F chạy vì cũng hết dầu sau một hồi quần đảo với đốt đít, Phúc yển trợ Lanh lượn 50km sang sông hạ cánh an toàn.
    Trận đánh dùng MIG-19 quá đát mặt phẳng ngang kinh khủng diễn ra trên cầu Việt Trì 2-9-1972, lúc 11 giờ sáng. Địch dùng 2 tốp F-4, trong đó có 12 chiếc mang bom tấn công cầu Hà Nội. Cũng như các trận đánh phục kích của địch khác, các F-4 không chiến đi sau. Hai MIG-21 vòng qua Tây Bắc Hà Nội lao thẳng về phía Hoà Bình hướng Tây Nam, các F-4 không chiến mắc lừa lao theo. Hai MIG-19 do Hoàng Cao Bổng và Nguyễn Văn Quảng lái đã cất cánh trước tiến về phía Việt Trì lúc này mới lộ mặt, lao vào 12 F-4 ném bom (MIG-19 bay rất chậm, chỉ lợi khi đánh quần vòng mặt phẳng ngang, nhưng phải nhiều máy bay, nếu 1 chiếc thì địch bỏ trận chạy không làm gì được). Bổng bất ngờ phủ đầu làm một F-4, các máy bay còn lại phải bỏ nhiệm vụ, vứt hết bom lao vào không chiến. 2 chiếc MIG cổ lỗ đã buộc các F-4 hiện đại đánh quần vòng cự ly ngắn, trận đánh đẹp mắt như các trận hỗn chiến dogfight ngay trên trời Việt Trì. Quảng làm thêm một chiếc nữa, các F rút lui. (F-4 đánh với MIG-17 và MIG-17 đã quá hạn thì MIG phải đánh đến tận cùng, vì MIG chỉ lợi thế khi quần vòng, nếu bỏ trận F sẽ hạ ngay. Các F-4 khi quần vòng bán kính hẹp rất yếu thế và tốn dầu, nên tuy thường có tốc độ M2 vẫn bị MIG-17,19 bám và cắt đường kính vòng chiến, không bỏ trận dễ dàng được).
    2 xe bò hỗn chiến với 12 xe tăng !!!!
    Được than_dau_tuat sửa chữa / chuyển vào 02:17 ngày 11/01/2006
  3. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    Thật nực cười cho không quân Nguỵ, trong một cuộc chiến đẫm máu kéo dài 30 năm mà không một lần không chiến, chí ít lấy một lần để phi công nhìn thấy tên lửa đối không bay.
    Bác kqndvn thì luôn bênh vực đội này, nhưng theo Tuất, cơ hội để không quân Nguỵ không chiến rất nhiều. Tỷ như phục kích từ Lào hạ máy bay vận tải hay VIP chẳng hạn.
    Không có lý do gì bênh vực cho một không quân trang bị thứ 4 thế giới, 30 năm chiến tranh không hề không chiến.
    Quân ta thì ngược lại, sử dụng những máy bay chuyên không chiến ném bom. Đây là một trận đánh bí mật:
    Còn một huyền thoại thuộc vào loại được giữ bí mật đến nay chưa ai biết. Đó là Phạm Phú Thái và phi công Đinh Tôn, anh hùng lực lượng vũ trang, được lệnh dùng Mig-21 mang bom và rốc-két ám sát Nguyễn Văn Thiệu. Tôi còn được biết sau khi Hồ Duy Hùng cướp được chiếc UH-1 ở hồ Xuân Hương (Đà Lạt) mang về vùng giải phóng, ông Tư Chu, tư lệnh lực lượng biệt động Sài Gòn, đã có ý định sử dụng chiếc UH-1 ném bom ám sát Thiệu vào đầu năm 1974 tại dinh Độc Lập. Như vậy số của Nguyễn Văn Thiệu thoát khỏi tội trừng phạt của không quân nhân dân Việt Nam thì hắn cũng bị quân dân miền Nam đánh cho phải ?obôn tẩu? sang Đài Loan và trốn sang Mỹ ngày 26 tháng 4 năm 1975. Chuyện đó như sau :
    Từ nguồn tin kỹ thuật thuộc vào loại tối mật, Thiệu sẽ đi ủy lạo binh lính ở quân khu 1. Có thể, ở một số địa điểm trên đường số 1 từ thành cổ Quảng Trị cho đến Triệu Phong và Hải Lăng. Cấp trên quyết định sử dụng biên đội hai chiếc Mig-21 loại hiện đại nhất có bốn giá treo, mỗi chiếc mang hai quả bom loại 250 kg và hai thùng rốc-két. Theo kế hoạch đã được Đại tá Tư lệnh quân chủng Phòng không - Không quân Lê Văn Tri phê chuẩn và trực tiếp phổ biến cho biên đội là Đại tá Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện và Phó Tư lệnh, Thượng tá Trần Mạnh. Theo phương án, biên đội sẽ cất cánh từ sân bay Nội Bài, hạ cánh ở sân bay Anh Sơn, Nghệ An , lắp bom, vượt qua sông Bến Hải ở phía Tây, bay rất thấp, dọc theo đường số 1, nơi nào có cờ và biểu ngữ, tập trung đông người, sẽ tấn công vào khán đài bằng bom, sau đó phóng rốc-két. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nếu hết dầu không về được sân bay hạ cánh, cố gắng bay về phía Bắc vĩ tuyến 17 nhảy dù. Trường hợp xấu nhất phải nhảy dù ở phía Nam, hai phi công sẽ đi về phía Tây. Nếu bị địch bắt, không về được thì phải giữ khí tiết... Hôm đó, Tết dương lịch năm 1974, khoảng 9 giờ, công tác chuẩn bị tại sân bay Anh Sơn cho hai chiếc Mig đã xong. Biên đội Đinh Tôn - Phạm Phú Thái được lệnh cất cánh, độ cao bay dưới 50 mét vượt qua giới tuyến ở phía Tây. Đinh Tôn bay phía trước, Phạm Phú Thái ở phía sau, hai anh tiến ra đường số 1, hai chiếc Mig-21 triển khai đội hình bên phải, đường số 1 rất rõ, phía Nam, xa xa là thị trấn Triệu Phong, bên trái là Hải Lăng. Mặc dù cố gắng quan sát nhưng vẫn không thấy nơi nào có cờ và người tập trung, Đinh Tôn và Phạm Phú Thái quyết định bay sâu về phía Nam thêm một phút bay nữa, trước mũi máy bay là phá Thuận An. Hai anh tập trung quan sát, không có đoàn xe nào, không có khán đài, cũng không có bóng dáng của một nhân vật quan trọng nào ở trên đường. Đường số 1 vắng vẻ. Sau khi báo cáo về sở chỉ huy. Đinh Tôn và Phạm Phú Thái được lệnh trở về, vậy là Nguyễn Văn Thiệu thoát chết...
    Hai chiếc Mig-21 vòng trái hướng ra cửa Tùng, hai bên đường cũng vắng bóng người. Đinh Tôn ra lệnh vòng lại, hai chiếc Mig-21 đè lên thị xã Đông Hà, hướng mũi máy bay ra biển. Biển xanh, bờ biển là bãi cát vàng trải dài. Đinh Tôn thông báo cho Phạm Phú Thái hạ thấp độ cao xuống dưới 5 mét. Thực hiện vệt bay giữa nước biển và bãi cát với tốc độ rất lớn. Hai chiếc Mig-21 ầm ầm lướt qua bờ biển Đông Hà Cửa Việt, ở phía sau hai chiếc Mig là hai cơn lốc cuồn cuộn hai cột nước và cột cát xoáy tròn phía sau như hai con rồng một trắng, một vàng. Qua cửa Tùng hai chiếc Mig lên đến độ cao 50 làm động tác khoan kéo lên độ cao 5.000 mét bay ra phía Bắc Vĩnh Linh rồi bất ngờ hạ thấp độ cao hạ cánh xuống sân bay Anh Sơn. Tối hôm đó, đài Sài Gòn loan báo máy bay Bắc Việt vi phạm không phận Việt Nam Cộng Hòa, lực lượng không quân Việt Nam Cộng Hòa cất cánh ?ođánh? cho ********* phải rut chạy về phía Bắc... Kể với tôi chuyện của 29 năm trước. Phạm Phú Thái cười rổn rảng. Anh cho biết: ?oLần đầu tiên vượt giới tuyến tiến vào phía Nam, trên bầu trời của Tổ quốc không hề có gì ngăn cách. Vậy mà, có một chút xúc động. Phía bên trái, Đinh Tôn sừng sững tiến vào đường số 1, tôi ở bên phải, nhiệm vụ của tôi là quan sát ở trên không. Chúng tôi càng bay sâu vào phía Nam, lòng rộn ràng, lãnh sứ mạng tiêu diệt tên đầu sỏ ngụy quyền?... Anh cho biết, đến nay dù tóc đã có muối nhưng kỷ niệm đó của biên đội ?oTôn- Thái?như mới xảy ra ngày hôm qua.

    Được than_dau_tuat sửa chữa / chuyển vào 02:19 ngày 11/01/2006
  4. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    Không quân Mỹ có số lượng áp đảo, máy bay hiện đại đã thất bại trước các máy bay out of date của ta. Tất nhiên do nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân là kém trí, (thiếu suy nghĩ như bác kqndvn thích quảng cáo). Kém trí thì dẫn đến cùng quẫn hoảng sợ và dễ gây tội ác.
    Phản ứng tâm lý kiểu thú vật xuất hiện nhiều trường hợp. Trong khi các phi công Mỹ được ta "bảo quản" tương đối tốt thì phi công Mỹ phạm những tội ác chiến tranh, đây không nói bom rơi vài nhà dân, mà chỉ nói các phi công với nhau. Ngày nay, nhà thiếu nhi Việt Trì có trưng bầy hai chiếc MIG-21 cũ. Nó tượng trưng cho những cái tạo nên con số khổng lồ máy bay Mỹ rơi.
    Còn chiếc F-4 Phạm Phú Thái bắn rơi ở Sơn Dương trong một trận đánh ác liệt, Thái bị thương gãy tay trái vào viện ngày 15 tháng 10 năm 1972, trở thành phi công thương binh lần thứ hai ... Và tại viện quân y, Đại tá Đào Đình Luyện, Tư lệnh không quân vào thăm đã nói ?oHôm nay không quân ta đã hạ 2 chiếc, chiếc thứ 3.999 là chiếc F-4D cắm đầu xuống một xã gần huyện lỵ Thanh Sơn. Còn chiếc thứ 4.000 đang đề nghị công nhận cho Thái, đó là chiếc F-4H rơi trên một cánh đồng thuộc huyện Sơn Dương?. Tôi nhớ rất rõ diễn biến trận đánh đó:
    Từ đầu tháng 10 năm 1972, bọn Mỹ cố ý mở những đợt tập kích rất lớn vào Hà Nội, những khu vực trọng yếu đều bị đánh, cầu Long Biên chỉ một đợt đánh đã sập nhịp thứ hai ở bờ phía Bắc, cầu Hàm Rồng, Phủ Lạng Thương đều bị đánh sập chỉ một đợt tấn công. Người Mỹ còn đánh vào dân thường, đánh kho xăng, đánh nhà máy điện... Dường như để gây sức ép mạnh đối với quân và dân miền Bắc. Còn chúng ta, chiếc máy bay Mỹ thứ 3.980 bị bắn rơi ngày 15 tháng 11 năm 1972 làm nóng lên không khí lập công. Các đơn vị trong quân chủng phòng không- không quân thi đua bắn rơi chiếc máy bay thứ 4.000 sôi nổi chưa từng có. Ngày 15 tháng 10 bọn Mỹ rục rịch đánh lớn. Tin tình báo được phổ biến từ sáng sớm... sẽ có đợt hoạt động của không quân Mỹ đánh vào các vị trí ở phía Bắc Hà Nội. 13 giờ biên đội Thái- Sang cất cánh và gặp địch trên vùng trời Tuyên Quang. Thoạt đầu, bọn Mỹ có 12 chiếc F-4 không chiến với biên đội của Thái. Nhưng, chỉ một lúc sau số lượng tiêm kích địch tăng gần gấp đôi. Nguyễn Văn Sang mất đội hình bay về. Tên lửa địch giăng khắp bầu trời. Thái cơ động, chớp thời cơ anh bắn rơi một chiếc F-4, anh kéo máy bay lên cao, chuẩn bị thoát ly bay về. Lúc này độ cao Mig-21 là 8.000 mét. Thái làm động tác úp máy bay, động tác khá mạnh. Nhưng, bọn Mỹ dùng tên lửa có điều khiển bắn trúng khi chiếc Mig của Thái vừa chuyển động cắm xuống. Máy bay mất điều khiển, rơi rất nhanh, Thái kéo dù ở độ cao 4.000 mét... chiếc dù màu vừa mở, Thái nhìn thấy nhiều chiếc F-4 bổ nhào, những loạt đạn từ những chiếc máy bay của Mỹ bắn vào dù đang hạ dần độ cao. Thái đưa hai tay kéo dù, thu hẹp diện tích nhằm làm cho dù rơi nhanh. Nhưng cánh tay trái đã gãy, chỉ còn tay phải kéo dù, bọn Mỹ liên tục dùng súng bắn dữ dội vào chiếc dù của Thái, dù bị bắn rách chiếc dù tròn bây giờ thành méo, tốc độ rơi rất lớn vướng vào bụi tre, người Thái treo lơ lửng. Nhân dân, dân quân chặt tre, dùng thang, câu kéo ra...

  5. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    Bác kqndvn lươn lẹo lèo lá bịa trắng trợn trong trận đánh B-52 đầu tiên, MIG khi vòng đánh thì thất tốc. Thực tế, Đinh Tôn quay về để lừa B-52 vào sâu cho rạng lập công. Bác kqndvn làm một loạt hình ảnh minh hoạ vè việc MIG-21 vòng đuổi thất tốc, văng lên trên 3 topic liền (ở đây, tranh luận không chiến và máy bay quân sự). Bác luôn mồn "theo cuốn sách của Chơn".
    MIG-21 không chiến theo chiều thẳng đứng, vòng lượn làm gì.
    Đây mới chính xác nguyên bản cuốn sách của nhà văn Lên Thành Chơn, ngược lại những gì mà bác kqndvn lươn lẹo lèo lá tìm cách làm lệch đi. Cái MIG thất tốc đó là của gã Chơn nào đó, hay chính bác MIG bịa ra.
    Người đầu tiên đánh gục B52..
    Cuối năm 1999, thiếu tá không quân Mỹ, nhà văn F. Watter trong lần gặp tôi để tìm hiểu về những trận không chiến cho cuốn sách của ông viết về những trận đánh có ông tham gia (như một loại sách hồi ký), khi đó Watterhahn là phi công Phantom F-4, đã 180 lần bay vào vùng trời Bắc Việt Nam với sứ mạng hộ tống các phi cơ mang bom đánh vào Hà Nội.
    Trong câu chuyện giữa tôi và F.Watterhahn, ông ta nói:
    - Người Mỹ tuyên bố đã hạ 103 chiếc Mig-17 và Mig-21 trong khoảng thời gian từ 17 tháng 6 năm 1965 đến 12 tháng 1 năm 1973.
    Tôi nói ngay:
    - Còn không quân chúng tôi bắn rơi 320 chiếc máy bay Mỹ, trong đó có hai chiếc B52.
    Ông ta nói rất nghiêm chỉnh:
    - Ba chiếc B52 chứ không phải hai.
    Tôi khẳng định:
    - Chỉ có hai chiếc B52 do hai phi công Mig-21 bắn rơi ngày 27 và ngày 28 -12-1972.
    F.Watterhahn cười :
    - Còn một chiếc B52 bị không quân Bắc Việt Nam bắn bị thương rất nặng, nó lết về đến Thái Lan mới tiêu... Nó hoàn toàn không sử dụng được nữa mặc dù còn nguyên vẹn.
    Tôi hỏi:
    - Vì sao vậy?
    Watterhahn nói :
    - Nó bị thủng thùng dầu bên trái, cháy nhưng dập được; hết dầu, một động cơ bị phá, nó phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay Nakhom-Phanom.
    Tôi mừng quá, hỏi:
    - Năm nào?
    Ông ta nói :
    - Cuối năm 1971, tháng 11. Chuyện B52 bị Mig bắn hỏng, đơn vị tôi ai cũng biết.
    F.Watterhahn nói thêm :
    - Chiếc B52 sau đó được tháo ra, chở về Utapao rồi... bỏ đó!
    Chuyện đêm 20 tháng 11 năm 1971 chẳng ai trong sở chỉ huy không quân quên nổi. Đêm đó, B52 xuất hiện ở Thái Lan, phi công Đinh Tôn được lệnh cất cánh từ sân bay Đồng Hới - một sân bay đất, bằng đèn dầu hỏa. Một cuộc cất cánh có một không hai. Đinh Tôn lên đến độ cao sáu ngàn mét thì bị lộ, không đánh được, phải bay về hạ cánh ở sân bay Nội Bài. Mười lăm phút sau, Vũ Đình Rạng từ sân bay Anh Sơn (Nghệ An) cất cánh rất bí mật, tiếp cận được B52, anh bắn một quả tên lửa trúng chiếc B52. Sau đó ba giờ, tức là lúc hai giờ mười bảy phút ngày 21 tháng 11 năm 1971, người Mỹ tổ chức giải thoát tù binh ở Sơn Tây nhưng thất bại, để lại chiếc HH-53 rơi do quẹt cành cây.
    Người phi công bắn chiếc B52 đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam là đại tá Vũ Đình Rạng. Anh quê ở Nam Thắng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Năm anh bắn chiếc B52 trên tuyến đường Trường Sơn, khi đó anh vừa tròn 26 tuổi. Câu chuyện bắn gục chiếc B52 đầu tiên ngày 20 tháng 11 năm 1971 lại bắt đầu từ một ngày cuối thu năm 1969.
    Đó là ngày 15 tháng 10 năm 1969, một tổ chiến đấu của không quân lần đầu tiên vào khu vực trọng điểm thả bom của B52 trên tuyến đường Trường Sơn ở đèo Mụ Giạ, do thiếu tá Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Nhật Chiêu dẫn đầu. Nguyễn Nhật Chiêu, phi công Mig-21 đã từng bắn rơi sáu máy bay Mỹ. Ngay hôm đầu tiên, vừa đến một cái hang lớn nhìn sang hướng tây, trên một ngọn núi có tên là núi 940, chúng tôi bị ngay trận bom của ba chiếc B52 đánh đường 12, khu vực ném bom từ cổng trời đến khe Ve, hang chúng tôi nằm ngay giữa tuyến bom rơi. Bếp củi vừa bắc lên, ngoài cửa hang khói, lửa chưa kịp nóng nồi cơm thì bom nổ. Tôi ngồi ở vách đá cửa hang, tiếng đầu tiên tôi nghe thấy như một chiếc búa tạ nện thật mạnh lên cái đe bằng sắt ?ochát?, sau đó một làn hơi rất mạnh hất tung nồi cơm cùng với lửa văng đi khá xa, chúng tôi bị hất mạnh vào bên trong hang, lửa táp vào miệng hang, tiếp sau là tiếng nổ vang rền gần ba phút. Khói bay mù mịt, hơi thuốc súng cuồn cuộn tràn vào hang. Chúng tôi gần như một lúc la lớn: ?oBom B52!?. Tiếng nổ chát chúa, lửa khói chồng lên nhau... Ngày hôm sau, buổi chiều, trên đỉnh núi, chúng tôi căng mắt nhìn về hướng tây... Lần này, chúng tôi thấy B52 bằng mắt thường. Thoạt đầu, bọn F-105 cường kích ném bom, cùng với những chiếc F-4 bay bảo vệ gầm rú trên đoạn đường trọng điểm là đèo Mụ Giạ. B52 xuất hiện ở cuối chân trời, chẳng còn chiếc cường kích nào tại khu vực của chúng tôi. Từ xa lắm, nhờ làn khói mây xuất hiện lên trên bầu trời, tôi thấy rất rõ ba chiếc bay đội hình bậc thang lệch bên phải, mỗi chiếc cách nhau chừng hai ki-lô-mét; nhiều ngày sau, những hôm ở tầng độ cao B52 bay không có độ ẩm cao, không có vạch trắng trên bầu trời, dù bom rơi, chúng tôi không thấy B52, nó bay cao lắm, cỡ trên mười ki-lô-mét. Hơn mười ngày ở trọng điểm này, ngày nào cũng bị vài trận bom B52, nhưng chúng tôi chỉ nhìn thấy tổng cộng bốn lần đội hình bay của B52. Đó là cơ sở đầu tiên cho việc nghiên cứu đánh pháo đài bay B52 sau này. Thời đó, chấp hành mệnh lệnh của bộ, việc chuẩn bị lập ra phương án và tổ chức bay huấn luyện thực hành chiến thuật đánh B52 của Không quân nhân dân Việt Nam bắt đầu từ tổ nghiên cứu của thiếu tá Nguyễn Nhật Chiêu vào đèo Mụ Giạ ngày 15 tháng 10 năm 1969.

    Được than_dau_tuat sửa chữa / chuyển vào 02:23 ngày 11/01/2006
  6. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    Binh chủng Không quân có rất nhiều cán bộ có tài, việc nghiên cứu đánh B52 đầu tiên binh chủng giao cho đại úy Nguyễn Văn Chuyên (nay là đại tá) cùng với thiếu tá Lê Liên (nay là đại tá) - Trưởng phòng dẫn đường, thiếu tá Lê Kỳ Mỹ (nay là đại tá) - Trưởng phòng quân báo và thiếu tá Nguyễn Đức Thịnh (nay là đại tá) - Trưởng phòng tác chiến - phụ trách. Về sau, tổ 940 về tham gia tích cực... Đến cuối năm 1969, về cơ bản đã hình thành cách đánh B52. Trong khi bộ phận cán bộ tham mưu tập trung lập phương án tác chiến đánh B52, một bộ phận phi công có trình độ bay khá được bổ sung, chuyển sang bay đêm. Trong số phi công mới chuyển có Đinh Tôn, Vũ Đình Rạng v.v... Thời đó, việc chuyển sang bay đêm là một thử thách rất lớn đối với phi công, sinh hoạt bị đảo lộn, toàn bộ thói quen của con người như tập thể dục, ăn, ngủ đều thay đổi. Nhưng từ trong sâu thẳm, hầu hết số phi công chiến đấu ban ngày liên tiếp lập công, bắn rơi máy bay Mỹ; trong số phi công chiến đấu ban đêm, thi thoảng cất cánh rồi lại hạ cánh, chưa được tiếp cận địch, chưa ai được xạ kích. Không khí buồn, cô đơn, đêm đêm nằm trên tuyến trực ban ngoài sân bay ... trong khi mọi sinh hoạt bình thường nhộn nhịp, sống động thì những phi công bay đêm phải đi ngủ. Thời gian kéo dài, chẳng ai muốn trở thành người lái ban đêm. Rạng và các chiến sĩ lái máy bay phải đấu tranh với chính mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
    Ngày 4 tháng 10 năm 1971, sau hội nghị chuyên đề về cách đánh B52 do Binh chủng Không quân chủ trì, hai sở chỉ huy của không quân được triển khai rất khẩn trương, đã sẵn sàng chiến đấu. Sở chỉ huy tiền phương có tên là B8 đặt tại Đông Dương, Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, do Phó tư lệnh binh chủng Trần Mạnh chỉ huy (Trần Mạnh sau này là thiếu tướng Tổng cục trưởng Hàng không dân dụng Việt Nam), cùng với thượng tá Trần Mạnh còn có trung tá Trần Hanh (nay là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) phụ tá. Kíp sĩ quan đẫn đường rất mạnh, gồm đại úy Nguyễn Văn Chuyên, trung úy Tạ Quốc Hưng, trung úy Trần Hồng Hà... cùng với đại đội radar dẫn đường số 41 đặt ở Pháp Kệ, do sĩ quan dẫn đường ở mặt hiện sóng, thượng úy Lê Thiết Hùng điều khiển. Một sở chỉ huy trung tâm có tên là B3 đặt ở Yên Thành, tỉnh Nghệ An do Tư lệnh binh chủng, đại tá Đào Đình Luyện chỉ huy (sau này là thượng tướng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam). Kíp sĩ quan dẫn đường có tác giả bài viết này ở sở chỉ huy, cùng với Hoàng Kế Thiện - trung úy trực ở Đại đội 45 radar dẫn đường, đặt tại đồi Minh Sơn, Đô Lương.
    Mười lăm giờ ngày 10 tháng 10 năm 1971, Đại đội 41 như thường lệ mở radar theo dõi B52. Chiếc ăng-ten hai tầng radar P35 hình cánh buồm phát sóng quay liên tục, cứ 10 giây nó quay được một vòng cùng với chiếc radar PRV11 gật gù, đo cao đang hướng về phía tây. Kíp trắc thủ căng mắt quan sát trên hiện sóng. Lê Thiết Hùng bỗng phát hiện một vật lạ đang lao rất nhanh vào tâm đài. Không chần chừ, Hùng ra lệnh tắt sóng P35, gạt ăng-ten đo cao PRV11 sang một hướng khác... Góc quay ăng-ten chưa chuyển được bao nhiêu, một tiếng nổ rất lớn, cách đài chừng vài chục mét, chiếc ăng-ten máy đo cao bị mảnh tên lửa Mỹ cắm vào nhiều lỗ, hư hỏng khá nặng (lúc đó chúng tôi chưa có kinh nghiệm chống tên lửa sơ-rai là loại tên lửa có gắn một bộ phận nhớ tần số) đài radar phát sóng bộ
    nhớ ghi nhận và điều khiển cánh của tên lửa hướng vào đài).
    Mười chín giờ mười phút ngày 20 tháng 11 năm 1971, trên mạng tình báo xa xuất hiện tốp B52 từ hồ Lan Pao (Thái Lan) chuyển hướng tiến qua đất Lào. Từ sở chỉ huy B8, trung tá Trần Hanh lệnh cho Đinh Tôn chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất... Lúc này, tại Đại đội 41, việc sửa radar đo cao đang tiến hành. Không thể chần chừ, thời cơ xuất hiện, sĩ quan dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên cho C41 mở máy P35, anh quyết định tham khảo độ cao ở máy radar khác và sẽ dẫn đường chỉ trên chiếc đo phương vị, cự ly... Mười chín giờ hai lăm phút, phi công Đinh Tôn cất cánh từ sân bay Đồng Hới bay về hướng tây, đón đánh tốp B52 khi đó sắp vượt qua Nakhon Phanom bên bờ sông Cửu Long, đang tiến vào khu vực phía tây tỉnh Quảng Bình.
    Mười chín giờ bốn mươi lăm phút, Đinh Tôn bị lộ, bọn B52 vòng trở lại Thái Lan. Trực chỉ huy ở sở chỉ huy tiền phương, trung tá Trần Hanh xin ý kiến của Phó tư lệnh Trần Mạnh, lệnh cho dẫn đường giữ nguyên độ cao 8.000 mét từ đất Lào bay thẳng ra Hà Nội. Bọn Mỹ theo dõi không bỏ sót bất kỳ một chi tiết nào, chúng yên chí rằng mối đe dọa cho B52 đã hết, bèn vòng trở lại. Tại sở chỉ huy ?oB3?, Tư lệnh Đào Đình Luyện trao đổi trực tiếp với Phó tư lệnh Trần Mạnh về tình hình địch, về Rạng và hai ông thống nhất cho Rạng xuất kích. Từ sở chỉ huy trung tâm, chúng tôi hiểu rất rõ ý đồ của tư lệnh. Cần phải giữ bất ngờ và tuyệt đối bí mật cho trận đánh. Không quân ta hết sức khó nhọc mới đưa được hai chiếc Mig-21 vào phục ở sân bay dã chiến, bây giờ chỉ còn Rạng. Cần phải tạo bất ngờ cho Rạng công kích... Vũ Đình Rạng là phi công giỏi, ý chí chiến đấu rất cao. Anh đã từng là phi công chiến đấu ban ngày, từng giáp mặt với bọn Mỹ, từng không chiến với bọn không quân, với không quân của hải quân trên hàng không mẫu hạm. Rạng vốn hiền lành, chân thật, chẳng bao giờ bon chen; nhiệm vụ nào được phân công, anh đều hoàn thành xuất sắc.
    Sở chỉ huy B8 rất khẩn trương, thượng tá Trần Mạnh đã đứng lên từ lâu, ngón trỏ trên bàn tay trái đẩy tới đẩy lui sau cổ, rồi ngón cái và ngón trỏ tóm một cục gì đó vo tròn ném xuống đất, có khi đó là một cục ghét, nhưng nhiều khi chẳng có gì - một thói quen của ông khi cần phải tập trung cao, suy nghĩ và phán đoán. Ông trao đổi liên tục với sĩ quan dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên lúc này đã vạch một đường chì trên bản đồ, theo mũi tên thể hiện tốp B52 sẽ bay vào. Đó là khu vực Tà-lê-phu-la-nhích, một trọng điểm B52 thường xuyên đánh. Ở đó có ngã ba đường và là trọng điểm xe ra vào tiền phương. Đường chì đỏ của Vũ Đình Rạng chưa xuất hiện. Trung tá Trần Hanh cầm chiếc micro màu đen, ông theo dõi diễn biến của tốp B52, những tốp tiêm kích địch và lệnh cho trực tác chiến chuẩn bị điều kiện, thông báo cho hỏa lực phòng không, chuẩn bị đón Mig trở về. Bên cạnh ông, sĩ quan dẫn đường Tạ Quốc Hưng theo dõi, phụ tá cho đại úy Nguyễn Văn Chuyên, bên trái là Trần Hồng Hà đang ghi chép khẩu lệnh và những ý kiến trao đổi cho quyết tâm của trận đánh tại sở chỉ huy; trong khi đó tại sở chỉ huy trung tâm B3, không khí trở nên náo nhiệt khi biết Đinh Tôn hạ cánh an toàn và đã ra lệnh cho Rạng cất cánh. Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện biết thời cơ để có một trận đánh B52 đang đến gần, ông biết nén lòng và luôn giữ bình tĩnh, chỉ đạo cho chúng tôi không được để sơ hở, bảo đảm chỉ huy chiếc Mig-21 của Rạng cho đến khi sở chỉ huy B8 nhìn thấy. Và Rạng đã cất cánh, tín hiệu từ trạm radar ở Minh Sơn chuyển đến sở chỉ huy trung tâm một chấm đỏ. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ. Rạng bay rất đúng phương án đã chuẩn bị, đường bay thẳng tắp, anh hoàn toàn tự tin bay dọc trên đỉnh Trường Sơn theo hướng đông nam (160 độ) vượt qua đồi Keo-nưa. Lúc này bọn B52 chuẩn bị vượt sông Cửu Long. Trên bàn chỉ huy của chúng tôi, rõ ràng tốp B52 vẫn tiến vào, chiếc Mig-21 của Rạng sừng sững tiến ra phía tây tỉnh Hà Tĩnh, gián cách rất tốt. Tại sở chỉ huy B8 ở Đông Dương nhận được tín hiệu từ chiếc P12 đường bay của Rạng, tốp B52 nằm trong tầm phát hiện của radar dẫn đường. Thời cơ chuyển hướng cho Mig đã đến. Đại úy Nguyễn Văn Chuyên bóp micro lệnh cho Mig-21 sửa hướng, bay ra hướng tây (hướng 250 độ). Rạng chuyển động cần lái và bàn đạp, chiếc Mig chuyển trạng thái theo mệnh lệnh từ sở chỉ huy.Theo quy ước, việc chuyển phương hướng, phi công thực hiện, nhưng vẫn không được thông thoại với mặt đất. Rạng thực hiện rất tốt. Anh bay qua đất Lào, ngược chiều với tốp B52, đã vượt qua sông Cửu Long, trên đường bay thẳng vào mục tiêu ném bom. Ba chiếc B52 đã vượt qua nửa đất Lào, lúc này Lê Thiết Hùng đang thao tác cánh sóng trên ăng-ten P35 hợp lý, anh đã nhìn thấy rõ cả B52 và Mig-21.
    Sở chỉ huy tiền phương vô cùng hồi hộp, thượng tá Trần Mạnh hai tay nắm thắt lưng kéo lên cao hơn. Chiếc quần của ông không bao giờ chịu nằm ở dưới bụng, dù đã cho nó nằm yên một chỗ nhưng ông có thói quen khi tình huống càng căng thẳng, ông càng kéo quần lên nhiều lần. Tình huống trên bản đồ chỉ huy đã bộc lộ, đại úy Nguyễn Văn Chuyên tay trái cầm cây thước hình tam giác, trên đó có vòng phương vị và vạch cự ly, anh đo khoảng cách từ chiếc Mig-21 của Rạng đến tốp B52, mắt vẫn theo dõi chặt các diễn biến trên bàn chỉ huy, anh báo cáo: ?oĐề nghị cho tiếp địch?. Trung tá Trần Hanh liếc nhìn đường bay của ta và địch, ông xắn tay áo quyết tâm ?ođồng ý?. Đại úy sĩ quan dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên lệnh cho Rạng vứt bỏ thùng dầu phụ. Rạng phấn chấn trả lời. Đó cũng là tín hiệu, lập tức Lê Thiết Hùng bóp micro trực tiếp dẫn trên hiện sóng, anh cho Rạng vòng trái rồi áp vệt bay trùng với vệt bay ba chiếc B52.
    Từ sở chỉ huy trung tâm, chúng tôi nghe tiếng của Rạng trả lời dõng dạc, dù không nghe được từ mặt đất, tôi biết Lê Thiết Hùng đang phát huy ưu thế nhìn thấy tương quan vị trí của Rạng và B52, anh liên tục thông báo địch, đường bay của Rạng đang áp dần vào gần trùng với tốp B52. Như vậy, điều kiện cần thiết để tên lửa phóng ra sẽ có hiệu quả. Tôi thấy Tư lệnh Đào Đình Luyện hai tay chống lên bàn, ông nhìn lên tấm bản đồ chiến đấu của không quân, đường chì xanh phía trước, đường chì đỏ phía sau, xung quanh không có tốp tiêm kích nào của Mỹ, ông nheo mắt cảnh giác, hai hàm răng ở phía
    trước cắn vào nhau - thói quen khi cần có một quyết định quan trọng. Ông rời bàn, gọi điện thoại cho thượng tá Trần Mạnh. Tư lệnh nhắc nhở cần tập trung radar bảo vệ đuôi cho Rạng công kích. Ông trở lại bàn khi chiếc Mig-21 chỉ còn cách tốp B52 hai mươi ki-lô-mét, ra lệnh cho sĩ quan tác chiến chuẩn bị sân bay Anh Sơn và Thọ Xuân để Rạng hạ cánh. Guồng máy của sở chỉ huy trung tâm thật sôi nổi. Tôi liên tục đo cự ly tiếp cận giữa Rạng và tốp B52. Hướng xuất kích rất tốt, Rạng đang tập trung điều khiển máy bay. Bảng đồng hồ trước mặt ánh lên những dòng số màu xanh; tất cả các thông số của sở chỉ huy, anh thực hiện rất chính xác. Anh đưa mắt quan sát bên ngoài, bầu trời đầy những ngôi sao nhấp nháy, anh căng mắt tìm ánh đèn B52 nhưng không thấy. Rạng lại tập trung điều khiển máy bay. Lúc này, tại trạm radar ở Pháp Kệ, Đại đội 41 đã sửa xong chiếc đo cao, bây giờ theo lệnh của thượng tá Trần Mạnh, nó chỉ bám quanh chiếc Mig-21, nó được lệnh bảo vệ đuôi cho Rạng.
    Những người có nhiệm vụ và rất đông cán bộ, chiến sĩ vây quanh căn nhà lợp nứa, ánh sáng đèn yếu ớt, từng cái chấm của chiến sĩ tiêu đồ gần làm cho mọi người thấy rõ chiếc Mig của ta đang bám sát chiếc B52. Đại úy Nguyễn Văn Chuyên áp sát cặp ống nghe trên tai, ngón cái trên bàn tay trái đặt vào chiếc nút bấm, tay phải cầm cây bút chì vót nhọn, anh tính toán rồi bóp micro báo cho Lê Thiết Hùng chú ý cự ly mở radar cho Rạng. Lê Thiết Hùng căng mắt vào máy hiện sóng, anh sửa lần cuối hướng bay cho Mig. Bây giờ hai vệt bay chập vào nhau, khoảng cách giữa chiếc Mig và tốp B52 khoảng mười lăm ki-lô-mét. Lê Thiết Hùng lệnh cho Vũ Đình Rạng mở máy radar trên máy bay. Rạng bật công tắc reo lên: ?oPhát hiện B52, cự ly mười một ki-lô-mét, xin phép công kích?. Trung tá Trần Hanh phấn chấn cầm micro, lệnh rất to: ?oCho phép công kích?. Rạng không ngờ trên chiếc radar của anh không có một vệt nhiễu, màn sóng trong veo, ?orâu trên và râu dưới? đều xuất hiện (trên hiện sóng radar, Mig-21 chỉ xuất hiện những chấm như râu, chỉ có râu trên địch cao hơn và râu dưới địch thấp hơn. Xuất hiện cả râu trên và râu dưới có nghĩa là độ cao ta và địch bằng nhau). Rạng tăng lực toàn phần, tốc độ tiếp cận nhanh chóng rút ngắn, anh đưa chiếc B52 vào vòng ngắm. Trong khi Rạng ngắm và tiếp cận, Lê Thiết Hùng với tài nghệ ước lượng, anh thông báo chính xác vị trí của Rạng, cự ly rút ngắn dần. Trên radar Mig-21 vùng phóng đã xuất hiện, cự ly dưới hai ki-lô-mét. Rạng muốn đến gần hơn, anh nhẩm đếm: ?oMột, hai, ba, bốn, năm?, nghĩa là sau năm giây, cự ly bây giờ dưới một ki-lô-mét rưỡi. Rạng bóp cò, quả tên lửa rời bệ phóng, nó lao vút về phía trước, một chớp nổ lóe lên, lửa bùng ra một bên cánh rồi tắt ngấm. Chiếc Mig-21 của Rạng ào ào lướt qua trên lưng chiếc B52 vừa bị anh bắn, nó nghiêng cánh, có vẻ như một động tác trượt cạnh, anh bỗng thấy phía trước một chiếc B52 nữa nhưng gần quá, không đủ thời gian để ngắm bắn, Rạng vòng trở lại, anh lại nhìn thấy chiếc B52 dẫn đầu nhưng do tốc độ quá lớn, chiếc Mig-21 có góc vào lớn so với chiếc B52, không có cách nào khắc phục, Rạng đón đầu phóng quả tên lửa còn lại, nó bay vút ra phía trước gần chiếc B52...
    Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện không rời mắt khỏi tốp B52, ông thấy nó lượn vòng gấp, bay trở về Thái Lan; còn Rạng, anh được chúng tôi dẫn về hạ cánh.
    Từ trận đánh ngày 20 tháng 11 năm 1971, ba tháng sau đó B52 hoạt động lùi sâu vào phía nam đường số 9, tỉnh Quảng Trị. Về sau, B52 lấp ló ra phía bắc đường số 9 với lực lượng tiêm kích đông đảo, bọn chúng phải đề phòng...
    Tôi viết những dòng cuối cùng này vào năm 2002, ba mươi năm sau trận đánh B52 đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam. Nhờ có những tù binh B52 bị bắt cuối năm 1972, chúng ta biết được chiếc B52 do Vũ Đình Rạng bắn ngày 20 tháng 11 năm 1971 đã hạ cánh bắt buộc và hư hỏng hoàn toàn. Cuối năm 1999, thiếu tá không quân F. Watterhahn cho tôi biết rõ hơn về trường hợp chiếc B52 hạ cánh ở Nakhon-Phanom, không bao giờ nó bay lên trời được nữa.

  7. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    Lê Thành Chơn và cuốn "Người phi công tài hoa".
    Post a đây để bác lươn lẹo lèo lá hết mượn danh cuốn này ra để bịa đặt lươn lẹo.
    http://www.vnkronline.net/news.php?c=12&f=72&ht=3318&sid=f655b502cd499c90b46143581b0207d4
  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    KQNDVN có hai phi công cùng tên là Bảy.
    Bảy ném bom tàu địch cùng với Lê Xuân Dị là Bảy B. Liệt sỹ.
    Bảy phi công tiêm kích bắn rơi A-4 trong trận trên là anh hùng phi công Nguyễn Văn Bảy (Bảy A). Đại tá. Vẫn sống ở Hồ chí minh. Mới lên truyền hình quân đội cách đây một tháng.
  9. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    [​IMG]
  10. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    [​IMG]
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này