1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1972 (Phần 1)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn, 08/04/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0

    In the heyday of ideological ties between Hanoi and Moscow - the three-and-a-half decades between the mid-1950s and 1990 - the former Soviet Union flooded its ideological ally in Southeast Asia with concessionary loans and arms shipments. During this time Moscow supplied Hanoi''''s army with most of its hardware, because the former Soviet Union considered Vietnam an important outpost of the "socialist camp'''''''' in Southeast Asia. After the collapse of the former Soviet Union, its military aid was replaced by Russian commercial armament sales because Vietnam''''s 500,000-strong army still needs Russian arms and spare parts.
    Between 1953 and 1991, the USSR supplied North - and later unified - Vietnam with 2,000 tanks, 1,700 armored vehicles, 7,000 pieces of artillery and mortars, 5,000 pieces of artillery, 158 missile complexes, 700 warplanes, 120 helicopters, more than 100 naval vessels. Some three quarters of all weaponry now used by the Vietnamese army has been made in Russia, while more than 13,000 Vietnamese officers had studied in the former USSR.
    Notably, Moscow contributed weapons essential to North Vietnamese defense capabilities against the American air war, including radar systems, antiaircraft artillery, surface-to-air missiles (SAMs). Without this materiel, Vietnamese air defense would have been hardly feasible.
    In August 1965, the first SAMs were fired at four US Phantoms over Vietnam, shooting down three. This marked the first time that US planes were attacked by surface-to-air missiles.
    Between 1965 and 1972, the Soviets supplied to North Vietnam a total of 95 missile complexes - initially SA-75M "Dvina" and later S75 "Desna" - as well as 7,658 SAMs. However, both "Dvina" and "Desna" were not the most advanced Soviet designs and Hanoi did not get the more up-to-date S125 "Volkhov" during the war.
    The Vietnamese military reportedly complained that they were getting missiles of obsolete designs. In some cases, the Vietnamese even removed fresh paint from missile complexes and discovered old marks suggesting that the weapons were brought from East Germany or Poland.
    Some of the missile complexes supplied to Vietnam from the Soviet Union during the war were actually second-hand weapons, produced in 1956-1958. The main reason for Moscow''''s failure *****pply North Vietnam with the newest armaments was the Kremlin''''s fear that the Vietnamese could leak Soviet military secrets to the Chinese.
    Furthermore, the missiles initially were forwarded to Vietnam by rail freight through China and the Soviets were reluctant to leave their newest weapons vulnerable for possible inspections by the Chinese.
    On the other hand, Soviet military experts complained that the Vietnamese themselves were handling S75 missiles without proper care, letting them fall from the track, for instance.
    Nonetheless, with the Soviet assistance in the North the Vietnamese mounted a strong antiaircraft defense, once dubbed the "most sophisticated and effective" in the history of warfare. This system created an environment in which aircraft tactics designed to escape one type of threat brought the plane under threat from another layer of the system. The Soviet-built "telephone poles" were deadly effective.
    In sum, between July 1965 and January 1973, a total of 6,806 missiles were fired, destroyed by US pilots or simply broke down. By January 1973, Vietnam still had 39 operational SA75M complexes, the remaining 56 were destroyed in combat or became non-operational due to poor maintenance.

    Nguồn ASIAN TIMES - Thời báo châu Á.
    http://www.atimes.com/atimes/Central_Asia/EI05Ag02.html
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 12:42 ngày 12/01/2006
  2. than_dau_tuat

    than_dau_tuat Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/09/2005
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    304
    "Chìa khoá vàng"
    Thế bác còn nói đáng quần vòng mặt phẳng ngang mới là không chiến tầm ngắn của MIG-21 à.
    Chiến thuật được nói đến trong "Chìa khoá vàng" là chiến thuật ban đầu hiểu quả của MIG-21 trong chiến tranh Việt Nam. Giống như cuối thế chiến hay chiến tranh Triều Tiên. Các MIG-15 lấy độ cao lớn và từ đó bổ xuống tấn công, thể hiện thế mạnh của động cơ. Ban đâù, ta dùng mặt phẳng ngang như đánh MIG-17. Điều đó không lợi dụng được thế mạnh cơ động của MIG-21, đặc biệt khi chủ quan cho rằng MIG-21 siêu thanh nhanh hơn MIG-17 nên dùng đánh đuổi địch. Chỉ mang hai tên lửa, không có súng, các MIG khó hơn hẳn được F-4 về cơ động. F-4 vốn được thiết kế bay xa, tuy có gia tốc không tốt nhưng khi bay thẳng khá tốt. Nếu MIG-21 không thể hiện rõ tính cơ động thì các tên lửa tầm xa và radar trội của F-4 thể hiện. Đã thế, các F có số lượng đông gấp nhiều lần bảo vệ nhau vòng rộng tránh thất tốc khi vòng lượn, không cho MIG vào gần.
    Điểm ưu thế của MIG-17 khi đánh là đường kính vòng lượn nhỏ và có súng, nhờ đó các MIG cắt đường kính bắn góc lớn (thậm chí có thể tác chiến ở góc mà F-4 chịu chết là đối đầu, khả năng trúng thấp nhưng buộc F chắc chắn phải bỏ đường bay vòng gấp. Do đó, MIG-21 chưa có súng hay súng tầm ngắn mang theo rocket như là một loại súng máy. Có điều thứ này khá lớn. Điều này càng thể hiện mạnh khi chưa thạo phương pháp không chiến theo chều thẳng đứng, thế mạnh của các MIG-21 và các máy bay mang họ interceptor (đánh chặn) nói chung. Cánh ngang, đuôi ngang, lấy cân bằng ngang tốt (điều đó cho phép vận động tốt thep phương đứng), sức mạnh động cơ thế hệ mới nổi trội cần có một cách đánh thích hợp để thể hiện. (MIG-21 là máy bay đầu tiên trên thế giới mang động cơ có cơ cấu Tumansky, cho phép sử dụng nguyên tắc đòn bẩy với turbine phát động mạnh và đường kính nhỏ. F-4 tuy ra sau, cùng thời với MIG-23 và MIG-25 nhưng cửa hút gió và ống động cơ cũng chỉ tương đương MIG-21, turbine nén thì chỉ thuộc lớp trước, vẫn là cơ cấu turbine nén của động cơ hồi thế chiến).
    Cuối năm 1966, phương pháp phục kích trên cao đánh chặn dọc đường F-105 đã tạo ra một giai đoạn thắng ròn rã, tạo ra biệt danh "thung lững MIG"-điểm giao hai núi Tam Đảo Ba Vì trên ngã tư sông Hồng, Phúc thọ. (bác kqndvn thì rất ghét điều này, bác bảo MIG-21 không bao giờ phục kích trên cao do thiếu dầu).
    Đến cuối năm 1967, phương pháp đánh MIG-21 đã hình thành. Đặc điểm chung của các chiến thắng bằng MIG-21 là tấn công từ trên cao xuống. Có rất nhiều phương pháp tiếp cận mục tiêu, không đơn điệu như cuối năm 1966. Bố trí trận đánh phức tạp nhất là chiến thuật luồn sâu đánh hiểm được Phạm Thanh Ngân thử nghiệm thành công ngày 16-9-1067. Trước đó 3 trong số nhiều chiến thắng cuối tháng 8 được Mỹ quy là đua xe máy ở đường vành đai Thanh Xuân(MIG-17, nạn nhân là một F-4 và 2 F-105). Lúc đó là năm cao điểm nhất của ciến tranh, địch rất đông. Phạm Thanh Ngân (biên đội trưởng) và Nguyến Ngọc Đọ (cảnh giới) bay thấp, vọt lên cao rồi bổ xuống tấn công, bắn hạ chiếc RF-11C. Trận đánh thử nghiệm chiến thuật này sau trở thành kinh điển trong các trường học không chiến. Nó lợi dụng những ưu điểm lớn nhất của MIG-21 tạo ra những lợi thế chiến thuật, cho phép tấn công nhanh gọn chắc thắng, thoát hiểm với góc xuống và tốc độ và các F không thể nào theo kịp, tiếp cận và khởi chiến hoàn toàn bí mật bất ngờ ở góc bắn tốt nhất. Lúc đó, radar cảnh gới từ xa trên các máy bay radar tiền thân của WACS ngày nay chỉ chú í tầm khoảng trên 3km đến 6km, còn MIG-21 có động cơ rất thoáng để cơ động trong tầng không khí đặc. Khả năng leo cao tốt của động cơ, xuống thấp tốt của hệ đuôi cánh ngang làm MIG-21 xuất hiện ở vùng nhìn rõ radar trong thời gian rất ngắn. Tấn công từ trên cao phía sau khi mà các radar on board trên máy bay F chỉ hiệu quả phía trước. Khi lao xuống thoát hiểm, các F-4 có bộ đuôi kém cỏi không thể đuổi theo được, còn MIG-21 tăng tốc vừa bằng động cơ khoẻ vừa bằng trọng lượng vút mất hút. Trận đánh không mấy thuận lợi, thấy máy bay địch trông na ná MIG, Phạm Thanh Ngân dừng tấn công bật máy hỏi, đến khi có kết quả thì cự ly chỉ còn 1500mét. Lúc đó, ta cho rằng đã bắn hạ một F-102, chiếc máy bay có cánh tam giác như MIG (nhưng là cấu hình ba tấm).
    Sau thời gian này, những trận không chiến cùng lực lượng Mỹ giảm áp. Nhưng chiến tranh bùng lên như cơn giẫy chết năm 1972, lúc đó hầu như ta chỉ dùng MIG-21. Năm này, xem lại các trận đánh, các chiến thuật ta dùng đa dạng và chứa nhiều yếu tố bất ngờ. ( http://www3.ttvnol.com/quansu/502252/trang-54.ttvn http://www3.ttvnol.com/quansu/502252/trang-54.ttvn ). Nhưng nhìn chung, chiến thuật của Phạm Thanh Ngân được áp dụng hiệu quả, giấu kỹ đường tiếp cận. Hai trận đánh B-52 của Vũ Đình Rạng và Phạm Tuân đều sử dụng. Trận đánh của liệu sĩ Vũ Xuân Thiều không rõ, anh hy sinh ngay khi bắn hạ B-52, nhưng hình như cũng vậy.
    Trận đánh của Phạm Thanh Ngân với ta nghĩa lớn nhưng cũng có nhiều điều bí hiểm. Trên kia đã nhắc đến hiện tượng đua xe máy trên đường Thanh Xuân: các phi công Mỹ bị thông báo là mất tích, bị bắt, bị thương trong thời điểm Mỹ sau này không công nhận chiến thắng của ta. Còn trận đánh của Ngân thì kỳ bí. Ban đầu ta tưởng là chiếc F-102, nhưng sau đó lại là RF-101C trinh sát, máy bay này mới thật sự giống MIG-21 nếu nhìn xa. Sau chiến tranh, hoá ra lại là hai chiếc rơi lúc đó, hai phi công cùng tên, người Mỹ so sổ và chia cho Phạm Thanh Ngân cùng Nguyễn Ngọc Dọ mối người một chiếc Ngân được RF-101C-45MC Bob Bagley(POW) mang số 162, Đọ được chiếc mang số 164 của Bob Patterson (cứu được ngày hôm sau). Đây là một chuyện hiếm thấy, có thể là chiếc này bị trúng đạn SAM hay phòng không gần đó, cũng có thể cả hai báy bay rơi lúc đó nhưng ta rút nhanh không nhìn thấy. Điều quan trọng là từ đó ta có chiến thuật để chủ động lao vào đội hình đông đặc của địch, hai chiếc máy bay trinh sát được bảo vệ kỹ lưỡng.
    Nhân đây nói về F-102, đây là máy bay không chiến tồi tệ bậc nhất lúc đó, không một chiến công nào. Theo Mỹ thì MIG hạ 1, nhưng lại có 8 chiếc rớt do kỹ thuật. Số liệu Mỹ:
    Joe Baugher, gần vùng 4 chiến thuật, ngày 3-2-1968 (người Mỹ trong chiến tranh ghi là trúng đạn MIG-21, trận này cũng nhiều kỳ bý, chiếc máy bay rơi gần giới tuyến. Ta không gji lại chiến thắng này nên sau chiến tranh, so sổ, Mỹ rút nhanh khỏi danh sách không chiến. Nhưng cũng ngày đó, ta ghi lại Nguyễn Van Cốc hạ một F-102A nhưng ở phía Bắc, sau này có bằng chứng rõ ràng nên có lúc Mỹ cho vào có lúc không.Tháng này có hai điểm Tuất còn chưa rõ, một là trận đó, hai là một trận đánh được phía Mỹ ghi công cho phi công Triều Tiên, nhưng bằng MIG-21) Hai chiếc nữa rơi khi tấn công mặt đất, 4 chiếc bị ta đánh khi đang đỗ, 8 chiếc do tai nạn.
    102 và 101
    [​IMG][​IMG]
  3. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    [​IMG]
  4. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    [​IMG]
  5. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    [​IMG]
  6. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    [​IMG]
  7. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
    [​IMG]
  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Phi công Nguyễn Tiến Sâm.
    Biên đội Nguyễn Tiến Sâm (số 1), Hà Vĩnh Thành (số 2, đại đội trưởng, con trai Hoàng QUốc Việt) ngày 24/07/1972 đã bắn rơi 2 F4 của địch.
    Sâm bắn gần không kịp thoát li phải lao thẳng xuyên qua điểm nổ, may mắn không hi sinh. 2 phi công về đến nhà an toàn.
    Cách đây 10 năm thì Nguyễn Tiến Sâm đã là Đại tá.
  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Thiếu tá Nguyễn Hồng Nhị, trung đoàn trưởng đoàn Lam Sơn 927 (thành lập ngày 3/2/1072).
    Từng là phi công trực chiến Mig-21 từ năm 66-72.
    Anh là phi công Mig-21 đầu tiên lập chiến công, bắn rơi chiếc Không người lái ở độ cao 18.000m.
    Trong thành tích 300 máy bay các loại của địch bị Không quân Việt nam bắn rơi, có đến gần 100 là KNL.
    Theo bác 929, hình như Mỹ không tính KNL, máy bay trinh sát, máy bay vận tải, máy bay mang bom vào các trận không chiến. Vì fighter mà đánh bomber thì không fair.
  10. Mig19Farmer

    Mig19Farmer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/03/2004
    Bài viết:
    1.465
    Đã được thích:
    1
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này