1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận thuỷ chiến lớn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 08/10/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Ai có thể làm ơn cho biết là số liệu tổn thất của TQ từ nguồn nào mà rõ ràng chi tiết đến vậy. Thậm chí tên các sĩ quan chỉ huy TQ, cấp bậc, ai bị thương vong cũng biết rất rõ. Trong khi tôi xem các tài liệu của TQ thì họ không nói là không tổn thất, nên chắc không phải từ nguồn TQ. Tài liệu Mỹ hay phương Tây thì tôi chưa tìm ra cái nào có nói đến thương vong của TQ. Còn ngày trước có đọc một bài do cựu hạm trưởng chiếc HQ10 (hay HQ16 gì đó) của VNCH thì ông ta cũng không nhận là tàu mình bắn chìm được tàu TQ.
  2. kien098

    kien098 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    530
    Đã được thích:
    15
    Nguồn bí mật không tiết lộ được
    Học theo mấy ông mẽo đàn anh: chạy té đ... vãi c... trong thung lũng Ia Drang mà vẫn đếm đủ xác VC, núp như chuột trong chiến hào Khe Sanh vẫn đếm đủ xác VC ... thì việc mấy chú đếm được xác khựa trên tàu chiến khựa là dễ hiểu thôi mà.

    Cái chiangsan nói là thuyền trưởng của HQ16. Trong bài mô tả của ông ta, chỉ có HQ10 và HQ16 tham chiến với 3 tàu TQ. HQ10 đắm, HQ16 bị ăn phát đạn làm tàu rò nước nghiêng đi. Bò về tới Đà Nẵng sửa tàu mới thấy phát đạn tai hại có đầu đạn là 172mm made in USA, nghi là bị ăn đạn của HQ4. Sau nữa ông ta nghi rằng với cỡ đạn tối đa 40mm trên tàu TQ, thì nhiều khả năng chính HQ10 bị đắm bởi dính đạn này. HQ16 cũng sẽ teo ngay nếu quả đạn này nổ (trúng vào 1 trong 2 buồng máy của tàu)
    Tiện đây có ai giúp invite cho mình cái acc gmail được không. email của mình là coixay@yahoo.com
    Được kien098 sửa chữa / chuyển vào 00:50 ngày 14/10/2005
  3. forzet

    forzet Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    413
    Đã được thích:
    0
    Done, gửi bác 2 cái Invite, hi vọng bác nhận được, tớ chỉ còn có 98 cái Invite thôi Mà tớ ko nhầm thì gmail cho đang kí rồi mà?
  4. kien098

    kien098 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    530
    Đã được thích:
    15
    Rất cảm ơn bác!!!
  5. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Trận Salamine (năm 480 T.C.N)
    Salamine là tên một hòn đảo ở Hy Lạp. Tại đây, đã diễn ra một trận thủy chiến lớn mà lần đàu tiên được sử sách ghi chép lại.
    Thời đó vua Darius nước Ba Tư, sai con trai là Hoàng Tử Xercès mang quân đi thôn tính Hy Lạp. Năm 490 T.C.N, trận chiến đầu tiên diễn ra ở Marathon và quân Iran bị thua rút chạy về nước sửa soạn quân trận để phục thù trong mười năm. Đến năm 480T.C.N, chàng đưa đại quân tiến đánh Hy Lạp. Nước Hy Lạp lúc đó do Thémistocle đứng đầu. Ông này từng có chủ trương trong nước phải có một đoàn chiến thuyền mạnh mới có thể mở mang thanh thế và đối phó với ngoại bang. Do vậy, ông ta đã thực hiện kế hoạch thành lập và rèn luyện một lực lượng thủy quân hùng hậu. Mùa xuân năm 480 T.C.N, quân Ba Tư tiến vào Địa Trung Hải và tấn công Hy Lạp. Mục đích ban đầu là đánh chiếm thủ đô Athènes. Người đứng đầu Nhà nước Hy Lạp lệnh cho tất cả các thành phố cảng vùng biẻn phải dựng các chướng ngại vật dọc theo bờ biển để ngăn chặn đối phương đổ bộ và rồi ông cho tập trung tất cả quân đội và chiến thuỳên tại eo biển Salamine.
    Đoàn chiến thuỳên của Ba Tư gồm 1200 chiếc chạy dọc thoe bờ biển Thessali tiến xuống quần đảo ở phía bắc mỏm Eubée, nơi có những chiến thuỳên tiên phong của Hy Lạp? Xercès cho dành tuyền chiến thành 8 hàng trong đêm tối nhưng khi bố trí xong thì vừa đến sáng và bỗng có cơn giông ập tới, đã phá tan đọi ngũ thuyền chiến Ba Tư, đánh giạt hàng trăm chiếc vào bờ và bị chìm một số. Khi tập hợp lại chỉ còn không đầy 800 chiếc. Xercès liền cắt cử nữ Hoàng xứ Halicarnasse đồng thời là nữ tướng Artémise chỉ huy 5 chiến thuyền bất ngờ tấn công vào Hy Lạp. Hạm đội Hy Lạp bị thua do khi trời gần sáng. Artémise bắt được một số viên chỉ huy Hy Lạp, sai đem buộc vào mũi thuyền, cắt cổ cho máu chảy xuống biển để tạ ơn thần biển! Tiếp đó lại thừa thắng xông lên, Ba Tư kéo đại quân xuống phía Đông, mỏm Eubée. Trong khi đó quân Hy Lạp nung nấu ý chí phục thù, rồi nhân một đem tối trời, họ phản công lại quân Ba Tư. Quân Iran chủ quan kinh địch, không kịp trở tay, bị đắm trên ba chục chiếc thuyền phải tháo chạy ra biển và liền bị bão giông nổi lên làm đắm nhiều chiếc khác. Sau ba ngày, trời yên bể lặng, quân Ba Tư kéo trở lại mỏm Eubée. Nhưng họ lại bị thua và phải rút về cản Sêpia. Trong lúc ấy, Hy Lạp nhận được thêm viện binh liền truy kích quân Ba Tư. Trận cuối cùng nổ ra ở Salamine, quân Hy Lạp đại thắng, thuyền chiến Ba Tư đắm gần hết, một số bị bắt làm tù binh. Hoàng tử Xercès hạ lệnh giết hết những ngừơi chỉ huy và thủy thủ bỏ chạy. Bên Hy Lạp cũng giết hết các tù binh, trong đó có đô đốc là Hoàng Tử Ariabigne là em trai Hoàng Tử Xercès.
    Trận thắng của Hy Lạp đã làm tan vỡ mộng tưởng chinh phục châu Âu của Ba Tư. Đây là trận thủy chiến nổi tiếng trong lịch sử cổ đại và đã đưa Thèmistocle lên hàng danh tiếng thế giới thời cổ đại.
    đây là bài bên www.accvn.net nói về trận salamine
  6. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Trận Lépante (năm 1571)
    Lépante là một dải đất ven biển Hy Lạp, nằm ở giữa Đông Bắc bán đảo Péloponèse nối vịnh Corinthe với vịnh Patra. Nơi đây đã diễn ra mọt trận thủy chiến làm tiêu hao uy lực của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ.
    Vào đầu thế kỷ XIV, Thổ Nhĩ Kỳ vượt eo biển Dardanelles chiếm Gallipoli cảng của Hy Lạp rồi bắt đầu đặt chân lên châu Âu và làm mưa làm gió suốt một dải đất Đông Nam châu Âu trong nhiều thế kỷ. Thực hiện được mộng tưởng xâm lăng đó là do người Thổ có một hạm đội lớn làm bá chủ mặt biển từ Hắc Hải qua Địa Trung Hải. Họ từng chiếm đóng Hy Lạp, đe dọa thành phố Venise của Italia, lập nhiều căn cứ ở Nam Italia, rồi Ma Rốc, Libi, Ai Cập? Chiến thuyền của Thổ cũng chạy bằng buồm và mái chèo nhưng được đóng có kỹ thụât cao, vừa nhẹ, nên đi nhanh, tiến thoái có hệ thống mau lẹ hơn so với thuỳên chiến của các nước khác thời ấy. Các Giáo Hoàng Pie III, IV múôn ngăn chặn sự bành trướng của quân Thổ nhưng không thành công, vì các nước này có những quyền lợi khác nhau gắn với Thổ. Phải đợi mãi đến khi Giáo Hoàng Pie V (1566 - 1572) mới thành công trong việc thuyết phục các nước phía Nam châu Âu liên minh lại đánh Thổ Nhĩ Kỳ.
    Trước tình thế đó, Vua Thổ phái một đoàn chiến thuyền đến đánh chiếm đảp Sip để hòng biến Sip thành tiền đồn bảo vệ bờ biển Thổ. Các nước châu Âu lúc này có 300 chiến thuyền và 5 vạn quân. Họ tập kết quân đội ở Messine, một cảng thuộc Sicile. Tới mùa hạ năm 1570, họ đánh quân Thổ, giải phóng được hầu hết các phần đất phía Nam châu Âu bị Thổ chiếm. Quân thổ cấp tốc đóng nhiều chiến thuyền mới tại các xưởng ở Constantinople chi viện cho đảo Sip, đông thời Thủy sư đô đốc tài danh của Thổ là Pacha Ali cùng hạm đội của y, cũng được điều động về Sip để tăng cường việc phòng thủ.
    Với quyết tâm giải phóng Sip và đập tan ý chí gây chiến của Thổ Nhĩ Kỳ, Giáo Hoàng Pie V tìm chọn một vị tướng có thể chỉ huy liên quân các nước nam Âu châu có hiệu quả. Cuối cùng ông chọn Don Juan d'' - Autriche (1547 - 1578). Viên tướng này là đứa con ngoài giá thú cuả vua Tây Ban Nha là Charles Quint, lúc này mới 24 tuổi làm tổng chỉ huy?
    Năm 1571, Don Juan quyết định tấn công quân Thổ. Trận đánh xảy ra tháng 2 - 1571 trên cả một dải eo biển cũng có tên là Lépante dài trên 8 hải lý. Cuối cùng quân Thổ đại bại, chết hơn 2 vạn người, trong đó có cả Thủy su Đô đốc tài danh của Thổ là Pacha Ali.
    Đoàn quân chiến thắng trở về Messine mở tiệc ăn mừng còn hải quân Thổ thì từ đấy mộng xâm lăng tan tành không bao giờ trở lại xâm lược châu Âu nữa.
  7. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Trận Xích Bích năm 208
    Trận Xích Bích - kỳ thực là một chiến dịch - nổi tiếng trong lịch sử Trung Quõc cổ gồm một sô trận đánh quyết định thế "chia ba thiên hạ" tạo thành thời đại Tam Quốc với 3 nước Ngụy, Thục, Ngô
    Nay thành phố Xích Bích nằm ở bờ Nam sông Trường Giang, là một thành phố loại nhỏ của tỉnh Hồ Bắc nhưng thời xưa là cả một vùng đất pử hai bên bờ sông Trường Giang, đoạn sông này vừa qua khỏi địa phận tỉnh Hồ Nam chảy vào địa phận tỉnh Hồ Bắc, đều gọi là Xích Bích vì đất ở hai bên bờ sông đỏ au (Xích là đỏ, Bích là vách). Đặc bịêt ở địa phận thành phố Xích Bích ngày nay có ngọn núi cùng tên vách núi cũng màu đỏ.
    Chính ở khu vực này dã diễn ra trận Xích Bích nổi tiếng vào mùa Đông năm Kiến An thứ 13 tức năm 208. Nguyên vào những thập kỷ cuối của thế kỉ I, nhà Đông Hán trị vì Trung Quõc lâm vào giai đoạn suy vi. Bọn chúa đất, quân phiệt ở khắp nơi nổi lên cát cứ, đánh lộn nau và chống lại cả triều đình. Trong số các thủ lĩnh này Tào Tháo là nhân vật kiệt xuất hơn cả, đã lần lượt tiêu diệt các đối thủ như Đổng Trác, Viên Thiệu, Lã Bố? nắm mọi quyền bính trong triều, ức chế vua Hán, làm chủ nửa phía Bắc của đất nước Trung Quõc thời đó. Ở phương Nam, có hai thủ lĩnh đáng gờm đối với Tháo là Lưu Bị và Tôn Quyền. Tuy nhiên, Lưu Bị vào thời điểm trước khi xảy ra trận Xích Bích vừa mới bị thua Tào Tháo ở Tân Dã, Phàn Thành nên chưa có lãnh thổ riêng. Tôn Quyền thì đã làm chủ cả một dải Đông Nam Trường Giang (quen gọi là Đông Ngô). Do vậy Lưu Bị chủ trương đường lối liên kết với Tôn Quyền chống Tào Tháo. Tôn Quyền cũng hiểu rằng nếu Tào diệt được Lưu thì sẽ tập trung sức lực dịêt mình nên cũng chấp nhận liên minh. Để đập tan liên minh này, năm 208 Tào Tháo quyết định đánh xuống Giang Nam. Vào cuối năm, cuộc Nam chinh bắt đầu. Ba mươi vạn quân Tào gồm quân thủy, quân bộ và kỵ binh ồ ạt kéo xuống đóng đô dọc Bắc sông Trường Giang.
    Theo chính sử của Trung Quõc về thời kỳ này, như sách Tam Quốc chí của sử gia Trần Thọ (thế kỷ thứ III), thì tuy khẳng định trận Xích Bích là trận đánh lớn nhưng ghi chép không nhiều. Các sự kiện chính chỉ ghi như sau:
    Tôn Quyền chấp nhận lời thỉnh cầu của Gia Cát Lượng, (mưu sĩ của Lưu Bị) phái hai tướng là Chu Du và Trình Dục đưa 3 vạn quân giúp Lưu Bị chống Tào. Liên quân Tôn - Lưu tổ chức trận đánh ở Xích Bích, dùng hỏa công diệt hàng vạn quân Tào. Tào Tháo phải rút chạy về kinh đô Hứa Xương.
    Nhưng tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghiã thì mêu thuật rất phong phú. Tác giả sách này lại là La Quán Trung, sống ở thế kỷ XIV, không hoàn toàn là hư cấu mà có dựa trên các truyền thuyết kể về thời Tam Quốc vốn có từ lâu đời. Theo sách này thì việc Tào Tháo đưa quân xuống Nam, trong triều đình Tôn Quyền (tạm gọi là như vậy), có hai khuynh hướng: đầu hàng và chủ chiến. Tôn Quyền còn dùng dằng chưa quyết thì Lưu Bị của mình là Khổng Minh Gia Cát Lượng sang thuyết khách Tôn Quyền chống Tào. Vì thực ra, nếu Tôn Quyền đầu hàng Tào là tạo điều kiện cho Tào tập trung diệt Lưu Bị, cho nên Khổng Minh đã trổ tài hùng biện khiến Tôn Quyền chấp nhận liên minh với Lưu Bị chống Tào? Tôn giao đô đốc Chu Du tổng chỉ huy quân đội, kể cả binh lính Lưu Bị thì liên quân Lưu - Tôn không quá 5 vạn người. Chu Du dàn quân ở bờ Nam Trường Giang, từ Nam Giang đến Hạ Khẩu. Đối mặt nhau nhưng cách cả một con sông rộng nên cả hai bên còn án binh để thăm dò ý đồ của nhau. Tuy vậy trận mở màn đã diễn ra ở cửa Tam Giang. Quân Tào phần lớn là dân phương Bắc không quen đánh thủy, chèo chống không thạo, thuyền chiến chòng chành nghiêng ngả, nên sau nửa ngày giao tranh bị thua to. Nhưng Chu Du không dám phản công tiếp vì số binh lực của Tào rất lớn.
    Rút kinh nghiệm trận mở màn, Tào Tháo không tấn công vội mà tổ chức huấn luyện về thủy chiến cho quân sĩ. Công việc này được giao cho 2 tướng rất giỏi về tác chiến trên sông nước là Sái Mạo và Trương Doãn vốn là tướng của Lưu Biểu, chúa đất vùng Kinh Châu mà Tào Tháo vừa mới thu dụng. Chu Du đã dùng phản gián làm cho Tào giết hai tướng Sái, Trương (khác nào tự chặt hai tay của mình). Và cũng bằng phản gián, Chu Du đưa được Tào vào bẫy: cho dùng xích sắt giằng buộc các thuyền chiến lại với nhau với mục đích để thuỳên khỏi chòng chành, quân lính đỡ say sóng và sẽ phát huy sức mạnh chiến đấu. Kỳ thực mưu này là nhằm biến các thuyền đã buộc chặt vào nhau tạo thuận lợi cho đánh hỏa công. Cuối cùng Chu Du, với một kế phản gián nữa là sự trá hàng của viên tướng Đông Ngô là Hoàng Cái, và thế trận hỏa công bắt đầu. Viên tướng Hoàng Cái đã dẫn một đội thuyền chứa toàn chất cháy và dẫn lửa đổ dầu vào đội hình thuyền chiến của quân Tào. Lửa lan đầy sông, đa số quân Tào bị chết cháy hoặc chết đuối. Thừa lúc rối loạn đó, quân Chu Du và Lưu Bị cả thủy và bộ ập tới đánh quân Tào, truy kích đến tận Nam Quận (nay là thành phố Giang Lăng tỉnh Hồ Bắc). Quân Tào thua to thương vong quá nửa, tan tác tháo chạy về phía chạy dài về phương Bắc. Từ đây, Tào Tháo không thể nào vượt Trường Giang được nữa và cũng từ đó Lưu Bị mới có thời cơ mở rộng phạm vi kiểm soát để tiến tới lập ra nước Tây Thục. Thế chân vạc 3 nước Ngụy, Thục, Ngô đã hình thành chính từ chiến dịch Xích Bích này.
    Cũng theo tiểu thuyết này thì một yếu tố góp phần quan trọng tạo nên chiến thắng cho phía Tôn - Lưu là thời tiết! Giữa mùa Đông lẽ ra chỉ có gió Bắc. Vậy mà vào lúc thủy quân Đông Ngô xuất kích thì trời lại trở gió Đông Nam thổi lửa vào đoàn chiến thuyền của Tào? Thật là trời đã cho liên quân Tôn - Lưu thắng trận. Và tác giả tiểu thuyết đã quy công "gọi gió" cho Khổng Minh Gia Cát Lượng. Vị quân sư tài ba này đã cho đắp đàn Thất Tinh để cầu gió Đông Nam và điều này rất ứng nghiệm.Quả thực Khổng Minh là người có biệt tại dự đoán thời tiết cũng như đã nắm vững khoa chiêm tinh - Khí tượng học thời đó.
    ( www.accvn.net )
  8. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Trận Trafalgal (20-10-1805)
    Đây là trận thủy chiến lớn nhất và cũng là trận cuối cùng trong thời đại chiến thuyền chạy bằng buồm (sức gió). Trafalgal là tên một vùng biển ở kề mũi đất cùng tên, ở phía cực Nam nước Tây Ban Nha, phía Đại Tây Dương, gần eo biển Gibraltar. Nơi đâu đã ghi chiến công của hải quân Anh đánh thắng Hải quân Pháp vào ngày 20/10/1805.
    Từ lâu, hoàng đế Pháp là Napoléon có ý định đập tan hạm đội của Anh khi đó đang làm bá chủ mặt biển Đại Tây Dương và kể cả Địa Trung Hải.
    Tây Ban Nha lúc này đứng về phe với Pháp nên Napoléon đã lập được nhiều căn cứ thủy quân ở dọc bờ biển phía Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Đầu năm 1805, tàu chiến Pháp và Tây Ban Nha đóng ở Brest, ở Rochefort, ở Cadix và Toulon, dưới quyền chỉ huy của đô đốc Villeneuve và các đô đốc Ganteaume và Missiessy làm phó chỉ huy. Theo kế hoạch, hạm đội Pháp từ cảng Taulon phía Nam nước Pháp - vượt Địa Trung Hải qua eo biển Gibraltar đến Cadix một quân cảng của Tây Ban Nha - hợp lực với thủy quân nước này công phá các tàu chiến Anh đang dập dờn ngoài biển phong tỏa nước Pháp và Tây Ban Nha rồi tiến lên vừa đi vừa đánh các tàu Anh cũng đang phong tỏa bờ biển phía Tây nước Pháp rồi kết thúc ở biển Manche.
    Đầu tháng 1/1805, Villeneuve đưa hạm đội Pháp rời cảng Toulon đi sang phía eo biển Gibraltar nên mới đến vịnh Lion thì gặp bão phải quay về. Đến cuối tháng 3/1805, Villeneuve lại xuất quân qua Gibraltar vòng lên cảng Cadix của Tây Ban Nha, hội quân với hải đội Tây Ban Nha rồi tiến ra Đại Tây Dương để dử quân Anh. Quân Anh cũng dượt theo nhưng vì không gặp nhau nên Villeneuve lại kéo về đóng đại quân ở vịnh Finisterre ở cực Bắc bờ biển Tây Ban Nha.
    Chỉ huy quân Anh là đô đốc Nelson tài ba. Ông ta phái đô đốc Calder đem một đoàn thuyền chiến đi đánh Villeneuve. Ngày 22/7/1805, hai bên giao chiến ở vịnh Finisterre. Hôm ấy, biển động có sóng lớn, lại đầy sương mù, nên trận đánh tẻ nhạt, song Calder cũng bắt được hai chiến thuyền Tây Ban Nha.
    Villeneuve không dám ở lại Finisterre liền kéo đại quân về vịnh Vigo cũng ở bờ biển phiá Tây nước Tây Ban Nha, phía dưới vịnh Finisterre. Thực ra, theo dự định chiến lược thì Villeneuve phải tiến lên phía Bắc, về nước Pháp, phối hợp với các đoàn thuyền chiến đóng ở Rochefort và Brest để đánh quân Anh trong biển Manche và chuyên chở quân đổ bộ vào Anh.
    Cũng trong lúc này, bộ binh Pháp đã được chuyển đến gần biển Manche và tập đổ bộ, chờ thời cơ. Nhưng ở Vigo, Villeneuve do dự không dám theo như dự định vì sợ bị đánh ở dọc đường. Ông cho người đưa thư về xin ý kiến của Bộ trưởng hải quân Pháp là Decres.
    Về phía Nelson, không rõ ý đồ của quân Pháp. cụ thể là Villeneuve lại nghi rằng quân Pháp sẽ đánh Irlande nên điều quân về bảo vệ hòn đảo sát nách của nước Anh. Trong khi đó, chính phủ anh bằng ngoại giao đã xúi bẩy các nước Nga, Áo sinh sự đánh nhau với Pháp. Napoléon phải dẫn quân sang phía Đông, và đã thu được những thắng lợi ở trận Ulm, Austerlitz, Iena. Đồng thời ông đã ra lệnh cho Villeneuve chuẩn bị quay về Địa Trung Hải quét sạch hải quân Anh ra khỏi vùng biển này. Nắm được tin tức đó, Nelson cũng đưa đại quân về phía biển Tây Ban Nha. Và thế là nổ ra trận huyết chiến ở vịnh Trafalgar vì họ đã gặp nhau tại đó.
    Sáng ngày 20/10/1805, hai bên giao chiến. Sau những trận đấu pháo ác liệt, hạm đội Pháp và Tây Ban Nha bị đánh đắm và bị bắt đến quá nửa. Phó đô đốc của Villeneuve là Dumanoir đem được 4 chiếc thuyền chạy thoát khỏi vòng chiến sự nhưng sau đó ít ngày cũng bị quân Anh bắt sống. Những chiến thuyền Pháp sống sót chạy về cảng Cadix nhưng không may cho các thủy thủ này cũng bị những người Tây Ban Nha bất bình với triều đình thân Pháp họ chiếm đoạt thuyền và tàn sát các thủy thủ. Cuối cùng chỉ còn tàn quân đô đốc Villeneuve chạy thoát được về vịnh Vigo rồi sau đó trở về Pháp. (Năm sau, 1806 ông tự sát).
    Trong trận này, quá nửa chiến thuyền của quân Anh cũng bị đắm và tổn thất lớn nhất là Đô đốc, tổng chỉ huy Nelson bị trúng đạn chết ngay trên thuyền chỉ huy giữa lúc trận chiến sắp kết thúc (khoảng 4h chiều ngày 20/10/1805). Ông đã chết vào lúc mới 47 tuổi. Sau chiến cuộc, bên Pháp và Tây Ban Nha có trên 7000 binh sĩ bị giết và bị thương, còn phía Anh chỉ mất khoảng 2500 người.
    Thật trớ trêu, giữa lúc trận Trafalgar kết thúc ở vịnh biển phía Tây Ban Nha, hải quân Pháp, Tây Ban Nha bị đại bại thì lúc đó Napoléon lại đại thắng ở Ulm, toàn bộ quân Áo phải đầu hàng. Cho nên có nhf viết sử đã ghi: "Nelson đã che tối vầng Mặt trời Ulm bằng những đám khói trong trận Trafalgar"
    www.accvn.net
  9. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Trận Jutland (năm 1916)
    Đây là trận thủy chiến lớn nhất trong cuộc chiến tranh ở châu Âu 1914 - 1918.
    Đầu năm 1916, chỉ huy hạm đội Đức là Đô đốc Von Scheer có ý định nắm quyền bá chủ trên Bắc Hải vừa chống quân Anh vừa kiểm soát hành lang Skaggerak nối Bắc Hải với biển Baltique chặn sự thông thương giữa Anh, Pháp và các nước Bắc Âu cùng nước Nga. Bước đầu Von Scheer cho một số tuần dương hạm đến bắn phá những căn cứ của hải quân Anh ở dọc biển phía Đông của nước Anh, từ Scapa Flow tới Humber.
    Đến cuối tháng 5-1916, Von Scheer lại cử Đô đốc Hipper đưa một đoàn tuần dương hạm tiến vào eo biển Jutland để triệt đường đi lại của tàu buôn Anh. Jutland nguyên là tên gọi của bán đảo gồm phần Bắc của nước Đan Mạch cho nên vùng biển bao quanh bán đảo này cũng mang tên vùng biển Jutland.
    Bộ hải quân Anh không chịu bó tay, lệnh cho Đô đốc Jellicoe từ cảng Scapa Flow (phía Bắc Anh) và phó Đô đốc Béatty từ cảng Frorth (phía Nam nước Anh) đưa hạm đội dưới quyền họ tiến vào biển Jutland.
    Ngày 31-5-1916, hai bên dàn trận ở hành lang Skaggerak phía thủy quân Anh có cả thảy 150 chiếc tàu tham chiến: 28 tàu thiết giáp hạm, 17 tàu tuần dương hạm chiến đấu, 22 tàu tuần dương hạm hạng nhẹ, 81 tàu khu trục hạm, một tàu phóng lôi, một tàu sân bay. Tổng chỉ huy là Đô đóc Jellicoe, 2 phó là Đô đốc Béatty và Thomas. Phía thủy quân Đức có cả thảy 111 chiếc tàu tham chiến: 22 tàu thiết giáp hạm, 5 tàu tuần dương hạm hạng nhẹ, 73 tàu khu trục hạm, 16 tàu ngầm (có thêm 10 máy bay yểm trợ nhưng hôm đó vì trời xấu nên các máy bay này không xuất trận). Tổng chỉ huy quân Đức là Đô đốc Von Scheer. Phó Đô đốc là Hipper.
    Từ ngày 30-5-1916, biển lặng sóng. Đô đốc Anh Jellicoe đưa đại quan từ căn cứ Scapa Flow tiến về phía Jutland. Ông cũng lệnh cho Đô đốc Jéram đưa đoàn thiết giáp ra khỏi cảng Friralr đi theo đường vòng để tới nơi hẹn. Phó Đô đốc Béatty và Thomas cũng được lệnh đem các chiến hạm đến đón ở phía Bắc.
    Suốt đêm 30-5-1916, không xảy ra việc gì quan trọng. Sáng 31-5, một buổi sáng đầy mây và mặt biển có nhiều chỗ bị sương mù che phủ. Chín giờ sáng hạm đội Đức xuất trận, đại quân tiến về phía Héligoland. Riêng đoàn tuần dương hạm chiến đấu của Hipper khởi hành từ 2 giờ sáng đi trinh sát trước đó 50 hải lý.
    Thủy quân Anh án binh, chỉ chăm chú nhận những tin tức vô tuyến điện của Đức nhưng không có gì quan trọng. Đến giữa trưa, Đô đốc Jellicoe nhận được tin của quân Anh đã vào đầy cả hành lang Skaggerak. Cùng lúc này, cánh quân của Jéram đã tới gặp đại quân Jellicoe. Ba giờ chiều, tất cả tiến vào Skaggerak còn hạm đội Béatty ở phía Bắc đã bắt gặp hạm đội trinh sát Đức do Hipper chỉ huy. Để nghi binh, Béatty lui về phía Đông rồi tiếng về phái đại quân Jellicoe. Lúc ấy có tin báo một tàu phóng lôi Đức đang đuổi một chiếu tàu buôn nhưng thấy hạm đội Anh thì bỏ chạy. Béatty hạ lệnh tác chiến bằng một hồi kèn vang động mặt biển và phái mấy chiếc máy bay ở tàu sân bay Engadine đi trinh sát đem về một số tin tức. tàu tuần dương hạm hai bên bắt đầu nã súng vòa nhau, nhưng không trúng gì cả. Hai giờ rưỡi chiều, Hipper thấy tàu Anh chuyển về hướng Đông Nam, bèn kéo hạm đội đi theo ý muốn phối hợp với đại quân do Von Scheer chỉ huy.
    Thực ra thì cả hai phía không nắm rõ được tình hình của nhau. Béatty định bao vây Hipper để cho Jellicoe kéo đến đánh bại quân Đức của Von Scheer còn Hipper cũng định chặn đánh Béatty để tạo điều kiện thuận lợi cho Scheer. Thế là hạm đội hai bên đều theo đường vòng cung tiến về phía Nam. Đến ba giờ chiều, hai bên chỉ còn cách nhau độ chừng hơn sáu bảy hải lý. Cả hai bên dàn quân theo cách cổ điển: tuần dương hạm hạng nhẹ và phóng lôi về phía trước, còn hai bên là tàu thiết giáp hạm hạng Béatty ở trên kỳ hạm Lion điều khiển tác chiến. Ở phía Tây Bắc cách đấy 5 hải lý là đoàn tàu thiết giáp hạm của Thomas. Ba giờ 48 phút, hai bên tiến lại gần nhau, tới khoảng cách 7 hải lý Béatty cho tàu Lion nổ súng. Cuộc giao chiến bắt đầu. Thoạt tiên, tàu Anh thắng lợi, nhưng sau tàu Đức chiếm ưu thế. Chiếc kỳ hạm Lutdo của Hipper bắn ba quả đại bác trúng chiếc kỳ hạm Lion của Béatty gây thiệt hại lớn
    Bốn giờ hơn, đại bác Đức lại bắn trúng tàu tuần dương hạm chiến đấu Infatigable của Anh, hàng nghìn thủy thủ bị chết chỉ còn sót 5 người được tàu Đức vớt lên. Hai chục phút sau, tàu tuần dương chiến đấu thứ hai của Anh là Queen Mary lại bị trúng đạn, chìm xuống biển đem theo đoàn thủy thủ 1200 người. Như vậy là Béatty chỉ còn 4 tuần dương hạm đối phó với 5 tàu của Hipper. Trước tình thế nguy kịch, Thomas đã kịp tới giải nguy cho Béatty. Hipper liền cho rút quân về phía Bắc để nhập vào đại quân của Von Scheer. Và Béatty cùng Thomas cũng tiến về phía Bắc để nhập vào đại quân của Jellicoe.
    5 giờ 30, cuộc đấu pháo bắt đầu. Sau 10 giờ liên tiếp, hai bên quần nhau tren biển, lừa nhau từng miếng, bắn vào tàu đối phương rồi bắn nhầm cả vào tàu nhà! Mỗi bên đều có lúc thắng, lúc bại, cuối cùng cả hai bên đều bị thiệt hại lớn:
    - Quân Anh bị đắm 3 tàu tuần dương hạm, 3 tuần dương thiết giáp, 8 khu trục, bị mất trên 300 sĩ quan, năm nghìn binh lính.
    - Quân Đức bị đắm một tuần dương hạm, một thiết giáp hạm, 4 tuần dương hạm hạng nhẹ, 5 khu trục. Số binh sĩ chết không quá 500 người.
    Trận đánh kết thúc, thắng lợi nghiêng về phía hải quân Đức nhưng chỉ hai năm sau thì Đức đã bị thất bại thảm hại.
  10. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    TRẬN TRÂN CHÂU CẢNG (12-1941)
    Những ngày cuối tháng 11-1941, một phái đoàn ngoại giao Nhật đến Wasington để đàm phán với chính phủ Mỹ về giải pháp cho những tranh chấp giữa Mỹ và Nhật tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Phái đoàn Nhật tỏ thái độ hoà nhã, nhân nhượng nhưng lại nêu lên nhiều chi tiết khó giải quyết nên cuộc đàm phán kéo dài. Lấy cớ nhằm làm cho mối bang giao Mỹ - Nhật bớt căng thẳng Chính phủ Nhật đề nghị với chính phủ Mỹ cho một số tàu buôn Nhật cập bến tại một số cảng ở Mỹ và tại Hônôlulu thuộc quần đảo Hawai. Đề nghị đã được chính phủ Mỹ chấp nhận. Ngày 1-11-1941, chiếc tàu buôn Nhật TaiyoMaru cập bến hữu nghị cảng Honolulu. Viên tổng lãnh sự Nhật tại Hawai lên thăm tàu và đã chuyển xuống tàu này những tin tức tình báo mà Bộ tham mưu quân đội Nhật đang mong đợi, kể cả tấm bản đồ chi tiết về Trân Châu Cảng. Đây là công trình của một điệp viên gốc Nhật, quốc tịch Mỹ tên là Yosikaoa làm việc cho cơ quan tình báo Nhật. Tên này đóng vai nhân viên cho một công ty du lịch Mỹ, chuyên hướng dẫn các khách hàng du lịch đến thăm quần đảo Hawai và nhờ thế đã có lần được đi máy bay cùng các quan chức Mỹ lượn trên đảo Ôahu, nơi có bến cảng và sân bay quân sự, căn cứ chính của hạm đội Thái Bình Dương và của hải quân Mỹ.
    Giữa bầu không khí thiện chí mà Chính phủ Nhật bày tỏ bề ngoài thì bên trong, cái chính phủ đó đã ra lệnh cho Đô đốc Nhật Yamamoto vạch kế hoạch tấn công Trân Châu Cảng từ 1-1941 đến 3-1941 đã được thảo xong. Bắt đầu từ tháng 9-1941, hạm đội đặc nhiệm tiến hành diễn tập tiến công trong những điều kiện tượng tự như thực địa Trân Châu Cảng (ở đảo Ôahu)
    Đêm 17 rạng ngày 18-11-1941, các tàu chiến Nhật lần lượt ra khơi, chạy về hướng đảo Curilơ nơi được chọn làm địa điểm tập kết. Hạm đội đặc nhiệm của Nhật gồm có 31 chiếc: 6 tàu sân bay, 2 thiết giáp, 2 tàu tuần dương hạng nặng, 1 tàu tuần dương hạng nhẹ, 3 tàu ngầm, 9 tàu khu trục và 8 tàu chở dầu... Sáng sớm ngày 25-11-1941, hạm đội đặc nhiệm rời căn cứ hải quân Tancan ở quần đảo Curilơ, chạy chếch về hướng Đông Bắc rồi chuyển dần về hướng Đông Nam. Hành trình đã được lựa chọn đi qua những vùng mây thấp, sương mù và rất ít tàu buôn đi lại. Các tàu chiến trong hạm đội đặc nhiệm bị cấm ngặt không được sử dụng máy phát sóng vô tuyến điện. Việc thông tin liên lạc được tiến hành bằng tín hiệu đèn hoặc bằng cờ. Ban đêm, đèn trên các tàu chiến tắt hết, 7 ngày sau khi xuất phát, tư lệnh hạm đội đặc nhiệm là phó Đô đốc Nagumo nhận được bức điện: "Hãy trèo lên đỉnh núi Niitaca", những mật ngữ có nghĩa là bộ tham mưu quân Nhật ralệnh cho hạm đội thực hiện kế hoạch tiến công Trân Châu Cảng theo như dự kiến. Toàn bộ hạm đội đặc nhiệm tăng hết tốc độ, rẽ hẳn xuống hướng Nam, lao về phía Trân Châu Cảng.
    5 giờ sáng 7-12-1941, toàn bộ đội đặc nhiệm Nhật đã được tập kết ở một nơi cách Trân Châu Cảng 200 hải lý. Vào 5 giờ 30 phút, hai máy bay trinh sát cất cánh từ tuần dương hạm Nhật Chikumê và Tônê, bay lượn hai vòng trên Trân Châu Cảng nhưng không bị phát hiện. Hai máy bay trinh sát này đã điện về kỳ hạm của phó Đô đốc Nagumô những tin tức về các tàu chiến Mỹ đang đỗ ở Trân Châu Cảng ; 183 máy bay Nhật được lệnh cất cánh từ các tàu sân bay mở đầu đợt I của cuộc tấn công, tiếp theo là 170 máy bay khác trong đợt II, đồng thời 29 tàu ngầm Nhật đi theo một hướng khác cũng đã đến gần Trân Châu Cảng nhằm chặn đánh những tàu chiến Mỹ nào còn "sống sót" tìm cách thoát chạy ra biển cả. Một số tàu ngầm "bỏ túi" thực tế là loại "ngư lôi" do thuỷ thủ quyết tử lái đã lọt vào được bến cảng để phối hợp tiến công với các máy bay.
    Trong khi đó về phía Mỹ, bình minh trên quần đảo Hawai nói chung, cũng như tại đảo Ôahu với Trân Châu Cảng nói riêng, trong ngày chủ nhật 7-12-1941 này thật tuyệt đẹp, bầu trời không một gợn mây, biển êm, lặng sóng. Nghỉ cuối tuần theo lệ thường từ chiều thứ bảy, phần lớn các sĩ quan và thuỷ thủ các tàu chiến Mỹ đỗ tại Trân Châu Cảng ở đảo Ôahu thuộc quần đảo Hawai đều lên bờ, say sưa đêm thứ bảy trong các hộp đêm. Đô đốc Kimmen, Tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương Mỹ, ăn cơm tối tại nhà một người bạn và hẹn đánh golf với tướng Xoóc, Tư lệnh lục quân Mỹ đóng trên quần đảo vào sáng chủ nhật. Đúng 7 giờ 55 phút, vừa lúc Đô đốc bước lên xe ôtô để đến sân đánh golf thì những quả bom đầu tiên rơi xuống các tàu chiến Mỹ đang đỗ tại Trân Châu Cảng. Đô đốc Kimmen sửng sốt ngạc nhiên kêu lên : "Chuyện gì thế ? Có phá hoại chăng ?". Trong lúc đó, đại tá Môlixơ, tham mưu trưởng lực lượng không quân mưu Mỹ tại quần đảo Hawai gọi điện báo cho đại tá Phillip, một sĩ quan không quân khác cho biết máy bay Nhật bắt đầu tấn công Trân Châu Cảng, thì đại tá đã thét to vào ống nói : - Anh điên rồi hả, Fimmi ? Đến bây giờ mà anh vẫn chưa tỉnh rượu hay sao?
    Một số sĩ quan hải quân Mỹ ở lại trên các tàu chiến cũng như các sĩ quan hải quân Mỹ đang ở trên bờ cùng các sĩ quan, binh lính không quân, lục quân Mỹ khác trên đảo Ôahu tất cả đều còn nằm trên giường ngủ trong khi các máy bay Nhật đang bổ nhào trút bom xuỗng ngay đầu họ. Không một khẩu cao xạ nào trên đảo Ôahu nổ súng bắn trả. Không một máy bay chiến đấu nào của Mỹ kịp cất cánh.
    Trận chiến diễn ra từ 7 giờ 55 phút đến 9 giờ 45 phút, sáng ngày 7-12-1941, qua hai đợt chính tấn công vào bến cảng và sân bay Trân Châu Cảng, hải quân Nhật đã đánh đánh chìm và làm thiệt hại nặng 18 tàu chiến lớn của Mỹ, trong số đó có 8 thiết giáp hạm bị phá huỷ, 232 máy bay chiến đấu Mỹ đang đỗ trên sân bay (gồm 80 máy bay của hải quân và 152 máy bay của lục quân Mỹ). Về phía Mỹ thiệt hại lên tới 3581 người, trong đó có 2435 người chết. Do sự tình cờ may mắn cho hải quân Mỹ, 3 chiếc tàu sân bay của hạm đội Thái Bình Dương hôm đó ra khơi diễn tập không có mặt ở Trân Châu Cảng vào sáng ngày 7-12-1941 nên đã thoát khỏi số phận như các thiết giáp hạm. Về phía Nhật, chỉ bị thiệt hại có 29 máy bay, phần lớn bị tai nạn khi trở về hạ cánh trên sàn tàu sân bay. Trong suốt gần hai giờ liền, bộ phận lớn của hạm đội Thái Bình Dương Mỹ đỗ tại Trân Châu Cảng hầu như chỉ phơi mình nằm hứng bom và ngư lôi của Nhật mà không chống trả được gì đáng kể.
    Thắng lợi lớn này của hải quân Nhật thực tế đã loại ra khỏi vòng chiến đấu hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ trong nhiều tháng ; tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội Nhật đánh chiếm nhiều nước ở khu vực Đông Nam Á, tiến sát đến Úc và Ấn Độ ở giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương trong Thế Chiến II. Giới quân sự nước ngoài thường gọi trận Trân Châu Cảng là một bài học về sự mất cảnh giác không sẵn sàng chiến đấu và chủ quan khinh địch ; phía Mỹ bị thiệt hại giá trị gần một hạm đội lớn. Việc chuẩn bị cho trận đánh, về mặt công tác tình báo của Nhật đã được tiến hành trong nhiều năm và chuẩn bị tác chiến mọi mặt đã diễn ra hơn 11 tháng để đưa lại thành công cho trận đánh có ý nghĩa chiến lược lớn trong vòng hai giờ đồng hồ. Cuộc hành trình dài diễn đến 3500 hải lý (khoảng 6500 km) của hạm đội đặc nhiệm lớn đã đến gần một căn cứ hải quân chủ yếu của Mỹ mà không bị phát hiện. Trận Trân Châu Cảng cũng mở đầu "thời đại của tàu sân bay" và đánh dấu những ngày tháng suy tàn cuối cùng của tàu thiết giáp. Ngày nay, danh từ Trân Châu Cảng thường được dùng với ý nghĩa "thất bại nặng nề và thảm hại do mất cảnh giác và lơ là, không sẵn sàng chiến đấu".

Chia sẻ trang này