1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những vụ án nổi tiếng thế giới - Biên soạn: Phương Hà, Vĩnh Hồ

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi songtunu, 14/04/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Những vụ án nổi tiếng thế giới - Biên soạn: Phương Hà, Vĩnh Hồ

    Mục lục:
    1. Những vụ tống tiền khó hiểu (Ý)
    2. Người bán xà bông (Nga)
    3. Mẹo thám tử tư (Úc)
    4. Chuột sa bẫy (Mỹ)
    5. Mẹ người bị tù oan (Mỹ)
    6. Trước ngã ba đường (Mỹ)
    7. Cuộc chơi xả láng (Mỹ)
    8. Hai cha con (Pháp)
    9. Chứng cứ nắm trong tay (Anh)
    10. Bông cẩm chướng đỏ (Mỹ)
    11. Những rặng cây biết ăn thịt (Achentina)
    12. Ông già gác đền thờ (Jerusalem)
    13. Sự ra đời một tội danh mới (Mỹ)
    14. Bà cố vấn về tai nạn giao thông (Pháp)
    15. Kẻ hèn nhát (Mỹ)
    16. Một cuộc đời hai kiếp sống (Đức)
    17. Đoạn kết một cuộc tình vương giả (Thái Lan)
    18. Người vượt biên sống sót (Pháp)
    19. Người tình của Kennedy thú nhận... (Mỹ)
    20. Cô gái trên đoàn tàu tốc hành (Đan Mạch)
    21. "Chó ngao" Nhân viên FBI (Mỹ)
    22. Mái tóc vàng óng ả (Đức)
    23. Xâm hại tử thi (Phần Lan)
    24. Bà mẹ chồng quái đản (Mỹ)
    25. Những đứa con phản loạn (Mỹ)
    26. Bức hình khó coi (Đức)
    27. Người tình tầng trệt... (Pháp)
    28. Cưới vội (Ieclang)
    29. Dịp may hiếm có (Mỹ)
    30. Cuộc phiêu lưu với chiếc máy ảnh (Mỹ)
    31. Kịch bản "Người thật việc thật" kiểu Hollywood (Mỹ)
    32. Những vụ bạc giả động trời (Đức - Pháp)
    33. Người tình mini trên gác xép (Mỹ)
  2. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Những vụ tống tiền khó hiểu
    Truyện ngắn Ý​
    Tối mùng 10 tháng sáu năm 1960, ông chủ trại giầu có Giorogio Canetto ở thị trấn Marazini trên đảo Sicile vừa dùng xong bữa tối cùng với vợ và con trai thì có tiếng đập cửa dồn dập. Cậu con đứng lên, trước khi ra mở cửa chính, cậu tới ngó qua cửa sổ coi thử vị khách nào tới nhà vào lúc trời tối này...
    Cậu trở lại bên bố:
    - Bố ơi, có vị tu sĩ dòng Thánh Francois!
    Giorgio ngạc nhiên, đứng lên ra mở cửa. Người tu sĩ này muốn gì mà tới đây khi đêm đang xuống?
    Người vừa hiện ra trên bục của choàng chiếc áo dài nâu sồng bằng vải len thô, chiếc mũ trùm nhọn đầu sụp tận mặt. Tuy thế, Giorgio vẫn nhận ra đây là cha Vicenzo, bề trên trong nhà thờ gần Marazini.
    Cha lật mũ, để lộ khuôn mặt nghiêm nghị dưới mái tóc trắng phau.
    - Ông Giorgio này, tôi tới đây vì một công việc? tế nhị. Yêu cầu ông đưa tôi một số tiền? một số tiền lớn: 2 triệu lia.
    Giorgio há hốc mồm kinh ngạc, lát sau mới cười ồ lên.
    - Thì ra là cha? Cha quyên tiền kiểu gì lạ vậy?
    Nét mặt tu sĩ sa sầm:
    - Đâu phải cho nhà thờ, mà cho? xã hội đáng kính. Họ tới kiếm Antonio Bronzini, anh làm vườn cho nhà thờ, bảo rằng các tu sĩ phải làm trung gian thu tiền của con chiên trong vùng, nếu không tu viện sẽ bị đốt cháy và tất cả các tu sĩ sẽ bị giết chết. Thoạt tiên cha đâu có tin, nhưng chỉ ba ngày sau đó, cha Beppino bị một phát đạn. Các cha chẳng còn cách nào khác, đành tuân theo họ. Họ bắt cha phải tới kiếm ông để lấy số tiền này.
    Giorgio phản ứng quyết liệt:
    - Chuyện này không liên quan gì tới con. Cha đi báo cảnh sát mới đúng.
    Vị tu sĩ buồn bã lắc đầu.
    - Ông thừa biết thế là không thể dược.
    Đúng, Giorgio biết rõ như vậy. Ngay chuyện gọi đích danh chúng là Mafia còn chẳng dám, cứ phải gọi trệch đi là ?oxã hội đáng kính?, huống hồ đi báo cảnh sát. Có mà chết đầu nước!
    Chủ trại quyết định chấm dứt câu chuyện.
    - Con rất tiếc, thưa cha. Xưa nay con chưa bao giờ lùi bước trước những lời hù dạo. Vả lại, có lẽ không có gì nghiêm trọng đâu. Họ chỉ thử làm cha hoảng thôi. Cha hãy làm như con: không chịu và rồi đâu vào đấy.
    Tu sĩ biết nói nữa cũng vô ích. Đành thở dài, trùm mũ lên rồi đi thẳng?
    Cha Vicenzo đi giữa bóng đêm, lưng còng xuống như đeo một gánh nặng vô hình. Những điều cha vừa nói với người chủ trại giầu có là sự thực trăm phần trăm. Cách đây một tuần, Antonio Bronzini đã tới gặp cha. Anh ta ba mươi tuổi, rất tốt, hoàn toàn mù chữ. Bố mẹ chết hết trong chiến tranh, anh được tu viện mang về, trở thành người làm vườn cho tập thể. Tận tụy với công việc, sống độc thân trong căn nhà nhỏ gần tu viện. Cha Vicenzo rất thương, coi gần như con đẻ. Thành ra khi nghe Antonio báo tin, cha thực sự choáng váng.
    - Thưa cha, bữa qua có hai ông tới kiếm con. Họ tự giới thiệu là người của xã hội đáng kính. Và bảo: ?oNày Antonio, mày tới bảo cha Vicenzo rằng từ nay các tu sĩ của viện Marazini phải quyên tiền cho bọn tao. Các tu sĩ đưa tiền cho mày, bọn tao sẽ tới nhận. Nếu các tu sĩ không chịu, tụi tao sẽ đốt cháy tu viện và giết mày?.
    Antonio kể lại như vậy, mặt cắt không còn giọt máu. Cha Vicenzo thì bực, cho là có những kẻ đùa dai với anh chàng chất phác này. Cha cố trấn an Antonio, nhưng ba ngày sau xảy ra vụ cha Beppino bị bắn trúng lưng trên đường đi cầu nguyện. Viên đạn chỉ sượt qua da, tuy kẻ nổ súng ở vị trí rất thuận tiện có thể dễ dàng bắn hạ cha nếu nó muốn. Rõ ràng đây chỉ là đòn cảnh cáo.
    Chính Antonio Bronzini xác nhận ngay sáng bữa sau:
    - Hai ông đó bữa qua vừa trở lại. Bảo: ?oTụi tao chỉ xin cha Beppino tí tiết thôi. Lần sau sẽ cho đi đứt luôn?. Họ cho biết tên người đứng đầu danh sách: Giorgio Canetto, số tiền: 2 triệu lia.
    Đó là những sự kiện làm cuộc sống trong tu viện đảo lộn. Bọn Mafia liều lĩnh và trắng trọn tới mức dám biến cả một tập thể tu sĩ thành những kẻ tống tiền?
    Về tới tu viện, cha Vicenzo báo cho Antonio biết cha trở về tay không. Anh cháng khốn khổ hết sức lo sợ, khóc nức nở và lạy van:
    - Cha ơi, chúng sẽ giết con mất thôi! Chúng có những con dao to đùng, cả súng nữa. Xin cha quay lại gặp ngài Canetto lần nữa. Nhân danh Đức Mẹ Nhân từ!
    Giorgio Canetto không coi cuộc viếng thăm bữa đó của cha Vicenzo là chuyện nghiêm túc. Sáng sau, ông đi kể cho cả làng nghe. Và chế nhạo cái cách các tu sĩ dòng Thánh Francois quyên góp? Nhưng dân làng không ai dám cười. Khi dính dáng tời Mafia thì đứng có đùa, rất có thể xảy ra những chuyện tày đình.
    Ngay tối đó cha Vicenzo trở lại gặp chủ trại Giorgio. Lần này, chủ trại chẳng thèm mở cửa, chỉ nói qua cửa sổ:
    - Tôi đã nói không là không. Cha không hiểu à?
    Tu sĩ cố nài:
    - Chúng sẽ giết Antonio! Giết ông!
    Chủ trại không phải loại người thích tranh cãi. Ông ta cố nghĩ một câu trả lời quyết định, hét thẳng vào mặt tu sĩ già:
    - Đi với ma quỷ cho rồi!
    Cha Vicenzo trùm mũ che mặt, nói bằng giọng khàn khàn:
    - Chúa phù hộ cho con, Giorgio?
    7 giờ tối hôm sau, những tá điền làm thuê ăn công thấy Giorgio nằm thõng thượt, mắt trợn ngược trên rìa con đường dẫn tới đồi trồng nho. Trên ngực có hai vết đạn? Sự kiện gây hoảng loạn khắp làng. Không ai còn nghi ngờ gì nữa, tất cả đều biết mình phải giữ mồm giữ miệng: Không thể tính chuyện đi báo cảnh sát. Coi như Giorgio bị tử thương trong ?otai nạn săn bắn?.
    Khá đông dân làng đi trong đám tang chủ trại, nhưng không ai nói với ai một câu, thậm chí không dám nhìn mặt nhau. Tên sát nhân có thể trà trộn đâu đây? Làng Marazini chìm trong khiếp sợ, trong thời gian khá dài?
    Bữa sau khi mai táng Giorgio, dân làng thấy tu sĩ già dòng Thánh Francois đi về phía ngôi nhà Giorgio Canetto, mũ trùm kín mặt. Mọi người đoán biết cha mang tới đây thông điệp gì. Cái chết của người chồng không thay đổi tình thế: cha tới đòi góa phụ nộp tiền.
    Quả nhiên, cha Vicenzo rầu rĩ bảo Carmela Canetto:
    - Bữa qua chúng lại tới gặp Antonio. Bảo nếu con không giao nộp 2 triệu lia, nạn nhân thứ hai phải trả giá sẽ là con trai của con?
    Camela đã biết thế từ trước. Bà chuẩn bị đủ số tiền gói trong mảnh vải. Bà đưa cho tu sĩ? Người làng Marazini đã nộp khoản tiền chuộc mạng đầu tiên. Cỗ máy đã khởi động.
    Ngày 18 tháng Sáu năm 1960. Trời vừa chạng vạng tối, một bóng người choàng áo len vải thô đi qua làng, dừng lại trước ngôi nhà bề thế. Nhà của dược sĩ Bartolo Cordl, giầu thứ nhì trong vùng, chỉ thua nhà Giorgio.
    Cha Vicenzo gõ cửa, vào nhà? Dược sĩ sống một mình trong ngôi nhà mênh mông. Ông góa vợ từ nhiều năm nay. Tu sĩ đi ngay vào việc.
    - Con chắc biết cha tới có chuyện gì chứ?
    Bartolo biết. Và không coi đây là chuyện có thể coi thường. Mồ hôi chảy đầm đìa trên bộ mặt xám ngoét chứng tỏ như vậy.
    Khốn nỗi, bản tính con người này rất keo kiệt? Cha Vicenzo nói tiếp:
    - Chúng ấn định số tiền là 2 triệu.
    Con số làm dược sĩ nhăn mặt đau xót. Ông la lên:
    - Không có đâu! Nếu có, con sẵng sàng nộp cho chúng, nhưng đào đâu ra bây giờ!
    Tu sĩ cố thuyết phục:
    - Cha biết con có đủ mà. Đủ 2 triệu lia. Đừng chống cự vô ích. Chúng dám làm mọi chuyện, không biết ghê tay là gì. Hãy nghĩ tới Giorgio.
    - Không có! Nhờ cha nhắn lại cho chúng.
    - Thôi được, cha sẽ nhắn. Cha cầu nguyện cho con.
    Đêm hôm sau, cả làng Marazini choàng dậy: cửa hàng dược bốc cháy? Khi lính cứu hỏa tới thì đã muộn. Ngọn lửa hung hãn từ những can xăng phụt ra hết sức dữ dội, chẳng mấy chốc cơ ngơi nhà Bartolo biến thành tro.
    Ngay bữa đó, đêm vừa buông xuống, đúng giờ đã thành lệ, mọi người lại thấy bóng đen khoác áo chùng đội mũ trùm đầu tới gõ cửa nhà Bartolo. Như trường hợp đã xảy ra với Giorgio, đòn trừng phạt không thay thế khoản tiền phải cống nộp. Mafia vẫn đòi bằng đủ.
    Người mở cửa cho tu sĩ gần như kiệt sức.
    - Con mất hết rồi cha ơi. Nhưng phải cố giữ mạng sống?
    Ông ta đưa một bọc tròn gói giấy.
    - Con cất được ít vàng. Chỗ này vừa đủ 2 triệu lia. Đáng lẽ nghe cha từ bữa qua. Giờ đây chẳng còn hy vọng gì nữa.
    Hỏa hoạn tại hiệu dược phẩm Bartolo như trái bom nổ giữa Marazini. Cả làng kinh khiếp tột độ, không nghĩ tới gì khác được nữa, chỉ nơm nớp chờ xem tu sĩ sẽ gõ cửa nhà ai. Lúc này, càng không một ai nghĩ tới việc báo cảnh sát.
    Các tu sĩ trở lại làng. Bây giờ không chỉ một mình Vicenzo như trước, nhiều tu sĩ khác cũng phải nhận làm trung gian cho bọn Mafia, mỗi tuần hai hoặc ba lần vào làng lúc trời tối. Dân làng Marazini vừa thấy mặt trời lặn là nín thở, chờ các tu sĩ tới ?oquyên góp? như Giorgio bất hạnh đã gọi hành động tống tiền như vậy.
    Nhiều tuần lễ trôi qua, bóng đen choàng áo vải thô lần lượt gõ cửa các nhà, bất kể giàu nghèo. Không một ai được miễn, tất cả dân làng lần lượt bị tống tiền. Bọn Mafia tỏ ra nắm rất chắc khả năng từng nhà, chúng ấn định số tiền phải nộp theo tỷ lệ gia sản từng hộ. Những nhà nghèo nhất chỉ phải nộp khoảng vài ngàn lia.
    Càng ngày Marazini càng chìm sâu vào ác mộng. Cuộc sống hàng ngày bị lệ quyên góp chi phối hoàn toàn, mọi sinh hoạt đều xoay quanh cái trục quái ác đó. Đêm đêm, đàn ông cũng như đàn bà con trẻ đều mơ thấy toàn tu sĩ đen đúa trùm mũ kín mít. Những cha đạo hiền hậu, được cả vùng yêu mến đã bị Mafia biến thành tu sĩ ma quỷ.
    Ngày 8 tháng Tám năm 1960. Một tu sĩ cầm trên tay vài tờ 10.000 lia ra khỏi nhà người vừa bị tống tiền bước ra. Căn nhà xoàng xĩnh của Bernardo Stoppia, nhân viên gác rừng. Anh đóng cửa đăm chiêu suy nghĩ. Và quyết định. Anh chán ngấy đến tận cổ tình hình này. Dân làng quá nhu nhược không dám đứng lên tự bảo vệ, anh sẽ bảo vệ họ. Anh còn trẻ, chưa vợ con, đây là việc củâ anh. Anh sẽ một mình cáng đáng hết. Biết là nguy hiểm lắm, nhưng chúng không dễ gì lột được da anh mà không trả giá đắt: anh là tay thiện xạ trong vùng. Bernardo tính toán suốt đem, đến sáng thì kế hoạch hành động đã hình thành.
    Cũng như mọi người trong làng, anh biết các tu sĩ không trực tiếp gặp Mafia. Bọn này chỉ tiếp xúc với Antonio, người làm vườn cho tu viện. Các tu sĩ giao tiền cho anh ta, Mafia sẽ tới nhà anh thu tiền. Vậy thì Bernardo sẽ theo dõi Antonio và từ đây lần ra đường dây Mafia.
    Thời khóa biểu hàng ngày của Antonio rất dễ theo dõi: sáng nào cũng ra khỏi nhà lúc 6 giờ để tới tu viện, 7 giờ tối trở về nhà. Đường đi không xa quá 300 mét. Ngoài ra, anh làm vườn rất ít giao du, gần như chưa lần nào vào làng. Một anh chàng có vẻ chất phác, coi mảnh vườn rau là cả thế giới rồi?
    Tối 9 tháng Tám, Bernardo phục trước tu viện. 7 giờ, thấy rõ Antonio đi ra và về thẳng nhà. Ngay phía đối diện có căn nhà đổ, dùng làm đài quan sát rất tốt. Bernardo vào nấp sau khung cửa sổ, đặt súng trước mặt? Đêm xuống. Anh hồi hộp chờ những bóng đen xuất hiện, nhưng không thấy gì. Trời gần sáng, anh gác rừng trở về nhà.
    Trong mười lăm ngày tiếp theo. Bernardo không rời mắt khỏi anh làm vườn nhưng không kết quả. Mafia đánh hơi thấy rồi chăng? Nhưng chúng vẫn quyên góp đều đều như trước. Gần như mỗi tối lại có một tu sĩ đến tống tiền ai đó trong làng. Tiền vẫn giao cho Antonio như thường lệ. Mafia đợi gì mà không tới lấy?
    Ngày 24 tháng Tám năm 1960. Như mọi bữa, anh gác rừng bám sát Antonio. Đang đi trước Bernardo mấy mét, bất thình lình Antonio quay lại. Bernardo không kịp lẩn tránh.
    - Tớ biết cậu bám đuôi từ mấy bữa nay ?" Anh làm vườn nói ?" Xéo ngay! Còn lảng vảng ở đây, chúng sẽ giết cả cậu và tớ luôn.
    - Chúng là ai? Tớ chẳng thấy có người nào tới đây.
    Antonio vung tay:
    - Chúng ở khắp nơi, nhưng làm sao cậu thấy được. Đi ngay, đừng để bị biến thành thây ma.
    Anh gác rừng không hỏi nữa, bỏ đi thẳng, biết mình sẽ phải làm gì? Mãi khi chỉ còn cách đồn cảnh sát Marazini chừng 500 mét anh mới nhận ra mình đã phạm sai lầm: Phải chạy thật lẹ lên, thay vì đi từ tốn như thế này. Anh cắm đầu lấy đà lao lên, và đúng lúc vửa tới cửa đồn thì một tiếng nổ chát chúa vang lên. Bernardo thấy lưng bị đập rất mạnh, anh ngã vật xuống?
    Khi tỉnh lại, Bernardo nhận ra mình đang nằm dưới nền đồn cảnh sát. Một bác sĩ đang khám vết thương, trung úy chỉ huy đồn cũng có mặt. Trung úy nói nhẹ nhàng:
    - Vết thương không nặng, sẽ qua khỏi thôi. Đừng sợ, chúng tôi sẽ bảo vệ anh khỏi tay Mafia. Lâu nay chúng tôi chưa hành động vì không ai khiếu kiện gì, nhưng giờ đây đã khác rồi.
    Anh gác rừng thấy mình đang kiệt sức. Phải nói ngay những gì mình biết, nếu không sẽ muộn mất. Cố thu hết nghị lực còn lại, anh thều thào:
    - Không phải Mafia? thằng Antonio Bronzini là chủ mưu? Vừa nãy, nó biết tôi đã phát hiện ra nên bám đuôi tôi? Nó bắn tôi, trước đây nó đã bắn chết Giorgio và đốt nhà thuốc. Bắt lấy nó!
    Nói vừa dứt, Bernardo xỉu luôn.
    Trên đường chạy tới nhà gã làm vườn của tu viện, cảnh sát hết sức ngạc nhiên. Antonio mù chữ, dáng vẻ thật thà, chăm chỉ, mà lại là tác giả của kế hoạc kỳ quái này sao? Một kế hoạch bịt mắt cả một tu viện, cả một làng trong nhiều tháng ròng! Một gã trông hiền lành thế, mà lại giết người không ghê tay.
    Khi tới nơi, cảnh sát thấy nhà Antonio trống trơn. Hắn đã bỏ trốn, mang theo vài thứ lặt vặt. Không làm được gì hơn, cảnh sát đành báo động cho tất cả các đồn trên toàn đảo Sicile, nói rõ hung thủ rất nguy hiểm.
    Một lần nữa, nhà chức trách lại đánh giá thấp Antonio Bronzini. Họ tưởng thằng cha đần độn chưa một lần thò mặt ra khỏi làng phen này chỉ lẩn quất đâu đó trên đảo. Thế nhưng cuối cùng người ta tóm được gáy hung thủ ở tận Bergame, miền cực bắc nước Ý. Nó định tậu một căn nhà để ẩn náu tới ngày xuống lỗ.
    Công chứng viên thấy gã nông dân mù chữ mà lại có trong tay những 15 triệu lia tiền mặt bèn mật báo cảnh sát?
    Khi tra tay vào còng số 8, Antonio gật đầu thú tội. Và nói:
    - Ngày mai, tôi sẽ khai hết.
    Sáng hôm sau, cảnh sát thấy nó đã treo cổ lên cửa sổ xà lim tạm giam. Thành thử không ai biết tại sao và bằng cách nào nó nẩy ra ý thực hiện một vụ được coi là kỳ lạ nhất trong lịch sử hình sự của đảo Sicile. Được xếp hạng số một ở nơi xảy ra không ít vụ án li kỳ, kế hoạch tống tiền của Antonio Bronzini quả là vô tiền khoáng hậu!
    Được songtunu sửa chữa / chuyển vào 10:47 ngày 14/04/2004
  3. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Những vụ tống tiền khó hiểu
    Truyện ngắn Ý​
    Tối mùng 10 tháng sáu năm 1960, ông chủ trại giầu có Giorogio Canetto ở thị trấn Marazini trên đảo Sicile vừa dùng xong bữa tối cùng với vợ và con trai thì có tiếng đập cửa dồn dập. Cậu con đứng lên, trước khi ra mở cửa chính, cậu tới ngó qua cửa sổ coi thử vị khách nào tới nhà vào lúc trời tối này...
    Cậu trở lại bên bố:
    - Bố ơi, có vị tu sĩ dòng Thánh Francois!
    Giorgio ngạc nhiên, đứng lên ra mở cửa. Người tu sĩ này muốn gì mà tới đây khi đêm đang xuống?
    Người vừa hiện ra trên bục của choàng chiếc áo dài nâu sồng bằng vải len thô, chiếc mũ trùm nhọn đầu sụp tận mặt. Tuy thế, Giorgio vẫn nhận ra đây là cha Vicenzo, bề trên trong nhà thờ gần Marazini.
    Cha lật mũ, để lộ khuôn mặt nghiêm nghị dưới mái tóc trắng phau.
    - Ông Giorgio này, tôi tới đây vì một công việc? tế nhị. Yêu cầu ông đưa tôi một số tiền? một số tiền lớn: 2 triệu lia.
    Giorgio há hốc mồm kinh ngạc, lát sau mới cười ồ lên.
    - Thì ra là cha? Cha quyên tiền kiểu gì lạ vậy?
    Nét mặt tu sĩ sa sầm:
    - Đâu phải cho nhà thờ, mà cho? xã hội đáng kính. Họ tới kiếm Antonio Bronzini, anh làm vườn cho nhà thờ, bảo rằng các tu sĩ phải làm trung gian thu tiền của con chiên trong vùng, nếu không tu viện sẽ bị đốt cháy và tất cả các tu sĩ sẽ bị giết chết. Thoạt tiên cha đâu có tin, nhưng chỉ ba ngày sau đó, cha Beppino bị một phát đạn. Các cha chẳng còn cách nào khác, đành tuân theo họ. Họ bắt cha phải tới kiếm ông để lấy số tiền này.
    Giorgio phản ứng quyết liệt:
    - Chuyện này không liên quan gì tới con. Cha đi báo cảnh sát mới đúng.
    Vị tu sĩ buồn bã lắc đầu.
    - Ông thừa biết thế là không thể dược.
    Đúng, Giorgio biết rõ như vậy. Ngay chuyện gọi đích danh chúng là Mafia còn chẳng dám, cứ phải gọi trệch đi là ?oxã hội đáng kính?, huống hồ đi báo cảnh sát. Có mà chết đầu nước!
    Chủ trại quyết định chấm dứt câu chuyện.
    - Con rất tiếc, thưa cha. Xưa nay con chưa bao giờ lùi bước trước những lời hù dạo. Vả lại, có lẽ không có gì nghiêm trọng đâu. Họ chỉ thử làm cha hoảng thôi. Cha hãy làm như con: không chịu và rồi đâu vào đấy.
    Tu sĩ biết nói nữa cũng vô ích. Đành thở dài, trùm mũ lên rồi đi thẳng?
    Cha Vicenzo đi giữa bóng đêm, lưng còng xuống như đeo một gánh nặng vô hình. Những điều cha vừa nói với người chủ trại giầu có là sự thực trăm phần trăm. Cách đây một tuần, Antonio Bronzini đã tới gặp cha. Anh ta ba mươi tuổi, rất tốt, hoàn toàn mù chữ. Bố mẹ chết hết trong chiến tranh, anh được tu viện mang về, trở thành người làm vườn cho tập thể. Tận tụy với công việc, sống độc thân trong căn nhà nhỏ gần tu viện. Cha Vicenzo rất thương, coi gần như con đẻ. Thành ra khi nghe Antonio báo tin, cha thực sự choáng váng.
    - Thưa cha, bữa qua có hai ông tới kiếm con. Họ tự giới thiệu là người của xã hội đáng kính. Và bảo: ?oNày Antonio, mày tới bảo cha Vicenzo rằng từ nay các tu sĩ của viện Marazini phải quyên tiền cho bọn tao. Các tu sĩ đưa tiền cho mày, bọn tao sẽ tới nhận. Nếu các tu sĩ không chịu, tụi tao sẽ đốt cháy tu viện và giết mày?.
    Antonio kể lại như vậy, mặt cắt không còn giọt máu. Cha Vicenzo thì bực, cho là có những kẻ đùa dai với anh chàng chất phác này. Cha cố trấn an Antonio, nhưng ba ngày sau xảy ra vụ cha Beppino bị bắn trúng lưng trên đường đi cầu nguyện. Viên đạn chỉ sượt qua da, tuy kẻ nổ súng ở vị trí rất thuận tiện có thể dễ dàng bắn hạ cha nếu nó muốn. Rõ ràng đây chỉ là đòn cảnh cáo.
    Chính Antonio Bronzini xác nhận ngay sáng bữa sau:
    - Hai ông đó bữa qua vừa trở lại. Bảo: ?oTụi tao chỉ xin cha Beppino tí tiết thôi. Lần sau sẽ cho đi đứt luôn?. Họ cho biết tên người đứng đầu danh sách: Giorgio Canetto, số tiền: 2 triệu lia.
    Đó là những sự kiện làm cuộc sống trong tu viện đảo lộn. Bọn Mafia liều lĩnh và trắng trọn tới mức dám biến cả một tập thể tu sĩ thành những kẻ tống tiền?
    Về tới tu viện, cha Vicenzo báo cho Antonio biết cha trở về tay không. Anh cháng khốn khổ hết sức lo sợ, khóc nức nở và lạy van:
    - Cha ơi, chúng sẽ giết con mất thôi! Chúng có những con dao to đùng, cả súng nữa. Xin cha quay lại gặp ngài Canetto lần nữa. Nhân danh Đức Mẹ Nhân từ!
    Giorgio Canetto không coi cuộc viếng thăm bữa đó của cha Vicenzo là chuyện nghiêm túc. Sáng sau, ông đi kể cho cả làng nghe. Và chế nhạo cái cách các tu sĩ dòng Thánh Francois quyên góp? Nhưng dân làng không ai dám cười. Khi dính dáng tời Mafia thì đứng có đùa, rất có thể xảy ra những chuyện tày đình.
    Ngay tối đó cha Vicenzo trở lại gặp chủ trại Giorgio. Lần này, chủ trại chẳng thèm mở cửa, chỉ nói qua cửa sổ:
    - Tôi đã nói không là không. Cha không hiểu à?
    Tu sĩ cố nài:
    - Chúng sẽ giết Antonio! Giết ông!
    Chủ trại không phải loại người thích tranh cãi. Ông ta cố nghĩ một câu trả lời quyết định, hét thẳng vào mặt tu sĩ già:
    - Đi với ma quỷ cho rồi!
    Cha Vicenzo trùm mũ che mặt, nói bằng giọng khàn khàn:
    - Chúa phù hộ cho con, Giorgio?
    7 giờ tối hôm sau, những tá điền làm thuê ăn công thấy Giorgio nằm thõng thượt, mắt trợn ngược trên rìa con đường dẫn tới đồi trồng nho. Trên ngực có hai vết đạn? Sự kiện gây hoảng loạn khắp làng. Không ai còn nghi ngờ gì nữa, tất cả đều biết mình phải giữ mồm giữ miệng: Không thể tính chuyện đi báo cảnh sát. Coi như Giorgio bị tử thương trong ?otai nạn săn bắn?.
    Khá đông dân làng đi trong đám tang chủ trại, nhưng không ai nói với ai một câu, thậm chí không dám nhìn mặt nhau. Tên sát nhân có thể trà trộn đâu đây? Làng Marazini chìm trong khiếp sợ, trong thời gian khá dài?
    Bữa sau khi mai táng Giorgio, dân làng thấy tu sĩ già dòng Thánh Francois đi về phía ngôi nhà Giorgio Canetto, mũ trùm kín mặt. Mọi người đoán biết cha mang tới đây thông điệp gì. Cái chết của người chồng không thay đổi tình thế: cha tới đòi góa phụ nộp tiền.
    Quả nhiên, cha Vicenzo rầu rĩ bảo Carmela Canetto:
    - Bữa qua chúng lại tới gặp Antonio. Bảo nếu con không giao nộp 2 triệu lia, nạn nhân thứ hai phải trả giá sẽ là con trai của con?
    Camela đã biết thế từ trước. Bà chuẩn bị đủ số tiền gói trong mảnh vải. Bà đưa cho tu sĩ? Người làng Marazini đã nộp khoản tiền chuộc mạng đầu tiên. Cỗ máy đã khởi động.
    Ngày 18 tháng Sáu năm 1960. Trời vừa chạng vạng tối, một bóng người choàng áo len vải thô đi qua làng, dừng lại trước ngôi nhà bề thế. Nhà của dược sĩ Bartolo Cordl, giầu thứ nhì trong vùng, chỉ thua nhà Giorgio.
    Cha Vicenzo gõ cửa, vào nhà? Dược sĩ sống một mình trong ngôi nhà mênh mông. Ông góa vợ từ nhiều năm nay. Tu sĩ đi ngay vào việc.
    - Con chắc biết cha tới có chuyện gì chứ?
    Bartolo biết. Và không coi đây là chuyện có thể coi thường. Mồ hôi chảy đầm đìa trên bộ mặt xám ngoét chứng tỏ như vậy.
    Khốn nỗi, bản tính con người này rất keo kiệt? Cha Vicenzo nói tiếp:
    - Chúng ấn định số tiền là 2 triệu.
    Con số làm dược sĩ nhăn mặt đau xót. Ông la lên:
    - Không có đâu! Nếu có, con sẵng sàng nộp cho chúng, nhưng đào đâu ra bây giờ!
    Tu sĩ cố thuyết phục:
    - Cha biết con có đủ mà. Đủ 2 triệu lia. Đừng chống cự vô ích. Chúng dám làm mọi chuyện, không biết ghê tay là gì. Hãy nghĩ tới Giorgio.
    - Không có! Nhờ cha nhắn lại cho chúng.
    - Thôi được, cha sẽ nhắn. Cha cầu nguyện cho con.
    Đêm hôm sau, cả làng Marazini choàng dậy: cửa hàng dược bốc cháy? Khi lính cứu hỏa tới thì đã muộn. Ngọn lửa hung hãn từ những can xăng phụt ra hết sức dữ dội, chẳng mấy chốc cơ ngơi nhà Bartolo biến thành tro.
    Ngay bữa đó, đêm vừa buông xuống, đúng giờ đã thành lệ, mọi người lại thấy bóng đen khoác áo chùng đội mũ trùm đầu tới gõ cửa nhà Bartolo. Như trường hợp đã xảy ra với Giorgio, đòn trừng phạt không thay thế khoản tiền phải cống nộp. Mafia vẫn đòi bằng đủ.
    Người mở cửa cho tu sĩ gần như kiệt sức.
    - Con mất hết rồi cha ơi. Nhưng phải cố giữ mạng sống?
    Ông ta đưa một bọc tròn gói giấy.
    - Con cất được ít vàng. Chỗ này vừa đủ 2 triệu lia. Đáng lẽ nghe cha từ bữa qua. Giờ đây chẳng còn hy vọng gì nữa.
    Hỏa hoạn tại hiệu dược phẩm Bartolo như trái bom nổ giữa Marazini. Cả làng kinh khiếp tột độ, không nghĩ tới gì khác được nữa, chỉ nơm nớp chờ xem tu sĩ sẽ gõ cửa nhà ai. Lúc này, càng không một ai nghĩ tới việc báo cảnh sát.
    Các tu sĩ trở lại làng. Bây giờ không chỉ một mình Vicenzo như trước, nhiều tu sĩ khác cũng phải nhận làm trung gian cho bọn Mafia, mỗi tuần hai hoặc ba lần vào làng lúc trời tối. Dân làng Marazini vừa thấy mặt trời lặn là nín thở, chờ các tu sĩ tới ?oquyên góp? như Giorgio bất hạnh đã gọi hành động tống tiền như vậy.
    Nhiều tuần lễ trôi qua, bóng đen choàng áo vải thô lần lượt gõ cửa các nhà, bất kể giàu nghèo. Không một ai được miễn, tất cả dân làng lần lượt bị tống tiền. Bọn Mafia tỏ ra nắm rất chắc khả năng từng nhà, chúng ấn định số tiền phải nộp theo tỷ lệ gia sản từng hộ. Những nhà nghèo nhất chỉ phải nộp khoảng vài ngàn lia.
    Càng ngày Marazini càng chìm sâu vào ác mộng. Cuộc sống hàng ngày bị lệ quyên góp chi phối hoàn toàn, mọi sinh hoạt đều xoay quanh cái trục quái ác đó. Đêm đêm, đàn ông cũng như đàn bà con trẻ đều mơ thấy toàn tu sĩ đen đúa trùm mũ kín mít. Những cha đạo hiền hậu, được cả vùng yêu mến đã bị Mafia biến thành tu sĩ ma quỷ.
    Ngày 8 tháng Tám năm 1960. Một tu sĩ cầm trên tay vài tờ 10.000 lia ra khỏi nhà người vừa bị tống tiền bước ra. Căn nhà xoàng xĩnh của Bernardo Stoppia, nhân viên gác rừng. Anh đóng cửa đăm chiêu suy nghĩ. Và quyết định. Anh chán ngấy đến tận cổ tình hình này. Dân làng quá nhu nhược không dám đứng lên tự bảo vệ, anh sẽ bảo vệ họ. Anh còn trẻ, chưa vợ con, đây là việc củâ anh. Anh sẽ một mình cáng đáng hết. Biết là nguy hiểm lắm, nhưng chúng không dễ gì lột được da anh mà không trả giá đắt: anh là tay thiện xạ trong vùng. Bernardo tính toán suốt đem, đến sáng thì kế hoạch hành động đã hình thành.
    Cũng như mọi người trong làng, anh biết các tu sĩ không trực tiếp gặp Mafia. Bọn này chỉ tiếp xúc với Antonio, người làm vườn cho tu viện. Các tu sĩ giao tiền cho anh ta, Mafia sẽ tới nhà anh thu tiền. Vậy thì Bernardo sẽ theo dõi Antonio và từ đây lần ra đường dây Mafia.
    Thời khóa biểu hàng ngày của Antonio rất dễ theo dõi: sáng nào cũng ra khỏi nhà lúc 6 giờ để tới tu viện, 7 giờ tối trở về nhà. Đường đi không xa quá 300 mét. Ngoài ra, anh làm vườn rất ít giao du, gần như chưa lần nào vào làng. Một anh chàng có vẻ chất phác, coi mảnh vườn rau là cả thế giới rồi?
    Tối 9 tháng Tám, Bernardo phục trước tu viện. 7 giờ, thấy rõ Antonio đi ra và về thẳng nhà. Ngay phía đối diện có căn nhà đổ, dùng làm đài quan sát rất tốt. Bernardo vào nấp sau khung cửa sổ, đặt súng trước mặt? Đêm xuống. Anh hồi hộp chờ những bóng đen xuất hiện, nhưng không thấy gì. Trời gần sáng, anh gác rừng trở về nhà.
    Trong mười lăm ngày tiếp theo. Bernardo không rời mắt khỏi anh làm vườn nhưng không kết quả. Mafia đánh hơi thấy rồi chăng? Nhưng chúng vẫn quyên góp đều đều như trước. Gần như mỗi tối lại có một tu sĩ đến tống tiền ai đó trong làng. Tiền vẫn giao cho Antonio như thường lệ. Mafia đợi gì mà không tới lấy?
    Ngày 24 tháng Tám năm 1960. Như mọi bữa, anh gác rừng bám sát Antonio. Đang đi trước Bernardo mấy mét, bất thình lình Antonio quay lại. Bernardo không kịp lẩn tránh.
    - Tớ biết cậu bám đuôi từ mấy bữa nay ?" Anh làm vườn nói ?" Xéo ngay! Còn lảng vảng ở đây, chúng sẽ giết cả cậu và tớ luôn.
    - Chúng là ai? Tớ chẳng thấy có người nào tới đây.
    Antonio vung tay:
    - Chúng ở khắp nơi, nhưng làm sao cậu thấy được. Đi ngay, đừng để bị biến thành thây ma.
    Anh gác rừng không hỏi nữa, bỏ đi thẳng, biết mình sẽ phải làm gì? Mãi khi chỉ còn cách đồn cảnh sát Marazini chừng 500 mét anh mới nhận ra mình đã phạm sai lầm: Phải chạy thật lẹ lên, thay vì đi từ tốn như thế này. Anh cắm đầu lấy đà lao lên, và đúng lúc vửa tới cửa đồn thì một tiếng nổ chát chúa vang lên. Bernardo thấy lưng bị đập rất mạnh, anh ngã vật xuống?
    Khi tỉnh lại, Bernardo nhận ra mình đang nằm dưới nền đồn cảnh sát. Một bác sĩ đang khám vết thương, trung úy chỉ huy đồn cũng có mặt. Trung úy nói nhẹ nhàng:
    - Vết thương không nặng, sẽ qua khỏi thôi. Đừng sợ, chúng tôi sẽ bảo vệ anh khỏi tay Mafia. Lâu nay chúng tôi chưa hành động vì không ai khiếu kiện gì, nhưng giờ đây đã khác rồi.
    Anh gác rừng thấy mình đang kiệt sức. Phải nói ngay những gì mình biết, nếu không sẽ muộn mất. Cố thu hết nghị lực còn lại, anh thều thào:
    - Không phải Mafia? thằng Antonio Bronzini là chủ mưu? Vừa nãy, nó biết tôi đã phát hiện ra nên bám đuôi tôi? Nó bắn tôi, trước đây nó đã bắn chết Giorgio và đốt nhà thuốc. Bắt lấy nó!
    Nói vừa dứt, Bernardo xỉu luôn.
    Trên đường chạy tới nhà gã làm vườn của tu viện, cảnh sát hết sức ngạc nhiên. Antonio mù chữ, dáng vẻ thật thà, chăm chỉ, mà lại là tác giả của kế hoạc kỳ quái này sao? Một kế hoạch bịt mắt cả một tu viện, cả một làng trong nhiều tháng ròng! Một gã trông hiền lành thế, mà lại giết người không ghê tay.
    Khi tới nơi, cảnh sát thấy nhà Antonio trống trơn. Hắn đã bỏ trốn, mang theo vài thứ lặt vặt. Không làm được gì hơn, cảnh sát đành báo động cho tất cả các đồn trên toàn đảo Sicile, nói rõ hung thủ rất nguy hiểm.
    Một lần nữa, nhà chức trách lại đánh giá thấp Antonio Bronzini. Họ tưởng thằng cha đần độn chưa một lần thò mặt ra khỏi làng phen này chỉ lẩn quất đâu đó trên đảo. Thế nhưng cuối cùng người ta tóm được gáy hung thủ ở tận Bergame, miền cực bắc nước Ý. Nó định tậu một căn nhà để ẩn náu tới ngày xuống lỗ.
    Công chứng viên thấy gã nông dân mù chữ mà lại có trong tay những 15 triệu lia tiền mặt bèn mật báo cảnh sát?
    Khi tra tay vào còng số 8, Antonio gật đầu thú tội. Và nói:
    - Ngày mai, tôi sẽ khai hết.
    Sáng hôm sau, cảnh sát thấy nó đã treo cổ lên cửa sổ xà lim tạm giam. Thành thử không ai biết tại sao và bằng cách nào nó nẩy ra ý thực hiện một vụ được coi là kỳ lạ nhất trong lịch sử hình sự của đảo Sicile. Được xếp hạng số một ở nơi xảy ra không ít vụ án li kỳ, kế hoạch tống tiền của Antonio Bronzini quả là vô tiền khoáng hậu!
    Được songtunu sửa chữa / chuyển vào 10:47 ngày 14/04/2004
  4. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    NGƯỜI BÁN XÀ BÔNG
    Truyện ngắn Nga​
    Ngày 16 tháng Mười một năm 1913, Anna Firsova nữ chủ nhân ngôi nhà cho thuê trên đường Letchourov thành phố Saint Pétersbourg tới đồn cảnh sát phường. Người tiếp bà ta, trung úy Boris Yarochenko không hề ngạc nhiên khi thấy Anna. Ngôi nhà khá tồi tàn của bà thường do những người không mấy tử tế thuê mướn làm nơi trú chân. Bà đã tam tứ phen tới đồn trình báo về những kẻ nghi là bất lương hoặc phản loạn chống chế độ Sa hoàng.
    Đặc biệt hôm nay bà Anna tỏ vẻ rất lo lắng.
    - Hắn mướn phòng số 11 từ hai tháng nay. Xưng tên là Muller, quốc tịch Đức, nhưng chắc là người Nga? Bốn ngày nay không thấy thò mặt ra ngoài, nhưng tôi biết chắc hắn có ở trong phòng. Nhiều lần tôi thử mở cửa, nhưng cửa khóa trái.
    Trung úy Boris dẫn hai cảnh sát tới ngay đường Letchourov. Đúng là cửa phòng 11 khóa từ bên trong. Không có cách nào khác, phải phá cửa? Vừa thò mũi vào, các cảnh sát viên đã bị một mùi kinh tởm xộc lên tận óc, trước mắt hiện ra cảnh tượng hãi hùng: trên chiếc giường dơ dáy, nằm thõng thượt cái xác đồ sộ nhưng cụt đầu của một người đàn ông bận comple. Lát sau, một cảnh sát nhìn thấy trong lò bếp cái đầu cháy thành than. Ngoài ra không có dấu vết gì: không giấy tờ tùy thân, không tư trang, không quần áo nào khác ngoài bộ trên thi thể nạn nhân. Rõ ràng hung thủ đã dọn kỹ trước khi tẩu thoát. Và chuồn qua cửa sổ, tụt theo máng xối, nên phòng vẫn khóa trái.
    Trung úy Boris biết mình bị vướng vào một vụ khó gỡ. Theo thói quen nhà nghề, anh nhìn chiếc veston của nạn nhân. Biết đâu đấy, có thể hung thủ quên không gỡ bỏ nhãn hiệu tiệm may. Chuyện này thường hay xảy ra.
    Quả nhiên như thế thật. Trung úy Boris đọc trên túi áo trong dòng chữ: ?oNikitine, thợ may. Saint Pétersbourg?. Trung úy tìm địa chỉ trong sổ rồi lao tới. Nikitine là một ông già, mắt rất tinh tường nhanh nhẹn. Vừa trông thấy chiếc veston trung úy đưa ra, ông già nói ngay:
    - Tôi mới làm cách đây hai tháng thôi. Chờ tôi coi sổ nghe!
    Trong khi bác thợ may lúi húi tra sổ, trung úy Boris cầu trời ông ta đừng tìm phải cái tên Muller, rõ ràng đây là tên giả? Nhưng một lần nữa, may mắn lại mỉm cười với trung úy. Bác Nikitine trở ra, chìa cuốn sổ:
    - Đây rồi, trung úy. Người may bộ đồ này tên Vladimir Yakov, buôn bán xà bông ở Saint Pétersbourg.
    Trung úy phấn khởi rời tiệm may. Sau có vài giờ, cuộc điều tra của anh tiến triển như đi hia bảy dặm. Bây giờ là lúc tìm hiểu kỹ về Yakov, tính cách nhân vật này có khi giúp tìm ra hung thủ.
    Và lần thứ ba này, may mắn lại thuọc về trung úy. Gã Yakov, ba mươi tuổi có tên trong sổ đen của cảnh sát. Hắn đã có tiền án về tội trộm cắp và hành vi trái đạo đức với thanh niên. Hồ sơ có hình nhưng tiếc rằng không có vân tay. Vì hồi lập hồ sơ, chưa có quy tắc phải lấy vân tay.
    Hôm sau, trung úy Yarochenko nhận được biên bản của bác sỹ pháp y, xác nhận các ý tưởng của anh: nạn nhân khoảng ba mươi, không có dấu vết gì đặc biệt ngoài chiếc sẹo nhỏ bên đùi trái? Trung úy triệu bà Valentina Yakov, mẹ người bán xà bông tới văn phòng. Bà mặc đồ đen gần như ngã phịch xuống ghế, rút khăn chấm chấm hai mắt. Trung úy muốn tránh cho bà khỏi cơn thử thách quá nặng nề: tới nhà xác để nhận mặt cái xác không đầu. Vả lại, bà già làm sao nhận ra nổi?
    Anh hỏi:
    - Theo bà, con trai bà có dấu vết gì đặc biệt không?
    Bà Yakov không chần chừ:
    - Có, một vết sẹo trên đùi trái. Tự gây ra từ hồi nhỏ xíu.
    Vậy là không còn nghi ngờ gì nữa. Trung úy Yarochenko ngỏ lời chia buồn cùng bà mẹ khốn khổ. Định hỏi vài câu, nhưng lại thôi, để sau sẽ hỏi. Việc khó khăn nhất đã làm xong, nếu vận may vẫn còn chắc sẽ gỡ ra hết trong thời gian ngắn.
    Nhưng trung úy không ngờ tới những chuyện sẽ xảy ra tiếp. Cho tới giờ, anh toàn gặp may, ít ra là có vẻ may. Từ lúc này trở đi, anh sẽ gặp hết bất ngờ này tới ngạc nhiên khác? Đầu tiên là cuộc viếng thăm của Mikhail Golovine ngay sáng hôm sau.
    Mikhail Golovine nhỏ thó, dáng vẻ tầm thường. Trung úy tiếp ông tại văn phòng sau khi biết ông định nói về vụ Yakov. Ông mở đầu với giọng nhỏ nhẹ:
    - Thưa trung úy, tôi tới để hỏi xem có thể xin một văn bản chính thức chứng nhận nạn nhân đúng là Vladimir Yakov?
    Boris tỏ vẻ ngạc nhiên:
    - Tôi tin chắc như vậy. Sao ông lại hỏi thế?
    Mikhail Golovine vẫn nhỏ nhẹ:
    - Tôi là đại điện công ty bảo hiểm ?oPhượng Hoàng?. Ông thấy đấy, chúng tôi phải có chứng thực đó mới chi tiền. Số tiền rất lớn.
    Trung úy cảm thấy công trình anh xây tưởng là chắc chắn hóa ra lại có vết nứt.
    - Số tiền lớn lắm à?
    - Phải. Cách đây ba tháng, ông Yakov đăng ký bảo hiểm nhân thọ 250.000 rúp, nhân đôi nếu bị chết bất đắc kỳ tử, nghĩa là 500.000 rúp. Người thụ hưởng là bà mẹ, tên Valentina Yakov.
    Đầu óc trung úy rối tung. Phải chăng sự thật lại phức tạp, lại khủng khiếp hơn anh tưởng đến vậy sao? Nạn nhân không phải là người anh đã phát hiện sao? Những tình cờ mà anh cho là vận may: nhãn hiệu trên áo veston, tên người ghi trong sổ? chẳng lẽ chỉ là những dấu vết ngụy tạo đề đánh lạc hướng? Nếu vậy, Yakov không phải là nạn nhân đáng thương mà lại là hung thủ đáng trừng trị? Có lẽ vì vậy nên hung thủ phải chặt đầu nạn nhân và thiêu cháy để phi tang?
    Nhưng bà già Yakov nói trên đùi trái có vết sẹo. Một ý nghĩ khủng khiếp thoáng hiện trong đầu viên trung úy. Không! Đời nào bà ta bịa chuyện để lĩnh 500.000 rúp! Người mẹ khóc thương con thảm thiết như vậy chắc không đang tâm giết con. Nếu thế thì thật quái gở. Nhưng trên đời này vẫn có những quái vật đấy chứ!?
    Dù sao, ngay lúc này trung úy chưa thể nói gì với đại diện công ty bảo hiểm, chỉ tuyên bố ngắn gọn: cuộc điều tra đang tiếp tục.
    Đang tiếp tục, hay đang bắt đầu từ con số không thì đúng hơn. Boris thấy cần hỏi Valentina đôi điều? Bà già ngụ trong căn nhà nhỏ ven đô Saint Pétersbourg. Từ xa, trung úy thấy bà ngồi trên bực cửa. Tự nhiên không hiểu vì sao, anh rón rén nấp sau hàng rào tiến tới gần. Khi biết đã có thể nhìn được rõ, anh dướn người lên đảo mắt và thấy tim giật thót: bà mẹ tội nghiệp vừa tủm tỉm cười. Phải, cười với vẻ khoái trá? Đúng lúc đó thì phát hiện ra Boris, bà già giật mình, rút vội chiếc khăn trong túi. Khi Boris tới bên, mặt bà già đã đầm đìa nước mắt. Bà hỏi trung úy bằng giọng của người hấp hối:
    - Trung úy đã tìm ra hung thủ rồi chứ?
    Boris đáp với giọng cục cằn ngoài ý muốn:
    - Chưa. Kể tôi nghe về bạn bè của con bà:
    Valentina khó nhọc kể:
    - Vladimir kín lắm. Ít chuyện trò với mẹ. Tôi chỉ biết nó thường hay lui tới một phòng tắm hơi kiểu Phần Lan ngay gần nhà nó và kết bạn ở đó?
    Trung úy không khai thác được gì hơn, bỏ về. Trong bụng cảm thấy nhẹ nhõm: hướng điều tra phải thay đổi, Valentina đúng là con quái vật đã giết hoặc có thể đã thuê giết con trai để lĩnh tiền bảo hiểm. Giờ đây, anh phải tìm ra kẻ đã thực thi vụ án mạng ghê tởm này, mụ già Valentina rõ ràng không thể tự tay hành quyết thằng con. Sự tàn nhẫn quái vật dù sao cũng có giới hạn.
    Chủ phòng tắm hơi tỏ vẻ khó chịu ra mặt khi cảnh sát tới.
    - Cơ sở này rất đàng hoàng. Khách của tôi toàn những vị đáng kính trọng.
    Trung úy liếc mắt nhìn qua cơ ngơi tồi tàn, không như chủ nó vừa vỗ ngực khoe. Nhưng anh không quan tâm chuyện này.
    - Kể tôi nghe về Yakov. Ông biết người đó chứ?
    Giám đốc phòng tắm hơi mỉm cười cáo lỗi:
    - Ông ta là khách hàng thật, nhưng tôi khó lòng cung cấp được gì nhiều về ông ấy? Ông Brodski may ra có thể. Hai người thường cùng tới đây một lúc. Mà hình như ông ta hiện đang ở đây.
    Vài phút sau, trung úy Boris gặp Brodski, chừng ba mươi tuổi, rất to con.
    - Vâng, tôi vẫn còn nhớ. Cách nay ba tháng chúng tôi gặp nhau tại đây. Kết bạn với nhau cho tới bữa tôi nổi giận. Vừa tắm xong, Yakov nhìn tôi bằng cặp mắt rất kỳ, rồi bảo: ?oHay thật kìa, thân hình hai chúng mình sao giống nhau như đúc thế này. Nếu chặt cụt đầu, chắc không thể phân biệt nổi?.
    Brodski lúng túng nói tiếp:
    - Tôi nghĩ,,, Yakov có những ý tưởng không lành mạnh, hơn nữa, có vẻ thuộc vào loại? Tôi bảo anh ta đừng bắt chuyện với tôi nữa, và sau đó hình như anh ta không quay lại đây nữa thì phải?
    Giám đốc phòng tắm có vẻ choáng váng khi nghe về vụ đồi phong bại tục xảy ra ngay trong cơ sở của ông ta:
    - Xin cam đoan với trung úy đây là lần đầu tiên tôi nghe có chuyện như vậy?
    Boris bực mình dẹp ngay thói ba hoa của ông chủ. Một lần nữa, phải làm lại từ đâu. Như vậy Yakov không phải là nạn nhân một gã đâm thuê giết mướn do mẹ hắn trả công. Chính hắn đã xuống tay, chính hắn là tên sát nhân quái vật, nó đã rắp tâm bỏ ra nhiều tháng để kiếm ra người có thân hình giống hệt nó.
    - Tuy vẫn có một chi tiết đáng ngờ: chiếc sẹo trên đùi trái. Khó có thể tin có sự trùng hợp kỳ lạ đó. Vậy xác chết không đầu trên đường Letchourov là ai? Là Yakov hay là nạn nhân của Yakov?
    Trung úy Boris chưa tìm được lời giải thì vài ngày sau có một bà già tới xin gặp. Olga Larionova, trạc độ ngũ tuần, khá mau mồm miệng:
    - Thưa trung úy, tôi rất lo. Về thằng cháu Ivan Laronov, mồ côi bố mẹ. Tôi là dì nó, góa chồng, là người thân độc nhất của nó. Tôi cư ngụ tại Matxcova. Ở Thủ đô đầy rẫy người ngoại quốc, mà thằng Ivan nhà tôi lại quá tin họ.
    Trung úy cố gắng sắp xếp trật tự cho mớ ngôn từ đang cuồn cuộn tuôn ra:
    - Khoan đã, cháu bà bao nhiêu tuổi?
    - Hăm tám, thưa trung úy.
    - Bà gặp lần mới nhất hồi nào?
    - Cách đây ba tháng. Cháu tôi nói đi Saint Pétersbourg rồi bặt tin luôn? Tôi lo xa quá. Mà lại nhận được lá thư này nữa, càng lo dữ?
    - Thư gì, thưa bà?
    Bà khách rút trong xắc tay chiếc bì thư dán tem dày đặc:
    - Thư tới đúng ngày tôi rời khỏi Matxcova. Gửi đi từ Paris. Viết về khoản tiền gì vậy?
    Trung úy không đáp, mở ra đọc:
    ?oThưa dì kính mến,
    Cháu tới Paris nhận món tài sản được thừa kế do bố cháu gửi ngân hàng, như dì đã biết. Để cháu được nhận quyền sở hữu hợp pháp, mong dì vui lòng cho cháu một bản trích lý lịch kèm một bản sao tờ di chúc của bố cháu.
    Cháu yêu của dì. Ivan?

    Trung úy Boris đăm chiêu suy nghĩ.
    - Bà nhận đúng là chữ cháu bà chứ?
    Olga vội đáp:
    - Kể ra thì cũng giông giống. Nhưng nó không bao giờ nói với tôi ?oCháu yêu của dì?? Mấy lại cần gì phải viết ?oNhư dì đã biết?? Dĩ nhiên tôi phải biết rõ ông anh tôi qua đời ở Paris?
    Trung úy thấy chỉ còn một câu hỏi:
    - Bà có thấy cháu bà có vết sẹo trên đùi trái không?
    Bà Olga Larionova không do dự:
    - Có. Hồi bảy tuổi nó bị thủng đùi khi trèo cây.
    Trung úy Boris thở dài:
    - Tôi rất buồn, thưa bà. E rằng cháu bà không còn sống trên đời này nữa?
    Gương mặt bà Olga như chàm đổ. Giọng nghẹn ngào:
    - Phải bắt tên giết người.
    Boris rắn rỏi đáp:
    - Vâng. Mong bà sẽ tiếp tay. Bà gửi ngay tới Paris những giấy tờ nó đòi. Mọi việc để tôi lo.
    Trung úy tức tốc đi gặp các sếp. Các quan chức Bộ Nội vụ thấy ngay tầm quan trọng của vụ án. Họ liên lạc ngay với các quan chức Pháp và nhận được lời cam kết cộng tác. Trung úy Boris Yarochenko được cử sang Paris theo dõi cuộc điều tra?
    Olga gửi mọi giấy tờ sang Paris theo cách lưu ký, đúng như kế hoạch của trung úy. Vì vậy, Boris cùng các đồng nghiệp người Pháp bí mật phục trước phòng bưu điện trung tâm trên đường Louvre. Anh có trong tay tấm hình Vladimir Yakov?
    Họ chờ ba ngày ròng rã? cuối cùng, gã bán xà bông thành Saint Pétersbourg xuất hiện. Nhắm loại trừ mọi vấn đề có thể còn tồn tại, trung úy Boris chờ tới lúc nó đến cửa ghise nhận lá thư vào tay mới tới tóm cổ. Nó phản đối quyết liệt:
    - Tôi là Ivan Laronov. Ông muốn gì?
    Lúc trông thấy tấm hình trên tay trung úy, nó biết mình thua rồi. Mấy phút sau Vladimir Yakov khai trong đồn cảnh sát trên đường Louvre:
    - Tôi cần tiền. Nghĩ ra cách giết ai đó nhưng giả làm như người bị giết là tôi. Trước đó tôi đăng ký bảo hiểm để bà già lĩnh. Lần thứ nhất. định thử với thằng cha gặp tại phòng tắm hơi nhưng nó tỏ vẻ đề phòng. Sau đó tôi gặp Ivan Laronov trong quán café. Tôi thấy ngay nó rất ngây ngô, nhất là lại giống tôi y hệt về thân hình.
    Yakov ngưng một lát trước khi tả lại lúc nó xuống tay giết Ivan.
    - Một buổi chiều, tôi đổ votka cho nó uống trong phòng tôi. Sau một giờ nó xỉn như chết, vì không biết uống rượu. Tôi cứa cổ, rồi?
    Hung thủ ngưng bặt, rồi khai tiếp:
    - Tôi mặc cho Ivan bộ đồ của tôi. Kiểm tra kỹ trên ngựời nó có dấu vết gì đặc biệt không, và phát hiện vết sẹo trên đùi trái. Khi rời phòng, tôi tời gặp bà già nói rõ chi tiết đó, như vậy khỏi ai nghi ngờ khi nhận dạng xác chết.
    Giờ đây nội vụ đã sáng tỏ. Mụ già Yakov đồng lõa với thằng con giết người. Vì thế nên Boris mới bắt gặp mụ mỉm cười, nụ cười từ 500.000 rúp do án mạng mang về cho chúng.
    Vladimir Yakov kết thúc lời khai:
    - Ivan Laronov đã có lần kể với tôi về khoản thừa kế đang chờ nó ở Paris. Tôi muốn bắn một phát hạ hai con mồi. Sai lầm! Đáng lẽ chỉ nên bằng lòng với khoảng tiển bảo hiểm?
    Trung úy Boris Yarochenko chia tay các đồng nghiệp Pháp, phần việc còn lại do người Pháp giải quyết tiếp. Anh chỉ còn một nhiệm vụ cuối cùng: trở về Saint Pétersbourg tóm gáy mẹ Yakov.
    Một tuần sau khi hoàn tất công vụ, trung úy Boris Yarochenko đã tưởng thế là xong, không ngờ lại có thêm việc mới: báo cho Valentina Yakov biết tin con trai mụ đã tự sát ngay đêm bị bắt, bằng cách nuốt chửng món hàng mẫu mới nhất của nó: một cục xà bông, bên trong gã giấu sẵn một ống cyanure.
  5. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    NGƯỜI BÁN XÀ BÔNG
    Truyện ngắn Nga​
    Ngày 16 tháng Mười một năm 1913, Anna Firsova nữ chủ nhân ngôi nhà cho thuê trên đường Letchourov thành phố Saint Pétersbourg tới đồn cảnh sát phường. Người tiếp bà ta, trung úy Boris Yarochenko không hề ngạc nhiên khi thấy Anna. Ngôi nhà khá tồi tàn của bà thường do những người không mấy tử tế thuê mướn làm nơi trú chân. Bà đã tam tứ phen tới đồn trình báo về những kẻ nghi là bất lương hoặc phản loạn chống chế độ Sa hoàng.
    Đặc biệt hôm nay bà Anna tỏ vẻ rất lo lắng.
    - Hắn mướn phòng số 11 từ hai tháng nay. Xưng tên là Muller, quốc tịch Đức, nhưng chắc là người Nga? Bốn ngày nay không thấy thò mặt ra ngoài, nhưng tôi biết chắc hắn có ở trong phòng. Nhiều lần tôi thử mở cửa, nhưng cửa khóa trái.
    Trung úy Boris dẫn hai cảnh sát tới ngay đường Letchourov. Đúng là cửa phòng 11 khóa từ bên trong. Không có cách nào khác, phải phá cửa? Vừa thò mũi vào, các cảnh sát viên đã bị một mùi kinh tởm xộc lên tận óc, trước mắt hiện ra cảnh tượng hãi hùng: trên chiếc giường dơ dáy, nằm thõng thượt cái xác đồ sộ nhưng cụt đầu của một người đàn ông bận comple. Lát sau, một cảnh sát nhìn thấy trong lò bếp cái đầu cháy thành than. Ngoài ra không có dấu vết gì: không giấy tờ tùy thân, không tư trang, không quần áo nào khác ngoài bộ trên thi thể nạn nhân. Rõ ràng hung thủ đã dọn kỹ trước khi tẩu thoát. Và chuồn qua cửa sổ, tụt theo máng xối, nên phòng vẫn khóa trái.
    Trung úy Boris biết mình bị vướng vào một vụ khó gỡ. Theo thói quen nhà nghề, anh nhìn chiếc veston của nạn nhân. Biết đâu đấy, có thể hung thủ quên không gỡ bỏ nhãn hiệu tiệm may. Chuyện này thường hay xảy ra.
    Quả nhiên như thế thật. Trung úy Boris đọc trên túi áo trong dòng chữ: ?oNikitine, thợ may. Saint Pétersbourg?. Trung úy tìm địa chỉ trong sổ rồi lao tới. Nikitine là một ông già, mắt rất tinh tường nhanh nhẹn. Vừa trông thấy chiếc veston trung úy đưa ra, ông già nói ngay:
    - Tôi mới làm cách đây hai tháng thôi. Chờ tôi coi sổ nghe!
    Trong khi bác thợ may lúi húi tra sổ, trung úy Boris cầu trời ông ta đừng tìm phải cái tên Muller, rõ ràng đây là tên giả? Nhưng một lần nữa, may mắn lại mỉm cười với trung úy. Bác Nikitine trở ra, chìa cuốn sổ:
    - Đây rồi, trung úy. Người may bộ đồ này tên Vladimir Yakov, buôn bán xà bông ở Saint Pétersbourg.
    Trung úy phấn khởi rời tiệm may. Sau có vài giờ, cuộc điều tra của anh tiến triển như đi hia bảy dặm. Bây giờ là lúc tìm hiểu kỹ về Yakov, tính cách nhân vật này có khi giúp tìm ra hung thủ.
    Và lần thứ ba này, may mắn lại thuọc về trung úy. Gã Yakov, ba mươi tuổi có tên trong sổ đen của cảnh sát. Hắn đã có tiền án về tội trộm cắp và hành vi trái đạo đức với thanh niên. Hồ sơ có hình nhưng tiếc rằng không có vân tay. Vì hồi lập hồ sơ, chưa có quy tắc phải lấy vân tay.
    Hôm sau, trung úy Yarochenko nhận được biên bản của bác sỹ pháp y, xác nhận các ý tưởng của anh: nạn nhân khoảng ba mươi, không có dấu vết gì đặc biệt ngoài chiếc sẹo nhỏ bên đùi trái? Trung úy triệu bà Valentina Yakov, mẹ người bán xà bông tới văn phòng. Bà mặc đồ đen gần như ngã phịch xuống ghế, rút khăn chấm chấm hai mắt. Trung úy muốn tránh cho bà khỏi cơn thử thách quá nặng nề: tới nhà xác để nhận mặt cái xác không đầu. Vả lại, bà già làm sao nhận ra nổi?
    Anh hỏi:
    - Theo bà, con trai bà có dấu vết gì đặc biệt không?
    Bà Yakov không chần chừ:
    - Có, một vết sẹo trên đùi trái. Tự gây ra từ hồi nhỏ xíu.
    Vậy là không còn nghi ngờ gì nữa. Trung úy Yarochenko ngỏ lời chia buồn cùng bà mẹ khốn khổ. Định hỏi vài câu, nhưng lại thôi, để sau sẽ hỏi. Việc khó khăn nhất đã làm xong, nếu vận may vẫn còn chắc sẽ gỡ ra hết trong thời gian ngắn.
    Nhưng trung úy không ngờ tới những chuyện sẽ xảy ra tiếp. Cho tới giờ, anh toàn gặp may, ít ra là có vẻ may. Từ lúc này trở đi, anh sẽ gặp hết bất ngờ này tới ngạc nhiên khác? Đầu tiên là cuộc viếng thăm của Mikhail Golovine ngay sáng hôm sau.
    Mikhail Golovine nhỏ thó, dáng vẻ tầm thường. Trung úy tiếp ông tại văn phòng sau khi biết ông định nói về vụ Yakov. Ông mở đầu với giọng nhỏ nhẹ:
    - Thưa trung úy, tôi tới để hỏi xem có thể xin một văn bản chính thức chứng nhận nạn nhân đúng là Vladimir Yakov?
    Boris tỏ vẻ ngạc nhiên:
    - Tôi tin chắc như vậy. Sao ông lại hỏi thế?
    Mikhail Golovine vẫn nhỏ nhẹ:
    - Tôi là đại điện công ty bảo hiểm ?oPhượng Hoàng?. Ông thấy đấy, chúng tôi phải có chứng thực đó mới chi tiền. Số tiền rất lớn.
    Trung úy cảm thấy công trình anh xây tưởng là chắc chắn hóa ra lại có vết nứt.
    - Số tiền lớn lắm à?
    - Phải. Cách đây ba tháng, ông Yakov đăng ký bảo hiểm nhân thọ 250.000 rúp, nhân đôi nếu bị chết bất đắc kỳ tử, nghĩa là 500.000 rúp. Người thụ hưởng là bà mẹ, tên Valentina Yakov.
    Đầu óc trung úy rối tung. Phải chăng sự thật lại phức tạp, lại khủng khiếp hơn anh tưởng đến vậy sao? Nạn nhân không phải là người anh đã phát hiện sao? Những tình cờ mà anh cho là vận may: nhãn hiệu trên áo veston, tên người ghi trong sổ? chẳng lẽ chỉ là những dấu vết ngụy tạo đề đánh lạc hướng? Nếu vậy, Yakov không phải là nạn nhân đáng thương mà lại là hung thủ đáng trừng trị? Có lẽ vì vậy nên hung thủ phải chặt đầu nạn nhân và thiêu cháy để phi tang?
    Nhưng bà già Yakov nói trên đùi trái có vết sẹo. Một ý nghĩ khủng khiếp thoáng hiện trong đầu viên trung úy. Không! Đời nào bà ta bịa chuyện để lĩnh 500.000 rúp! Người mẹ khóc thương con thảm thiết như vậy chắc không đang tâm giết con. Nếu thế thì thật quái gở. Nhưng trên đời này vẫn có những quái vật đấy chứ!?
    Dù sao, ngay lúc này trung úy chưa thể nói gì với đại diện công ty bảo hiểm, chỉ tuyên bố ngắn gọn: cuộc điều tra đang tiếp tục.
    Đang tiếp tục, hay đang bắt đầu từ con số không thì đúng hơn. Boris thấy cần hỏi Valentina đôi điều? Bà già ngụ trong căn nhà nhỏ ven đô Saint Pétersbourg. Từ xa, trung úy thấy bà ngồi trên bực cửa. Tự nhiên không hiểu vì sao, anh rón rén nấp sau hàng rào tiến tới gần. Khi biết đã có thể nhìn được rõ, anh dướn người lên đảo mắt và thấy tim giật thót: bà mẹ tội nghiệp vừa tủm tỉm cười. Phải, cười với vẻ khoái trá? Đúng lúc đó thì phát hiện ra Boris, bà già giật mình, rút vội chiếc khăn trong túi. Khi Boris tới bên, mặt bà già đã đầm đìa nước mắt. Bà hỏi trung úy bằng giọng của người hấp hối:
    - Trung úy đã tìm ra hung thủ rồi chứ?
    Boris đáp với giọng cục cằn ngoài ý muốn:
    - Chưa. Kể tôi nghe về bạn bè của con bà:
    Valentina khó nhọc kể:
    - Vladimir kín lắm. Ít chuyện trò với mẹ. Tôi chỉ biết nó thường hay lui tới một phòng tắm hơi kiểu Phần Lan ngay gần nhà nó và kết bạn ở đó?
    Trung úy không khai thác được gì hơn, bỏ về. Trong bụng cảm thấy nhẹ nhõm: hướng điều tra phải thay đổi, Valentina đúng là con quái vật đã giết hoặc có thể đã thuê giết con trai để lĩnh tiền bảo hiểm. Giờ đây, anh phải tìm ra kẻ đã thực thi vụ án mạng ghê tởm này, mụ già Valentina rõ ràng không thể tự tay hành quyết thằng con. Sự tàn nhẫn quái vật dù sao cũng có giới hạn.
    Chủ phòng tắm hơi tỏ vẻ khó chịu ra mặt khi cảnh sát tới.
    - Cơ sở này rất đàng hoàng. Khách của tôi toàn những vị đáng kính trọng.
    Trung úy liếc mắt nhìn qua cơ ngơi tồi tàn, không như chủ nó vừa vỗ ngực khoe. Nhưng anh không quan tâm chuyện này.
    - Kể tôi nghe về Yakov. Ông biết người đó chứ?
    Giám đốc phòng tắm hơi mỉm cười cáo lỗi:
    - Ông ta là khách hàng thật, nhưng tôi khó lòng cung cấp được gì nhiều về ông ấy? Ông Brodski may ra có thể. Hai người thường cùng tới đây một lúc. Mà hình như ông ta hiện đang ở đây.
    Vài phút sau, trung úy Boris gặp Brodski, chừng ba mươi tuổi, rất to con.
    - Vâng, tôi vẫn còn nhớ. Cách nay ba tháng chúng tôi gặp nhau tại đây. Kết bạn với nhau cho tới bữa tôi nổi giận. Vừa tắm xong, Yakov nhìn tôi bằng cặp mắt rất kỳ, rồi bảo: ?oHay thật kìa, thân hình hai chúng mình sao giống nhau như đúc thế này. Nếu chặt cụt đầu, chắc không thể phân biệt nổi?.
    Brodski lúng túng nói tiếp:
    - Tôi nghĩ,,, Yakov có những ý tưởng không lành mạnh, hơn nữa, có vẻ thuộc vào loại? Tôi bảo anh ta đừng bắt chuyện với tôi nữa, và sau đó hình như anh ta không quay lại đây nữa thì phải?
    Giám đốc phòng tắm có vẻ choáng váng khi nghe về vụ đồi phong bại tục xảy ra ngay trong cơ sở của ông ta:
    - Xin cam đoan với trung úy đây là lần đầu tiên tôi nghe có chuyện như vậy?
    Boris bực mình dẹp ngay thói ba hoa của ông chủ. Một lần nữa, phải làm lại từ đâu. Như vậy Yakov không phải là nạn nhân một gã đâm thuê giết mướn do mẹ hắn trả công. Chính hắn đã xuống tay, chính hắn là tên sát nhân quái vật, nó đã rắp tâm bỏ ra nhiều tháng để kiếm ra người có thân hình giống hệt nó.
    - Tuy vẫn có một chi tiết đáng ngờ: chiếc sẹo trên đùi trái. Khó có thể tin có sự trùng hợp kỳ lạ đó. Vậy xác chết không đầu trên đường Letchourov là ai? Là Yakov hay là nạn nhân của Yakov?
    Trung úy Boris chưa tìm được lời giải thì vài ngày sau có một bà già tới xin gặp. Olga Larionova, trạc độ ngũ tuần, khá mau mồm miệng:
    - Thưa trung úy, tôi rất lo. Về thằng cháu Ivan Laronov, mồ côi bố mẹ. Tôi là dì nó, góa chồng, là người thân độc nhất của nó. Tôi cư ngụ tại Matxcova. Ở Thủ đô đầy rẫy người ngoại quốc, mà thằng Ivan nhà tôi lại quá tin họ.
    Trung úy cố gắng sắp xếp trật tự cho mớ ngôn từ đang cuồn cuộn tuôn ra:
    - Khoan đã, cháu bà bao nhiêu tuổi?
    - Hăm tám, thưa trung úy.
    - Bà gặp lần mới nhất hồi nào?
    - Cách đây ba tháng. Cháu tôi nói đi Saint Pétersbourg rồi bặt tin luôn? Tôi lo xa quá. Mà lại nhận được lá thư này nữa, càng lo dữ?
    - Thư gì, thưa bà?
    Bà khách rút trong xắc tay chiếc bì thư dán tem dày đặc:
    - Thư tới đúng ngày tôi rời khỏi Matxcova. Gửi đi từ Paris. Viết về khoản tiền gì vậy?
    Trung úy không đáp, mở ra đọc:
    ?oThưa dì kính mến,
    Cháu tới Paris nhận món tài sản được thừa kế do bố cháu gửi ngân hàng, như dì đã biết. Để cháu được nhận quyền sở hữu hợp pháp, mong dì vui lòng cho cháu một bản trích lý lịch kèm một bản sao tờ di chúc của bố cháu.
    Cháu yêu của dì. Ivan?

    Trung úy Boris đăm chiêu suy nghĩ.
    - Bà nhận đúng là chữ cháu bà chứ?
    Olga vội đáp:
    - Kể ra thì cũng giông giống. Nhưng nó không bao giờ nói với tôi ?oCháu yêu của dì?? Mấy lại cần gì phải viết ?oNhư dì đã biết?? Dĩ nhiên tôi phải biết rõ ông anh tôi qua đời ở Paris?
    Trung úy thấy chỉ còn một câu hỏi:
    - Bà có thấy cháu bà có vết sẹo trên đùi trái không?
    Bà Olga Larionova không do dự:
    - Có. Hồi bảy tuổi nó bị thủng đùi khi trèo cây.
    Trung úy Boris thở dài:
    - Tôi rất buồn, thưa bà. E rằng cháu bà không còn sống trên đời này nữa?
    Gương mặt bà Olga như chàm đổ. Giọng nghẹn ngào:
    - Phải bắt tên giết người.
    Boris rắn rỏi đáp:
    - Vâng. Mong bà sẽ tiếp tay. Bà gửi ngay tới Paris những giấy tờ nó đòi. Mọi việc để tôi lo.
    Trung úy tức tốc đi gặp các sếp. Các quan chức Bộ Nội vụ thấy ngay tầm quan trọng của vụ án. Họ liên lạc ngay với các quan chức Pháp và nhận được lời cam kết cộng tác. Trung úy Boris Yarochenko được cử sang Paris theo dõi cuộc điều tra?
    Olga gửi mọi giấy tờ sang Paris theo cách lưu ký, đúng như kế hoạch của trung úy. Vì vậy, Boris cùng các đồng nghiệp người Pháp bí mật phục trước phòng bưu điện trung tâm trên đường Louvre. Anh có trong tay tấm hình Vladimir Yakov?
    Họ chờ ba ngày ròng rã? cuối cùng, gã bán xà bông thành Saint Pétersbourg xuất hiện. Nhắm loại trừ mọi vấn đề có thể còn tồn tại, trung úy Boris chờ tới lúc nó đến cửa ghise nhận lá thư vào tay mới tới tóm cổ. Nó phản đối quyết liệt:
    - Tôi là Ivan Laronov. Ông muốn gì?
    Lúc trông thấy tấm hình trên tay trung úy, nó biết mình thua rồi. Mấy phút sau Vladimir Yakov khai trong đồn cảnh sát trên đường Louvre:
    - Tôi cần tiền. Nghĩ ra cách giết ai đó nhưng giả làm như người bị giết là tôi. Trước đó tôi đăng ký bảo hiểm để bà già lĩnh. Lần thứ nhất. định thử với thằng cha gặp tại phòng tắm hơi nhưng nó tỏ vẻ đề phòng. Sau đó tôi gặp Ivan Laronov trong quán café. Tôi thấy ngay nó rất ngây ngô, nhất là lại giống tôi y hệt về thân hình.
    Yakov ngưng một lát trước khi tả lại lúc nó xuống tay giết Ivan.
    - Một buổi chiều, tôi đổ votka cho nó uống trong phòng tôi. Sau một giờ nó xỉn như chết, vì không biết uống rượu. Tôi cứa cổ, rồi?
    Hung thủ ngưng bặt, rồi khai tiếp:
    - Tôi mặc cho Ivan bộ đồ của tôi. Kiểm tra kỹ trên ngựời nó có dấu vết gì đặc biệt không, và phát hiện vết sẹo trên đùi trái. Khi rời phòng, tôi tời gặp bà già nói rõ chi tiết đó, như vậy khỏi ai nghi ngờ khi nhận dạng xác chết.
    Giờ đây nội vụ đã sáng tỏ. Mụ già Yakov đồng lõa với thằng con giết người. Vì thế nên Boris mới bắt gặp mụ mỉm cười, nụ cười từ 500.000 rúp do án mạng mang về cho chúng.
    Vladimir Yakov kết thúc lời khai:
    - Ivan Laronov đã có lần kể với tôi về khoản thừa kế đang chờ nó ở Paris. Tôi muốn bắn một phát hạ hai con mồi. Sai lầm! Đáng lẽ chỉ nên bằng lòng với khoảng tiển bảo hiểm?
    Trung úy Boris Yarochenko chia tay các đồng nghiệp Pháp, phần việc còn lại do người Pháp giải quyết tiếp. Anh chỉ còn một nhiệm vụ cuối cùng: trở về Saint Pétersbourg tóm gáy mẹ Yakov.
    Một tuần sau khi hoàn tất công vụ, trung úy Boris Yarochenko đã tưởng thế là xong, không ngờ lại có thêm việc mới: báo cho Valentina Yakov biết tin con trai mụ đã tự sát ngay đêm bị bắt, bằng cách nuốt chửng món hàng mẫu mới nhất của nó: một cục xà bông, bên trong gã giấu sẵn một ống cyanure.
  6. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    MẸO THÁM TỬ TƯ
    Truyện ngắn Úc​
    Trung úy cảnh sát của thành phố Sydney bên nước Úc bữa nay rất hài lòng: anh vừa hoàn tất rất nhanh lẹ một cuộc điều tra khó khăn. Cách đây hơn ba hôm, ngày 6 tháng Hai năm 1960 trong phường anh xảy ra một vụ án mạng. Bà Peggy Marshall năm mươi lăm tuổi, vợ ông chủ ngân hàng Nick Marshall bị chết ngạt dưới chiếc gối bông, ngay trong gian phòng lộng lẫy của bà tại số 1136 đường Hoàng Hậu.
    Nửa đêm đó, ông chồng đi làm về thì phát hiện sự việc. Hơn nữa, chính ông đã chạm trán hung thủ. Lúc ông bước vào vườn nhà, bất chợt một gã đàn ông xô vào ông rồi bỏ chạy. Vào được trong phòng bà vợ thì ôi thôi, mọi sự đã rồi. Bà đã tắt thở. Toàn bộ nữ trang để trong tráp gỗ đặt trên mặt bàn ngủ đã không cánh mà bay.
    Không tới ba ngày sau hung thủ đã bị bắt giữ. Người chủ tiệm kim hoàn thấy anh ta gạ bán nhiều nữ trang quý giá đã tố giác. Cảnh sát chỉ việc tới lôi đi?
    Bước vào văn phòng trung úy Clark là Francis Barber khoảng hăm lăm, tóc hung bốc lửa, hai tay đeo còng. Anh ta cười gằn hỏi sĩ quan cảnh sát:
    - Lão chủ tiệm đồ vàng cũ tố giác, hử?
    Trung úy Clark nhún vai:
    - Ông ta không muốn dính dấp vào án mạng.
    Thái độ Francis đột ngột thay đổi hẳn:
    - Án mạng nào? Chuyện gì kỳ cục vậy?
    Trung úy hơi gắt:
    - Vụ giết bà Peggy Marshall chứ còn vụ nào nữa?
    Nghe chưa dứt lời, da mặt Francis đã xám ngoét:
    - Không đúng! Tôi không giết!
    Viên cảnh sát nhìn gã, vẻ ranh mãnh:
    - Tất nhiên, hẳn là thế? Tự bà ta chết ngạt vì chúi đầu vào cái gối trong lúc anh mải chôm nữ trang của bà? Tắt cái trò gạt gẫm trẻ con đó đi, Francis. Chính anh lấy những nữ trang đó, lát nữa chồng nạn nhân sẽ tới nhận mặt anh? Tốt hơn hết là hãy thú nhận ngay?
    Francis Barber nhảy bật trên ghế:
    - Xin thề độc, tôi không giết người. Để tôi kể ông nghe. Biết nhà Marshall giầu có, tôi lập kế hoạch lẻn vào. Tưởng bữa đó nhà vắng người, dè đâu khi vào lại thấy bà ta nằm ngủ trên giường. Tráp nữ trang đặt tên bàn đầu giường. Tôi lẹ tay lấy hết không làm bà ta tỉnh giấc? Đúng lúc có tiếng xe hơi vừa dừng ngoài cổng. Ông chồng đi làm về. Tôi vội chạy ra. Tông phải ông ta ngoài vườn? Thưa trung úy, xin thề sự việc đúng như vậy.
    Trung úy Clark không đáp. Nhân viên vào báo ông Nick vừa tới. Trung úy ra lệnh mời vào ngay. Vừa trông thấy Francis, chủ ngân hàng reo to:
    - Nó đấy! Đúng nó. Tóc hung hung đỏ. Không lẫn vào đâu được!
    Trung úy quay sang nhìn Francis:
    - Thế nào? Còn chối nữa không?
    Chàng trai giẫy nẩy:
    - Tôi cũng nhận ra ngay ông Marshall. Tôi chạy vội nên tông phải ông ngoài vườn. Tôi có chối đâu! Không chối tội ăn trộm. Nhưng tôi không giết vợ ông này. Thề có Chúa chứng giám!
    Tháng Mười một năm 1980, đứng trước tòa Francis vẫn một mực thề mình vô tội. Trộm cắp thì có, giết người thì không đời nào. Nhưng bằng chứng buộc tội lại rất xác đáng: đồ nữ trang, lời khai của Nick Marshall thừa nhận đúng là gã?
    Ngay luật sư bào chữa cho Francis cũng tránh né không nói nhiều về nội vụ. Ông nhấn mạnh tới tuổi niên thiếu bất hạnh của thân chủ. Bố bỏ đi khi còn rất nhỏ. Mẹ nuôi dạy trong những điểu kiện khốn khó. Hơn nữa, hồi bé đã bị chấn thương sợ não nặng vì té ngã? Vì vậy, đáng được tòa khoan hồng?
    Quả nhiên tòa kết luận Francis phạm tội nhưng do quá khứ như vậy nên được hưởng những tình tiết giảm nhẹ. Do đó, chỉ bị phạt mười lăm năm tù giam.
    Trước khi bị giải đi, Francis kêu lần chót:
    - Tôi vô tội! Tôi không giết bà Marshall
    Trong phòng xử, một bà mới trạc tuổi ngũ tuần nhưng trông già trước tuổi quay sang người ngồi kế bên:
    - Tôi biết tính thằng nhỏ. Nó la lên vậy là nó bị oan thật? Trong những việc quan trọng, không bao giờ nó nói dối. Tôi tự tôi sẽ chứng minh nó vô tội!.
    Kite Barber, mẹ của Francis rời công thự Tòa án Sydney. Bước chân vẫn vững vàng không mảy may run rẩy. Bản án giáng lên đầu thằng con không làm bà gục ngã. Trái lại, bà cảm thấy mình có một sức mạnh không ngờ . Và biết rõ cần phải làm gì?
    Vài ngày sau bà Kite Barber,vào ngồi trên chiếc ghế trong phòng đợi của nhà thám tử tư trứ danh. Lúc này bà mới hơi run run. Trong chiếc xắc tay đặt trên đùi có 1.000 đôla, tiền vừa bán chiếc trâm hồng ngọc của mẹ bà để lại. Vật quý duy nhất bà có được và thề không bao giờ rời xa.
    Mới đây, đọc báo bà được biết nhà thám tử George vừa giải quyết rất tài tình một vụ tranh chấp thừa kế rất phức tạp. Bà đặt hết hy vọng vào ông này.
    Vài phút sau, ngồi trong văn phòng bề thế trang bị cực kỳ hiện đại của thám tử, bà Kite rụt rè trình bày vụ việc.
    - Tôi hiểu rõ con tôi. Từ hồi 17 tuổi nó đã bắt đầu chôm chỉa vì không sao kiểm nổi việc làm? Mà tôi thì làm sao chạy cho đủ mà nuôi con. Đâu phải lúc nào cũng có người thuê mướn giúp việc nhà cho họ? Quả tình cháu nó có bị bắt giữ nhiều lần, có ngồi tù một ít thật, nhưng nó không bao giờ giết người?
    Kite Barber thò tay vào xắc lấy xấp 1.000 đô:
    - Tôi van ông, ông thám tử, xin ông tìm ra thủ phạm cho! Tôi chỉ có bấy nhiêu, nếu chưa đủ, tôi sẽ làm việc đến hơi thở cuối cùng để trả tiền cho ông?
    George Higgins phác một cử chỉ tỏ ý không nhận.
    - Bà Kite Barber, mong bà giữ số tiền này. Nó có ích cho bà hơn cho tôi. Tôi sẽ làm việc giúp bà, miễn phí. Trường hợp của con bà khiến tôi quan tâm. Đọc tường thuật của các báo, tôi cũng cho rằng thái độ của con bà không giống thái độ của một kẻ phạm tội.
    Ông cắt ngang mọi biểu thị nồng nhiệt của Kate.
    - Xin đừng cảm ơn. Theo một ý nghĩa nào đó, tôi cũng có lợi. Thành công trong vụ này sẽ là một màn quảng cáo rất ăn khách cho công việc của tôi.
    Ông nói tiếp:
    - Bà biết không, tôi đã có đầu mối cần tìm rồi. Lâu nay vẫn tự hỏi tại sao cảnh sát không điều tra người chồng. Vậy tôi sẽ làm chuyện đó.
    Hiếm khi công việc của George Higgins lại mau lẹ và có hiệu suất cao như vậy. Chưa hết một tuần, ông đã nắm được nhiều điều đáng quan tâm xung quanh nhân vật Nick Marshall. Điều trước tiên: gia sản khổng lồ ông ta đang nắm do bà vợ gây dựng nên chứ không do công sức ông ta. Năm 1948, ông cưới Peggy, con của một đôi vợ chồng chủ trại cực kỳ giàu có. Nick bắt đầu nhảy vào kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng nhờ tiền của bố mẹ vợ. Chưa hết. Qua theo dõi Nick, thám tử phát hiện ông ta có nhân tình, một cô có tên Olivia Bedford hăm tám tuổi, nguyên là thư ký riêng của ông ta, hiện đang được bao trong căn hộ lộng lẫy ở Sydney.
    Đáng lẽ những việc này phải do cảnh sát tiến hành nhưng họ không nghĩ ra. George nói thẳng với trung úy Clark nhận xét của ông. Ông vốn đã từng là cảnh sát, nay vẫn giữ quan hệ tốt với đồng nghiệp cũ.
    - Có bồ nhí, nhưng vướng bà vợ đang về già. Li dị thì mất hết. Đây không phải là động cơ gây án sao, trung úy?
    Trung úy Clark lắng nghe rất chăm chú tất cả những phát hiện của viên thám tử tư. Và thấy cần thanh minh:
    - Thú thật là tôi không nghĩ tới chuyện điều tra người chồng. Vì cho rằng tội của Francis đã sờ sờ ra đó. Nào ngờ lại có chuyện quái quỷ đến thế!
    George gật gù:
    - Đúng một tuyệt tác của kẻ lòng lang dạ thú. Sau khi bị Francis tông ngoài vườn. Nick chạy vội vào nhà và thấy vợ đang ngủ say. Nữ trang trên bàn không còn. Một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu hắn: Phải chớp lấy thời cơ duy nhất này. Hắn vơ gối, đè Peggy ngạt thở. Hung thủ dĩ nhiên sẽ là tên trộm, bị chủ nhà bất chợt thức giấc trông thấy. Một án mạng kiểu này thật không thể từ chối thực hiện!
    - Dĩ nhiên. Nhưng dị bản kia rất đáng chú ý: Francis cũng có thể là thủ phạm.
    - Anh hoàn toàn có lý. Chính tôi cũng chưa tin hẳn chuyện Nick giết vợ. Nhưng cần có một cách khám phá ra sự thật. Có điều là? có thể tôi sẽ cần tới thái độ trung lập có thiện cảm của anh, và có khi còn cần được mấy anh tiếp tay nữa. Bởi lẽ? cách của tôi thật ra không chính thống lắm.
    George trình bày kế hoạch. Lát sau ông ra về, yên chí sẽ được cảnh sát hỗ trợ. Cuộc điều tra theo cung cách hơi đặc biệt của ông sắp bắt đầu. Ngay bữa đó, ông gọi tới nhà chủ ngân hàng.
    - Chào ông Marshall? xin phép không xưng tên tôi. Tôi có áp phe cần bàn với ông.
    George cảm thấy người đối thoại hình như định gác máy, vội tiếp:
    - Tôi gọi điện cho ông về chuyện Bedford?
    Im lặng ở đầu dây bên kia.
    - Thưa ông Marshall, nghề chuyên môn của tôi là trộm cắp. Hồi nãy tôi vừa tới thăm nhà Olivia Bedford. Không kiếm được nữ trang, tiền bạc, nhưng lại được một thứ thú vị hơn?
    Nick ngắt lời:
    - Không đùa. Tôi không quen cô nào tên là Bedford.
    Thám tử thản nhiên nói tiếp:
    - Có, có đấy, ông quen thân là khác. Nhưng chắc ông không biết cô ta viết nhật ký? Nó đang nằm trước mắt tôi. Trong đó ghi rõ mối quan hệ giữa quý vị. Cô nàng trước kia là thư ký riêng, rồi bị ông quyến rũ. Điều này không đáng nói. Thú vị hơn là chỗ này này: ngày 7 tháng Hai năm 1980, tức một ngày sau khi vợ ông bị giết, cô Bedford viết trong nhật ký: ?oNick thú nhận đã giết Peggy. Thật kinh khủng!?? Ông biết rõ điều gì còn kinh khủng hơn gấp bội chứ, ông Marshall? Đó là nếu cảnh sát nhận được cuốn nhật ký này làm bằng chứng?
    Lại im lặng trong ống nghe? Chủ ngân hàng sẽ phản ứng thế nào? Đây là khoảnh khắc bộc lộ sự thật.
    Phản ứng của Nick rất ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn trong hai từ:
    - Bao nhiêu?

    George đã chuẩn bị sẵn câu trả lời:
    - 20.000 đô, tờ nhỏ. Ngày mai, lúc 18 giờ, trong nghĩa trang Bắc Sydney, lối đi số 3.
    Ông gác máy. Bây giờ chỉ việc gọi điện cho trung úy Clark báo cáo kết quả và xin điều động cảnh sát tóm cổ Nick khi hắn nộp tiền. Trung úy chấp thuận kế hoạch nhưng muốn biết rõ một tình tiết:
    - Tôi không hiểu tại sao Nick không hỏi cô ta về cuốn nhật ký trước khi?
    George khoái chí ngắt lời:
    - Tôi biết cô Bedford lúc này đang đi tới bên kia trái đất, sang tận nước Anh xa xôi. Làm sao Nick liên lạc được Trung úy thấy chưa, hắn bị dồn vào chân tường?
    Hôm sau, vào lúc 18 giờ, trung úy Clark và nhân viên của ông nấp sau những ngôi mộ trong nghĩa trang Bắc Sydney thấy Nick Marshall đi tới, nách cắp chặt chếc catab. Lập tức Nick bị vây chặt và bắt giữ. Trong cặp da có 20.000 đô bằng giấy lẻ. Trung úy hét giữa mặt chủ ngân hàng:
    - Ông Nick, ta có chuyện cần nói với nhau.
    Qua vài giây sững sờ, Nick mau chóng lấy lại vẻ hung hăng vốn có.
    - Chuyện gì? Tiền này của tôi, đầu phải tiền trộm cắp!Tôi có quyền dạo chơi với 20.000 đô trong tay chứ, phải không?
    - Toàn bằng tiền lẻ? Và trong nghĩa trang?
    - Thì đã sao? Ông cho biết đạo luật nào cấm công dân đi dạo trong nghĩa trang mang theo 20.000 đô giấy nhỏ?
    - Chúng tôi có nguồn tin riêng, ông Nick! Biết ông tới chuộc quyển nhật ký của người tình Olivia Bedford trong có ghi lời ông thú nhận đã giết vợ.
    - Nhật ký nào vậy? Đưa ra coi!
    Trung úy thấy tình thế thế hơi bấp bênh.
    - Dù sao, ông cũng phải giải thích rõ cho tôi chuyện này.
    - Thôi được? tôi đang bị sức ép một cú săng ta về cô Bedford. Thú thật, cô ta đúng là bồ nhí của tôi. Một người như tôi không thể cho phép lan truyền những lời đồn đại lăng nhăng. Tôi tới đây với mục đích dập tắt vụ đó. Còn cái chết của bà xã tôi thì chẳng liên quan gì tới sự này. Vu khống trắng trợn đến thế là cùng.
    Trung úy Clark không đôi co, Nick có lý: Không có bằng chứng cụ thể nào buộc tội hắn, hơn nữa hắn thuộc loại có vai vế đáng nể, đụng vào không dễ. Bắt giữ thằng lúc này là chơi với lửa. Nhưng trung úy tin chắc hắn phạm tội, không thể buông tha. Ông sẽ tận dụng thời hạn tạm giữ do pháp luật quy định, hy vọng từ nay tới khi hết hạn sẽ có sự kiện gì mới?
    Quả nhiên, sự kiện đó xảy ra ngay hôm sau, dưới dạng chuyến bay LuânĐôn - Sydney. Olivia Bedford từ Anh trở về. Được cảnh sát sân bay cấp báo, trung úy Clack lập tức ra lệnh đưa cô nàng tới văn phòng đồ cảnh sát để đối chất với Nick.
    Vừa trông thấy Nick, cô ả đã hốt hoảng kêu lớn:
    - Tôi không có tội, Không tiếp tay ông ta! Một mình ông ta làm hết!
    Nick tái mặt. Hắn biết mình đã thua cuộc, thẫn thờ bảo Bedford:
    - Đồ ngu! Ai bảo viết nhật ký!
    Olivia Bedford ngơ ngác:
    - Nhật ký nào? Anh nói gì lạ vậy?
    - Chủ ngân hàng nhăn mặt nhìn viên trung úy:
    - Đểu! Quá đểu! Không chính quy nhưng quá giỏi!
    - Tòa trả tự do cho Francis ngay tức thì. Tuy tội trộm cắp gã phạm đáng phạt tù lâu hơn, nhưng xét thấy trận thử thách vừa rồi đã đủ cho gã đền tội nên tòa cho gã được tự do có điều kiện.
    Tháng Sáu năm 1981, chủ ngân hàng Nick và cô bồ nhí ra trước tòa. Cô ả được trắng án, Nick ngồi tù chung thân.
    Số phận? Francis Barber ra sao đây? Sau khi được tha, anh kiếm ngay được chỗ làm: chạy giấy tờ cho George Higgins, thám tử.
  7. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    MẸO THÁM TỬ TƯ
    Truyện ngắn Úc​
    Trung úy cảnh sát của thành phố Sydney bên nước Úc bữa nay rất hài lòng: anh vừa hoàn tất rất nhanh lẹ một cuộc điều tra khó khăn. Cách đây hơn ba hôm, ngày 6 tháng Hai năm 1960 trong phường anh xảy ra một vụ án mạng. Bà Peggy Marshall năm mươi lăm tuổi, vợ ông chủ ngân hàng Nick Marshall bị chết ngạt dưới chiếc gối bông, ngay trong gian phòng lộng lẫy của bà tại số 1136 đường Hoàng Hậu.
    Nửa đêm đó, ông chồng đi làm về thì phát hiện sự việc. Hơn nữa, chính ông đã chạm trán hung thủ. Lúc ông bước vào vườn nhà, bất chợt một gã đàn ông xô vào ông rồi bỏ chạy. Vào được trong phòng bà vợ thì ôi thôi, mọi sự đã rồi. Bà đã tắt thở. Toàn bộ nữ trang để trong tráp gỗ đặt trên mặt bàn ngủ đã không cánh mà bay.
    Không tới ba ngày sau hung thủ đã bị bắt giữ. Người chủ tiệm kim hoàn thấy anh ta gạ bán nhiều nữ trang quý giá đã tố giác. Cảnh sát chỉ việc tới lôi đi?
    Bước vào văn phòng trung úy Clark là Francis Barber khoảng hăm lăm, tóc hung bốc lửa, hai tay đeo còng. Anh ta cười gằn hỏi sĩ quan cảnh sát:
    - Lão chủ tiệm đồ vàng cũ tố giác, hử?
    Trung úy Clark nhún vai:
    - Ông ta không muốn dính dấp vào án mạng.
    Thái độ Francis đột ngột thay đổi hẳn:
    - Án mạng nào? Chuyện gì kỳ cục vậy?
    Trung úy hơi gắt:
    - Vụ giết bà Peggy Marshall chứ còn vụ nào nữa?
    Nghe chưa dứt lời, da mặt Francis đã xám ngoét:
    - Không đúng! Tôi không giết!
    Viên cảnh sát nhìn gã, vẻ ranh mãnh:
    - Tất nhiên, hẳn là thế? Tự bà ta chết ngạt vì chúi đầu vào cái gối trong lúc anh mải chôm nữ trang của bà? Tắt cái trò gạt gẫm trẻ con đó đi, Francis. Chính anh lấy những nữ trang đó, lát nữa chồng nạn nhân sẽ tới nhận mặt anh? Tốt hơn hết là hãy thú nhận ngay?
    Francis Barber nhảy bật trên ghế:
    - Xin thề độc, tôi không giết người. Để tôi kể ông nghe. Biết nhà Marshall giầu có, tôi lập kế hoạch lẻn vào. Tưởng bữa đó nhà vắng người, dè đâu khi vào lại thấy bà ta nằm ngủ trên giường. Tráp nữ trang đặt tên bàn đầu giường. Tôi lẹ tay lấy hết không làm bà ta tỉnh giấc? Đúng lúc có tiếng xe hơi vừa dừng ngoài cổng. Ông chồng đi làm về. Tôi vội chạy ra. Tông phải ông ta ngoài vườn? Thưa trung úy, xin thề sự việc đúng như vậy.
    Trung úy Clark không đáp. Nhân viên vào báo ông Nick vừa tới. Trung úy ra lệnh mời vào ngay. Vừa trông thấy Francis, chủ ngân hàng reo to:
    - Nó đấy! Đúng nó. Tóc hung hung đỏ. Không lẫn vào đâu được!
    Trung úy quay sang nhìn Francis:
    - Thế nào? Còn chối nữa không?
    Chàng trai giẫy nẩy:
    - Tôi cũng nhận ra ngay ông Marshall. Tôi chạy vội nên tông phải ông ngoài vườn. Tôi có chối đâu! Không chối tội ăn trộm. Nhưng tôi không giết vợ ông này. Thề có Chúa chứng giám!
    Tháng Mười một năm 1980, đứng trước tòa Francis vẫn một mực thề mình vô tội. Trộm cắp thì có, giết người thì không đời nào. Nhưng bằng chứng buộc tội lại rất xác đáng: đồ nữ trang, lời khai của Nick Marshall thừa nhận đúng là gã?
    Ngay luật sư bào chữa cho Francis cũng tránh né không nói nhiều về nội vụ. Ông nhấn mạnh tới tuổi niên thiếu bất hạnh của thân chủ. Bố bỏ đi khi còn rất nhỏ. Mẹ nuôi dạy trong những điểu kiện khốn khó. Hơn nữa, hồi bé đã bị chấn thương sợ não nặng vì té ngã? Vì vậy, đáng được tòa khoan hồng?
    Quả nhiên tòa kết luận Francis phạm tội nhưng do quá khứ như vậy nên được hưởng những tình tiết giảm nhẹ. Do đó, chỉ bị phạt mười lăm năm tù giam.
    Trước khi bị giải đi, Francis kêu lần chót:
    - Tôi vô tội! Tôi không giết bà Marshall
    Trong phòng xử, một bà mới trạc tuổi ngũ tuần nhưng trông già trước tuổi quay sang người ngồi kế bên:
    - Tôi biết tính thằng nhỏ. Nó la lên vậy là nó bị oan thật? Trong những việc quan trọng, không bao giờ nó nói dối. Tôi tự tôi sẽ chứng minh nó vô tội!.
    Kite Barber, mẹ của Francis rời công thự Tòa án Sydney. Bước chân vẫn vững vàng không mảy may run rẩy. Bản án giáng lên đầu thằng con không làm bà gục ngã. Trái lại, bà cảm thấy mình có một sức mạnh không ngờ . Và biết rõ cần phải làm gì?
    Vài ngày sau bà Kite Barber,vào ngồi trên chiếc ghế trong phòng đợi của nhà thám tử tư trứ danh. Lúc này bà mới hơi run run. Trong chiếc xắc tay đặt trên đùi có 1.000 đôla, tiền vừa bán chiếc trâm hồng ngọc của mẹ bà để lại. Vật quý duy nhất bà có được và thề không bao giờ rời xa.
    Mới đây, đọc báo bà được biết nhà thám tử George vừa giải quyết rất tài tình một vụ tranh chấp thừa kế rất phức tạp. Bà đặt hết hy vọng vào ông này.
    Vài phút sau, ngồi trong văn phòng bề thế trang bị cực kỳ hiện đại của thám tử, bà Kite rụt rè trình bày vụ việc.
    - Tôi hiểu rõ con tôi. Từ hồi 17 tuổi nó đã bắt đầu chôm chỉa vì không sao kiểm nổi việc làm? Mà tôi thì làm sao chạy cho đủ mà nuôi con. Đâu phải lúc nào cũng có người thuê mướn giúp việc nhà cho họ? Quả tình cháu nó có bị bắt giữ nhiều lần, có ngồi tù một ít thật, nhưng nó không bao giờ giết người?
    Kite Barber thò tay vào xắc lấy xấp 1.000 đô:
    - Tôi van ông, ông thám tử, xin ông tìm ra thủ phạm cho! Tôi chỉ có bấy nhiêu, nếu chưa đủ, tôi sẽ làm việc đến hơi thở cuối cùng để trả tiền cho ông?
    George Higgins phác một cử chỉ tỏ ý không nhận.
    - Bà Kite Barber, mong bà giữ số tiền này. Nó có ích cho bà hơn cho tôi. Tôi sẽ làm việc giúp bà, miễn phí. Trường hợp của con bà khiến tôi quan tâm. Đọc tường thuật của các báo, tôi cũng cho rằng thái độ của con bà không giống thái độ của một kẻ phạm tội.
    Ông cắt ngang mọi biểu thị nồng nhiệt của Kate.
    - Xin đừng cảm ơn. Theo một ý nghĩa nào đó, tôi cũng có lợi. Thành công trong vụ này sẽ là một màn quảng cáo rất ăn khách cho công việc của tôi.
    Ông nói tiếp:
    - Bà biết không, tôi đã có đầu mối cần tìm rồi. Lâu nay vẫn tự hỏi tại sao cảnh sát không điều tra người chồng. Vậy tôi sẽ làm chuyện đó.
    Hiếm khi công việc của George Higgins lại mau lẹ và có hiệu suất cao như vậy. Chưa hết một tuần, ông đã nắm được nhiều điều đáng quan tâm xung quanh nhân vật Nick Marshall. Điều trước tiên: gia sản khổng lồ ông ta đang nắm do bà vợ gây dựng nên chứ không do công sức ông ta. Năm 1948, ông cưới Peggy, con của một đôi vợ chồng chủ trại cực kỳ giàu có. Nick bắt đầu nhảy vào kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng nhờ tiền của bố mẹ vợ. Chưa hết. Qua theo dõi Nick, thám tử phát hiện ông ta có nhân tình, một cô có tên Olivia Bedford hăm tám tuổi, nguyên là thư ký riêng của ông ta, hiện đang được bao trong căn hộ lộng lẫy ở Sydney.
    Đáng lẽ những việc này phải do cảnh sát tiến hành nhưng họ không nghĩ ra. George nói thẳng với trung úy Clark nhận xét của ông. Ông vốn đã từng là cảnh sát, nay vẫn giữ quan hệ tốt với đồng nghiệp cũ.
    - Có bồ nhí, nhưng vướng bà vợ đang về già. Li dị thì mất hết. Đây không phải là động cơ gây án sao, trung úy?
    Trung úy Clark lắng nghe rất chăm chú tất cả những phát hiện của viên thám tử tư. Và thấy cần thanh minh:
    - Thú thật là tôi không nghĩ tới chuyện điều tra người chồng. Vì cho rằng tội của Francis đã sờ sờ ra đó. Nào ngờ lại có chuyện quái quỷ đến thế!
    George gật gù:
    - Đúng một tuyệt tác của kẻ lòng lang dạ thú. Sau khi bị Francis tông ngoài vườn. Nick chạy vội vào nhà và thấy vợ đang ngủ say. Nữ trang trên bàn không còn. Một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu hắn: Phải chớp lấy thời cơ duy nhất này. Hắn vơ gối, đè Peggy ngạt thở. Hung thủ dĩ nhiên sẽ là tên trộm, bị chủ nhà bất chợt thức giấc trông thấy. Một án mạng kiểu này thật không thể từ chối thực hiện!
    - Dĩ nhiên. Nhưng dị bản kia rất đáng chú ý: Francis cũng có thể là thủ phạm.
    - Anh hoàn toàn có lý. Chính tôi cũng chưa tin hẳn chuyện Nick giết vợ. Nhưng cần có một cách khám phá ra sự thật. Có điều là? có thể tôi sẽ cần tới thái độ trung lập có thiện cảm của anh, và có khi còn cần được mấy anh tiếp tay nữa. Bởi lẽ? cách của tôi thật ra không chính thống lắm.
    George trình bày kế hoạch. Lát sau ông ra về, yên chí sẽ được cảnh sát hỗ trợ. Cuộc điều tra theo cung cách hơi đặc biệt của ông sắp bắt đầu. Ngay bữa đó, ông gọi tới nhà chủ ngân hàng.
    - Chào ông Marshall? xin phép không xưng tên tôi. Tôi có áp phe cần bàn với ông.
    George cảm thấy người đối thoại hình như định gác máy, vội tiếp:
    - Tôi gọi điện cho ông về chuyện Bedford?
    Im lặng ở đầu dây bên kia.
    - Thưa ông Marshall, nghề chuyên môn của tôi là trộm cắp. Hồi nãy tôi vừa tới thăm nhà Olivia Bedford. Không kiếm được nữ trang, tiền bạc, nhưng lại được một thứ thú vị hơn?
    Nick ngắt lời:
    - Không đùa. Tôi không quen cô nào tên là Bedford.
    Thám tử thản nhiên nói tiếp:
    - Có, có đấy, ông quen thân là khác. Nhưng chắc ông không biết cô ta viết nhật ký? Nó đang nằm trước mắt tôi. Trong đó ghi rõ mối quan hệ giữa quý vị. Cô nàng trước kia là thư ký riêng, rồi bị ông quyến rũ. Điều này không đáng nói. Thú vị hơn là chỗ này này: ngày 7 tháng Hai năm 1980, tức một ngày sau khi vợ ông bị giết, cô Bedford viết trong nhật ký: ?oNick thú nhận đã giết Peggy. Thật kinh khủng!?? Ông biết rõ điều gì còn kinh khủng hơn gấp bội chứ, ông Marshall? Đó là nếu cảnh sát nhận được cuốn nhật ký này làm bằng chứng?
    Lại im lặng trong ống nghe? Chủ ngân hàng sẽ phản ứng thế nào? Đây là khoảnh khắc bộc lộ sự thật.
    Phản ứng của Nick rất ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn trong hai từ:
    - Bao nhiêu?

    George đã chuẩn bị sẵn câu trả lời:
    - 20.000 đô, tờ nhỏ. Ngày mai, lúc 18 giờ, trong nghĩa trang Bắc Sydney, lối đi số 3.
    Ông gác máy. Bây giờ chỉ việc gọi điện cho trung úy Clark báo cáo kết quả và xin điều động cảnh sát tóm cổ Nick khi hắn nộp tiền. Trung úy chấp thuận kế hoạch nhưng muốn biết rõ một tình tiết:
    - Tôi không hiểu tại sao Nick không hỏi cô ta về cuốn nhật ký trước khi?
    George khoái chí ngắt lời:
    - Tôi biết cô Bedford lúc này đang đi tới bên kia trái đất, sang tận nước Anh xa xôi. Làm sao Nick liên lạc được Trung úy thấy chưa, hắn bị dồn vào chân tường?
    Hôm sau, vào lúc 18 giờ, trung úy Clark và nhân viên của ông nấp sau những ngôi mộ trong nghĩa trang Bắc Sydney thấy Nick Marshall đi tới, nách cắp chặt chếc catab. Lập tức Nick bị vây chặt và bắt giữ. Trong cặp da có 20.000 đô bằng giấy lẻ. Trung úy hét giữa mặt chủ ngân hàng:
    - Ông Nick, ta có chuyện cần nói với nhau.
    Qua vài giây sững sờ, Nick mau chóng lấy lại vẻ hung hăng vốn có.
    - Chuyện gì? Tiền này của tôi, đầu phải tiền trộm cắp!Tôi có quyền dạo chơi với 20.000 đô trong tay chứ, phải không?
    - Toàn bằng tiền lẻ? Và trong nghĩa trang?
    - Thì đã sao? Ông cho biết đạo luật nào cấm công dân đi dạo trong nghĩa trang mang theo 20.000 đô giấy nhỏ?
    - Chúng tôi có nguồn tin riêng, ông Nick! Biết ông tới chuộc quyển nhật ký của người tình Olivia Bedford trong có ghi lời ông thú nhận đã giết vợ.
    - Nhật ký nào vậy? Đưa ra coi!
    Trung úy thấy tình thế thế hơi bấp bênh.
    - Dù sao, ông cũng phải giải thích rõ cho tôi chuyện này.
    - Thôi được? tôi đang bị sức ép một cú săng ta về cô Bedford. Thú thật, cô ta đúng là bồ nhí của tôi. Một người như tôi không thể cho phép lan truyền những lời đồn đại lăng nhăng. Tôi tới đây với mục đích dập tắt vụ đó. Còn cái chết của bà xã tôi thì chẳng liên quan gì tới sự này. Vu khống trắng trợn đến thế là cùng.
    Trung úy Clark không đôi co, Nick có lý: Không có bằng chứng cụ thể nào buộc tội hắn, hơn nữa hắn thuộc loại có vai vế đáng nể, đụng vào không dễ. Bắt giữ thằng lúc này là chơi với lửa. Nhưng trung úy tin chắc hắn phạm tội, không thể buông tha. Ông sẽ tận dụng thời hạn tạm giữ do pháp luật quy định, hy vọng từ nay tới khi hết hạn sẽ có sự kiện gì mới?
    Quả nhiên, sự kiện đó xảy ra ngay hôm sau, dưới dạng chuyến bay LuânĐôn - Sydney. Olivia Bedford từ Anh trở về. Được cảnh sát sân bay cấp báo, trung úy Clack lập tức ra lệnh đưa cô nàng tới văn phòng đồ cảnh sát để đối chất với Nick.
    Vừa trông thấy Nick, cô ả đã hốt hoảng kêu lớn:
    - Tôi không có tội, Không tiếp tay ông ta! Một mình ông ta làm hết!
    Nick tái mặt. Hắn biết mình đã thua cuộc, thẫn thờ bảo Bedford:
    - Đồ ngu! Ai bảo viết nhật ký!
    Olivia Bedford ngơ ngác:
    - Nhật ký nào? Anh nói gì lạ vậy?
    - Chủ ngân hàng nhăn mặt nhìn viên trung úy:
    - Đểu! Quá đểu! Không chính quy nhưng quá giỏi!
    - Tòa trả tự do cho Francis ngay tức thì. Tuy tội trộm cắp gã phạm đáng phạt tù lâu hơn, nhưng xét thấy trận thử thách vừa rồi đã đủ cho gã đền tội nên tòa cho gã được tự do có điều kiện.
    Tháng Sáu năm 1981, chủ ngân hàng Nick và cô bồ nhí ra trước tòa. Cô ả được trắng án, Nick ngồi tù chung thân.
    Số phận? Francis Barber ra sao đây? Sau khi được tha, anh kiếm ngay được chỗ làm: chạy giấy tờ cho George Higgins, thám tử.
  8. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Chuột sa bẫy
    Truyện ngắn Mỹ​
    Năm 1974, sau mười hai năm góa vợ, Kenneth Benson vẫn ở vậy, vẫn điều hành công ty bảo hiểm, vẫn là một triệu phú hiếm có và vẫn ở trong biệt thự mang tên vợ tại Los Angeles. Các tường phòng treo la liệt chân dung người vợ yêu, ngôi biệt thự gần như trở thành đền thờ người đàn bà bạc mệnh. Kỷ niệm xưa không vì thời gian trôi qua mà phai nhạt trong tâm trí Kenneth. Dường như có cái gì đó vỡ vụn, khiến sau mười hai năm ông già hẳn đi?
    Hai đứa con trai cũng đã thay đổi nhiều: John năm nay đã mười tám, Spencer mười sáu. Cả hai đều lớn bổng lên, phổng phao, khỏe mạnh. Và thay đổi sâu sắc về mặt tư cách đạo đức.
    Sau khi Elisa qua đời, người bố tự mình lo việc giáo dục hai đứa con, tất cả tình thương yêu dành cho vợ, bây giờ ông trao hết cho con. Nói là ông cưng chiều chúng có lẽ chưa đủ, vì cưng chiều không có nghĩa là thỏa mẵn bất cứ đòi hỏi nào của con cái. Đằng này, ông Kenneth không bao giờ từ chối một yêu sách nào của hai đứa con. Chúng đòi mua món đồ chơi vừa trông thấy trong tay thằng bạn con nhà tỷ phú ư? Có ngay. Một thằng phàn nàn người hầu của nó không chịu ngồi yên để nó thúc mũi giầy bào mạng mỡ anh ta ư? Lập tức ông chủ ra lệnh đuổi ngay anh hầu. Vừa đủ tuổi quy định, mỗi đứa đều được bố tặng vài ba chiếc mô tô phân khối lớn, sau đó là những chiếc xe hơi. Những chứ không phải một?
    Ít lâu nay, ông Kenneth bắt đầu thấy lo lo, John lại vừa tông nát chiếc xe hơi thứ hai của nó. Lần này nó còn làm một người đi đường bị chấn thương?
    Spencer tuy mới mười sáu tuổi nhưng không chịu kém. Nhiều lần bị giải vào đồn cảnh sát vì đánh lộn gây thương tích. Cả hai chẳng thiết học hành gì nữa, ngày đêm la cà hết quán rượu này tới hộp đêm khác trong thành phố, tới đâu gây chuyện bê bối tới đó. Mỗi khi các con càn quấy gây thiệt hại ở đâu đó, ông Kenneth lại vung tiền bồi hoàn gấp nhiều lần tổn thất, dàn xếp ổn thỏa chẳng ai thưa kiện thắc mắc gì. Đôi khi ông rụt rè trách móc con liền bị chúng gạt phăng:
    - Có sao đâu bố? Vì bố nhiều tiền, khỏi lo. Tuổi chúng con là tuổi chơi bời thoải mái?
    Tuy bắt đầu lo lo, nhưng ông Kenneth thấy chưa cần phải mạnh tay, chỉ thỉnh thoảng nhắc nhở qua loa thôi, Ông muốn các con được hạnh phúc trong cuộc sống, niềm hạnh phúc ông không kịp trao tặng trọn vẹn cho Elisa đã ra đi quá sớm?
    Lúc hai mươi mốt giờ ngày 06 tháng Ba năm 1974, Kenneth đang ngồi đợi hai con đi từ sáng chưa thấy về, bỗng nghe tiếng còi hụ ngoài đường. Tiếng bánh xe rít trên sỏi. Hai cảnh sát đi kèm John và Spencer giải vào. Viên trung úy lịch sự nói với nhà tỷ phú:
    - Thưa ông Kenneth, chúng tôi dẫn hai con trai của ông về. Vì là con ông nên chúng tôi bỏ qua. Nhưng đây là lần cuối cùng.
    John và Spencer cười nhâng nháo khi ông Kenneth lo lắng hỏi trung úy:
    - Lạy Chúa, chúng nó sinh sự gì vậy?
    - Lấy trộm chiếc xe đạp.
    - Ủa để làm gì mới được chứ?
    Trung úy cảnh sát nhìn thẳng vào mắt nhà tỷ phú:
    - Thưa ông Kenneth, ông nên hỏi các con ông thì hơn. Tôi chỉ có một lời khuyên: ông cần quản lý chặt hai cậu con, trước khi quá muộn?
    Tiễn chân cảnh sát ra về, ông Kenneth vào hỏi hai đứa:
    - Sao các con lại làm chuyện đó? Ăn cắp một chiếc xe đạp, lạ thiệt. Muốn mua mấy trăm chiếc chả được?
    Spencer cười nhăng nhở:
    - Bố chẳng hiểu gì hết! Xoáy chơi cho vui vậy thôi, để coi thử có những phản ứng gì. Chẳng lẽ chỉ bọn khố rách áo ôm mới trộm cắp, còn bọn con lại không?
    Không tự chủ được nữa, Kenneth Benson giang thẳng tay tát giữa mặt Spencer. Phản ứng quyết liệt của người bố lần đầu tiên nổ bùng khiến thằng con choáng váng, đứng lặng hồi lâu rồi co cẳng chạy khỏi nhà. Thằng anh bám theo. Lát sau, tiếng mô tô phân khối lớn gầm lên.
    Còn lại một mình trong nhà, ông Kenneth bưng đầu gục xuống. Tất cả sự thực phũ phàng đột ngột phơi bày trước mắt? Lỗi tại ông. Không nuôi dạy hai đứa con với tình thương yêu sáng suốt, ông đã làm chúng thối nát. Đã biến chúng thành quái vật, thành những hạt giống sát nhân. Ôi, giá như mẹ chúng vẫn còn chắc chắn tình hình sẽ khác hẳn, nhưng đau khổ thay, Elisa đã vắng bóng từ mười hai năm nay!
    Ngay lập tức, Kenneth có một quyết định dứt khoát. Vốn là con người hành động, khi thấy có vấn đề đặt ra là ông tìm bằng được cách giải quyết rốt ráo. Tin rằng John va Spencer hư hỏng vì thiếu vắng sụ giáo dục của một người mẹ, ông quyết định: mình sẽ tục huyền. Cáng sớm chừng nào càng hay!
    Kenneth Benson đã bắt tay vào việc thì tất yếu công việc phải được giải quyết trong thời gian ngắn nhất. Một tuần sau ông chấm được ý trung nhân. Người trúng cử là Dorothy Smith. Một phụ nữ bốn mươi lăm tuổi, tóc nâu sậm, người khô đét và dài như cây sào, khuôn mặt nhiều góc cạnh. Kenneth không quan tâm tới vẻ ngoài không mấy hấp dẫn của người vợ mới. Ông ấn định ngay vị trí và chức trách cho bà ta. Không có chuyện chăn gối gì hết, điều duy nhất phải làm cho tốt: dạy dỗ hai đứa con trai, không để chúng biến thành hai kẻ giết người.
    Dorothy Smith hiểu rất rõ nhiệm vụ được giaol
    - Ông cứ tin ở tôi. Tôi chỉ yêu cầu ông đảm nhận mọi chi phí trong gia đình.
    Nhà tỷ phú nhận lời. Đám cưới được tổ chức tháng Sáu năm 1974, rất giản dị. Từ đó tình hình biến đổi hẳn? Dorothy ngự trị trong biệt thự Elisa như một nữ hoàng tối thượng. Nắm chặt tay hòm chìa khóa, kẻ ăn người ở phải tường trình mọi khoản chi tiêu mỗi ngày. Và dĩ nhiên, John cũng như Spencer đều bị cắt đứt mọi khoản tiêu vặt. Mô tô và xe hơi đều bị tịch thu hết. Việc học hành được mẹ kế giám sát rất chặt, một lời đe dọa được lặp lại nhiều lần: nếu không đủ điểm sẽ bị đuổi khỏi biệt thự, đi nơi khác ở và kiếm việc làm để sống như mọi người?
    Thời gian đầu, hai anh em tìm mọi cách chống lại nền trật tự mới, nhưng chúng nhanh chóng nhận ra đối thủ cao tay hơn nhiều. Mỗi lần chúng phản đối đều bị Dorothy trừng mắt nhìn tuyên bố đanh thép:
    - Mẹ đã quyết định như vậy, các con cứ vậy mà làm. Không bằng lòng thì đi khỏi nhà này?
    Phải công nhận Dorothy rất công bằng, đối xử với hai anh em như nhau nên không đứa nào dám tỵ nạnh. Hai anh em biết thân biết phận nghiến răng chịu đựng, ôm chặt hận thù, giã từ cuộc sống phởn phơ trong hộp đêm, giã từ những cuộc đua xe bạt tử, những canh bạc bốc trời. Chúng phải vùi đầu vào học.
    Kenneth rất mừng. Nỗi tiếc thương người vợ trước vẫn âm thầm hủy hoại sức khỏe Kenneth rồi một bữa phá vỡ tim ông?
    Một tuần sau công chứng viên của gia đình Kenneth Benson mở di chúc ông ta để lại. John và Spencer thực lòng yêu quý bố nên rất tiếc thương, nhưng lúc này chúng chỉ nghĩ tới một điều: được thừa kế gia tài, nhận hàng trăm triệu đôla, đựoc vui chơi xả láng gấp nhiều lần trước? Phen này con mụ già thần nanh đỏ mỏ đừng hòng chọc gậy bánh xe!
    Công chứng viên lấy giọng trịnh trọng đọc to:
    ?oTôi để lại cho John và Spencer phần gia tài theo luật quy định tức là mỗi con tôi được nhận 300.000 đôla. Số tiền này sẽ được trao tận tay chúng khi nào vợ tôi là Dorothy qua đời. Tôi trao quyền cho Dorothy quản lý toàn bộ di sản cảu tôi. biệt thự Elisa là tài sản khôn chia phần, thuộc quyền sở hữu chung của hai con trai tôi và vợ tôi?"
    Hai chàng té ngửa, gần nghẹt thở? Mất quyền thừa kế! Chúng bị mắt quyền thừa kế, chỉ được mỗi đứa 300 ngàn so với vô số triệu rơi vào tay mụ? Dorothy ngồi thẳng lưng trên ghế bên khẽ nhấc miệng cười?
    Thì ra mụ đã biết từ trước. Đồ rắn độc! John va Spencer căm uất nhìn mụ, trong mắt cả hai đứa lóe lên tia lửa hận thù man rợ? Tuy vậy bộ ba vẫn phải sống chung dưới một mái nhà, không ai chịu bỏ phần biệt thự của mình?
    Thêm hai năm nữa qua đi. Bây giờ là tháng Ba năm 1979. Sự chung đụng trong biệt thự Elisa đã càng thẳng đến tột bực, mỗi hận thù của hai thằng con đối với dì ghẻ đã lên tới đỉnh điểm. Bỗng nhiên Dorothy Benson bị một cơn đột quỵ. Được cấp cứu kịp thời, mụ thoát chết. Bác sĩ của gia đình khi đưa mụ về nhà, dặn dò hai chàng:
    - Điều chủ yếu là bà phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Nếu tái phát lần sau thì khó lòng?
    ?oNếu tái phát thì khó lòng?? Hai anh em chẳng cần đưa mắt, chẳng cần nói với nhau nửa lời đã hiểu rõ bụng nhau. Lời dặn dò ngắn gọn đã rút ngắn số mệnh Dorothy?
    Một tháng sau, ngày 24 tháng Tư năm 1979, bác sĩ gia đình của nhà Benson nhận đựoc cú điện thoại cấp báo:
    - Mời tới ngay! Bà mẹ kế chúng tôi ngát xỉu trong bồn tắm. Có vẻ nguy kịch.
    Bác sĩ phóng xe như bay tới biệt thự Elisa. Lao bào phòng tăm. Thoáng nhìn cũng biết ngay bệnh nhân đã hết thở. Dorothy ngòi bệt trong bồn, đầu lật ra sau, mắt trợn ngươc, mồm há hốc. Khám nghiệm qua loa, bác sĩ kết luận: chết vì suy tim. Ông cấp giấy phép chôn cất. Ông chẳng hồ nghi gì hết, kết cục bi thảm này đã được ông dự báo trước rồi.
    Bác sĩ vừa đi khỏi, hai anh em thả sức bộc lộ niềm vui thắng lợi. Vị bác sĩ đáng kính đã sa bẫy. Án mạng đã được chúng dàn dựng tuyệt vời, không một kẽ hở nhỏ. Dù gia tài này có rơi vào tay đứa con gái riêng đời chồng trước của Dorothy thì mỗi đứa vẫn còn 300 ngàn đô và chiếc biệt thự này.
    ?oChà, ngón đòn đúng là tuyệt chiêu! Thì ra mụ ta cũng không ghê gớm lắm. Ăn nhau ở chỗ dám liều. Dám liều nên hai đứa mình toàn thắng. Sự đồng tâm nhất trí của hai anh em mình là yếu tố quan trọng lắm lắm trong vụ này??
    Ít bữa sau, John và Spencer lại có mặt trong văn phòng viên công chứng của gia đình. Con riêng của Dorothy ngồi bên hai anh em. Cô ta là người sẽ đút túi tài sản khổng lồ của nhà Benson. Hai anh em thỉnh thoảng lừ mắt nguýt đầy ghen tức. Nhưng biết không thể xoay chuyển tình thế, chúng ấm ức chấp nhận số phận, cam chịu bằng lòng với phần đã được chia. Và thản nhiên nhìn công chứng viên gỡ xi gắn chiếc phong bì đựng di chúc người mẹ kế. Lần này sẽ không có gì khiến chúng kinh ngạc như lần nghe di chúc của bố.
    Công chứng viên cất giọng nhà nghề đọc to:
    ?oTôi, Dorothy Benson, tuyên bố người nhận toàn bộ di sản của tôi là Spencer Benson, con trai riêng của chồng tôi??
    Không khí trong văn phòng lặng ngắt. Một lát sau, tiếng rú thất thanh, tiếng đổ ghế cái rầm. Con gái Dorothy vùng chạy đi, kêu khóc thảm thiết. Còn lại hai anh em đối diện công chứng viên. Chúng quay nhìn nhau hồi lâu.
    Một tuần sau khi mở chúc thư của Dorothy Benson, ngày 09 tháng Năm năm 1979, John Benson dừng xe trước đồn cảnh sát cận biệt thự Elisa. Viên cảnh sát tiếp gã lại chính là trung úy cách đây vài năm đã bắt giữ hắn cùng với Spencer về tội trộm xe đạp.
    - Thưa trung úy, tôi muốn lương tâm được thanh thản. Nên mới tố giác: em trai tôi phạm tội giết người. Nó dìm mẹ kế tôi chết ngạt để thừa hưởng gia tài?
    Sau phút bàng hoàng dễ hiểu, trung úy hỏi thêm chi tiết. John khai báo cặn kẽ, chính xác. Ngay hôm đó, Spencer bị bắt tại Los Angeles giải về gặp trung úy. Trung úy không rào đón úp mở, ném thẳng vào gã lời buộc tội:
    - Anh đã ám hại Dorothy Benson. Dìm bà chết ngạt dưới bồn nước tắm. Nào, khôn hồn thì thú nhận.
    Gã tân triệu phú đôla lấy giọng trịch thượng:
    - Biết đang nói chuyện với ai không trung úy?
    Viên sỹ quan vẫn điềm nhiên.
    - Đừng lên gân cho mệt. Tôi biết hết rồi. Anh trai anh đã bật mí.
    Nghe vậy, gã gục liền. Nghe trung úy hạ lệnh bắt giữ, gã chợt bật tỉnh:
    - Thế còn John? Ông đã bắt hắn rồi chứ? Hai chúng tôi chung sức giết mụ già mà.
    John Benson bị tóm nốt, cảnh sát Los Angeles thay nhau lấy khẩu cung nhưng gã một mực chối.
    - Spencer tự tay làm từ đầu đến đuôi. Nó được thừa kế, đâu phải tôi. Tôi phản đối hành động đó.
    Sau bảy mười hai giờ thẩm vấn, gã mới chịu nhận tội. Và tỏ vẻ nhẹ nhõm, thanh thản. Xin một điếu thuốc, rít lấy rít để. Rồi nhếch mép cười mỉm, vệt cười nhếch mép trông kỳ cục chuyển dần thành tiếng cười rũ rượi kéo dài mấy phút không sao kìm nổi. Mãi sau hắn mới nói được giữa hai đợt nấc cụt:
    - Hay thật! Hay cực kỳ!? Di chúc của con đĩ già ấy? Tôi vừa hiểu ra rồi? Hiểu tại sao mụ cho thằng Spencer tuốt tuột mà không cho tôi một đồng nào? Mụ biết trước?
    Gã ngưng bặt, lấy lại hơi thở dốc.
    - Mụ biết trước thế nào cũng bị chúng tôi thịt, nên nghĩ mẹo chia rẽ hai anh em tôi. Cho Spencer hết, để tôi trắng tay, mụ buộc tôi phải nghi ngờ thằng em phản. Và cuối cùng tôi sẽ không chịu thua, sẽ tố giác để nó không được hưởng gia tài. Thế là cả hai đứa đều nhịn luôn. Cả hai chuột đều sa bẫy. Tờ di chúc hay thật! Cái bẫy tài tình sập một phát được cả hai chuột liền.
    Dorothy Benson đối xử với hai anh em như nhau, không phân biệt, không thiên vị đứa nào tuy trong di chúc lại làm ra vẻ ưu đãi thằng em hơn.
    Hội đồng bồi thẩm tòa Los Angeles không phân biệt tội trạng của hai anh em nhà Benson. Cả hai tên đều bị buộc tội ngang như nhau, John và Spencer đều lãnh án tù chung thân.
  9. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Chuột sa bẫy
    Truyện ngắn Mỹ​
    Năm 1974, sau mười hai năm góa vợ, Kenneth Benson vẫn ở vậy, vẫn điều hành công ty bảo hiểm, vẫn là một triệu phú hiếm có và vẫn ở trong biệt thự mang tên vợ tại Los Angeles. Các tường phòng treo la liệt chân dung người vợ yêu, ngôi biệt thự gần như trở thành đền thờ người đàn bà bạc mệnh. Kỷ niệm xưa không vì thời gian trôi qua mà phai nhạt trong tâm trí Kenneth. Dường như có cái gì đó vỡ vụn, khiến sau mười hai năm ông già hẳn đi?
    Hai đứa con trai cũng đã thay đổi nhiều: John năm nay đã mười tám, Spencer mười sáu. Cả hai đều lớn bổng lên, phổng phao, khỏe mạnh. Và thay đổi sâu sắc về mặt tư cách đạo đức.
    Sau khi Elisa qua đời, người bố tự mình lo việc giáo dục hai đứa con, tất cả tình thương yêu dành cho vợ, bây giờ ông trao hết cho con. Nói là ông cưng chiều chúng có lẽ chưa đủ, vì cưng chiều không có nghĩa là thỏa mẵn bất cứ đòi hỏi nào của con cái. Đằng này, ông Kenneth không bao giờ từ chối một yêu sách nào của hai đứa con. Chúng đòi mua món đồ chơi vừa trông thấy trong tay thằng bạn con nhà tỷ phú ư? Có ngay. Một thằng phàn nàn người hầu của nó không chịu ngồi yên để nó thúc mũi giầy bào mạng mỡ anh ta ư? Lập tức ông chủ ra lệnh đuổi ngay anh hầu. Vừa đủ tuổi quy định, mỗi đứa đều được bố tặng vài ba chiếc mô tô phân khối lớn, sau đó là những chiếc xe hơi. Những chứ không phải một?
    Ít lâu nay, ông Kenneth bắt đầu thấy lo lo, John lại vừa tông nát chiếc xe hơi thứ hai của nó. Lần này nó còn làm một người đi đường bị chấn thương?
    Spencer tuy mới mười sáu tuổi nhưng không chịu kém. Nhiều lần bị giải vào đồn cảnh sát vì đánh lộn gây thương tích. Cả hai chẳng thiết học hành gì nữa, ngày đêm la cà hết quán rượu này tới hộp đêm khác trong thành phố, tới đâu gây chuyện bê bối tới đó. Mỗi khi các con càn quấy gây thiệt hại ở đâu đó, ông Kenneth lại vung tiền bồi hoàn gấp nhiều lần tổn thất, dàn xếp ổn thỏa chẳng ai thưa kiện thắc mắc gì. Đôi khi ông rụt rè trách móc con liền bị chúng gạt phăng:
    - Có sao đâu bố? Vì bố nhiều tiền, khỏi lo. Tuổi chúng con là tuổi chơi bời thoải mái?
    Tuy bắt đầu lo lo, nhưng ông Kenneth thấy chưa cần phải mạnh tay, chỉ thỉnh thoảng nhắc nhở qua loa thôi, Ông muốn các con được hạnh phúc trong cuộc sống, niềm hạnh phúc ông không kịp trao tặng trọn vẹn cho Elisa đã ra đi quá sớm?
    Lúc hai mươi mốt giờ ngày 06 tháng Ba năm 1974, Kenneth đang ngồi đợi hai con đi từ sáng chưa thấy về, bỗng nghe tiếng còi hụ ngoài đường. Tiếng bánh xe rít trên sỏi. Hai cảnh sát đi kèm John và Spencer giải vào. Viên trung úy lịch sự nói với nhà tỷ phú:
    - Thưa ông Kenneth, chúng tôi dẫn hai con trai của ông về. Vì là con ông nên chúng tôi bỏ qua. Nhưng đây là lần cuối cùng.
    John và Spencer cười nhâng nháo khi ông Kenneth lo lắng hỏi trung úy:
    - Lạy Chúa, chúng nó sinh sự gì vậy?
    - Lấy trộm chiếc xe đạp.
    - Ủa để làm gì mới được chứ?
    Trung úy cảnh sát nhìn thẳng vào mắt nhà tỷ phú:
    - Thưa ông Kenneth, ông nên hỏi các con ông thì hơn. Tôi chỉ có một lời khuyên: ông cần quản lý chặt hai cậu con, trước khi quá muộn?
    Tiễn chân cảnh sát ra về, ông Kenneth vào hỏi hai đứa:
    - Sao các con lại làm chuyện đó? Ăn cắp một chiếc xe đạp, lạ thiệt. Muốn mua mấy trăm chiếc chả được?
    Spencer cười nhăng nhở:
    - Bố chẳng hiểu gì hết! Xoáy chơi cho vui vậy thôi, để coi thử có những phản ứng gì. Chẳng lẽ chỉ bọn khố rách áo ôm mới trộm cắp, còn bọn con lại không?
    Không tự chủ được nữa, Kenneth Benson giang thẳng tay tát giữa mặt Spencer. Phản ứng quyết liệt của người bố lần đầu tiên nổ bùng khiến thằng con choáng váng, đứng lặng hồi lâu rồi co cẳng chạy khỏi nhà. Thằng anh bám theo. Lát sau, tiếng mô tô phân khối lớn gầm lên.
    Còn lại một mình trong nhà, ông Kenneth bưng đầu gục xuống. Tất cả sự thực phũ phàng đột ngột phơi bày trước mắt? Lỗi tại ông. Không nuôi dạy hai đứa con với tình thương yêu sáng suốt, ông đã làm chúng thối nát. Đã biến chúng thành quái vật, thành những hạt giống sát nhân. Ôi, giá như mẹ chúng vẫn còn chắc chắn tình hình sẽ khác hẳn, nhưng đau khổ thay, Elisa đã vắng bóng từ mười hai năm nay!
    Ngay lập tức, Kenneth có một quyết định dứt khoát. Vốn là con người hành động, khi thấy có vấn đề đặt ra là ông tìm bằng được cách giải quyết rốt ráo. Tin rằng John va Spencer hư hỏng vì thiếu vắng sụ giáo dục của một người mẹ, ông quyết định: mình sẽ tục huyền. Cáng sớm chừng nào càng hay!
    Kenneth Benson đã bắt tay vào việc thì tất yếu công việc phải được giải quyết trong thời gian ngắn nhất. Một tuần sau ông chấm được ý trung nhân. Người trúng cử là Dorothy Smith. Một phụ nữ bốn mươi lăm tuổi, tóc nâu sậm, người khô đét và dài như cây sào, khuôn mặt nhiều góc cạnh. Kenneth không quan tâm tới vẻ ngoài không mấy hấp dẫn của người vợ mới. Ông ấn định ngay vị trí và chức trách cho bà ta. Không có chuyện chăn gối gì hết, điều duy nhất phải làm cho tốt: dạy dỗ hai đứa con trai, không để chúng biến thành hai kẻ giết người.
    Dorothy Smith hiểu rất rõ nhiệm vụ được giaol
    - Ông cứ tin ở tôi. Tôi chỉ yêu cầu ông đảm nhận mọi chi phí trong gia đình.
    Nhà tỷ phú nhận lời. Đám cưới được tổ chức tháng Sáu năm 1974, rất giản dị. Từ đó tình hình biến đổi hẳn? Dorothy ngự trị trong biệt thự Elisa như một nữ hoàng tối thượng. Nắm chặt tay hòm chìa khóa, kẻ ăn người ở phải tường trình mọi khoản chi tiêu mỗi ngày. Và dĩ nhiên, John cũng như Spencer đều bị cắt đứt mọi khoản tiêu vặt. Mô tô và xe hơi đều bị tịch thu hết. Việc học hành được mẹ kế giám sát rất chặt, một lời đe dọa được lặp lại nhiều lần: nếu không đủ điểm sẽ bị đuổi khỏi biệt thự, đi nơi khác ở và kiếm việc làm để sống như mọi người?
    Thời gian đầu, hai anh em tìm mọi cách chống lại nền trật tự mới, nhưng chúng nhanh chóng nhận ra đối thủ cao tay hơn nhiều. Mỗi lần chúng phản đối đều bị Dorothy trừng mắt nhìn tuyên bố đanh thép:
    - Mẹ đã quyết định như vậy, các con cứ vậy mà làm. Không bằng lòng thì đi khỏi nhà này?
    Phải công nhận Dorothy rất công bằng, đối xử với hai anh em như nhau nên không đứa nào dám tỵ nạnh. Hai anh em biết thân biết phận nghiến răng chịu đựng, ôm chặt hận thù, giã từ cuộc sống phởn phơ trong hộp đêm, giã từ những cuộc đua xe bạt tử, những canh bạc bốc trời. Chúng phải vùi đầu vào học.
    Kenneth rất mừng. Nỗi tiếc thương người vợ trước vẫn âm thầm hủy hoại sức khỏe Kenneth rồi một bữa phá vỡ tim ông?
    Một tuần sau công chứng viên của gia đình Kenneth Benson mở di chúc ông ta để lại. John và Spencer thực lòng yêu quý bố nên rất tiếc thương, nhưng lúc này chúng chỉ nghĩ tới một điều: được thừa kế gia tài, nhận hàng trăm triệu đôla, đựoc vui chơi xả láng gấp nhiều lần trước? Phen này con mụ già thần nanh đỏ mỏ đừng hòng chọc gậy bánh xe!
    Công chứng viên lấy giọng trịnh trọng đọc to:
    ?oTôi để lại cho John và Spencer phần gia tài theo luật quy định tức là mỗi con tôi được nhận 300.000 đôla. Số tiền này sẽ được trao tận tay chúng khi nào vợ tôi là Dorothy qua đời. Tôi trao quyền cho Dorothy quản lý toàn bộ di sản cảu tôi. biệt thự Elisa là tài sản khôn chia phần, thuộc quyền sở hữu chung của hai con trai tôi và vợ tôi?"
    Hai chàng té ngửa, gần nghẹt thở? Mất quyền thừa kế! Chúng bị mắt quyền thừa kế, chỉ được mỗi đứa 300 ngàn so với vô số triệu rơi vào tay mụ? Dorothy ngồi thẳng lưng trên ghế bên khẽ nhấc miệng cười?
    Thì ra mụ đã biết từ trước. Đồ rắn độc! John va Spencer căm uất nhìn mụ, trong mắt cả hai đứa lóe lên tia lửa hận thù man rợ? Tuy vậy bộ ba vẫn phải sống chung dưới một mái nhà, không ai chịu bỏ phần biệt thự của mình?
    Thêm hai năm nữa qua đi. Bây giờ là tháng Ba năm 1979. Sự chung đụng trong biệt thự Elisa đã càng thẳng đến tột bực, mỗi hận thù của hai thằng con đối với dì ghẻ đã lên tới đỉnh điểm. Bỗng nhiên Dorothy Benson bị một cơn đột quỵ. Được cấp cứu kịp thời, mụ thoát chết. Bác sĩ của gia đình khi đưa mụ về nhà, dặn dò hai chàng:
    - Điều chủ yếu là bà phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Nếu tái phát lần sau thì khó lòng?
    ?oNếu tái phát thì khó lòng?? Hai anh em chẳng cần đưa mắt, chẳng cần nói với nhau nửa lời đã hiểu rõ bụng nhau. Lời dặn dò ngắn gọn đã rút ngắn số mệnh Dorothy?
    Một tháng sau, ngày 24 tháng Tư năm 1979, bác sĩ gia đình của nhà Benson nhận đựoc cú điện thoại cấp báo:
    - Mời tới ngay! Bà mẹ kế chúng tôi ngát xỉu trong bồn tắm. Có vẻ nguy kịch.
    Bác sĩ phóng xe như bay tới biệt thự Elisa. Lao bào phòng tăm. Thoáng nhìn cũng biết ngay bệnh nhân đã hết thở. Dorothy ngòi bệt trong bồn, đầu lật ra sau, mắt trợn ngươc, mồm há hốc. Khám nghiệm qua loa, bác sĩ kết luận: chết vì suy tim. Ông cấp giấy phép chôn cất. Ông chẳng hồ nghi gì hết, kết cục bi thảm này đã được ông dự báo trước rồi.
    Bác sĩ vừa đi khỏi, hai anh em thả sức bộc lộ niềm vui thắng lợi. Vị bác sĩ đáng kính đã sa bẫy. Án mạng đã được chúng dàn dựng tuyệt vời, không một kẽ hở nhỏ. Dù gia tài này có rơi vào tay đứa con gái riêng đời chồng trước của Dorothy thì mỗi đứa vẫn còn 300 ngàn đô và chiếc biệt thự này.
    ?oChà, ngón đòn đúng là tuyệt chiêu! Thì ra mụ ta cũng không ghê gớm lắm. Ăn nhau ở chỗ dám liều. Dám liều nên hai đứa mình toàn thắng. Sự đồng tâm nhất trí của hai anh em mình là yếu tố quan trọng lắm lắm trong vụ này??
    Ít bữa sau, John và Spencer lại có mặt trong văn phòng viên công chứng của gia đình. Con riêng của Dorothy ngồi bên hai anh em. Cô ta là người sẽ đút túi tài sản khổng lồ của nhà Benson. Hai anh em thỉnh thoảng lừ mắt nguýt đầy ghen tức. Nhưng biết không thể xoay chuyển tình thế, chúng ấm ức chấp nhận số phận, cam chịu bằng lòng với phần đã được chia. Và thản nhiên nhìn công chứng viên gỡ xi gắn chiếc phong bì đựng di chúc người mẹ kế. Lần này sẽ không có gì khiến chúng kinh ngạc như lần nghe di chúc của bố.
    Công chứng viên cất giọng nhà nghề đọc to:
    ?oTôi, Dorothy Benson, tuyên bố người nhận toàn bộ di sản của tôi là Spencer Benson, con trai riêng của chồng tôi??
    Không khí trong văn phòng lặng ngắt. Một lát sau, tiếng rú thất thanh, tiếng đổ ghế cái rầm. Con gái Dorothy vùng chạy đi, kêu khóc thảm thiết. Còn lại hai anh em đối diện công chứng viên. Chúng quay nhìn nhau hồi lâu.
    Một tuần sau khi mở chúc thư của Dorothy Benson, ngày 09 tháng Năm năm 1979, John Benson dừng xe trước đồn cảnh sát cận biệt thự Elisa. Viên cảnh sát tiếp gã lại chính là trung úy cách đây vài năm đã bắt giữ hắn cùng với Spencer về tội trộm xe đạp.
    - Thưa trung úy, tôi muốn lương tâm được thanh thản. Nên mới tố giác: em trai tôi phạm tội giết người. Nó dìm mẹ kế tôi chết ngạt để thừa hưởng gia tài?
    Sau phút bàng hoàng dễ hiểu, trung úy hỏi thêm chi tiết. John khai báo cặn kẽ, chính xác. Ngay hôm đó, Spencer bị bắt tại Los Angeles giải về gặp trung úy. Trung úy không rào đón úp mở, ném thẳng vào gã lời buộc tội:
    - Anh đã ám hại Dorothy Benson. Dìm bà chết ngạt dưới bồn nước tắm. Nào, khôn hồn thì thú nhận.
    Gã tân triệu phú đôla lấy giọng trịch thượng:
    - Biết đang nói chuyện với ai không trung úy?
    Viên sỹ quan vẫn điềm nhiên.
    - Đừng lên gân cho mệt. Tôi biết hết rồi. Anh trai anh đã bật mí.
    Nghe vậy, gã gục liền. Nghe trung úy hạ lệnh bắt giữ, gã chợt bật tỉnh:
    - Thế còn John? Ông đã bắt hắn rồi chứ? Hai chúng tôi chung sức giết mụ già mà.
    John Benson bị tóm nốt, cảnh sát Los Angeles thay nhau lấy khẩu cung nhưng gã một mực chối.
    - Spencer tự tay làm từ đầu đến đuôi. Nó được thừa kế, đâu phải tôi. Tôi phản đối hành động đó.
    Sau bảy mười hai giờ thẩm vấn, gã mới chịu nhận tội. Và tỏ vẻ nhẹ nhõm, thanh thản. Xin một điếu thuốc, rít lấy rít để. Rồi nhếch mép cười mỉm, vệt cười nhếch mép trông kỳ cục chuyển dần thành tiếng cười rũ rượi kéo dài mấy phút không sao kìm nổi. Mãi sau hắn mới nói được giữa hai đợt nấc cụt:
    - Hay thật! Hay cực kỳ!? Di chúc của con đĩ già ấy? Tôi vừa hiểu ra rồi? Hiểu tại sao mụ cho thằng Spencer tuốt tuột mà không cho tôi một đồng nào? Mụ biết trước?
    Gã ngưng bặt, lấy lại hơi thở dốc.
    - Mụ biết trước thế nào cũng bị chúng tôi thịt, nên nghĩ mẹo chia rẽ hai anh em tôi. Cho Spencer hết, để tôi trắng tay, mụ buộc tôi phải nghi ngờ thằng em phản. Và cuối cùng tôi sẽ không chịu thua, sẽ tố giác để nó không được hưởng gia tài. Thế là cả hai đứa đều nhịn luôn. Cả hai chuột đều sa bẫy. Tờ di chúc hay thật! Cái bẫy tài tình sập một phát được cả hai chuột liền.
    Dorothy Benson đối xử với hai anh em như nhau, không phân biệt, không thiên vị đứa nào tuy trong di chúc lại làm ra vẻ ưu đãi thằng em hơn.
    Hội đồng bồi thẩm tòa Los Angeles không phân biệt tội trạng của hai anh em nhà Benson. Cả hai tên đều bị buộc tội ngang như nhau, John và Spencer đều lãnh án tù chung thân.
  10. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Mẹ người bị tù oan
    Truyện ngắn Mỹ​
    Người phụ nữ 58 tuổi này mang cái tên mà các cậu bé, cô bé Mỹ thường đặt cho con chuột bạch nhỏ xíu nuôi chơi trong ***g sắt: Minnie. Kể ra thì cũng có gì đáng ngạc nhiên, vì Minnie không khác con chuột nhỏ bao nhiêu. Trong ***g, chuột miệt mài suốt ngày đạp bốn cái chân quay chiếc vòng không ngơi nghỉ. Trên tầng 40 tòa cao ốc số 56 đường Đông NewYork, Minnie cũng ngày ngày bò bốn chân cọ rửa, lau chùi sàn nhà từ 10 giờ đêm đến 6 giờ sáng. Sau đó từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều cùng ngày lại tới cọ rửa, lau chùi sàn các hộp đêm trên đường số 42. Ngày lại ngày cứ vậy, không ngơi nghỉ?
    Thẻ đoàn viên ?oCông đoàn Người Lao công? của Minnie ghi: Minnie Rolls. Da trắng, 58 tuổi. Ngụ tại khu Brooklyn. Thế thôi. Thẻ công đoàn không ghi, giấy căn cước cũng không ghi một sự kiện tày đình trong đời sống riêng của bà: năm 18 tuổi chẳng may rơi vào tay một gã du đãng dưới gầm một cây cầu nọ ở Brooklyn. Và từ cuộc đụng độ bất ưng này đã ra đời một chú bé. Minnie đặt tên con là Till để tưởng nhớ người ông nội gốc Áo. Rồi ngay từ đó bắt đầu cuộc đời lao công nhọc nhằn để nuôi thân và nuôi con. Trong 40 năm đằng đẵng, từ 18 đến 58 tuổi, bà đã lết hai gối trên không biết bao nhiêu cây số vuông sàn nhà, chỉ biết rằng hai đĩa xương bánh chè đều mòn vẹt, mười đầu ngón tay thành chai cứng như gỗ. Nhưng vẫn không dám nghỉ, mong sao thằng con không vì đói mà làm liều không bị nay tù mai tội như biết bao đứa cùng cảnh ?ocon hoang?.
    Tội nghiệp Minnie! Mơ ước chỉ có thế mà cũng không thực hiện nổi: Till bịcảnh sát bắt giam. Người mẹ biết con mình không trộm cắp, không giết người. Bà chắc chắn biết điều bất hạnh đã xảy ra với con bà là ở chỗ nó vô phúc rơi vào một viên cảnh sát nhầm lẫn nó với một tên khác. Hoặc cố tình bắt tội nó để khỏi tốn công truy tìm một tên khác. Chỉ một mình người mẹ biết và tin như vậy.
    Bữa đó nhằm ngày tháng Chạp năm 1932, Till bảo mẹ:
    - Mẹ ơi, xin mẹ tin con. Con làm than suốt ngày trong nhà mình, đâu có lai vãng tới tiệm bán đồ, đâu có biết ai bị giết hồi nào!
    Minnie tin. Nên từ bữa đó càng ra sức quét rửa, lau chùi không ngơi nghỉ, vì Till để lại cho bà một cô vợ trẻ và thằng cháu nội mới sinh. Dần dà, một ý nghĩ cháy bỏng nảy ra trong đầu, phát triển thành nỗi ám ảnh day dứt đêm ngày: phải tìm ra hung thủ, giải thoát con khỏi chốn ngục tù oan uổng. Muốn vậy, phải có điều kiện đầu tiên: đôla, thật nhiều đôla. Từ nay không thể ngủ tới 3 tiếng mỗi đêm. Cũng không được ăn mỗi ngày hai bữa... Nhờ nhịn ăn, nhịn mặc tăng giờ lau chùi cọ rửa nên mỗi cuối tuần Minnie lại tới ngân hàng gửi được chín phần mười số tiền vừa lãnh. Nhân viên thu tiền chăm chú nhìn mặt bà già héo hon trước tuổi, nhìn những ngón tay cong queo, khô khốc run rẩy đếm từng tờ giấy bạc, từng đồng xu lẻ. Rồi anh nói vui: ?oBà là người lao công giàu có nhất NewYork?. Thực ra Minnie đâu có giàu tiền giàu bạc, mà chỉ giàu hi vọng. Hy vọng kiếm đủ 5.000 đôla để cứu con? Till lãnh án tù chung thân, vào tù từ năm 1932. Đến nay đã 12 năm trôi qua. Minnie đã gom được 5.000 đôla. Bà xin nghỉ việc. Nói với các ông bà chủ đang thuê mướn mình: ?oTôi nghỉ xả hơi ít bữa?. Minnie về căn nhà ổ chuột của mình tại Brooklyn, ở lỳ trong đó. Một mình vò võ. Vì từ lâu rồi cô con dâu đã bỏ cuộc: cô quá trẻ, quá xinh nên không thể thăm nuôi mãi người tuy gọi là chồng nhưng đã bị kết án tù chung thân.
    Cũng trong thời gian này, ở cuối thành phố NewYork có một nữ phóng viên trẻ măng của tờ báo nhỏ nhưng đầy tham vọng nổi danh. Cô phóng viên trẻ đang nóng lòng thi thố tài năng. Phụ nữ làm phóng viên ở những năm đầu thập niên 40 đòi hỏi phải thật sôi nổi, cả gan và tài giỏi hơn bất cứ nghề nào khác. Năm 1944 này, nữ phóng viên Elisabeth Falsh mới hai mươi hai tuổi, nhưng đã có đủ những phẩm chất đó.
    Trong khi những đồng nghiệp nam giới có những đề tài viết về âm mưu chính trị, ngụp lặn trong các vụ ganxtơ, bới móc công đoàn và giành độc quyền về đề tài chiến tranh; Elisabeth có quan niệm khác hẳn họ về nhiệm vụ viết báo. Cô cho rằng tờ báo phải giúp bạn đọc thấu hiểu cảnh ngộ người đồng loại, nhất là những người dân bình thường. Cuộc sống thường nhật của họ thiếu gì những điều vĩ đại, những chuyện khác thường, sao cứ đua nhau vung phí giấy mực tả những vụ li hôn quái đản, những cuộc truy hoan của tỷ phú, những đám cưới hỏi của cô con gái dầu mỏ? Nghĩ vậy nên sáng nào cô cũng chăm chú đọc mục tin vặt của tất cả các tờ báo trong nước. Sáng 20 tháng Mười, cô đọc trên tờ Time của Chicago mấy dòng sau đây:
    ?oGiải thưởng 5.000 đôla sẽ được trao tặng cho ai giúp phát hiện hung thủ giết một cảnh sát ngày 6 tháng Mười hai năm 1932. Xin gọi điện thoại số 522-44-16, tiếp suốt ngày?.
    Elisabeth quay số, đinh ninh sẽ nghe giọng một đàn ông tiếp chuyện. Nhưng từ đầu dây bên kia vọng tới tiếng nói nhỏ nhẹ run run:
    - Minnie Rolls đây, cô muốn gì vậy?
    Tội nghiệp Minnie, từ bữa thuê đăng mấy dòng trên báo, bà đã nhận cơ man cú điện thoại của đủ loại người: lưu manh có, lừa đảo có, thám tử có, mà những kẻ rỗi mồm, tọc mạch và nhân chứng giả cũng không ít. Nên mỗi bận nghe máy bà đều trả lời:
    - Xin thứ lỗi, tôi không có nhiều thời giờ tiếp chuyện lâu. nếu ông (hoặc bà) có bằng chứng gì, xin vui lòng viết thư gửi cho ngài biện lý. Bằng chứng nào đáng giá nhất sẽ nhận được tiền thưởng.
    Minnie không còn cách nào khác. Bà chỉ đủ tiền trả bảy kỳ báo. Tuy có 5.000 đôla gửi ngân hàng, nhưng đó là món tiền bất khả xâm phạm. nếu qua một tuần chưa có kết qủ, bà sẽ lại đi làm, dành dụm rồi thuê đăng mấy ngày nữa.
    Elisabeth khẩn khoản nài:
    - Tôi là nhà báo, thưa bà, xin đừng bỏ máy.
    - Cũng phải như mọi người thôi. Tôi không muốn mất thời giờ vì tính tò mò của người khác.
    - Tôi muốn được gặp bà. Cách bà theo đuổi chẳng có tích sự gì hết, thật đấy. Đời thủa nhà ai lại truy tìm tên sát nhân bằng mấy dòng rao vặt trên báo, như thể rao tìm việc làm?
    Minnie đáp rằng con người thường tử tế khi ta cho họ cơ hội và đôla. Bà tận dụng thói ham tiền của các nhân chứng chứ không ảo tưởng tên giết người sẽ hối lỗi.
    Elisabeth vẫn vật nài đòi gặp. Minnie thẳng thừng từ chối:
    -Bữa con tôi bị kết án, báo chí các cô đều im re. Tât cả mọi người không một ai mở miệng. Một cảnh sát bị giết, thế là người ta tóm một thằng bé ngốc nghếch và bắt nó trả giá. Cô muốn biết thì tới hỏi cảnh sát, họ sẽ thuật lại cho mà nghe. Tôi kể sao bằng họ được! Vả lại tôi bận ngập đầu, phải nghe trả lời điện thoại không kịp thở nữa kia. Mỗi giờ ngồi nói như thế này, không đi làm là tôi mất đứt nửa đô. Cô thử tính mà coi, tôi phải bỏ ra mười hai năm quần quật không ăn không ngủ mới tích cóp được 5.000 đôla.
    Minnie gác máy. Elisabeth quyết định nhập cuộc, coi đây là sự nghiệp cả cuộc đời mình. Ông chủ báo hỏi cô căn cứ vào đâu cô tin chắc ?oMụ già điên? có lý, Elisabeth đáp:
    - Vì bà ta tin chắc mình có lý?
    Tại đồn cảnh sát, Elisabeth được biết vụ Till xảy ra như sau:
    Ngày 6 tháng Mười hai năm 1932, một cảnh sát vào cửa hàng nọ uống vại bia, đúng lúc hai tên cướp tấn công người thu ngân. Viên cảnh sát định can thiệp thì bị chúng giết chết rồi biến mất. Bà quản lý cửa hàng khai Till là một tên trong bọn.
    Till cãi: ngày đó anh ta chở than về nhà, vào đúng giờ đó, vì cô vợ đang chuyển dạ trong bệnh viện, mùa đông năm nay sẽ rất giá buốt, nhà lại có trẻ sơ sinh. Tối đó, có người đàn ông nhìn không rõ mặt tới gọi cửa, nói:
    - Chúng đang truy đuổi, tôi van anh, hãy giấu tôi đi?
    Sau đó, Till khai thêm: người kia cố tình chui xuống hầm nhà nấp một lát rồi đi không nói năng gì. Anh đã kể hết đầu đuôi với chòm xóm, với mẹ rồi với vợ.
    Nhưng cảnh sát cho rằng vợ Till đồng lõa với chồng. Bà quản lý cửa hàng khai: ?oĐúng nó, không sai?. Vậy là đủ để kết tội Till giết người. Chỉ riêng ông thẩm phán điều tra vụ việc coi đây là một sai lầm tư pháp, khốn nỗi ông bị chết đột tử trước khi kịp đòi xem xét lại bản án. Tiền thuê luật sư thì quá cao, vả lại các luật sư đều biết rõ: bào chữa cho kẻ đã giết nhân viên công lực đang thi hành nhiệm vụ là chuyện chẳng ngon lành gì.
    Till không bị tử hình là do thiếu bằng chứng: bà quản lý cửa hàng không khẳng định chính tay anh ta đã nổ súng,,, Nắm được diễn biến vụ án, Elisabeth cùng với các đồng nghiệp bỏ ra nhiều tháng đi thu thập thêm lời khai của nhân chứng, tìm gặp từng người trong hội đồng bồi thẩm. Trong khi Minnie đều đặn quay về với chổi và giẻ lau nhà để lại tiếp tục đăng trên báo:
    ?oGiải thưởng 5.000 đôla sẽ được trao tặng cho ai giúp phát hiện hung thủ giết một cảnh sát ngày 6 tháng Mười hai năm 1932. Xin gọi điện thoại số 522-44-16, tiếp suốt ngày?.
    Elisabeth tới hỏi bà con chòm xóm của mẹ con Minnie. Họ đều nói:
    - Cả buổi chiều bữa đó, cậu ấy bốc than đem vào nhà. Sáng sau cậu ấy kể với bọn tôi là có người đàn ông lạ mặt tới nấp ít lâu trong nhà rồi bỏ đi.
    Elisabeth tới gặp bà quản lý cửa hàng? sau một hồi quanh co cuối cùng bà ta thú thực:
    - Mấy chú cảnh sát dặn tôi nhận đúng cậu Till là một tên trong bọn. Thật tình mà nói, cậu ấy hơi hao hao giống, tuy có thấp nhỏ hơn? nhưng tôi nhìn đâu có còn tinh lắm?
    Ngày 16 tháng Chín năm 1945, Ủy ban ân xá quyết định thả Till. Anh trở về căn nhà ổ chuột Brooklyn với khoản trợ cấp của chính quyền đền bù cho mười hai năm ngồi tù oan uổng. Trở về nhưng mất vợ, mất con, không biết làm một nghề gì kiếm sống, vì suốt mười hai năm đó anh chỉ được người ta dạy bảo có một điều duy nhất: "chờ".
    Líu ríu bên con bước ra khỏi tòa án, mắt bà Minnie ướt đẫm, hai tay ghì chặt trước ngực một bọc nho nhỏ.
    Bà tới nhà cô phóng viên Elisabeth Falsh, hai tay nâng gói nhỏ đưa cô:
    - 5.000 đôla của con đây, cầm lấy. Con rất xứng đáng được nhận món tiền thưởng này của mẹ.
    Elisabeth khăng khăng từ chối. Giằng co mãi, bà Minnie mới thuận giữ lại cho mình kết quả của mười lăm tiếng quần quật mỗi ngày trong mười hai năm ròng rã.
    Bài báo của Elisabeth được đăng trên trang nhất với tựa đề: 65.699 giờ cọ rửa để chùi sạch vết nhơ oan ức trên người đứa con.
    Được songtunu sửa chữa / chuyển vào 10:02 ngày 20/04/2004

Chia sẻ trang này