1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những vụ án nổi tiếng thế giới - Biên soạn: Phương Hà, Vĩnh Hồ

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi songtunu, 14/04/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Mẹ người bị tù oan
    Truyện ngắn Mỹ​
    Người phụ nữ 58 tuổi này mang cái tên mà các cậu bé, cô bé Mỹ thường đặt cho con chuột bạch nhỏ xíu nuôi chơi trong ***g sắt: Minnie. Kể ra thì cũng có gì đáng ngạc nhiên, vì Minnie không khác con chuột nhỏ bao nhiêu. Trong ***g, chuột miệt mài suốt ngày đạp bốn cái chân quay chiếc vòng không ngơi nghỉ. Trên tầng 40 tòa cao ốc số 56 đường Đông NewYork, Minnie cũng ngày ngày bò bốn chân cọ rửa, lau chùi sàn nhà từ 10 giờ đêm đến 6 giờ sáng. Sau đó từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều cùng ngày lại tới cọ rửa, lau chùi sàn các hộp đêm trên đường số 42. Ngày lại ngày cứ vậy, không ngơi nghỉ?
    Thẻ đoàn viên ?oCông đoàn Người Lao công? của Minnie ghi: Minnie Rolls. Da trắng, 58 tuổi. Ngụ tại khu Brooklyn. Thế thôi. Thẻ công đoàn không ghi, giấy căn cước cũng không ghi một sự kiện tày đình trong đời sống riêng của bà: năm 18 tuổi chẳng may rơi vào tay một gã du đãng dưới gầm một cây cầu nọ ở Brooklyn. Và từ cuộc đụng độ bất ưng này đã ra đời một chú bé. Minnie đặt tên con là Till để tưởng nhớ người ông nội gốc Áo. Rồi ngay từ đó bắt đầu cuộc đời lao công nhọc nhằn để nuôi thân và nuôi con. Trong 40 năm đằng đẵng, từ 18 đến 58 tuổi, bà đã lết hai gối trên không biết bao nhiêu cây số vuông sàn nhà, chỉ biết rằng hai đĩa xương bánh chè đều mòn vẹt, mười đầu ngón tay thành chai cứng như gỗ. Nhưng vẫn không dám nghỉ, mong sao thằng con không vì đói mà làm liều không bị nay tù mai tội như biết bao đứa cùng cảnh ?ocon hoang?.
    Tội nghiệp Minnie! Mơ ước chỉ có thế mà cũng không thực hiện nổi: Till bịcảnh sát bắt giam. Người mẹ biết con mình không trộm cắp, không giết người. Bà chắc chắn biết điều bất hạnh đã xảy ra với con bà là ở chỗ nó vô phúc rơi vào một viên cảnh sát nhầm lẫn nó với một tên khác. Hoặc cố tình bắt tội nó để khỏi tốn công truy tìm một tên khác. Chỉ một mình người mẹ biết và tin như vậy.
    Bữa đó nhằm ngày tháng Chạp năm 1932, Till bảo mẹ:
    - Mẹ ơi, xin mẹ tin con. Con làm than suốt ngày trong nhà mình, đâu có lai vãng tới tiệm bán đồ, đâu có biết ai bị giết hồi nào!
    Minnie tin. Nên từ bữa đó càng ra sức quét rửa, lau chùi không ngơi nghỉ, vì Till để lại cho bà một cô vợ trẻ và thằng cháu nội mới sinh. Dần dà, một ý nghĩ cháy bỏng nảy ra trong đầu, phát triển thành nỗi ám ảnh day dứt đêm ngày: phải tìm ra hung thủ, giải thoát con khỏi chốn ngục tù oan uổng. Muốn vậy, phải có điều kiện đầu tiên: đôla, thật nhiều đôla. Từ nay không thể ngủ tới 3 tiếng mỗi đêm. Cũng không được ăn mỗi ngày hai bữa... Nhờ nhịn ăn, nhịn mặc tăng giờ lau chùi cọ rửa nên mỗi cuối tuần Minnie lại tới ngân hàng gửi được chín phần mười số tiền vừa lãnh. Nhân viên thu tiền chăm chú nhìn mặt bà già héo hon trước tuổi, nhìn những ngón tay cong queo, khô khốc run rẩy đếm từng tờ giấy bạc, từng đồng xu lẻ. Rồi anh nói vui: ?oBà là người lao công giàu có nhất NewYork?. Thực ra Minnie đâu có giàu tiền giàu bạc, mà chỉ giàu hi vọng. Hy vọng kiếm đủ 5.000 đôla để cứu con? Till lãnh án tù chung thân, vào tù từ năm 1932. Đến nay đã 12 năm trôi qua. Minnie đã gom được 5.000 đôla. Bà xin nghỉ việc. Nói với các ông bà chủ đang thuê mướn mình: ?oTôi nghỉ xả hơi ít bữa?. Minnie về căn nhà ổ chuột của mình tại Brooklyn, ở lỳ trong đó. Một mình vò võ. Vì từ lâu rồi cô con dâu đã bỏ cuộc: cô quá trẻ, quá xinh nên không thể thăm nuôi mãi người tuy gọi là chồng nhưng đã bị kết án tù chung thân.
    Cũng trong thời gian này, ở cuối thành phố NewYork có một nữ phóng viên trẻ măng của tờ báo nhỏ nhưng đầy tham vọng nổi danh. Cô phóng viên trẻ đang nóng lòng thi thố tài năng. Phụ nữ làm phóng viên ở những năm đầu thập niên 40 đòi hỏi phải thật sôi nổi, cả gan và tài giỏi hơn bất cứ nghề nào khác. Năm 1944 này, nữ phóng viên Elisabeth Falsh mới hai mươi hai tuổi, nhưng đã có đủ những phẩm chất đó.
    Trong khi những đồng nghiệp nam giới có những đề tài viết về âm mưu chính trị, ngụp lặn trong các vụ ganxtơ, bới móc công đoàn và giành độc quyền về đề tài chiến tranh; Elisabeth có quan niệm khác hẳn họ về nhiệm vụ viết báo. Cô cho rằng tờ báo phải giúp bạn đọc thấu hiểu cảnh ngộ người đồng loại, nhất là những người dân bình thường. Cuộc sống thường nhật của họ thiếu gì những điều vĩ đại, những chuyện khác thường, sao cứ đua nhau vung phí giấy mực tả những vụ li hôn quái đản, những cuộc truy hoan của tỷ phú, những đám cưới hỏi của cô con gái dầu mỏ? Nghĩ vậy nên sáng nào cô cũng chăm chú đọc mục tin vặt của tất cả các tờ báo trong nước. Sáng 20 tháng Mười, cô đọc trên tờ Time của Chicago mấy dòng sau đây:
    ?oGiải thưởng 5.000 đôla sẽ được trao tặng cho ai giúp phát hiện hung thủ giết một cảnh sát ngày 6 tháng Mười hai năm 1932. Xin gọi điện thoại số 522-44-16, tiếp suốt ngày?.
    Elisabeth quay số, đinh ninh sẽ nghe giọng một đàn ông tiếp chuyện. Nhưng từ đầu dây bên kia vọng tới tiếng nói nhỏ nhẹ run run:
    - Minnie Rolls đây, cô muốn gì vậy?
    Tội nghiệp Minnie, từ bữa thuê đăng mấy dòng trên báo, bà đã nhận cơ man cú điện thoại của đủ loại người: lưu manh có, lừa đảo có, thám tử có, mà những kẻ rỗi mồm, tọc mạch và nhân chứng giả cũng không ít. Nên mỗi bận nghe máy bà đều trả lời:
    - Xin thứ lỗi, tôi không có nhiều thời giờ tiếp chuyện lâu. nếu ông (hoặc bà) có bằng chứng gì, xin vui lòng viết thư gửi cho ngài biện lý. Bằng chứng nào đáng giá nhất sẽ nhận được tiền thưởng.
    Minnie không còn cách nào khác. Bà chỉ đủ tiền trả bảy kỳ báo. Tuy có 5.000 đôla gửi ngân hàng, nhưng đó là món tiền bất khả xâm phạm. nếu qua một tuần chưa có kết qủ, bà sẽ lại đi làm, dành dụm rồi thuê đăng mấy ngày nữa.
    Elisabeth khẩn khoản nài:
    - Tôi là nhà báo, thưa bà, xin đừng bỏ máy.
    - Cũng phải như mọi người thôi. Tôi không muốn mất thời giờ vì tính tò mò của người khác.
    - Tôi muốn được gặp bà. Cách bà theo đuổi chẳng có tích sự gì hết, thật đấy. Đời thủa nhà ai lại truy tìm tên sát nhân bằng mấy dòng rao vặt trên báo, như thể rao tìm việc làm?
    Minnie đáp rằng con người thường tử tế khi ta cho họ cơ hội và đôla. Bà tận dụng thói ham tiền của các nhân chứng chứ không ảo tưởng tên giết người sẽ hối lỗi.
    Elisabeth vẫn vật nài đòi gặp. Minnie thẳng thừng từ chối:
    -Bữa con tôi bị kết án, báo chí các cô đều im re. Tât cả mọi người không một ai mở miệng. Một cảnh sát bị giết, thế là người ta tóm một thằng bé ngốc nghếch và bắt nó trả giá. Cô muốn biết thì tới hỏi cảnh sát, họ sẽ thuật lại cho mà nghe. Tôi kể sao bằng họ được! Vả lại tôi bận ngập đầu, phải nghe trả lời điện thoại không kịp thở nữa kia. Mỗi giờ ngồi nói như thế này, không đi làm là tôi mất đứt nửa đô. Cô thử tính mà coi, tôi phải bỏ ra mười hai năm quần quật không ăn không ngủ mới tích cóp được 5.000 đôla.
    Minnie gác máy. Elisabeth quyết định nhập cuộc, coi đây là sự nghiệp cả cuộc đời mình. Ông chủ báo hỏi cô căn cứ vào đâu cô tin chắc ?oMụ già điên? có lý, Elisabeth đáp:
    - Vì bà ta tin chắc mình có lý?
    Tại đồn cảnh sát, Elisabeth được biết vụ Till xảy ra như sau:
    Ngày 6 tháng Mười hai năm 1932, một cảnh sát vào cửa hàng nọ uống vại bia, đúng lúc hai tên cướp tấn công người thu ngân. Viên cảnh sát định can thiệp thì bị chúng giết chết rồi biến mất. Bà quản lý cửa hàng khai Till là một tên trong bọn.
    Till cãi: ngày đó anh ta chở than về nhà, vào đúng giờ đó, vì cô vợ đang chuyển dạ trong bệnh viện, mùa đông năm nay sẽ rất giá buốt, nhà lại có trẻ sơ sinh. Tối đó, có người đàn ông nhìn không rõ mặt tới gọi cửa, nói:
    - Chúng đang truy đuổi, tôi van anh, hãy giấu tôi đi?
    Sau đó, Till khai thêm: người kia cố tình chui xuống hầm nhà nấp một lát rồi đi không nói năng gì. Anh đã kể hết đầu đuôi với chòm xóm, với mẹ rồi với vợ.
    Nhưng cảnh sát cho rằng vợ Till đồng lõa với chồng. Bà quản lý cửa hàng khai: ?oĐúng nó, không sai?. Vậy là đủ để kết tội Till giết người. Chỉ riêng ông thẩm phán điều tra vụ việc coi đây là một sai lầm tư pháp, khốn nỗi ông bị chết đột tử trước khi kịp đòi xem xét lại bản án. Tiền thuê luật sư thì quá cao, vả lại các luật sư đều biết rõ: bào chữa cho kẻ đã giết nhân viên công lực đang thi hành nhiệm vụ là chuyện chẳng ngon lành gì.
    Till không bị tử hình là do thiếu bằng chứng: bà quản lý cửa hàng không khẳng định chính tay anh ta đã nổ súng,,, Nắm được diễn biến vụ án, Elisabeth cùng với các đồng nghiệp bỏ ra nhiều tháng đi thu thập thêm lời khai của nhân chứng, tìm gặp từng người trong hội đồng bồi thẩm. Trong khi Minnie đều đặn quay về với chổi và giẻ lau nhà để lại tiếp tục đăng trên báo:
    ?oGiải thưởng 5.000 đôla sẽ được trao tặng cho ai giúp phát hiện hung thủ giết một cảnh sát ngày 6 tháng Mười hai năm 1932. Xin gọi điện thoại số 522-44-16, tiếp suốt ngày?.
    Elisabeth tới hỏi bà con chòm xóm của mẹ con Minnie. Họ đều nói:
    - Cả buổi chiều bữa đó, cậu ấy bốc than đem vào nhà. Sáng sau cậu ấy kể với bọn tôi là có người đàn ông lạ mặt tới nấp ít lâu trong nhà rồi bỏ đi.
    Elisabeth tới gặp bà quản lý cửa hàng? sau một hồi quanh co cuối cùng bà ta thú thực:
    - Mấy chú cảnh sát dặn tôi nhận đúng cậu Till là một tên trong bọn. Thật tình mà nói, cậu ấy hơi hao hao giống, tuy có thấp nhỏ hơn? nhưng tôi nhìn đâu có còn tinh lắm?
    Ngày 16 tháng Chín năm 1945, Ủy ban ân xá quyết định thả Till. Anh trở về căn nhà ổ chuột Brooklyn với khoản trợ cấp của chính quyền đền bù cho mười hai năm ngồi tù oan uổng. Trở về nhưng mất vợ, mất con, không biết làm một nghề gì kiếm sống, vì suốt mười hai năm đó anh chỉ được người ta dạy bảo có một điều duy nhất: "chờ".
    Líu ríu bên con bước ra khỏi tòa án, mắt bà Minnie ướt đẫm, hai tay ghì chặt trước ngực một bọc nho nhỏ.
    Bà tới nhà cô phóng viên Elisabeth Falsh, hai tay nâng gói nhỏ đưa cô:
    - 5.000 đôla của con đây, cầm lấy. Con rất xứng đáng được nhận món tiền thưởng này của mẹ.
    Elisabeth khăng khăng từ chối. Giằng co mãi, bà Minnie mới thuận giữ lại cho mình kết quả của mười lăm tiếng quần quật mỗi ngày trong mười hai năm ròng rã.
    Bài báo của Elisabeth được đăng trên trang nhất với tựa đề: 65.699 giờ cọ rửa để chùi sạch vết nhơ oan ức trên người đứa con.
    Được songtunu sửa chữa / chuyển vào 10:02 ngày 20/04/2004
  2. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Trước ngã ba đường
    Truyện ngắn Mỹ.​
    Ở tuổi ngoài năm mươi một chút mà được như thế này William Farrell có thể tự coi là thành đạt trong cuộc đời: sau ít năm làm nhân viên quèn cho một ngân hàng lớn, giờ đây ông ngồi trên ghế giám đốc chi nhánh NewYork với thu nhập mỗi năm vài chục ngàn đô la.
    Có lẽ cũng vì thế mà William luôn thấy mình còn trẻ. Quả thật, so với bạn bè đồng nghiệp cùng lứa, ông vẫn còn tráng kiện lắm. Dáng cao lớn, thân hình chắc lẳn như hồi mới ba mươi, mấy lọn tóc muối tiêu bên thái dương càng tôn cao những nét dễ ưa trên gương mặt. Tuy có những ưu thế trời cho ấy nhưng ông không để ý lắm vì mải mê công việc. Cho tới năm vừa rồi, khi gặp Cynthia.
    Hai người tình cờ gặp nhau trong bữa tiệc nhà bạn bè? Cynthia ba mươi lăm, tuổi chín mọng của phụ nữ. Ngay buổi đầu William đã thấy choáng váng trước vẻ quyến rũ của thiếu phụ, không sao cưỡng nổi sức hút mãnh liệt kia. Tóm lại, ông yêu Cynthia, yêu đến phát điên phát cuồng, phát rồ phát dại? Mối tình vụng trộm đã kéo dài được khá lâu?
    William nhanh nhẹn đưa xe vào gara ngôi nhà ông tại một vùng ngoại ô NewYork. Lúc này là 7 giờ tối ngày 20 tháng Chín năm 1976. Ông nhẹ tay tra chìa khóa mở cửa rồi len lén lách vào, gần như một tên trộm, tuy đây là nhà ông. Vì lúc này, lương tâm không thanh thản.
    Bóng tối và cảnh vắng lặng trong nhà khiến William trấn tĩnh lại. Rõ ràng bà vợ Marjorie còn đang mê mải với cỗ bài Bridge ở câu lạc bộ, ít nhất cũng mười lăm phút nữa mới về tới. Ông còn đủ thì giờ.
    Bàn tay phải trong túi run run nắm một vật bé xíu nhẵn nhụi, ông tự nhủ: Lúc này không phải lúc đắn đo suy tính gì nữa, không thể lùi bước được nữa. Ý định đã nghiền ngẫm từ lâu rồi, mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng rồi, phải ra tay thôi, đừng chần chừ nữa.
    William lên thang rất nhanh, lẻn vào phòng vợ. Hai người ngủ riêng từ mười năm nay. Khác hẳn hai chục năm đầu mới lấy nhau. Ông đã thực sự yêu Marjorie trong hai mươi năm, nhưng giờ đây tình yêu đó đã thành dĩ vãng, xa xăm, tựa hồ không hề có?
    Ông nhẹ tay mở ngăn kéo bàn ngủ của vợ, lấy đúng thứ định tìm: chiếc lọ nhỏ đựng vitamin. Trên nhãn đề rõ: lọ có sáu chục viên, sáu chục viên nhỏ xíu màu hồng mát dịu như màu hồng sơn móng tay của Cynthia. May mắn cho William, nhờ vậy ông chỉ vê cục strychnin cho vừa bằng viên vitamin rồi quét một lớp sơn móng tay lên là xong. Trông y hệt, có khi người bán thuốc cũng không thể phân biệt nổi.
    William mở lọ vitamin, lấy ra một viên rồi bỏ viên strychnin vào. Ông chỉ nhận ra nó vì nó nằm ngay chính giữa, lớp trên cùng, ngoài ra không có chút gì khác các viên xung quanh. Ông đậy nắp, lắc mạnh lọ thuốc. Trong gian phòng rung lên tiếng nhẹ nhẹ như tiếng lục lạc và ngay sau đó dưới tầng trệt vẳng lên một tiếng động khác: tiếng mở khóa cửa, sau đó tiếng Marjorie:
    - Anh yêu, anh ở trên đó phải không?
    William vội đặt lọ vitamin vào chỗ cũ rồi chạy xuống đón. Khi ôm hôn vợ, ông hơi rùng mình ghê tởm, nhưng bây giờ thì đã muộn. Cỗ máy đang chạy: Mỗi ngày Marjorie uống hai viên khi ăn sáng; trong lọ có sáu mươi viên, vị chi Marjorie còn sống hoặc một ngày hoặc một tháng nữa. Hôm nay là ngày 20 tháng Chín, Marjorie sẽ chết trong khoảng từ 21 tháng Chín đến 20 tháng Mười. Đích xác ngày nào?
    21 tháng Chín, William chạy xe vào khu trung tâm NewYork. Sáng nào cũng vậy, ông theo con đường này để tới nhiệm sở. Nhìn đồng hồ thấy kim chỉ 8 giờ 30 phút, ông thầm tính toán: mười lăm phút nữa Marjorie sẽ tỉnh giấc, cô xuống bếp nấu món ăn sáng, trở lên lầu, và vẫn bận tấm áo ngủ hoa hoét mà ông chịu không nổi, cô trèo lên giường, kê gối tựa lưng thoải mái rồi uống hai viên vitamin chiêu bằng ly nước cam tươi.
    Hồi nãy, trước khi đi làm ông đã hé cửa liếc vào: Marjorie vẫn ngủ say, và vẫn để cả một đống ?olô? uốn tóc cùng với trâm, cặp tua tủa trên đầu như mọi bữa. Thật khó coi!? Lúc đó, William chợt mong sao cho sự việc xảy ra ngay sáng nay. Đã quyết thì quyết cho rồi. Đáng lẽ không nên lắc. Cô ta sẽ lấy viên trên cùng, và thế là gọn sau vài phút đồng hồ. Còn bây giờ, đành phải chờ. Có khi phải chờ một tháng.
    Ngồi vào bàn làm việc quen thuộc từ bao năm nay, William không sao đọc nổi những tờ giấy cô thư ký vừa mang tới. Hai mắt nhìn trân trân vào chiếc đồng hồ đề bàn xinh xắn trước mặt: kim chỉ 9 giờ 5. Sau mười phút nữa có thể gọi được? Mắt vẫn nhìn trân trân vào đồng hồ, đầu óc tập trung đến nỗi nhìn rõ chiếc kim phút xuống dần, xuống dần con số 3. Chiếc đồng hồ là quà rặng của Marjorie nhân dịp kỷ niệm đám cưới hai vợ chồng, vào dịp thứ bao nhiêu cũng chẳng nhớ nữa. Tất nhiên, ông ta thấy chiếc đồng hồ xấu ghê xấu gớm. Cái cô Marjorie này đâu có phân biệt nổi cái xấu với cái đẹp!
    9 giờ 15. William nhấc máy điện thoại. Và bất chợt nhận ra một điều thật vô lý: không sao nhớ ra số điện thoại nhà mình. Mỗi năm ông gọi điện về nhà không tới mười lần, những khi cần báo cho vợ biết tối nay ông mời khách về nhà ăn tối. Thế thôi. Còn thì chỉ Marjorie gọi tới, ngày nào cũng gọi, dù chỉ để nói những chuyện chẳng đáng gì như ?obữa nay nhà mình không có thư?, hoặc hỏi thăm chồng vài câu?
    William vừa tìm được số điện thoại trong sổ. Bấm xong phím số cuối cùng, ông nhịn thở? Chuông đổ? hồi thứ nhất? thứ hai? Tiếng chị vợ:
    - Alô, tôi nghe đây.
    - Anh đây, William đây.
    Giọng Marjorie bỗng tỏ vẻ lo lắng:
    - Có chuyện gì không anh?
    - Không, anh chỉ báo em biết chiều nay anh về hơi trễ một chút.
    Marjorie lẩm bẩm có ý không vui, nhưng lại lấy ngay được giọng niềm nở:
    - Không sao đâu, anh yêu. Vừa ngủ dậy đã được nghe tiếng anh dù qua điện thoại em cũng thấy vui quá. Thật không ngờ, Mong anh luôn gọi điện cho em như thế này nha!
    William thoáng ngạc nhiên nhưng trấn tĩnh được ngay:
    - Đồng ý. Từ nay, sáng nào anh cũng gọi điện cho em. Anh hứa.
    Suốt ngày hôm đó, William cố hết sức bắt đầu óc tập trung làm việc. Nhưng trong khi đọc các bản thống kê, cân đối thu chi, hóa đơn xuất nhập? cứ có hai con số lởn vởn trong đầu tuy chẳng ăn nhập gì vơi những con số đang sờ sờ trước mắt: 58 ?" 29? 58 viên vitamin, 29 ngày sống, thời hạn tối đa cho Marjorie?
    Chiều đến, ông hăm hở lao tới nhà cô bồ Cynthia. Ông làm việc này vì cô, để có cô cho riêng mình, để bắt đầu một cuộc sống mới, để có được một thời thanh xuân mới. Rất cần gặp cô thật nhanh, vì chỉ khi ở bên người tình ông mới tạm quên được việc mình đã làm.
    Tuy nhiên ông không cho Cynthia biết. Không dám nói, sợ bị người tình ghê sợ, có thể sẽ hắt hủi mình. Nên William nín thinh không hé răng tiết lộ. Cynthia tiếp đón ông vẫn nồng nàn vẫn thắm thiết hết mình như mọi bữa. Khi đồng hồ điểm 9 giờ ông trở về nhà.
    Vừa vào tới phòng khách, William giật mình đứng sững Marjorie đứng chờ ông tự lúc nào đang nở nụ cười tươi tắn, giang rộng hai tay đón ông. Bữa nay cô diện tấm áo mới, mái tóc bới đổi kiểu cũng mới, trông thật xinh. Hơn nữa, khác hẳn mọi bữa thấy ông về trễ cô thường cằn nhằn kèm theo hàng tràng dài lời khuyên gìn giữ sức khỏe đại loại ?ovừa vừa thôi ông ạ, cày thế để mà chết sớm à???. thì bữa nay cô không hề trách móc nửa lời.
    Chỉ nắm tay kéo tuột William vào bếp:
    - Nhìn kìa, em nấu toàn những món anh thích nhất.
    William chưa kịp cởi áo mưa, đi theo vợ như cái máy, mãi mới hỏi:
    - Sao lại làm vào hôm nay?
    Marjorie nhoẻn cười nhí nhảnh, ngoẹo đầu nũng nịu:
    - Để cảm ơn anh đã gọi điện cho em sáng nay, anh yêu! Lâu lắm mới lại được như vậy, nên em rất sung sướng? Không được quên đâu nha, anh đã hứa sáng nào cũng gọi điện cho em rồi đấy!
    Ngồi vào bàn, tuy chị vợ luôn mỉm cười thúc giục nhưng William không sao nuốt nổi những món ăn ngon lành được vợ xào nấu rất khéo. Trong lòng day dứt một nỗi niềm khó tả, pha trộn thương xót lẫn ghê tởm. Bao năm nay ông ta không ngó ngàng gì tới vợ, coi Marjorie chỉ còn là một mớ những thỏa thuận, những thói quen, nhứng định kiến. Vậy mà chỉ một cuộc điện thoại sáng nay đã biến Marjorie thành người phụ nữ đầy sức sống và tình yêu đang âu yếm chăm sóc ông?
    Nhưng muộn mất rồi? Đã đi thì phải đi tới cùng, đâm lao thì phải theo lao. Bỏ dở bữa ăn, William lên lầu, mặc cho vợ cô níu kéo với đôi mắt hờn tủi ngân ngấn ướt?
    Trong ba ngày liên, cảnh khó lòng chịu đựng này cứ như vậy diễn ra. Sáng sáng, William bồn chồn ngồi sau bàn làm việc ở nhiệm sở nhìn trân trân vào chiếc kim đồng hồ mạ vàng chờ lúc nó chỉ 9 giờ 15 phút. Nhấc điện thoại? nghe hồi chuông thứ nhất? hồi thứ hai, rồi nghe tiếng Marjorie sau hồi chuông thứ ba. Càng ngày cô càng tỏ vẻ thích lệ mới này, cô vừa nói vừa cười, giọng đầy âu yếm?
    Sau mỗi lần như vậy, khi gác máy William lại tự nhiếc mình dã man vô nhân đạo, lại hạ quyết tâm khi về nhà sẽ ném lọ vitamin thật xa. Vẫn còn kịp dừng lại, vẫn còn đủ thì giờ cứu sống Marjorie? Nhưng đến tối, sau khi chia tay Cynthia, ý định cũ lại trở lại mạnh hơn, dữ dội hơn: phải đi đến cùng!
    Ngày thứ năm, ngày Marjorie uống viên thứ chín thứ mười đã tới. Một bài toán bất ngờ lần đầu tiên xuất hiện. Mọi trưa thứ bảy trước William vẫn tới nhiệm sở làm việc, cả ngày chủ nhật cũng phải đi làm trong khi Marjorie về nghỉ cuối tuần tại nhà nghỉ của hai vợ chồng ở Lockport phía bắc bang NewYork kế cận thác Niagara. Nhưng thứ bảy này cô ta khăng khăng đòi chồng cùng đi? Tất nhiên William viện đủ cớ để từ chối, nhưng sau hồi lâu, sợ vợ sinh nghi đành phải nhận lời. Trước khi lên đường, ông không quên lấy lọ vitamin trong học bàn ngủ bỏ vào túi? Lỡ Marjorie chết ngay bên mình thì rầy rà to!
    Thứ hai ngày 27 tháng Chín năm 1976, William ngồi trong phòng làm việc tại nhiệm sở, hai mắt trân trân nhìn kim đồng hồ trên bàn đang chỉ 9 giờ 10. Cố xua đuổi những hình ảnh ngọt ngào trong dịp nghỉ cuối tuần vừa qua mà không sao làm được. Marjorie chưa bao giờ đáng yêu như trong mấy ngày vừa rồi. Cô đòi bằng được hai vợ chồng dắt nhau đi trên con đường bên thác Niagara, đoạn đường hai người đã cùng đi hồi mới cưới. Và khiến ông nhớ lại nhiều điều nhiều cảnh đã vùi sâu trong ký ức từ lâu?
    Lần này William thấy cảm động, bối rối hơn bao giờ hết. Và nao núng lưỡng lự hơn bao giờ hết. Nên dừng tay chăng? Vẫn còn kịp mà! Nhưng rồi như bị ma đưa lối quỷ dẫn đường, bàn tay lại run run lấy chiếc lọ trong túi bỏ vào hộc bàn ngủ trong phòng Marjorie.
    Chắc bây giờ Marjorie đang đợi cú điện thoại buổi sáng, cú điện thoại đã trở thành mòn quà quý giá không thể thiếu hàng ngày.
    William liếc nhìn đồng hồ: 9 giờ 20. Ủa, sao nhanh vậy, trễ 5 phút rồi. Tay run bắn lên, ông nhấc máy, bấm số. Hồi chuông thứ nhất? hồi chuông thứ hai? Đây là lúc Marjorie cầm máy? Hồi chuông thứ ba đổ ở đầu dây bên kiea, một hôit nữa, rồi một hồi nữa? Sau hồi chuông thứ mười, William quăng máy đâm bổ ra ngoài? Đáng lẽ phải ngồi yên tại chỗ và đợi, như kịch bản đã vạch sẵn, vả lại đây là điều chờ đợi, mong mỏi từ lâu nay mới tới, sao lại hốt hoảng như vậy?
    Trên đường chạy xe hết tốc độ để về nhà, William chợt nhận ra mình đã phạm sai lâm nghiêm trọng? Đáng lẽ không nên hạ sát Marjorie ở thời điểm hiện tại? Nếu cô ta chết ngay ngày đầu, ngay từ viên thuốc thứ nhất, không đáp lại cú điện thoại đầu tiên ông gọi cho cô sau bao nhiêu năm, mọi sự sẽ diễn ra trót lọt chẳng có vướng mắc gì, theo đúng kế hoạch dự tính. Nhưng sự việc xảy ra theo quy luật của nó: do thấp thỏm, nơm nớp mỗi ngày, ông đã phải gọi điện cho vợ, và giữa hai người đã có những cuộc trò chuyện được nối lại sau nhiều năm đứt đoạn? Không biết từ lúc nào, tận đáy sâu tiềm thức, William không muốn giết vợ nữa. Tuy lý trí chưa nhận biết thật rõ rệt nhưng thâm tâm đã chấp nhận, đã mong muốn Marjorie vẫn tồn tại, với những tật xấu, những lố lăng vốn có, với tình yêu chồng theo kiểu riêng của cô. Vậy mà ông lại giết chết cô rồi!
    Về tới nhà, William Farrell chợt cảm thấy còn một chút hy vọng mong manh. Biết đâu đấy, có khi Marjorie không ở trong phòng ngủ khi ông gọi điện về? Có thể đang sửa soạn bữa sáng trong bếp chẳng hạn?
    Trước khi nhảy từng bốn bực một lên cầu thang, William liếc nhìn vào bếp: không có người. Đạp cửa phòng trên của Marjorie chạy vào: cô nằm gục trên giường, ly nước cam trống trơn bên chiếc lọ đựng những viên vitamin màu hồng. Một tay vắt lên máy điện thoại, có lẽ phút cuối cùng cô định gọi chồng cầu cứu?
    William nhảy bổ tới nhấc điện thoại gọi Parker, bác sỹ của gia đình. Rồi cố tìm cách cứu chữa Marjorie bằng nhưng phương tiện gặp chăng hay chớ: đắp khăn ướt, xoa bóp, hà hơi thổi ngạt. Không một giây nào nghĩ mình đang hành động hết sức phi lý: mới tối qua thôi, chính tay mình đặt lọ thuốc vào ngăn kéo kia, chính tay mình đã giết vợ. Gây án mạng có chủ định, hơn nữa, có thể coi là án mạng được lặp lại mỗi ngày, bởi lẽ mỗi ngày ông ta đều có thể cứu sống vợ nhưng vẫn để mặc. Bây giừo đứng trước người vợ sắp chết, hoặc chết rồi không chừng, William quên hết mọi chuyện.
    Bác sỹ Parker vừa tới. Không cần hỏi han vô ích, bác sỹ tới ngay bên giường. Sau vài giây khám nghiệm, bác sỹ lắc đầu. Hết hy vọng.
    William gục xuống khóc nức nở. Bác sỹ hỏi ông: ?oBà nhà có hay dùng thuốc ngủ hoặc có xài ma túy không??, ông chỉ lắc đầu, không nói.
    Bác sỹ Parker thở dài buồn bã. Ông quen biết hai vợ chồng từ hai mươi năm nay, đã trở thành bạn thân của họ, nhưng ông vẫn phải làm phận sự của mình.
    - Tôi rất tiếc, ông bạn thân mến. Tôi không thể ký chứng nhận khai tử được. Đây là một vụ đầu độc. Phải chờ nhà chức trách mở cuộc điều tra.
    William không phản ứng gì khi nghe nói ?omở cuộc điều tra?. Một tuần sau, khi cuộc điều tra bắt đầu ông ta cũng không phản ứng gì. Mổ tử thi Marjorie, bác sỹ pháp y phát hiện một lượng strychnin chết người. Chồng nạn nhân rõ ràng là kẻ đáng nghi, nhưng các điều tra viên chưa lần ra manh mối, vì William chỉ trả lời các câu hỏi của họ rất lấp lửng, thậm chí tránh né. Ông ta chưa hết bàng hoàng trước cái chết của người vợ.
    _____
    (to be cont. - xin lỗi vì mạng không cho phép mình up hết vào 1 bài)
    Được songtunu sửa chữa / chuyển vào 12:28 ngày 22/04/2004
  3. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Trước ngã ba đường
    Truyện ngắn Mỹ.​
    Ở tuổi ngoài năm mươi một chút mà được như thế này William Farrell có thể tự coi là thành đạt trong cuộc đời: sau ít năm làm nhân viên quèn cho một ngân hàng lớn, giờ đây ông ngồi trên ghế giám đốc chi nhánh NewYork với thu nhập mỗi năm vài chục ngàn đô la.
    Có lẽ cũng vì thế mà William luôn thấy mình còn trẻ. Quả thật, so với bạn bè đồng nghiệp cùng lứa, ông vẫn còn tráng kiện lắm. Dáng cao lớn, thân hình chắc lẳn như hồi mới ba mươi, mấy lọn tóc muối tiêu bên thái dương càng tôn cao những nét dễ ưa trên gương mặt. Tuy có những ưu thế trời cho ấy nhưng ông không để ý lắm vì mải mê công việc. Cho tới năm vừa rồi, khi gặp Cynthia.
    Hai người tình cờ gặp nhau trong bữa tiệc nhà bạn bè? Cynthia ba mươi lăm, tuổi chín mọng của phụ nữ. Ngay buổi đầu William đã thấy choáng váng trước vẻ quyến rũ của thiếu phụ, không sao cưỡng nổi sức hút mãnh liệt kia. Tóm lại, ông yêu Cynthia, yêu đến phát điên phát cuồng, phát rồ phát dại? Mối tình vụng trộm đã kéo dài được khá lâu?
    William nhanh nhẹn đưa xe vào gara ngôi nhà ông tại một vùng ngoại ô NewYork. Lúc này là 7 giờ tối ngày 20 tháng Chín năm 1976. Ông nhẹ tay tra chìa khóa mở cửa rồi len lén lách vào, gần như một tên trộm, tuy đây là nhà ông. Vì lúc này, lương tâm không thanh thản.
    Bóng tối và cảnh vắng lặng trong nhà khiến William trấn tĩnh lại. Rõ ràng bà vợ Marjorie còn đang mê mải với cỗ bài Bridge ở câu lạc bộ, ít nhất cũng mười lăm phút nữa mới về tới. Ông còn đủ thì giờ.
    Bàn tay phải trong túi run run nắm một vật bé xíu nhẵn nhụi, ông tự nhủ: Lúc này không phải lúc đắn đo suy tính gì nữa, không thể lùi bước được nữa. Ý định đã nghiền ngẫm từ lâu rồi, mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng rồi, phải ra tay thôi, đừng chần chừ nữa.
    William lên thang rất nhanh, lẻn vào phòng vợ. Hai người ngủ riêng từ mười năm nay. Khác hẳn hai chục năm đầu mới lấy nhau. Ông đã thực sự yêu Marjorie trong hai mươi năm, nhưng giờ đây tình yêu đó đã thành dĩ vãng, xa xăm, tựa hồ không hề có?
    Ông nhẹ tay mở ngăn kéo bàn ngủ của vợ, lấy đúng thứ định tìm: chiếc lọ nhỏ đựng vitamin. Trên nhãn đề rõ: lọ có sáu chục viên, sáu chục viên nhỏ xíu màu hồng mát dịu như màu hồng sơn móng tay của Cynthia. May mắn cho William, nhờ vậy ông chỉ vê cục strychnin cho vừa bằng viên vitamin rồi quét một lớp sơn móng tay lên là xong. Trông y hệt, có khi người bán thuốc cũng không thể phân biệt nổi.
    William mở lọ vitamin, lấy ra một viên rồi bỏ viên strychnin vào. Ông chỉ nhận ra nó vì nó nằm ngay chính giữa, lớp trên cùng, ngoài ra không có chút gì khác các viên xung quanh. Ông đậy nắp, lắc mạnh lọ thuốc. Trong gian phòng rung lên tiếng nhẹ nhẹ như tiếng lục lạc và ngay sau đó dưới tầng trệt vẳng lên một tiếng động khác: tiếng mở khóa cửa, sau đó tiếng Marjorie:
    - Anh yêu, anh ở trên đó phải không?
    William vội đặt lọ vitamin vào chỗ cũ rồi chạy xuống đón. Khi ôm hôn vợ, ông hơi rùng mình ghê tởm, nhưng bây giờ thì đã muộn. Cỗ máy đang chạy: Mỗi ngày Marjorie uống hai viên khi ăn sáng; trong lọ có sáu mươi viên, vị chi Marjorie còn sống hoặc một ngày hoặc một tháng nữa. Hôm nay là ngày 20 tháng Chín, Marjorie sẽ chết trong khoảng từ 21 tháng Chín đến 20 tháng Mười. Đích xác ngày nào?
    21 tháng Chín, William chạy xe vào khu trung tâm NewYork. Sáng nào cũng vậy, ông theo con đường này để tới nhiệm sở. Nhìn đồng hồ thấy kim chỉ 8 giờ 30 phút, ông thầm tính toán: mười lăm phút nữa Marjorie sẽ tỉnh giấc, cô xuống bếp nấu món ăn sáng, trở lên lầu, và vẫn bận tấm áo ngủ hoa hoét mà ông chịu không nổi, cô trèo lên giường, kê gối tựa lưng thoải mái rồi uống hai viên vitamin chiêu bằng ly nước cam tươi.
    Hồi nãy, trước khi đi làm ông đã hé cửa liếc vào: Marjorie vẫn ngủ say, và vẫn để cả một đống ?olô? uốn tóc cùng với trâm, cặp tua tủa trên đầu như mọi bữa. Thật khó coi!? Lúc đó, William chợt mong sao cho sự việc xảy ra ngay sáng nay. Đã quyết thì quyết cho rồi. Đáng lẽ không nên lắc. Cô ta sẽ lấy viên trên cùng, và thế là gọn sau vài phút đồng hồ. Còn bây giờ, đành phải chờ. Có khi phải chờ một tháng.
    Ngồi vào bàn làm việc quen thuộc từ bao năm nay, William không sao đọc nổi những tờ giấy cô thư ký vừa mang tới. Hai mắt nhìn trân trân vào chiếc đồng hồ đề bàn xinh xắn trước mặt: kim chỉ 9 giờ 5. Sau mười phút nữa có thể gọi được? Mắt vẫn nhìn trân trân vào đồng hồ, đầu óc tập trung đến nỗi nhìn rõ chiếc kim phút xuống dần, xuống dần con số 3. Chiếc đồng hồ là quà rặng của Marjorie nhân dịp kỷ niệm đám cưới hai vợ chồng, vào dịp thứ bao nhiêu cũng chẳng nhớ nữa. Tất nhiên, ông ta thấy chiếc đồng hồ xấu ghê xấu gớm. Cái cô Marjorie này đâu có phân biệt nổi cái xấu với cái đẹp!
    9 giờ 15. William nhấc máy điện thoại. Và bất chợt nhận ra một điều thật vô lý: không sao nhớ ra số điện thoại nhà mình. Mỗi năm ông gọi điện về nhà không tới mười lần, những khi cần báo cho vợ biết tối nay ông mời khách về nhà ăn tối. Thế thôi. Còn thì chỉ Marjorie gọi tới, ngày nào cũng gọi, dù chỉ để nói những chuyện chẳng đáng gì như ?obữa nay nhà mình không có thư?, hoặc hỏi thăm chồng vài câu?
    William vừa tìm được số điện thoại trong sổ. Bấm xong phím số cuối cùng, ông nhịn thở? Chuông đổ? hồi thứ nhất? thứ hai? Tiếng chị vợ:
    - Alô, tôi nghe đây.
    - Anh đây, William đây.
    Giọng Marjorie bỗng tỏ vẻ lo lắng:
    - Có chuyện gì không anh?
    - Không, anh chỉ báo em biết chiều nay anh về hơi trễ một chút.
    Marjorie lẩm bẩm có ý không vui, nhưng lại lấy ngay được giọng niềm nở:
    - Không sao đâu, anh yêu. Vừa ngủ dậy đã được nghe tiếng anh dù qua điện thoại em cũng thấy vui quá. Thật không ngờ, Mong anh luôn gọi điện cho em như thế này nha!
    William thoáng ngạc nhiên nhưng trấn tĩnh được ngay:
    - Đồng ý. Từ nay, sáng nào anh cũng gọi điện cho em. Anh hứa.
    Suốt ngày hôm đó, William cố hết sức bắt đầu óc tập trung làm việc. Nhưng trong khi đọc các bản thống kê, cân đối thu chi, hóa đơn xuất nhập? cứ có hai con số lởn vởn trong đầu tuy chẳng ăn nhập gì vơi những con số đang sờ sờ trước mắt: 58 ?" 29? 58 viên vitamin, 29 ngày sống, thời hạn tối đa cho Marjorie?
    Chiều đến, ông hăm hở lao tới nhà cô bồ Cynthia. Ông làm việc này vì cô, để có cô cho riêng mình, để bắt đầu một cuộc sống mới, để có được một thời thanh xuân mới. Rất cần gặp cô thật nhanh, vì chỉ khi ở bên người tình ông mới tạm quên được việc mình đã làm.
    Tuy nhiên ông không cho Cynthia biết. Không dám nói, sợ bị người tình ghê sợ, có thể sẽ hắt hủi mình. Nên William nín thinh không hé răng tiết lộ. Cynthia tiếp đón ông vẫn nồng nàn vẫn thắm thiết hết mình như mọi bữa. Khi đồng hồ điểm 9 giờ ông trở về nhà.
    Vừa vào tới phòng khách, William giật mình đứng sững Marjorie đứng chờ ông tự lúc nào đang nở nụ cười tươi tắn, giang rộng hai tay đón ông. Bữa nay cô diện tấm áo mới, mái tóc bới đổi kiểu cũng mới, trông thật xinh. Hơn nữa, khác hẳn mọi bữa thấy ông về trễ cô thường cằn nhằn kèm theo hàng tràng dài lời khuyên gìn giữ sức khỏe đại loại ?ovừa vừa thôi ông ạ, cày thế để mà chết sớm à???. thì bữa nay cô không hề trách móc nửa lời.
    Chỉ nắm tay kéo tuột William vào bếp:
    - Nhìn kìa, em nấu toàn những món anh thích nhất.
    William chưa kịp cởi áo mưa, đi theo vợ như cái máy, mãi mới hỏi:
    - Sao lại làm vào hôm nay?
    Marjorie nhoẻn cười nhí nhảnh, ngoẹo đầu nũng nịu:
    - Để cảm ơn anh đã gọi điện cho em sáng nay, anh yêu! Lâu lắm mới lại được như vậy, nên em rất sung sướng? Không được quên đâu nha, anh đã hứa sáng nào cũng gọi điện cho em rồi đấy!
    Ngồi vào bàn, tuy chị vợ luôn mỉm cười thúc giục nhưng William không sao nuốt nổi những món ăn ngon lành được vợ xào nấu rất khéo. Trong lòng day dứt một nỗi niềm khó tả, pha trộn thương xót lẫn ghê tởm. Bao năm nay ông ta không ngó ngàng gì tới vợ, coi Marjorie chỉ còn là một mớ những thỏa thuận, những thói quen, nhứng định kiến. Vậy mà chỉ một cuộc điện thoại sáng nay đã biến Marjorie thành người phụ nữ đầy sức sống và tình yêu đang âu yếm chăm sóc ông?
    Nhưng muộn mất rồi? Đã đi thì phải đi tới cùng, đâm lao thì phải theo lao. Bỏ dở bữa ăn, William lên lầu, mặc cho vợ cô níu kéo với đôi mắt hờn tủi ngân ngấn ướt?
    Trong ba ngày liên, cảnh khó lòng chịu đựng này cứ như vậy diễn ra. Sáng sáng, William bồn chồn ngồi sau bàn làm việc ở nhiệm sở nhìn trân trân vào chiếc kim đồng hồ mạ vàng chờ lúc nó chỉ 9 giờ 15 phút. Nhấc điện thoại? nghe hồi chuông thứ nhất? hồi thứ hai, rồi nghe tiếng Marjorie sau hồi chuông thứ ba. Càng ngày cô càng tỏ vẻ thích lệ mới này, cô vừa nói vừa cười, giọng đầy âu yếm?
    Sau mỗi lần như vậy, khi gác máy William lại tự nhiếc mình dã man vô nhân đạo, lại hạ quyết tâm khi về nhà sẽ ném lọ vitamin thật xa. Vẫn còn kịp dừng lại, vẫn còn đủ thì giờ cứu sống Marjorie? Nhưng đến tối, sau khi chia tay Cynthia, ý định cũ lại trở lại mạnh hơn, dữ dội hơn: phải đi đến cùng!
    Ngày thứ năm, ngày Marjorie uống viên thứ chín thứ mười đã tới. Một bài toán bất ngờ lần đầu tiên xuất hiện. Mọi trưa thứ bảy trước William vẫn tới nhiệm sở làm việc, cả ngày chủ nhật cũng phải đi làm trong khi Marjorie về nghỉ cuối tuần tại nhà nghỉ của hai vợ chồng ở Lockport phía bắc bang NewYork kế cận thác Niagara. Nhưng thứ bảy này cô ta khăng khăng đòi chồng cùng đi? Tất nhiên William viện đủ cớ để từ chối, nhưng sau hồi lâu, sợ vợ sinh nghi đành phải nhận lời. Trước khi lên đường, ông không quên lấy lọ vitamin trong học bàn ngủ bỏ vào túi? Lỡ Marjorie chết ngay bên mình thì rầy rà to!
    Thứ hai ngày 27 tháng Chín năm 1976, William ngồi trong phòng làm việc tại nhiệm sở, hai mắt trân trân nhìn kim đồng hồ trên bàn đang chỉ 9 giờ 10. Cố xua đuổi những hình ảnh ngọt ngào trong dịp nghỉ cuối tuần vừa qua mà không sao làm được. Marjorie chưa bao giờ đáng yêu như trong mấy ngày vừa rồi. Cô đòi bằng được hai vợ chồng dắt nhau đi trên con đường bên thác Niagara, đoạn đường hai người đã cùng đi hồi mới cưới. Và khiến ông nhớ lại nhiều điều nhiều cảnh đã vùi sâu trong ký ức từ lâu?
    Lần này William thấy cảm động, bối rối hơn bao giờ hết. Và nao núng lưỡng lự hơn bao giờ hết. Nên dừng tay chăng? Vẫn còn kịp mà! Nhưng rồi như bị ma đưa lối quỷ dẫn đường, bàn tay lại run run lấy chiếc lọ trong túi bỏ vào hộc bàn ngủ trong phòng Marjorie.
    Chắc bây giờ Marjorie đang đợi cú điện thoại buổi sáng, cú điện thoại đã trở thành mòn quà quý giá không thể thiếu hàng ngày.
    William liếc nhìn đồng hồ: 9 giờ 20. Ủa, sao nhanh vậy, trễ 5 phút rồi. Tay run bắn lên, ông nhấc máy, bấm số. Hồi chuông thứ nhất? hồi chuông thứ hai? Đây là lúc Marjorie cầm máy? Hồi chuông thứ ba đổ ở đầu dây bên kiea, một hôit nữa, rồi một hồi nữa? Sau hồi chuông thứ mười, William quăng máy đâm bổ ra ngoài? Đáng lẽ phải ngồi yên tại chỗ và đợi, như kịch bản đã vạch sẵn, vả lại đây là điều chờ đợi, mong mỏi từ lâu nay mới tới, sao lại hốt hoảng như vậy?
    Trên đường chạy xe hết tốc độ để về nhà, William chợt nhận ra mình đã phạm sai lâm nghiêm trọng? Đáng lẽ không nên hạ sát Marjorie ở thời điểm hiện tại? Nếu cô ta chết ngay ngày đầu, ngay từ viên thuốc thứ nhất, không đáp lại cú điện thoại đầu tiên ông gọi cho cô sau bao nhiêu năm, mọi sự sẽ diễn ra trót lọt chẳng có vướng mắc gì, theo đúng kế hoạch dự tính. Nhưng sự việc xảy ra theo quy luật của nó: do thấp thỏm, nơm nớp mỗi ngày, ông đã phải gọi điện cho vợ, và giữa hai người đã có những cuộc trò chuyện được nối lại sau nhiều năm đứt đoạn? Không biết từ lúc nào, tận đáy sâu tiềm thức, William không muốn giết vợ nữa. Tuy lý trí chưa nhận biết thật rõ rệt nhưng thâm tâm đã chấp nhận, đã mong muốn Marjorie vẫn tồn tại, với những tật xấu, những lố lăng vốn có, với tình yêu chồng theo kiểu riêng của cô. Vậy mà ông lại giết chết cô rồi!
    Về tới nhà, William Farrell chợt cảm thấy còn một chút hy vọng mong manh. Biết đâu đấy, có khi Marjorie không ở trong phòng ngủ khi ông gọi điện về? Có thể đang sửa soạn bữa sáng trong bếp chẳng hạn?
    Trước khi nhảy từng bốn bực một lên cầu thang, William liếc nhìn vào bếp: không có người. Đạp cửa phòng trên của Marjorie chạy vào: cô nằm gục trên giường, ly nước cam trống trơn bên chiếc lọ đựng những viên vitamin màu hồng. Một tay vắt lên máy điện thoại, có lẽ phút cuối cùng cô định gọi chồng cầu cứu?
    William nhảy bổ tới nhấc điện thoại gọi Parker, bác sỹ của gia đình. Rồi cố tìm cách cứu chữa Marjorie bằng nhưng phương tiện gặp chăng hay chớ: đắp khăn ướt, xoa bóp, hà hơi thổi ngạt. Không một giây nào nghĩ mình đang hành động hết sức phi lý: mới tối qua thôi, chính tay mình đặt lọ thuốc vào ngăn kéo kia, chính tay mình đã giết vợ. Gây án mạng có chủ định, hơn nữa, có thể coi là án mạng được lặp lại mỗi ngày, bởi lẽ mỗi ngày ông ta đều có thể cứu sống vợ nhưng vẫn để mặc. Bây giừo đứng trước người vợ sắp chết, hoặc chết rồi không chừng, William quên hết mọi chuyện.
    Bác sỹ Parker vừa tới. Không cần hỏi han vô ích, bác sỹ tới ngay bên giường. Sau vài giây khám nghiệm, bác sỹ lắc đầu. Hết hy vọng.
    William gục xuống khóc nức nở. Bác sỹ hỏi ông: ?oBà nhà có hay dùng thuốc ngủ hoặc có xài ma túy không??, ông chỉ lắc đầu, không nói.
    Bác sỹ Parker thở dài buồn bã. Ông quen biết hai vợ chồng từ hai mươi năm nay, đã trở thành bạn thân của họ, nhưng ông vẫn phải làm phận sự của mình.
    - Tôi rất tiếc, ông bạn thân mến. Tôi không thể ký chứng nhận khai tử được. Đây là một vụ đầu độc. Phải chờ nhà chức trách mở cuộc điều tra.
    William không phản ứng gì khi nghe nói ?omở cuộc điều tra?. Một tuần sau, khi cuộc điều tra bắt đầu ông ta cũng không phản ứng gì. Mổ tử thi Marjorie, bác sỹ pháp y phát hiện một lượng strychnin chết người. Chồng nạn nhân rõ ràng là kẻ đáng nghi, nhưng các điều tra viên chưa lần ra manh mối, vì William chỉ trả lời các câu hỏi của họ rất lấp lửng, thậm chí tránh né. Ông ta chưa hết bàng hoàng trước cái chết của người vợ.
    _____
    (to be cont. - xin lỗi vì mạng không cho phép mình up hết vào 1 bài)
    Được songtunu sửa chữa / chuyển vào 12:28 ngày 22/04/2004
  4. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Trước ngã ba đường
    Truyện ngắn Mỹ.
    (cont.)​

    Thực ra, William đang lẩn trốn sau một màn sương, một trạng thái tranh tối tranh sáng, hòng thoát khỏi mọi hồi ức đau buồn, thoát khỏi nỗi hối hận không sao chịu nổi. Vì vậy ông ta trả lời cảnh sát bằng những câu rời rạc, thậm chí ngớ ngẩn. Như khi giải thích lý do tại sao bữa đó bỗng nhiên ông về nhà vào một thời điểm khác thường như vậy. Ông ta có thể trả lời: do vợ gọi về giúp vì cô ấy đột nhiên khó ở. Nhưng trái lại, ông ta nói chính mình đã gọi điện về nhà và không thấy trả lời nên chột dạ quay về.
    - Tôi vẫn thường gọi điện cho vợ tôi lúc 9 giờ 15 phút sáng. Lần nào cô ấy cũng nhấc máy ở hồi chuông thứ ba.
    Biết khó moi được điều gì ở ông ta, cảnh sát lần theo đầu mối khác. Họ theo dõi việc đi lại, nghe lén điện thoại mong phát hiện một cô bồ nhí nào đó của William. Nhưng không thấy gì, họ cho rằng cuộc sống riêng của con người này hoàn toàn trong sáng không một gợn mây. Tối nào cũng đi thẳng một mạch về nhà đóng kín cửa không tiếp ai. Những cú điện thoại gọi tới đều của bạn bè thân hữu muốn an ủi ông ta cho khuây sầu nhưng không được, ông toàn nhắc tới Marjorie giữa hai tiếng sụt sùi. Đúng là một người góa bụa không thể nguôi ngoai.
    William Farrell không đóng kịch chút nào. Sau khi giết vợ, không lúc nào ông nghĩ tới chuyện gặp lại con người đã từng là nguyên nhân khiến ông phạm tội. Toàn bộ dĩ vãng, một dĩ vãng không sao chịu nổi bỗng chốc phai mờ. Chỉ còn đâu đó, trong sâu thẳm tâm hồn một cái gì mà ông biết là không nên làm thức dậy, trong đó có Cynthia. Cùng với tất cả các thứ khác, Cynthia đã biến khỏi tâm trí William ngay lúc Marjorie tắt thở?
    Sau thời gian điều tra cực ký công phu tỉ mỉ như kiến tha mồi, cảnh sát NewYork mới thu thập đủ bằng chứng William Farrell phạm tội. Họ kiểm tra sổ bán thuốc của tất cả các cửa hàng dược ở Lockport và ở vùng có nhà nghỉ của đôi vợ chồng. Trong những tháng trước khi xảy ra án mạng, không thấy có tên William Farrell trong danh sách những khách hàng mua strychnin. Song cảnh sát không vì vậy mà bỏ qua, họ tỏ ra là những người đặc biệt kiên nhẫn và tài giỏi: lần lượt gặp từng người có tên trong danh sách. Và một người hàng xóm nhà William đã day tay mím miệng thề rất độc: ?oTôi đâu có mua strychnin hồi nào!?
    Khi tới đối chất, người bán dược phẩm nhận ngay ra William. Ông này bưng hai tay ôm chặt đầu như thể đang cố lục lọi hồi ức về quá khứ xa xăm. Rồi tuyên bố rất bình thản tựa hồ nói về một kẻ nào khác.
    - Vâng, đúng tôi. Chính tôi đã giết cô ấy?
    Tuy vậy, William không phải ra trước tòa. Ba tháng sau khi bị tạm giam, một cơn đau tim đột ngột đã thay luật pháp trần gian đưa con người sám hối muộn màng này xuống hỏa ngục.
  5. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Trước ngã ba đường
    Truyện ngắn Mỹ.
    (cont.)​

    Thực ra, William đang lẩn trốn sau một màn sương, một trạng thái tranh tối tranh sáng, hòng thoát khỏi mọi hồi ức đau buồn, thoát khỏi nỗi hối hận không sao chịu nổi. Vì vậy ông ta trả lời cảnh sát bằng những câu rời rạc, thậm chí ngớ ngẩn. Như khi giải thích lý do tại sao bữa đó bỗng nhiên ông về nhà vào một thời điểm khác thường như vậy. Ông ta có thể trả lời: do vợ gọi về giúp vì cô ấy đột nhiên khó ở. Nhưng trái lại, ông ta nói chính mình đã gọi điện về nhà và không thấy trả lời nên chột dạ quay về.
    - Tôi vẫn thường gọi điện cho vợ tôi lúc 9 giờ 15 phút sáng. Lần nào cô ấy cũng nhấc máy ở hồi chuông thứ ba.
    Biết khó moi được điều gì ở ông ta, cảnh sát lần theo đầu mối khác. Họ theo dõi việc đi lại, nghe lén điện thoại mong phát hiện một cô bồ nhí nào đó của William. Nhưng không thấy gì, họ cho rằng cuộc sống riêng của con người này hoàn toàn trong sáng không một gợn mây. Tối nào cũng đi thẳng một mạch về nhà đóng kín cửa không tiếp ai. Những cú điện thoại gọi tới đều của bạn bè thân hữu muốn an ủi ông ta cho khuây sầu nhưng không được, ông toàn nhắc tới Marjorie giữa hai tiếng sụt sùi. Đúng là một người góa bụa không thể nguôi ngoai.
    William Farrell không đóng kịch chút nào. Sau khi giết vợ, không lúc nào ông nghĩ tới chuyện gặp lại con người đã từng là nguyên nhân khiến ông phạm tội. Toàn bộ dĩ vãng, một dĩ vãng không sao chịu nổi bỗng chốc phai mờ. Chỉ còn đâu đó, trong sâu thẳm tâm hồn một cái gì mà ông biết là không nên làm thức dậy, trong đó có Cynthia. Cùng với tất cả các thứ khác, Cynthia đã biến khỏi tâm trí William ngay lúc Marjorie tắt thở?
    Sau thời gian điều tra cực ký công phu tỉ mỉ như kiến tha mồi, cảnh sát NewYork mới thu thập đủ bằng chứng William Farrell phạm tội. Họ kiểm tra sổ bán thuốc của tất cả các cửa hàng dược ở Lockport và ở vùng có nhà nghỉ của đôi vợ chồng. Trong những tháng trước khi xảy ra án mạng, không thấy có tên William Farrell trong danh sách những khách hàng mua strychnin. Song cảnh sát không vì vậy mà bỏ qua, họ tỏ ra là những người đặc biệt kiên nhẫn và tài giỏi: lần lượt gặp từng người có tên trong danh sách. Và một người hàng xóm nhà William đã day tay mím miệng thề rất độc: ?oTôi đâu có mua strychnin hồi nào!?
    Khi tới đối chất, người bán dược phẩm nhận ngay ra William. Ông này bưng hai tay ôm chặt đầu như thể đang cố lục lọi hồi ức về quá khứ xa xăm. Rồi tuyên bố rất bình thản tựa hồ nói về một kẻ nào khác.
    - Vâng, đúng tôi. Chính tôi đã giết cô ấy?
    Tuy vậy, William không phải ra trước tòa. Ba tháng sau khi bị tạm giam, một cơn đau tim đột ngột đã thay luật pháp trần gian đưa con người sám hối muộn màng này xuống hỏa ngục.
  6. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Cuộc chơi xả láng
    Truyện ngắn Mỹ​
    Ernest Foutch ba mươi hai tuổi là một người Mỹ bình thường, không dễ mến cũng không dễ ghét, không đần độn, không độc ác. Hồ sơ tư pháp không ghi anh ta làm nghề gì, chỉ miêu tả hình dạng: tóc màu hạt dẻ, mắt xanh xám, không có dấu vết gì đặc biệt? Từ hai năm nay anh ta đã chết mê chết mệt cô bé Margaret tuy cô mới mười hai tuổi. Hai năm trôi qua, Margaret đến tuổi dậy thì càng đẹp bội phần. Mỗi khi khoe về cô bé với bạn bè, Ernest phải vận dụng hết ngôn từ của người bán hoa tươi, người bán bánh ngọt, người bán nữ trang và người dạy thú dữ mới diễn tả được gần đầy đủ những cảm xúc đặc biệt Margaret khơi dậy nơi anh ta. Thật vậy, hình ảnh Margaret trong đầu Ernest vừa lần lượt vừa đồng thời là một đóa hoa, một ổ bánh nóng hôi hổi, một trái ớt hiểm, một con ngựa cái tơ, một viên kim cương đắt giá, và một con báo khó khuất phục?
    Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì đáng nói.
    Khốn nỗi, xã hội Mỹ từ thập kỷ 50 đã cho ra đời một sản phẩm mới của cái gọi là nhân quyền tự do, một sản phẩm mới được giới trẻ nhiệt liệt đón nhận và tận huởng hết mình. Sản phẩm có tên ?oPetting Party?. Nói nôm na cho dễ hiểu đây là những cuộc tụ họp để thanh niên trai gái ve vãn nhau theo kiểu Mỹ, nghĩa là thả cửa ôm ấp, hôn hít, gác chân, gác tay? tóm lại, có thể làm đủ thứ theo công thức: ?oTất cả, trừ cái chính!?.
    Tuy còn bé bỏng nhưng Margaret đã sớm ghiền thứ sản phẩm quái gở nhưng tất yếu của nền văn minh trong đó cô bé đang sống. Biết rõ Ernest mê mình, cô muốn được hưởng những cảm giác mạnh hơn, dài hơn, muốn thử chơi với lửa một chuyến xem sao. Cô bỏ nhà, nhận tới ở qua hai đêm với Ernest nhưng giao hẹn: không được vượt quá giới hạn ve vãn kiểu Mỹ. Những giới hạn này tuy rất thoáng cho phép Ernest tha hồ gỡ gạc suồng sã suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ, nhưng chính vì thế càng như đổ thêm dầu vào lửa, toàn thân anh ta bốc cháy hừng hực. Ernest quyết định dùng biện pháp mạnh.
    - Anh ruột mình tổ chức vũ hội. Ta tới dự cho vui đi em!
    Margaret ưng thuận. Hai người dẫn bộ tới trang trại anh trai của Ernest cách xa Corington chừng mười kilomet. Ernest biết rõ: đi qua mấy cánh rừng vắng sẽ tới một khoảng trống nhỏ, gần tới trảng trống đó sẽ phải lách qua ba tảng đá, lội qua con suối nhỏ?
    Tới tảng đá thứ nhất, Margaret túm gấu váy nâng cao cho đỡ vướng.
    Qua tảng đá thứ hai, rồi qua tảng đá thứ ba. Lát sau tới con suối nhỏ, Margaret càng vén cao gấu váy để lội qua. Từ nãy Ernest đã vo tròn chiếc khăn tay, Hắn rảo bước tới, đặt tay lên vai cô bé. Margaret quay lại nhìn. Hắn nhét ngay khăn vào mồm Margaret.
    Nửa giờ sau, Ernest bơ phờ nhỏm dậy, nhớn nhác nhìn quanh. Trảng tối vẫn vắng lặng. Không một tiếng động nhỏ ngoài tiếng gáy của con chim cu.
    Cô bé Margaret gần như trần truồng vẫn nằm im, rồi từ từ bò dậy. Ernest sẽ làm gì bây giờ? Không, chẳng làm gì được nữa, đi về thôi. Hắn chìa tay cho cô bé, bảo cô:
    - Nào, tới đây!
    Margaret giận điên người, chồm lên, nhảy xổ vào Ernest vừa cào cấu, vừa gào lên:
    - Thằng khốn nạn! Tao sẽ báo cảnh sát. Đồ khốn nạn!
    - Thôi mà, Margaret! Bình tĩnh đi!
    Có thể hắn muốn tìm cách xoa dịu cơn tức giận hoặc xin lỗi cô bé, nhưng không kịp. Hắn cuống cuồng chống đỡ Margaret đang xông vào tát lấy tát để, cào, cắn, và tiếp tục xỉ vả:
    - Tao sẽ tố cáo! Sẽ khai mày cưỡng hiếp. Mày phải trả giá đắt vụ này!
    Lúc này Ernest đã ôm cứng lấy cô bé, mặc cô giãy giụa gào thét. Lát sau, hắn cuống lên. Hắn túm mớ tóc đen dài của cô, dằn ngửa đầu ra sau? giữa bóng đêm hắn nhìn rõ đôi mắt cô rực lửa căm hờn. Cô bé nhổ toẹt một bãi nước bọt giữa mặt Ernest.
    Trong túi hắn có con dao săn lưỡi gập. Hắn bấm chốt?
    ? Lát sau, hắn bới đất ném lên xác Margaret cho tới khi lấp kín không nhìn thấy gì nữa.
    Toàn thân ướt sũng mồ hôi, hắn lảo đảo bước. Vừa tới bờ con suối nhỏ, bỗng hắn đứng khựng. Nhưng không dám quay đầu lại. Hình như hắn vừa nghe có tiếng rên rỉ kéo dài giữa đêm đen. Ernest chợt nghĩ ra: vết cứa tuy sâu nhưng không đứt động mạch chủ hoặc tĩnh mạch chủ nên Margaret chưa chết.
    Hắn quay nhìn qua vai. Mấy cành khô cắm trên người Margaret động đậy. Hắn bước lại gần? Cô bé không chỉ kêu mà còn giãy giụa nữa. Ernest trông rõ đám cành lá rung rinh càng lúc càng mạnh hơn.
    Tên hung thủ vừa khiếp hãi vừa hăng tiết. Hắn gạt chân đẩy đám cành khô sang bên. Nửa người trên và khuôn mặt phủ đầy đất hiện ra. Cô bé có mở mắt nhưng không nhìn thấy gì, miệng vẫn rên rỉ.
    Ernest rút khẩu súng nhỏ trong túi. Đúng lúc Margaret vừa ngồi dậy, hắn nổ liền hai phát.
    Cô bé lại ngã vật xuống, đầu và một bên vai đẫm máu. Đâu đó, tiếng con chim cu nãy giờ im bặt lại cất lên đều đều?
    Lần này Ernest ra sức chôn thật kỹ xác Margaret. Hắn ra suối hì hục khuân đá tới xếp lên nấm mộ đất lẫn với cành khô. Hắn phải đi lại nhiều lần, mỗi khi nậy tảng đá nặng lại ?ohự? một tiếng rồi chệnh choạng bê qua suối.
    Sau khi xếp được chừng mươi tảng., tin chắc phen này thế là ổn, hung thủ ngồi xả hơi một lúc lâu. Khi nó đứng lên rời khỏi trảng, bên tai không còn tiếng gì khác ngoài tiếng chim cu.
    Sáng tinh mơ hôm sau, một bác chủ trại đầu hói lái xe sang làng kế bên họp chợ. Đường lổn nhổn đá, chiếc xe cà tàng bốc tung bụi đất mù mịt, các mảnh tôn ghép quanh xe va đạp nhức óc. Thảm trải đá, chiếc xe cà tàng bốc tung bụi đất mù mịt, các mảnh tôn ghép quanh xe va đập nhức óc. Thảm trải sàn xe bằng cao su đã mòn để lộ đủ ba chiếc nấm sắt? Bỗng bác rụt chân đạp ga.
    Bác vừa nhìn thấy bên vệ đường một hình thù ác mộng: một vật có bộ da xám ngoét bê bết bùn và máu đang lổm ngổm bò bốn chân.
    Bàn chân bác chủ trai sau giây lát rời bàn đạp ga bây giờ nhè nhẹ đạp thắng. Có lẽ bác đã do dự dôi chút rồi mới quyết định dừng xe. Đưa tay gãi chiếc đầu hói, bác suy nghĩ rất lung. Phủ phục bò bốn chân bên vệ đường, mái tóc dài đen nháy vương mấy chiếc lá vàng? hiển nhiên đó là một người đàn bá. Một xác chết còn sống. Chết rồi nhưng vẫn còn nghị lực phi thường để chống cùi tay và đầu gối mà lết từng xăngtimét một trên đường. Tuy máy và thùng chiếc xe cà tàng kêu như quỷ rống nhưng bác vẫn nghe loáng thoáng hình như có tiếng rên rỉ. Thế là bác chủ trại lấy hết can đảm, cài số lùi, quyết định tới cứu?
    Tại bệnh viện Corington bang Kentucky, các bác sỹ lắc đầu sau khi khám Margaret vừa được bác chủ trại chở tới. ?oKhó lòng thoát?, họ nói vậy. Dù sao, còn nước còn tát, họ đưa cô bé vào phòng cấp cứu, chăm sóc hết sức tận tình và chuyền máu cho cô. Đồng thời báo cho cảnh sát.
    Viên cảnh sát già phóng ngay tới, vẫn bình tĩnh giứa đám bố mẹ, thân thích và bạn bè hốt hoảng. Ông hỏi người bố:
    - Cô bé đi với ai?
    Tôi đâu có nghe nó báo. Chỉ thấy nó đi nghỉ cuối tuần với bạn nó.
    - Bạn nào vậy, thưa bà? ?" Ông quay sang hỏi người mẹ.
    Người mẹ sụt sùi đáp:
    - Cháu nó hàng đống bạn?
    - Dù sao bà cũng có thể cho một địa chỉ mà con gái ông bà tới chứ ạ?
    Không. Cả bố lẫn mẹ Margaret chẳng biết một địa chỉ nào của bạn con gái họ. Chỉ vừa mới biết nó đã bị cưỡng hiếp, khám nghiệm đã xác minh con bé không còn trinh trắng như trước. Tuy đó là thứ lâu nay cô vẫn hết sức giữ gìn coi là thứ quý nhất mình có.
    Viên cảnh sát già hỏi bác chủ trại:
    - Thưa bác, bác nắm được tin tức gì xin cho biết.
    Bác già hói mong tới chợ sớm, lại lo cho chiếc xe tải ngoài kia nên nhún vai:
    - Tôi chả nắm được gì hết? chỉ thấy con nhỏ trên đường, thế thôi ạ. Tôi đi được rồi chư?
    - Gượm đã bác. Bác chở tôi tới chỗ nhặt được cô bé.
    Trong nháy mắt, viên cảnh sát già đã quay lại. Ông ta rất lo: nếu Margaret cứ hôn mê như thế này rồi đi thẳng sang thế giới bên kia, việc truy tìm hung thủ sẽ rất khó khăn nếu không nói là gần như không thể được. Nhưng bác sỹ cương quyết không cho gặp nạn nhân: cô bé vẫn đang bất tỉnh, dù vào gặp cũng chẳng hy vọng lượm được lời khai nào.
    - Đúng thế - Viên cảnh sát cố nài ?" nhưng ít ra cũng cho tôi xem mặt.
    Thật kỳ diệu, bộ đồng phục màu xanh dương của viên cảnh sát đã tác động như phép lạ tới Margaret trước cặp mắt kinh ngạc của mọi ngưồi, cô bé nhỏm dậy kêu lên:
    - Thằng Ernest.
    - Ernest nào, họ gì?
    - Ernest Foutch? cô bé thều thào rồi lập tức hôn mê trở lại.
    Bác sĩ nhẹ nhàng đẩy viên cảnh sát ra cửa, tin chắc nạn nhân đang bắt đầu hấp hối.
    Xe cảnh sát hú còi inh ỏi tới đậu trước nhà Ernest Foutch. Hắn chẳng cần giả bộ kinh ngạc mà thực sự sửng sốt thấy cảnh sát ập tới lẹ thế. Tuy vậy, tất nhiên hắn chối bai bải:
    - Thưa, đúng là cả ngày thứ bảy và một phần chủ nhật tôi ở cùng Margaret, nhưng từ chiều chủ nhật không thấy cô ta đâu hết.
    - Thôi đi, chính cô bé đã tố cáo anh.
    Ernest trợn tròn mắt không tin, lẩm bẩm:
    - Vô lý.
    Vẻ sửng sốt lúc này cũng không phải là đóng kịch. Hắn hỏi:
    - Cô ta tố cáo tôi à? Thật chứ?
    - Thật, trong bệnh viện? cô bé đã tỉnh lại giây lát, vừa đủ thì giờ khai ra tên anh.
    - Cô ta mê sảng đó thôi. Hoặc định nói điều gì đó nhưng mấy ông hiểu sai đi.
    Viên cảnh sát túm ngực Ernest:
    - Để rồi coi.
    Lát sau, Ernest tay đeo còng, đi giữa toán cảnh sát áp giải, phía sau là viên cảnh sát già trong hành lang bệnh viên. Ngang qua bố mẹ, bạn bè của Margaret mà số đông là chỗ quen biết lâu nay, hắn lải nhải không ngớt:
    - Đâu phải tôi. Xin cam đoan, xin thề độc là không phải tôi. Chắc các vị cũng tin rằng không phải tôi. Ông cảnh sát đây lầm to rồi. Có thể Margaret đã kêu tên tôi nhưng kêu tên là một chuyện, tố cáo tôi là hung thủ lại là một chuyện. Chuyện này thật vô lý.
    Bố mẹ Margaret đều rất đỗi phân vân. Họ vẫn coi Ernest Foutch là một chàng trai tốt bụng, không thể làm hại ai bao giờ. Cậu ta say đắm con gái họ, điều đó là hiển nhiên, nhưng con người tử tế và bình thường này khó có thể giết người. Ông cảnh sát già có khi lẩm cẩm hiểu sai ý Margaret cũng nên.
    Ernest đã hoàn toàn trấn tĩnh sau mấy phút bàng hoàng hoảng hốt ban đầu. Ngay cả khi viên cảnh sát mở cửa phòng bệnh rồi ra hiệu bảo hắn vào, hắn vẫn bình tĩnh. Nghĩ bụng: ?oChúng dựng cảnh này để chơi đòn cân não mình đây. Nhưng đếch sợ. Con bé nằm ngay đơ thế kia, mặt mũi trắng bệch, thở không ra hơi, sắp tử đến nơi làm quái gì được?.
    Hắn quay nhìn bác sĩ. Thì thầm rất lễ phép:
    - Thưa bác sĩ, khi cô ta nói lên tên tôi, bác sĩ có hiện diện tại đây không?
    Bác sĩ gật đầu.
    - Lạ nhỉ. Vô lý hết sức, không thể có chuyện đó? Bác sĩ cam đoan có nghe cô ta kêu tên Foutch chứ?
    - Không? bác sĩ thừa nhận. Tôi đang đứng đây thì nghe cô ta nói một cái tên. Tôi cho rằng, nói đúng ra thì tôi tin chắc rằng cô ta nói tới một người tên là Ernest. Sau đó còn thều thào nói lên một tên họ gì đó nữa tôi nghe không rõ? Ông cảnh sát cho rằng đã nghe được? còn tôi thì không dám chắc.
    Ba người im lặng nhìn nhau. Cô y tá nhìn họ với vẻ khó chịu: nếu cần nói chuyện thì ra ngoài hành lang cho rồi.
    - Thưa ông cảnh sát ?" Ernest vẫn tiếp tục với giọng nhỏ nhẹ - Tôi xin thề không dính chút nào vào vụ này. Tôi sẵn sàng trả lời mọi chất vấn của ông, có điều là không ở đây? và sau khi đã tháo những của nợ này ra.
    Hắn giơ hai cổ tay bị còng với vẻ công dân lương thiện bị xúc phạm.
    Viên cảnh sát bắt đầu bối rối. Rất có thể ông đã nghe nhầm. Vả lại, khi nói tên Ernest Foutch chắc gì Margaret có ý tố cáo kẻ tấn công cô ta? Trong điều kiện như vậy mà bắt giữ tay này đâu có được.
    Ông ngó ra cửa định gọi đồng nghiệp đứng chờ ngoài hành lang mang chìa khóa vào mở còng cho Ernest.
    Ông không tính tới sức sống mãnh liệt trong cơ thể trẻ trung của Margaret. Một tiếng thủy tinh rơi vỡ làm tất cả đều giật nảy, cô y tá vừa đánh rơi lọ thuốc trên tay trợn tròn hai mắt nhìn thẳng phía sau ba người. Cả ba quay phắt lại.
    Margaret dứt tung dây chuyền máu, lột mặt nạ dưỡng khí, nhỏm hẳn người trên đống chăn, hét lên tuy cổ bị cứa đứt:
    - Nó đấy? Nó đấy? Bắt lấy nó.
    Sức chống đỡ của Ernest lập tức tan biến. Hắn tái xanh tái tử, hai hàm răng đập vào nhau lập bập, khiếp sợ tột cùng trước lời tố cáo từ thế giới bên kia bắn tới. Vài phút sau hắn cúi đầu thú tội.
    Trong cả tháng nằm xà lim chờ ra hầu tòa, hắn cũng như cư dân Corington, mỗi ngày đều trông ngóng nghe tin tức về bệnh tình Margaret. Cô sẽ sống sót? Hay cô sẽ chết? Cũng như mọi người dân trong thành phố, hắn thực lòng cầu mong Margaret tai qua nạn khỏi. Không phải vì hắn ăn năn hối cải đâu. Mà vì nếu cô bé được chữa lành, hắn sẽ chỉ án tù chung thân là cùng. Còn nếu cô không qua khỏi hẵn sẽ phải lên ghế điện là cái chắc. Bọn sát nhân đều thế cả: chúng không gớm tay reo rắc chết chóc cho người khác nhưng chính chúng lại rất sợ chết.
    Margaret cũng ham sống lắm, nên sau thời gian được cứu chữa cô không chết. Kẻ giết hụt cô nhờ vậy cũng được sống,
    Nhưng trò Petting Party ?ogỡ gạc xả láng? vẫn đang thịnh hành, những bậc bố mẹ không để mắt xem con mình chơi với ai, đi đâu vẫn còn rất đông. Nên vẫn còn có những Margaret khác và những Ernest khác.
  7. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Cuộc chơi xả láng
    Truyện ngắn Mỹ​
    Ernest Foutch ba mươi hai tuổi là một người Mỹ bình thường, không dễ mến cũng không dễ ghét, không đần độn, không độc ác. Hồ sơ tư pháp không ghi anh ta làm nghề gì, chỉ miêu tả hình dạng: tóc màu hạt dẻ, mắt xanh xám, không có dấu vết gì đặc biệt? Từ hai năm nay anh ta đã chết mê chết mệt cô bé Margaret tuy cô mới mười hai tuổi. Hai năm trôi qua, Margaret đến tuổi dậy thì càng đẹp bội phần. Mỗi khi khoe về cô bé với bạn bè, Ernest phải vận dụng hết ngôn từ của người bán hoa tươi, người bán bánh ngọt, người bán nữ trang và người dạy thú dữ mới diễn tả được gần đầy đủ những cảm xúc đặc biệt Margaret khơi dậy nơi anh ta. Thật vậy, hình ảnh Margaret trong đầu Ernest vừa lần lượt vừa đồng thời là một đóa hoa, một ổ bánh nóng hôi hổi, một trái ớt hiểm, một con ngựa cái tơ, một viên kim cương đắt giá, và một con báo khó khuất phục?
    Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì đáng nói.
    Khốn nỗi, xã hội Mỹ từ thập kỷ 50 đã cho ra đời một sản phẩm mới của cái gọi là nhân quyền tự do, một sản phẩm mới được giới trẻ nhiệt liệt đón nhận và tận huởng hết mình. Sản phẩm có tên ?oPetting Party?. Nói nôm na cho dễ hiểu đây là những cuộc tụ họp để thanh niên trai gái ve vãn nhau theo kiểu Mỹ, nghĩa là thả cửa ôm ấp, hôn hít, gác chân, gác tay? tóm lại, có thể làm đủ thứ theo công thức: ?oTất cả, trừ cái chính!?.
    Tuy còn bé bỏng nhưng Margaret đã sớm ghiền thứ sản phẩm quái gở nhưng tất yếu của nền văn minh trong đó cô bé đang sống. Biết rõ Ernest mê mình, cô muốn được hưởng những cảm giác mạnh hơn, dài hơn, muốn thử chơi với lửa một chuyến xem sao. Cô bỏ nhà, nhận tới ở qua hai đêm với Ernest nhưng giao hẹn: không được vượt quá giới hạn ve vãn kiểu Mỹ. Những giới hạn này tuy rất thoáng cho phép Ernest tha hồ gỡ gạc suồng sã suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ, nhưng chính vì thế càng như đổ thêm dầu vào lửa, toàn thân anh ta bốc cháy hừng hực. Ernest quyết định dùng biện pháp mạnh.
    - Anh ruột mình tổ chức vũ hội. Ta tới dự cho vui đi em!
    Margaret ưng thuận. Hai người dẫn bộ tới trang trại anh trai của Ernest cách xa Corington chừng mười kilomet. Ernest biết rõ: đi qua mấy cánh rừng vắng sẽ tới một khoảng trống nhỏ, gần tới trảng trống đó sẽ phải lách qua ba tảng đá, lội qua con suối nhỏ?
    Tới tảng đá thứ nhất, Margaret túm gấu váy nâng cao cho đỡ vướng.
    Qua tảng đá thứ hai, rồi qua tảng đá thứ ba. Lát sau tới con suối nhỏ, Margaret càng vén cao gấu váy để lội qua. Từ nãy Ernest đã vo tròn chiếc khăn tay, Hắn rảo bước tới, đặt tay lên vai cô bé. Margaret quay lại nhìn. Hắn nhét ngay khăn vào mồm Margaret.
    Nửa giờ sau, Ernest bơ phờ nhỏm dậy, nhớn nhác nhìn quanh. Trảng tối vẫn vắng lặng. Không một tiếng động nhỏ ngoài tiếng gáy của con chim cu.
    Cô bé Margaret gần như trần truồng vẫn nằm im, rồi từ từ bò dậy. Ernest sẽ làm gì bây giờ? Không, chẳng làm gì được nữa, đi về thôi. Hắn chìa tay cho cô bé, bảo cô:
    - Nào, tới đây!
    Margaret giận điên người, chồm lên, nhảy xổ vào Ernest vừa cào cấu, vừa gào lên:
    - Thằng khốn nạn! Tao sẽ báo cảnh sát. Đồ khốn nạn!
    - Thôi mà, Margaret! Bình tĩnh đi!
    Có thể hắn muốn tìm cách xoa dịu cơn tức giận hoặc xin lỗi cô bé, nhưng không kịp. Hắn cuống cuồng chống đỡ Margaret đang xông vào tát lấy tát để, cào, cắn, và tiếp tục xỉ vả:
    - Tao sẽ tố cáo! Sẽ khai mày cưỡng hiếp. Mày phải trả giá đắt vụ này!
    Lúc này Ernest đã ôm cứng lấy cô bé, mặc cô giãy giụa gào thét. Lát sau, hắn cuống lên. Hắn túm mớ tóc đen dài của cô, dằn ngửa đầu ra sau? giữa bóng đêm hắn nhìn rõ đôi mắt cô rực lửa căm hờn. Cô bé nhổ toẹt một bãi nước bọt giữa mặt Ernest.
    Trong túi hắn có con dao săn lưỡi gập. Hắn bấm chốt?
    ? Lát sau, hắn bới đất ném lên xác Margaret cho tới khi lấp kín không nhìn thấy gì nữa.
    Toàn thân ướt sũng mồ hôi, hắn lảo đảo bước. Vừa tới bờ con suối nhỏ, bỗng hắn đứng khựng. Nhưng không dám quay đầu lại. Hình như hắn vừa nghe có tiếng rên rỉ kéo dài giữa đêm đen. Ernest chợt nghĩ ra: vết cứa tuy sâu nhưng không đứt động mạch chủ hoặc tĩnh mạch chủ nên Margaret chưa chết.
    Hắn quay nhìn qua vai. Mấy cành khô cắm trên người Margaret động đậy. Hắn bước lại gần? Cô bé không chỉ kêu mà còn giãy giụa nữa. Ernest trông rõ đám cành lá rung rinh càng lúc càng mạnh hơn.
    Tên hung thủ vừa khiếp hãi vừa hăng tiết. Hắn gạt chân đẩy đám cành khô sang bên. Nửa người trên và khuôn mặt phủ đầy đất hiện ra. Cô bé có mở mắt nhưng không nhìn thấy gì, miệng vẫn rên rỉ.
    Ernest rút khẩu súng nhỏ trong túi. Đúng lúc Margaret vừa ngồi dậy, hắn nổ liền hai phát.
    Cô bé lại ngã vật xuống, đầu và một bên vai đẫm máu. Đâu đó, tiếng con chim cu nãy giờ im bặt lại cất lên đều đều?
    Lần này Ernest ra sức chôn thật kỹ xác Margaret. Hắn ra suối hì hục khuân đá tới xếp lên nấm mộ đất lẫn với cành khô. Hắn phải đi lại nhiều lần, mỗi khi nậy tảng đá nặng lại ?ohự? một tiếng rồi chệnh choạng bê qua suối.
    Sau khi xếp được chừng mươi tảng., tin chắc phen này thế là ổn, hung thủ ngồi xả hơi một lúc lâu. Khi nó đứng lên rời khỏi trảng, bên tai không còn tiếng gì khác ngoài tiếng chim cu.
    Sáng tinh mơ hôm sau, một bác chủ trại đầu hói lái xe sang làng kế bên họp chợ. Đường lổn nhổn đá, chiếc xe cà tàng bốc tung bụi đất mù mịt, các mảnh tôn ghép quanh xe va đạp nhức óc. Thảm trải đá, chiếc xe cà tàng bốc tung bụi đất mù mịt, các mảnh tôn ghép quanh xe va đập nhức óc. Thảm trải sàn xe bằng cao su đã mòn để lộ đủ ba chiếc nấm sắt? Bỗng bác rụt chân đạp ga.
    Bác vừa nhìn thấy bên vệ đường một hình thù ác mộng: một vật có bộ da xám ngoét bê bết bùn và máu đang lổm ngổm bò bốn chân.
    Bàn chân bác chủ trai sau giây lát rời bàn đạp ga bây giờ nhè nhẹ đạp thắng. Có lẽ bác đã do dự dôi chút rồi mới quyết định dừng xe. Đưa tay gãi chiếc đầu hói, bác suy nghĩ rất lung. Phủ phục bò bốn chân bên vệ đường, mái tóc dài đen nháy vương mấy chiếc lá vàng? hiển nhiên đó là một người đàn bá. Một xác chết còn sống. Chết rồi nhưng vẫn còn nghị lực phi thường để chống cùi tay và đầu gối mà lết từng xăngtimét một trên đường. Tuy máy và thùng chiếc xe cà tàng kêu như quỷ rống nhưng bác vẫn nghe loáng thoáng hình như có tiếng rên rỉ. Thế là bác chủ trại lấy hết can đảm, cài số lùi, quyết định tới cứu?
    Tại bệnh viện Corington bang Kentucky, các bác sỹ lắc đầu sau khi khám Margaret vừa được bác chủ trại chở tới. ?oKhó lòng thoát?, họ nói vậy. Dù sao, còn nước còn tát, họ đưa cô bé vào phòng cấp cứu, chăm sóc hết sức tận tình và chuyền máu cho cô. Đồng thời báo cho cảnh sát.
    Viên cảnh sát già phóng ngay tới, vẫn bình tĩnh giứa đám bố mẹ, thân thích và bạn bè hốt hoảng. Ông hỏi người bố:
    - Cô bé đi với ai?
    Tôi đâu có nghe nó báo. Chỉ thấy nó đi nghỉ cuối tuần với bạn nó.
    - Bạn nào vậy, thưa bà? ?" Ông quay sang hỏi người mẹ.
    Người mẹ sụt sùi đáp:
    - Cháu nó hàng đống bạn?
    - Dù sao bà cũng có thể cho một địa chỉ mà con gái ông bà tới chứ ạ?
    Không. Cả bố lẫn mẹ Margaret chẳng biết một địa chỉ nào của bạn con gái họ. Chỉ vừa mới biết nó đã bị cưỡng hiếp, khám nghiệm đã xác minh con bé không còn trinh trắng như trước. Tuy đó là thứ lâu nay cô vẫn hết sức giữ gìn coi là thứ quý nhất mình có.
    Viên cảnh sát già hỏi bác chủ trại:
    - Thưa bác, bác nắm được tin tức gì xin cho biết.
    Bác già hói mong tới chợ sớm, lại lo cho chiếc xe tải ngoài kia nên nhún vai:
    - Tôi chả nắm được gì hết? chỉ thấy con nhỏ trên đường, thế thôi ạ. Tôi đi được rồi chư?
    - Gượm đã bác. Bác chở tôi tới chỗ nhặt được cô bé.
    Trong nháy mắt, viên cảnh sát già đã quay lại. Ông ta rất lo: nếu Margaret cứ hôn mê như thế này rồi đi thẳng sang thế giới bên kia, việc truy tìm hung thủ sẽ rất khó khăn nếu không nói là gần như không thể được. Nhưng bác sỹ cương quyết không cho gặp nạn nhân: cô bé vẫn đang bất tỉnh, dù vào gặp cũng chẳng hy vọng lượm được lời khai nào.
    - Đúng thế - Viên cảnh sát cố nài ?" nhưng ít ra cũng cho tôi xem mặt.
    Thật kỳ diệu, bộ đồng phục màu xanh dương của viên cảnh sát đã tác động như phép lạ tới Margaret trước cặp mắt kinh ngạc của mọi ngưồi, cô bé nhỏm dậy kêu lên:
    - Thằng Ernest.
    - Ernest nào, họ gì?
    - Ernest Foutch? cô bé thều thào rồi lập tức hôn mê trở lại.
    Bác sĩ nhẹ nhàng đẩy viên cảnh sát ra cửa, tin chắc nạn nhân đang bắt đầu hấp hối.
    Xe cảnh sát hú còi inh ỏi tới đậu trước nhà Ernest Foutch. Hắn chẳng cần giả bộ kinh ngạc mà thực sự sửng sốt thấy cảnh sát ập tới lẹ thế. Tuy vậy, tất nhiên hắn chối bai bải:
    - Thưa, đúng là cả ngày thứ bảy và một phần chủ nhật tôi ở cùng Margaret, nhưng từ chiều chủ nhật không thấy cô ta đâu hết.
    - Thôi đi, chính cô bé đã tố cáo anh.
    Ernest trợn tròn mắt không tin, lẩm bẩm:
    - Vô lý.
    Vẻ sửng sốt lúc này cũng không phải là đóng kịch. Hắn hỏi:
    - Cô ta tố cáo tôi à? Thật chứ?
    - Thật, trong bệnh viện? cô bé đã tỉnh lại giây lát, vừa đủ thì giờ khai ra tên anh.
    - Cô ta mê sảng đó thôi. Hoặc định nói điều gì đó nhưng mấy ông hiểu sai đi.
    Viên cảnh sát túm ngực Ernest:
    - Để rồi coi.
    Lát sau, Ernest tay đeo còng, đi giữa toán cảnh sát áp giải, phía sau là viên cảnh sát già trong hành lang bệnh viên. Ngang qua bố mẹ, bạn bè của Margaret mà số đông là chỗ quen biết lâu nay, hắn lải nhải không ngớt:
    - Đâu phải tôi. Xin cam đoan, xin thề độc là không phải tôi. Chắc các vị cũng tin rằng không phải tôi. Ông cảnh sát đây lầm to rồi. Có thể Margaret đã kêu tên tôi nhưng kêu tên là một chuyện, tố cáo tôi là hung thủ lại là một chuyện. Chuyện này thật vô lý.
    Bố mẹ Margaret đều rất đỗi phân vân. Họ vẫn coi Ernest Foutch là một chàng trai tốt bụng, không thể làm hại ai bao giờ. Cậu ta say đắm con gái họ, điều đó là hiển nhiên, nhưng con người tử tế và bình thường này khó có thể giết người. Ông cảnh sát già có khi lẩm cẩm hiểu sai ý Margaret cũng nên.
    Ernest đã hoàn toàn trấn tĩnh sau mấy phút bàng hoàng hoảng hốt ban đầu. Ngay cả khi viên cảnh sát mở cửa phòng bệnh rồi ra hiệu bảo hắn vào, hắn vẫn bình tĩnh. Nghĩ bụng: ?oChúng dựng cảnh này để chơi đòn cân não mình đây. Nhưng đếch sợ. Con bé nằm ngay đơ thế kia, mặt mũi trắng bệch, thở không ra hơi, sắp tử đến nơi làm quái gì được?.
    Hắn quay nhìn bác sĩ. Thì thầm rất lễ phép:
    - Thưa bác sĩ, khi cô ta nói lên tên tôi, bác sĩ có hiện diện tại đây không?
    Bác sĩ gật đầu.
    - Lạ nhỉ. Vô lý hết sức, không thể có chuyện đó? Bác sĩ cam đoan có nghe cô ta kêu tên Foutch chứ?
    - Không? bác sĩ thừa nhận. Tôi đang đứng đây thì nghe cô ta nói một cái tên. Tôi cho rằng, nói đúng ra thì tôi tin chắc rằng cô ta nói tới một người tên là Ernest. Sau đó còn thều thào nói lên một tên họ gì đó nữa tôi nghe không rõ? Ông cảnh sát cho rằng đã nghe được? còn tôi thì không dám chắc.
    Ba người im lặng nhìn nhau. Cô y tá nhìn họ với vẻ khó chịu: nếu cần nói chuyện thì ra ngoài hành lang cho rồi.
    - Thưa ông cảnh sát ?" Ernest vẫn tiếp tục với giọng nhỏ nhẹ - Tôi xin thề không dính chút nào vào vụ này. Tôi sẵn sàng trả lời mọi chất vấn của ông, có điều là không ở đây? và sau khi đã tháo những của nợ này ra.
    Hắn giơ hai cổ tay bị còng với vẻ công dân lương thiện bị xúc phạm.
    Viên cảnh sát bắt đầu bối rối. Rất có thể ông đã nghe nhầm. Vả lại, khi nói tên Ernest Foutch chắc gì Margaret có ý tố cáo kẻ tấn công cô ta? Trong điều kiện như vậy mà bắt giữ tay này đâu có được.
    Ông ngó ra cửa định gọi đồng nghiệp đứng chờ ngoài hành lang mang chìa khóa vào mở còng cho Ernest.
    Ông không tính tới sức sống mãnh liệt trong cơ thể trẻ trung của Margaret. Một tiếng thủy tinh rơi vỡ làm tất cả đều giật nảy, cô y tá vừa đánh rơi lọ thuốc trên tay trợn tròn hai mắt nhìn thẳng phía sau ba người. Cả ba quay phắt lại.
    Margaret dứt tung dây chuyền máu, lột mặt nạ dưỡng khí, nhỏm hẳn người trên đống chăn, hét lên tuy cổ bị cứa đứt:
    - Nó đấy? Nó đấy? Bắt lấy nó.
    Sức chống đỡ của Ernest lập tức tan biến. Hắn tái xanh tái tử, hai hàm răng đập vào nhau lập bập, khiếp sợ tột cùng trước lời tố cáo từ thế giới bên kia bắn tới. Vài phút sau hắn cúi đầu thú tội.
    Trong cả tháng nằm xà lim chờ ra hầu tòa, hắn cũng như cư dân Corington, mỗi ngày đều trông ngóng nghe tin tức về bệnh tình Margaret. Cô sẽ sống sót? Hay cô sẽ chết? Cũng như mọi người dân trong thành phố, hắn thực lòng cầu mong Margaret tai qua nạn khỏi. Không phải vì hắn ăn năn hối cải đâu. Mà vì nếu cô bé được chữa lành, hắn sẽ chỉ án tù chung thân là cùng. Còn nếu cô không qua khỏi hẵn sẽ phải lên ghế điện là cái chắc. Bọn sát nhân đều thế cả: chúng không gớm tay reo rắc chết chóc cho người khác nhưng chính chúng lại rất sợ chết.
    Margaret cũng ham sống lắm, nên sau thời gian được cứu chữa cô không chết. Kẻ giết hụt cô nhờ vậy cũng được sống,
    Nhưng trò Petting Party ?ogỡ gạc xả láng? vẫn đang thịnh hành, những bậc bố mẹ không để mắt xem con mình chơi với ai, đi đâu vẫn còn rất đông. Nên vẫn còn có những Margaret khác và những Ernest khác.
  8. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Hai cha con
    Truyện ngắn Pháp​
    Pierrot biệt hiệu "Thộn" ngồi tù lần này là lần thứ tư kể từ khi ra chào đời. Cũng như ba lần trước, lần này bản án lại xác nhận biệt hiệu của gã rất hợp với con người gã: gã thộn tới mức liên tiếp nhiều lần định vượt ngục bằng những thủ đoạn không giống ai sau khi giở trò chôm chỉa cũng chẳng giống ai. Như lần mới đây chẳng hạn: gã lẻn vào ngôi nhà vắng chủ, cầm dao định... nậy cửa két sắt của người ta. Hì hục mãi không bật được cửa, gã ném chiếc két xuống thang gác, tưởng sẽ làm nó vỡ tung. Thấy nó vẫn gan lỳ, gã ôm lên ném qua cửa sổ. Két vẫn trơ trơ. Tức điên lên, Pierrot chôm luôn một chiếc xe tải nhẹ chở chiếc két sắt ma quái về nhà gã.
    Trong nhà có sẵn đồ nghề: xà beng, búa tạ và nhiều thứ khác... nên sau một hồi loay hoay toát mồ hôi hột, Pierrot buộc được chiếc két ngoan cố phải phơi bày hết kho tàng trong lòng nó: vừa đúng 25 Frăng (khoảng 50.000VNĐ). Một thành quả thảm hại! Càng thảm hại hơn bội phần vì nó khoác lên cổ gã cái án 5 năm tù, để lại ngoài đời cô vợ trẻ với đứa con thơ. Kể ra thì cũng đáng đời, vì Pierrot tái phạm nhiều lần rồi. Bà con xóm giềng thấy gã bị còng tay lần thứ tư đều thở phào nhẹ nhõm: ít ra họ cũng khỏi lo bị khua khoắng các đồ vặt vãnh trong 5 năm gã ngồi đếm lịch. Mà gã có phải con nhà cầu bơ cầu bất hoặc thất cơ lỡ vận gì cho cam! Bố là lính senđầm rất oai vệ trong bộ quân phục bảnh bao, mồm hét ra lửa đe nẹt dân bất lương, chỉ phải mỗi tội: hết phiên trực tại đồn lại la cà hết quán rượu này đến hộp đêm kia, chẳng lo dạy dỗ gì thằng nhỏ thành ra mới mười lăm tuổi nó đã nuôi miệng bằng bánh mỳ của nhà trừng giới, và lúc này đang lao động cải tạo trong một nhà tù tỉnh lẻ, bằng việc nhồi rơm vào nệm ghế với số tiền công 80 xu một nệm.
    Năm nay vừa đến tuổi "tam thập nhi lập" gã bắt đầu biết suy nghĩ: bạn bè đều có nghề có nghiệp, cuộc sống ít nhiều ổn định, con cái đàng hoàng. Cả xóm chỉ có một mình gã chưa đâu vào đâu. Lần đầu tiên trong đời Pierrot mới nhận ra rằng: sống lương thiện được nhiều mất ít, sự kính trọng của mọi người đáng quý hơn sự tha thứ.
    Một bữa cuối năm 1955, Pierrot nằng nặc xin gặp quan tòa. Gã nói với quản ngục:
    - Thả tôi ra, tôi có công chuyện cực kỳ hệ trọng phải hoàn tất. Nếu tự do là cái đúng như các vị đại diện pháp luật vẫn giải thích thì ông không có quyền từ chối.
    Thả ra? Đúng là lời lẽ gã Thộn. Làm gì có chuyện ra khỏi nhà tù dễ dàng như vậy, nhất là khi mới đếm hết một năm cuốn lịch phải đếm. Chưa đủ tiêu chuẩn đưa vào danh sách tù nhân thuộc diện xét cho ân xá nữa là! Mà việc gặp quan tòa đâu có dễ, phải có lý do cực kỳ chính đáng, cực kỳ khẩn thiết, tuyệt đối bất khả kháng mới được xét. Pierrot thấy mình có một lý do đủ tiêu chuẩn: gã vừa sực nhớ tới thằng con.
    - Tôi có đứa con trai. Bổn phận tôi phải chăm lo cho nó. Việc này không quan trọng sao? Ông quản ngục có dám cho rằng chăm lo dạy dỗ con cái là không quan trọng không?
    - Quan trọng, quan trọng, tối ư quan trọng, biết rồi, khổ lắm. Thằng con chú mày được sáu tháng rồi, phải không? Đáng nhẽ chú mày phải hiểu được điều này từ lâu. Và chịu thương chịu khó làm ăn thay vì ôm két sắt nhà người ta ném qua cửa sổ hòng cuỗm tiền bên trong. Vả lại, chú mày chỉ là bố nó thôi, thằng nhóc còn có mẹ nữa chứ. Mẹ nó chăm sóc con nhất định hơn hẳn chú mày. Chui đầu vào tù rồi, đâu còn xứng đáng mang danh hiệu làm bố! Thôi, nghỉ khỏe, để mẹ nó lo.
    Khốn nỗi thằng bé nhà Pierrot tuy có mẹ nhưng là cách đây mấy tháng.
    Mới bữa vừa qua, gã vừa nhận tin từ con đường chính thức gửi tới tận xà lim. Từ khi vào tù đến giờ gã có lần nào nhận được thư của ai, vậy mà bữa qua lại được trao tờ giấy in tiêu đề cơ quan chính quyền, chi chít những dấu mộc, lời lẽ cộc lốc và hách dịch:
    "Gửi đương sự Jean X...
    Báo để đương sự biết: Cô X... người vẫn chung sống ngoài hôn thú với đương sự, người đã nhận là mẹ đứa trẻ do thụ thai với đương sự đã từ bỏ vĩnh viễn quyền làm mẹ thông qua việc cô giao con đương sự cho cơ quan Cứu trợ xã hội. Đứa con trai mang tên Jean, hai tháng tuổi. Xét hoàn cảnh hiện tại, đương sự không có khả năng đảm đương nuôi dạy đứa trẻ vừa nêu, ban giám đốc cơ quan Cứu trợ xã hội đã giao thằng nhỏ cho những người nhận về làm con nuôi. Sinh hoạt phí của nó sẽ do các tổ chức từ thiện chi trả một phần, một phần do đương sự lo liệu tùy khả năng ban quản lao ấn định.
    Ký tên: Không rõ."

    Từ sau khi đọc thư, Pierrot không ngớt la to:
    - Cho tôi gặp quan tòa, phải thả tôi ra... thằng nhóc nhà tôi gặp khó khăn.
    La tới mức quản lao chịu không thấy, phải mách nước hòng xoa dịu:
    - Làm đơn xin cấp trên, ban quản lao sẽ chuyển cho.
    Thấy đây là một lối thoát, Thộn nghuệch ngoạc viết tờ đơn kể lể tình đầu thảm thiết nói lên nỗi lo về số phận người kế nghiệp vừa tròn sáu tháng tuổi.
    Mảnh giấy hồi âm viết:
    "Khỏi lo vô ích. Con đương sự đang ở trong tay những người rất tốt, nó sẽ được nuôi dạy chu đáo. Nếu đương sự lo lắng về mức sống của nó, ngoài giờ làm trong xưởng, hãy nhồm rơm đệm ghế thêm nhiều nữa để tăng tiền gửi nuôi dưỡng con. Chúng tôi có thể giúp đương sự chừng đó là tối đa".
    Pierrot bắt đầu nhồi đệm cật lực. Tiền công mỗi ghế được 80 xu, tiền ăn phải phụ thêm cho con mỗi tháng 120 Frăng, vị chi phải làm ngoài giờ 150 ghế. Buổi trưa, buổi tối, sáng tinh mơ, trong lúc các tù nhân ngủ, chơi bài, đi dạo quanh sân... các giám thị đều thấy Pierrot ngồi tựa lưng vào tường xà lim với đống rơm và xấp vỏ đệm, luôn tay nhồi nhồi, khâu khâu. Khi thằng nhỏ lên hai, Thộn đã nhồi được 4700 ghế, được trả công xấp xỉ 4000 frăng. Vậy là gã một mình cáng đáng toàn bộ tiền ăn của thằng con. Nhưng Thộn chưa cho thế là đã làm tròn bổn phận. Gã nói:
    - Phải thả tôi ra. Năm nay thằng nhỏ đã lên hai, cần có bố. Tuổi đó là tuổi đứa con rất cần bố. Nó đang học nói, ai dạy nó nói? Nếu không phải là tôi! Tôi không dạy, sau này hai bố con làm sao hiểu được nhau? Tôi là bố nó.
    Pierrot được trả lời:
    -Yên chí. Nó đã có bố khác rồi, không phải thứ bố tạm thời, chốc lát như cậu. Họ sẽ chính thức nhận nó làm con, nếu cậu chịu cải tạo tốt. Như vậy thằng nhóc sẽ có cuộc sống bình thường nhưng những đứa trẻ khác, khỏi vướng mặc cảm là con một kẻ ở tù vì chôm chỉa.
    Pierrot không chịu, nắm tay đập cửa ầm ầm, đòi được gặp nhà chức trách có thẩm quyền, gặp cha tuyên úy trại giam... kiên trì cuộc đấu tranh giành quyền làm cha, cuối cùng, quản lao đành phải cho Thộn gặp quan tòa chịu trách nhiệm thi hành án.
    Vị này chính là vị quan tòa "của" Pierrot. Vị đã nhẵn mặt Thộn. Lần nào bị điệu ra hầu tòa gã cũng chạm trán ông ta. Và lần nào cũng nghe ông mắng, nửa mắng nửa dạy bảo:
    - Pierrot, càng ngày anh càng trượt dài. Phải dừng lại chứ! Anh không phải là người bất trị, không phạm trọng tội, hãy thử tu tỉnh một phen, cố trở thành người ra người coi thử. Nhất định được, cố lên!
    Vị quan tòa này rất nhân hậu. Là một trong số không nhiều những người tin chắc vào khả năng cải tạo những kẻ phạm tội với xã hội. Một trong những quan tòa bao giờ cũng giải thích, khuyên răn trước khi lên án, cho dù việc làm đó thường không có tác dụng trong hai trên ba trường hợp, thậm chí chín trong mười trường hợp.
    Trước mặt vị quan tòa tốt bụng, Pierrot lại mở chiếc đĩa hát cũ:
    - Tôi muốn ra khỏi đây, thưa ông. Vì thằng con tôi. Lúc này nó đang rất cần bố. Xin ông thả tôi ra. Xin thề thật độc là sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
    - Pierrot, anh còn những ba năm nữa. Không thể cho anh ra. Vả lại, ai dám tin lời anh, trước sau gì anh cũng đào tường khoét gạch nhà thiên hạ, không thì lần lưng móc túi người ta. Anh sinh ra không phải để làm bố. Muộn quá rồi, Pierrot. Muộn quá. Tôi đã mấy lần báo động cho anh biết anh đang xuống dốc đấy, nhưng anh đều bỏ ngoài tai.
    "Thật bất công hết mức", Pierrot nghĩ bụng rồi nói:
    - Các vị giảng giải đến nhàm cả hai lỗ tai tôi về công lý suốt bao năm nay. Bây giờ, xin hãy để tôi nói ngài hay cái công lý của ngài đang sắp làm nên trò trống gì. Nó sẽ biết thằng nhóc nhà tôi thành một thằng thộn như tôi. Ngài có biết tại sao tôi dám nói chắc như vậy không? Vì khi tôi bằng tuổi nó bây giờ thì bố tôi qua đời, mộ ông chưa xanh cỏ thì bà mẹ quý mến của tôi đã vội vã khăn gói ra đi theo tiếng gọi của một người đàn ông. Pierrot này bị gửi vào nhà tế bần ở thôn quê, và mới lên năm đã biết giở trò mất dạy. Lên bảy đã biết lấy trộm áo của nhà chủ, lên mười đã biết móc bóp của cô nuôi dạy trẻ lấy tiền đi chơi hội chợ, mười hai tuổi ăn cắp xe đạp, mười ba vào trại cải huấn, mười lăm đi cải tạo, mười bảy vào tù. Sau đó cứ đà ấy tiếp tục dài dài... Thằng con tôi sẽ lặp lại y hệt bố nó nếu không ai đưa nó thoát ra khỏi cái vòng ma quỷ ấy. Ai sẽ đưa nó ra, nếu không phải là tôi? Tôi sẽ lấy lại thăng bằng cho cái cân không cho nó lệch. Phải thả tôi ra!
    Quan tòa rất đỗi phân vân:
    - Anh biết con anh như thế nào không?
    - Tôi có tấm hình đây.
    - Chưa gặp mặt, anh có yêu nó không?
    - Vì con, tôi quên ăn quên ngủ, nhồi ghế cả ngày lẫn đêm. Tôi sẽ làm tất cả vì con, tất cả mong sao con không trở thành như bố nó.
    - Nếu được tha, anh sẽ tiếp tục phấn đấu hết mình vì con chứ?
    - Xin thả tôi ra, chỉ như vậy tôi mới có cơ may.
    - Chịu khó đợi ít lâu, rồi sẽ được tha.
    - Đợi tới ngày đó thì muộn mất. Ngay từ hôm nay nó phải biết gọi tôi bằng bố, tôi phải có mặt để hỉ mũi cho nó hoặc đá đít nó khi cần. Dạy cho nó biết cách sống với người thương yêu nó, thuộc về nó, nó có thể đòi, có thể hiểu mọi thứ, mọi điều... Tôi van ông, hãy cho tôi ra...
    Luật sư của Pierrot, ông chủ tịch đoàn luật sư, các bạn tù đều đồng thanh:
    - Nên thả anh ta ra.
    Bằng cách nào đây? Có lẽ phải gộp án này vào án trước, coi vụ két sắt có 25 Frăng bên trong cũng nằm trong vụ đó luôn, coi vụ vượt ngục không nghiêm trọng như đã kết luật trước đây, cân nhắc kỹ mọi khả năng giảm tội và phải nghĩ thêm những mẹo khác nữa dù có nguy cơ phải gánh chịu nhiều nguy hiểm có thể trút lên vai những người chịu trách nhiệm thi hành án.
    Pierrot có may mắn gặp được vị quan tòa rất tốt bụng. Xưa nay ông vẫn tốt bụng với những kẻ trót phạm lỗi lầm. Thấy Pierrot lần đầu tiên tỏ ra thộn một cách khôn ngoan, ông nói:
    - Để thử anh xem sao.
    Và nhìn Pierrot đang chảy nước mắt vui mừng.
    Vị quan tòa mang hết tài năng, kinh nghiệm cùng với tấm lòng nhân hậu của mình để xóa tội cho Pierrot.
    Ít bữa sau đó Thộn ra khỏi trại giam. Việc đầu tiên là phải tìm cách làm quen với thằng con. Thằng nhỏ vừa thấy cái ông nó chưa gặp hồi nào, mang đầu tóc bù xù, bộ râu gớm chết, nước da xám ngoét, cúi xuống định ôm nó vào lòng thì khóc thét lên, bỏ chạy một mạch không quay lại. Pierrot rất thông cảm, bảo bà nuôi trẻ:
    - Nhờ bà nuôi cháu giúp tôi ít bữa nữa. Và nói về tôi cho nó hiểu. Tôi phải đi kiếm tiền nuôi con và nuôi thân. Không lâu đâu. Giờ đây tôi đã đủ can đảm rồi, không sợ khó sợ khổ như trước nữa. Chỉ nhờ bà luôn luôn nói với cháu về bố cho nó quen dần, nói tôi sắp trở về và sẽ ở bên nó mãi. Nếu nó quậy phá, bà hãy nhắc đến tôi và răn dạy cháu... luôn luôn nói về tôi. Tôi sẽ nhanh chóng trở về...
    Nhưng con đường hoàn lương đâu có xuôi chèo mát mái như Pierrot tưởng, nó đòi hỏi rất nhiều ý chí, nghị lực. Tình thương con, quyết tâm làm lại cuộc đời để nuôi dạy con đã giúp Pierrot vượt qua mọi trở ngại. Không một xu dính túi, ngay đêm đầu được tự do anh không kiếm đâu ra chỗ ngả lưng, cuối cùng phải trở lại trại giam xin tá túc qua đêm đông tuyết phủ. Trại không nhận, anh phải trà trộn với đám người cầu bơ cầu bất, hòng kiếm chút hơi ấm mong manh từ họ truyền sang. Từ bữa sau, anh đi lượm ve chai ngửa tay xin việc khắp hang cùng ngõ hẻm nhưng chẳng ai dám thu nạp con người có lý lịch tư pháp ghi lắm án tù như anh. Biết thân biết phận, Pierrot không nề hà bất cứ việc gì: kéo bễ lò rèn, lượm giấy lộn cho Đội quân Cứu nạn, bốc dỡ xe tải, chùi rửa bàn cầu, quét đường, gác kho, ban ngày đi bán dạo vài thứ đồ lặt vặt, đêm ngủ vạ vật dưới gầm cầu, thỉnh thoảng may mắn dành được một chỗ trong dạ lữ viện. Và tháng tháng vẫn trả đủ 120 Frăng tiền ăn của con.
    Sông có khúc, người có lúc, hết cơn bĩ cực ắt tới ngày cam lai. Mãi cũng tới ngày Pierrot kiếm được chân nhân viên giao hàng cho một cửa hiệu có ông chủ thương người. Anh được cấp phiếu chấm công, có tiền thuê căn phòng nhỏ, và dám tậu cả một... chiếc quần mới cứng. Bữa đó, Thộn đóng bộ đàng hoàng chễm chệ ngồi tàu hỏa đi đón con, đưa nó tới khoe quan tòa, vị quan tòa tốt bụng "của mình". Đứng trước quan tòa, Thộn ngẩng cao đầu nói dõng dạc:
    - Xin ông nhìn kỹ thằng nhỏ này. Đây là con trai Thộn, tên Jean, ba tuổi. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng nó tới trình diện ông trong tư cách ông là một quan tòa. Thộn này dám cam đoan như vậy.
    Cho tới nay, tin cho biết: Pierrot tức Thộn đã giữ đúng lời hứa. Anh nuôi dạy thằng con trở thành một công dân lương thiện được bà con lối xóm tin yêu.
  9. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    Hai cha con
    Truyện ngắn Pháp​
    Pierrot biệt hiệu "Thộn" ngồi tù lần này là lần thứ tư kể từ khi ra chào đời. Cũng như ba lần trước, lần này bản án lại xác nhận biệt hiệu của gã rất hợp với con người gã: gã thộn tới mức liên tiếp nhiều lần định vượt ngục bằng những thủ đoạn không giống ai sau khi giở trò chôm chỉa cũng chẳng giống ai. Như lần mới đây chẳng hạn: gã lẻn vào ngôi nhà vắng chủ, cầm dao định... nậy cửa két sắt của người ta. Hì hục mãi không bật được cửa, gã ném chiếc két xuống thang gác, tưởng sẽ làm nó vỡ tung. Thấy nó vẫn gan lỳ, gã ôm lên ném qua cửa sổ. Két vẫn trơ trơ. Tức điên lên, Pierrot chôm luôn một chiếc xe tải nhẹ chở chiếc két sắt ma quái về nhà gã.
    Trong nhà có sẵn đồ nghề: xà beng, búa tạ và nhiều thứ khác... nên sau một hồi loay hoay toát mồ hôi hột, Pierrot buộc được chiếc két ngoan cố phải phơi bày hết kho tàng trong lòng nó: vừa đúng 25 Frăng (khoảng 50.000VNĐ). Một thành quả thảm hại! Càng thảm hại hơn bội phần vì nó khoác lên cổ gã cái án 5 năm tù, để lại ngoài đời cô vợ trẻ với đứa con thơ. Kể ra thì cũng đáng đời, vì Pierrot tái phạm nhiều lần rồi. Bà con xóm giềng thấy gã bị còng tay lần thứ tư đều thở phào nhẹ nhõm: ít ra họ cũng khỏi lo bị khua khoắng các đồ vặt vãnh trong 5 năm gã ngồi đếm lịch. Mà gã có phải con nhà cầu bơ cầu bất hoặc thất cơ lỡ vận gì cho cam! Bố là lính senđầm rất oai vệ trong bộ quân phục bảnh bao, mồm hét ra lửa đe nẹt dân bất lương, chỉ phải mỗi tội: hết phiên trực tại đồn lại la cà hết quán rượu này đến hộp đêm kia, chẳng lo dạy dỗ gì thằng nhỏ thành ra mới mười lăm tuổi nó đã nuôi miệng bằng bánh mỳ của nhà trừng giới, và lúc này đang lao động cải tạo trong một nhà tù tỉnh lẻ, bằng việc nhồi rơm vào nệm ghế với số tiền công 80 xu một nệm.
    Năm nay vừa đến tuổi "tam thập nhi lập" gã bắt đầu biết suy nghĩ: bạn bè đều có nghề có nghiệp, cuộc sống ít nhiều ổn định, con cái đàng hoàng. Cả xóm chỉ có một mình gã chưa đâu vào đâu. Lần đầu tiên trong đời Pierrot mới nhận ra rằng: sống lương thiện được nhiều mất ít, sự kính trọng của mọi người đáng quý hơn sự tha thứ.
    Một bữa cuối năm 1955, Pierrot nằng nặc xin gặp quan tòa. Gã nói với quản ngục:
    - Thả tôi ra, tôi có công chuyện cực kỳ hệ trọng phải hoàn tất. Nếu tự do là cái đúng như các vị đại diện pháp luật vẫn giải thích thì ông không có quyền từ chối.
    Thả ra? Đúng là lời lẽ gã Thộn. Làm gì có chuyện ra khỏi nhà tù dễ dàng như vậy, nhất là khi mới đếm hết một năm cuốn lịch phải đếm. Chưa đủ tiêu chuẩn đưa vào danh sách tù nhân thuộc diện xét cho ân xá nữa là! Mà việc gặp quan tòa đâu có dễ, phải có lý do cực kỳ chính đáng, cực kỳ khẩn thiết, tuyệt đối bất khả kháng mới được xét. Pierrot thấy mình có một lý do đủ tiêu chuẩn: gã vừa sực nhớ tới thằng con.
    - Tôi có đứa con trai. Bổn phận tôi phải chăm lo cho nó. Việc này không quan trọng sao? Ông quản ngục có dám cho rằng chăm lo dạy dỗ con cái là không quan trọng không?
    - Quan trọng, quan trọng, tối ư quan trọng, biết rồi, khổ lắm. Thằng con chú mày được sáu tháng rồi, phải không? Đáng nhẽ chú mày phải hiểu được điều này từ lâu. Và chịu thương chịu khó làm ăn thay vì ôm két sắt nhà người ta ném qua cửa sổ hòng cuỗm tiền bên trong. Vả lại, chú mày chỉ là bố nó thôi, thằng nhóc còn có mẹ nữa chứ. Mẹ nó chăm sóc con nhất định hơn hẳn chú mày. Chui đầu vào tù rồi, đâu còn xứng đáng mang danh hiệu làm bố! Thôi, nghỉ khỏe, để mẹ nó lo.
    Khốn nỗi thằng bé nhà Pierrot tuy có mẹ nhưng là cách đây mấy tháng.
    Mới bữa vừa qua, gã vừa nhận tin từ con đường chính thức gửi tới tận xà lim. Từ khi vào tù đến giờ gã có lần nào nhận được thư của ai, vậy mà bữa qua lại được trao tờ giấy in tiêu đề cơ quan chính quyền, chi chít những dấu mộc, lời lẽ cộc lốc và hách dịch:
    "Gửi đương sự Jean X...
    Báo để đương sự biết: Cô X... người vẫn chung sống ngoài hôn thú với đương sự, người đã nhận là mẹ đứa trẻ do thụ thai với đương sự đã từ bỏ vĩnh viễn quyền làm mẹ thông qua việc cô giao con đương sự cho cơ quan Cứu trợ xã hội. Đứa con trai mang tên Jean, hai tháng tuổi. Xét hoàn cảnh hiện tại, đương sự không có khả năng đảm đương nuôi dạy đứa trẻ vừa nêu, ban giám đốc cơ quan Cứu trợ xã hội đã giao thằng nhỏ cho những người nhận về làm con nuôi. Sinh hoạt phí của nó sẽ do các tổ chức từ thiện chi trả một phần, một phần do đương sự lo liệu tùy khả năng ban quản lao ấn định.
    Ký tên: Không rõ."

    Từ sau khi đọc thư, Pierrot không ngớt la to:
    - Cho tôi gặp quan tòa, phải thả tôi ra... thằng nhóc nhà tôi gặp khó khăn.
    La tới mức quản lao chịu không thấy, phải mách nước hòng xoa dịu:
    - Làm đơn xin cấp trên, ban quản lao sẽ chuyển cho.
    Thấy đây là một lối thoát, Thộn nghuệch ngoạc viết tờ đơn kể lể tình đầu thảm thiết nói lên nỗi lo về số phận người kế nghiệp vừa tròn sáu tháng tuổi.
    Mảnh giấy hồi âm viết:
    "Khỏi lo vô ích. Con đương sự đang ở trong tay những người rất tốt, nó sẽ được nuôi dạy chu đáo. Nếu đương sự lo lắng về mức sống của nó, ngoài giờ làm trong xưởng, hãy nhồm rơm đệm ghế thêm nhiều nữa để tăng tiền gửi nuôi dưỡng con. Chúng tôi có thể giúp đương sự chừng đó là tối đa".
    Pierrot bắt đầu nhồi đệm cật lực. Tiền công mỗi ghế được 80 xu, tiền ăn phải phụ thêm cho con mỗi tháng 120 Frăng, vị chi phải làm ngoài giờ 150 ghế. Buổi trưa, buổi tối, sáng tinh mơ, trong lúc các tù nhân ngủ, chơi bài, đi dạo quanh sân... các giám thị đều thấy Pierrot ngồi tựa lưng vào tường xà lim với đống rơm và xấp vỏ đệm, luôn tay nhồi nhồi, khâu khâu. Khi thằng nhỏ lên hai, Thộn đã nhồi được 4700 ghế, được trả công xấp xỉ 4000 frăng. Vậy là gã một mình cáng đáng toàn bộ tiền ăn của thằng con. Nhưng Thộn chưa cho thế là đã làm tròn bổn phận. Gã nói:
    - Phải thả tôi ra. Năm nay thằng nhỏ đã lên hai, cần có bố. Tuổi đó là tuổi đứa con rất cần bố. Nó đang học nói, ai dạy nó nói? Nếu không phải là tôi! Tôi không dạy, sau này hai bố con làm sao hiểu được nhau? Tôi là bố nó.
    Pierrot được trả lời:
    -Yên chí. Nó đã có bố khác rồi, không phải thứ bố tạm thời, chốc lát như cậu. Họ sẽ chính thức nhận nó làm con, nếu cậu chịu cải tạo tốt. Như vậy thằng nhóc sẽ có cuộc sống bình thường nhưng những đứa trẻ khác, khỏi vướng mặc cảm là con một kẻ ở tù vì chôm chỉa.
    Pierrot không chịu, nắm tay đập cửa ầm ầm, đòi được gặp nhà chức trách có thẩm quyền, gặp cha tuyên úy trại giam... kiên trì cuộc đấu tranh giành quyền làm cha, cuối cùng, quản lao đành phải cho Thộn gặp quan tòa chịu trách nhiệm thi hành án.
    Vị này chính là vị quan tòa "của" Pierrot. Vị đã nhẵn mặt Thộn. Lần nào bị điệu ra hầu tòa gã cũng chạm trán ông ta. Và lần nào cũng nghe ông mắng, nửa mắng nửa dạy bảo:
    - Pierrot, càng ngày anh càng trượt dài. Phải dừng lại chứ! Anh không phải là người bất trị, không phạm trọng tội, hãy thử tu tỉnh một phen, cố trở thành người ra người coi thử. Nhất định được, cố lên!
    Vị quan tòa này rất nhân hậu. Là một trong số không nhiều những người tin chắc vào khả năng cải tạo những kẻ phạm tội với xã hội. Một trong những quan tòa bao giờ cũng giải thích, khuyên răn trước khi lên án, cho dù việc làm đó thường không có tác dụng trong hai trên ba trường hợp, thậm chí chín trong mười trường hợp.
    Trước mặt vị quan tòa tốt bụng, Pierrot lại mở chiếc đĩa hát cũ:
    - Tôi muốn ra khỏi đây, thưa ông. Vì thằng con tôi. Lúc này nó đang rất cần bố. Xin ông thả tôi ra. Xin thề thật độc là sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
    - Pierrot, anh còn những ba năm nữa. Không thể cho anh ra. Vả lại, ai dám tin lời anh, trước sau gì anh cũng đào tường khoét gạch nhà thiên hạ, không thì lần lưng móc túi người ta. Anh sinh ra không phải để làm bố. Muộn quá rồi, Pierrot. Muộn quá. Tôi đã mấy lần báo động cho anh biết anh đang xuống dốc đấy, nhưng anh đều bỏ ngoài tai.
    "Thật bất công hết mức", Pierrot nghĩ bụng rồi nói:
    - Các vị giảng giải đến nhàm cả hai lỗ tai tôi về công lý suốt bao năm nay. Bây giờ, xin hãy để tôi nói ngài hay cái công lý của ngài đang sắp làm nên trò trống gì. Nó sẽ biết thằng nhóc nhà tôi thành một thằng thộn như tôi. Ngài có biết tại sao tôi dám nói chắc như vậy không? Vì khi tôi bằng tuổi nó bây giờ thì bố tôi qua đời, mộ ông chưa xanh cỏ thì bà mẹ quý mến của tôi đã vội vã khăn gói ra đi theo tiếng gọi của một người đàn ông. Pierrot này bị gửi vào nhà tế bần ở thôn quê, và mới lên năm đã biết giở trò mất dạy. Lên bảy đã biết lấy trộm áo của nhà chủ, lên mười đã biết móc bóp của cô nuôi dạy trẻ lấy tiền đi chơi hội chợ, mười hai tuổi ăn cắp xe đạp, mười ba vào trại cải huấn, mười lăm đi cải tạo, mười bảy vào tù. Sau đó cứ đà ấy tiếp tục dài dài... Thằng con tôi sẽ lặp lại y hệt bố nó nếu không ai đưa nó thoát ra khỏi cái vòng ma quỷ ấy. Ai sẽ đưa nó ra, nếu không phải là tôi? Tôi sẽ lấy lại thăng bằng cho cái cân không cho nó lệch. Phải thả tôi ra!
    Quan tòa rất đỗi phân vân:
    - Anh biết con anh như thế nào không?
    - Tôi có tấm hình đây.
    - Chưa gặp mặt, anh có yêu nó không?
    - Vì con, tôi quên ăn quên ngủ, nhồi ghế cả ngày lẫn đêm. Tôi sẽ làm tất cả vì con, tất cả mong sao con không trở thành như bố nó.
    - Nếu được tha, anh sẽ tiếp tục phấn đấu hết mình vì con chứ?
    - Xin thả tôi ra, chỉ như vậy tôi mới có cơ may.
    - Chịu khó đợi ít lâu, rồi sẽ được tha.
    - Đợi tới ngày đó thì muộn mất. Ngay từ hôm nay nó phải biết gọi tôi bằng bố, tôi phải có mặt để hỉ mũi cho nó hoặc đá đít nó khi cần. Dạy cho nó biết cách sống với người thương yêu nó, thuộc về nó, nó có thể đòi, có thể hiểu mọi thứ, mọi điều... Tôi van ông, hãy cho tôi ra...
    Luật sư của Pierrot, ông chủ tịch đoàn luật sư, các bạn tù đều đồng thanh:
    - Nên thả anh ta ra.
    Bằng cách nào đây? Có lẽ phải gộp án này vào án trước, coi vụ két sắt có 25 Frăng bên trong cũng nằm trong vụ đó luôn, coi vụ vượt ngục không nghiêm trọng như đã kết luật trước đây, cân nhắc kỹ mọi khả năng giảm tội và phải nghĩ thêm những mẹo khác nữa dù có nguy cơ phải gánh chịu nhiều nguy hiểm có thể trút lên vai những người chịu trách nhiệm thi hành án.
    Pierrot có may mắn gặp được vị quan tòa rất tốt bụng. Xưa nay ông vẫn tốt bụng với những kẻ trót phạm lỗi lầm. Thấy Pierrot lần đầu tiên tỏ ra thộn một cách khôn ngoan, ông nói:
    - Để thử anh xem sao.
    Và nhìn Pierrot đang chảy nước mắt vui mừng.
    Vị quan tòa mang hết tài năng, kinh nghiệm cùng với tấm lòng nhân hậu của mình để xóa tội cho Pierrot.
    Ít bữa sau đó Thộn ra khỏi trại giam. Việc đầu tiên là phải tìm cách làm quen với thằng con. Thằng nhỏ vừa thấy cái ông nó chưa gặp hồi nào, mang đầu tóc bù xù, bộ râu gớm chết, nước da xám ngoét, cúi xuống định ôm nó vào lòng thì khóc thét lên, bỏ chạy một mạch không quay lại. Pierrot rất thông cảm, bảo bà nuôi trẻ:
    - Nhờ bà nuôi cháu giúp tôi ít bữa nữa. Và nói về tôi cho nó hiểu. Tôi phải đi kiếm tiền nuôi con và nuôi thân. Không lâu đâu. Giờ đây tôi đã đủ can đảm rồi, không sợ khó sợ khổ như trước nữa. Chỉ nhờ bà luôn luôn nói với cháu về bố cho nó quen dần, nói tôi sắp trở về và sẽ ở bên nó mãi. Nếu nó quậy phá, bà hãy nhắc đến tôi và răn dạy cháu... luôn luôn nói về tôi. Tôi sẽ nhanh chóng trở về...
    Nhưng con đường hoàn lương đâu có xuôi chèo mát mái như Pierrot tưởng, nó đòi hỏi rất nhiều ý chí, nghị lực. Tình thương con, quyết tâm làm lại cuộc đời để nuôi dạy con đã giúp Pierrot vượt qua mọi trở ngại. Không một xu dính túi, ngay đêm đầu được tự do anh không kiếm đâu ra chỗ ngả lưng, cuối cùng phải trở lại trại giam xin tá túc qua đêm đông tuyết phủ. Trại không nhận, anh phải trà trộn với đám người cầu bơ cầu bất, hòng kiếm chút hơi ấm mong manh từ họ truyền sang. Từ bữa sau, anh đi lượm ve chai ngửa tay xin việc khắp hang cùng ngõ hẻm nhưng chẳng ai dám thu nạp con người có lý lịch tư pháp ghi lắm án tù như anh. Biết thân biết phận, Pierrot không nề hà bất cứ việc gì: kéo bễ lò rèn, lượm giấy lộn cho Đội quân Cứu nạn, bốc dỡ xe tải, chùi rửa bàn cầu, quét đường, gác kho, ban ngày đi bán dạo vài thứ đồ lặt vặt, đêm ngủ vạ vật dưới gầm cầu, thỉnh thoảng may mắn dành được một chỗ trong dạ lữ viện. Và tháng tháng vẫn trả đủ 120 Frăng tiền ăn của con.
    Sông có khúc, người có lúc, hết cơn bĩ cực ắt tới ngày cam lai. Mãi cũng tới ngày Pierrot kiếm được chân nhân viên giao hàng cho một cửa hiệu có ông chủ thương người. Anh được cấp phiếu chấm công, có tiền thuê căn phòng nhỏ, và dám tậu cả một... chiếc quần mới cứng. Bữa đó, Thộn đóng bộ đàng hoàng chễm chệ ngồi tàu hỏa đi đón con, đưa nó tới khoe quan tòa, vị quan tòa tốt bụng "của mình". Đứng trước quan tòa, Thộn ngẩng cao đầu nói dõng dạc:
    - Xin ông nhìn kỹ thằng nhỏ này. Đây là con trai Thộn, tên Jean, ba tuổi. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng nó tới trình diện ông trong tư cách ông là một quan tòa. Thộn này dám cam đoan như vậy.
    Cho tới nay, tin cho biết: Pierrot tức Thộn đã giữ đúng lời hứa. Anh nuôi dạy thằng con trở thành một công dân lương thiện được bà con lối xóm tin yêu.
  10. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    CHỨNG CỚ NẮM TRONG TAY
    (Truyện ngắn Anh)​
    Trên một đường phố giữa trung tâm thủ đô Luân Đôn, một người phụ nữ trẻ đẹp vừa phải, áo quần và nữ trang đáng giá vừa phải đang đứng chờ xe điện.
    Một người đàn ông đi giầy da bóng loáng, cổ choàng khăn lụa, mặc áo khoác lông thú đang dạo chơi trên đường bỗng đứng khựng, sửa cặp kính trên mũi ngắm kỹ thiếu phụ. Rồi tới bên, cất giọng sang sảng bắt chuyện:
    - Xin được tự giới thiệu: nhà quý tộc Winston. Chẳng hay tôi có được hân hạnh đứng đây cùng đợi xe với cô chăng? Mong cô vui lòng cho phép?
    Chẳng mấy chốc câu chuyện giữa hai người đã trở nên cới mở thân tình. Wistion được biết: thiếu phụ góa chồng hiện đang sống độc thân, ngày tháng trôi qua trong buồn chán vì còn trẻ mà chưa kiếm ra việc gì làm, nguốn sống chỉ là khoản lợi tức? Nhà quý tộc tỏ vẻ cảm thông, cau mày suy nghĩ rồi chợt nảy ra một ý hay.
    - Vậy thì? Nhưng thôi, chả dám nhờ cậy cô việc này, sợ cô cho là không xứng đáng.
    - Không sao đâu, xin ngài cứ nói.
    - Thế này nhé, cô gái đáng mến! Hiện nay tôi đang sống một thân một mình trong nôi nhà quá rộng. Tôi có nhiều đầy tớ nhưng chắc cô chẳng lạ gì đàn ông chúng tôi không quen cai quản họ. Từ lâu tôi đã để tâm tìm kiếm một người quản gia, thực ra là kiếm một nữ chủ nhân để giúp tôi cai quản bọn tôi tớ lười chảy thây, quen làm ăn luộm thuộm, chuyên ăn cắp vặt. Mới gặp cô vài phút mà chẳng hiểu sao tôi đã thấy ngay cô chính là người tôi cất công tìm kiếm bấy lâu. Tôi thường bị công việc làm ăn choán hết thời giờ lại phải đi xa luôn nên thật khó lòng? Mong cô hiểu cho.
    - Xin lỗi về câu hỏi hơi tọc mạch: ngài làm công việc gì à?
    - Vài hầm mỏ. Một ngân hàng. Vài ba thứ lặt vặt khác? Ý cô thế nào?
    - Điều ngài vừa cho biết thật tuyệt diệu. Hoàn cảnh sinh sống của em hiện nay cũng khá dễ chịu nhưng còn khiêm nhường lắm. Từ khi nhà em mất đi, em mắc thêm chứng buồn. Được trông coi cơ ngơi của ngài thật không gì bằng.
    Không gì bằng? Nhà quý tộc Wiston mới trạc ngũ tuần, giàu sụ, lại chưa vợ, biết đâu một tổ ấm sẽ được xây nên!
    Wiston băn khoăn nhìn bộ đồ trên người thiếu phụ trẻ.
    - Thưa cô, xin thứ lỗi cho tính thẳng thắn của tôi. Tôi muốn người quản gia phải trang phục sao cho tương xứng với địa vị xã hội của tôi. Cô đừng ngại! Tôi sẽ lo hết. Nhưng trước tiên xin mời cô đi dùng trả với tôi trong đại khách sạn tôi quen. Vừa uống trà vừa thỏa thuận với nhau về các chi tiết. Tôi có thói quen giải quyết công việc thật lẹ, dứt điểm ngay không lề mề mất thì giờ.
    Mấy phút sau hai người đã vào uống trà trong đại khách sạn Luân Đôn. Khung cảnh qúa lộng lẫy khiến thiếu phụ choáng ngợp. Nhà quý tộc đưa cô tấm ngân phiếu khá nặng tay để mua sắm nhiều bộ đồ hợp thời trang, một ngân phiếu thứ hai nặng tay hơn nhiều về các khoản: ứng trước tiền công, thanh toán các khoản chi về phí tổn thu xếp nơi ăn ở? Wiston còn tỏ ra chu đáo hơn:
    - Cho tôi được thay mấy món nữ trang của cô bằng những thứ khác đẹp hơn. Đối với cô chắc chẳng có nghĩa lý gì, nhưng tôi rất coi trọng chuyện này.
    - Khỏi cần, thưa ngài. Nhẫn của em gắn kim cương thứ thiệt, đôi bông tai cũng vậy.
    - Tôi biết. Nhìn qua là tôi biết liền Nhưng mong cô đừng giận, tôi thấy mấy thứ đó làm theo kiểu hơi xưa. Cô đưa tôi, mấy chú thợ kim hoàn chuyên làm cho tôi lâu nay sẽ gia công lại biến chúng thành những món đồ tuyệt hảo. Chỉ sau hai mươi bốn giờ là hoàn tất. Họ còn có sẵn một sợi dây chuyền tuyệt đẹp, tôi sẽ thêm vào đây để cô có hẳn bộ đồ nữ trang hoàn chỉnh tương xứng với nhan sắc của cô. Tôi mưốn cô phải thật lộng lẫy khi tiếp các vị khách của tôi.
    Sáng hôm sau, thiếu phụ tới chỗ hẹn. Chờ mãi? không thấy nhà quý tộc Wiston tới. Vàng và kim cương không thấy châu về hợp phố. Giật mình, cô kiểm tra lại các tờ ngân phiếu, thì chẳng tờ nào có tiền bảo chứng tại ngân hàng.
    Loại phụ nữ ngộc nghếch dại khờ như cô này không phải ít. Chỉ trong vòng vài tháng, nhà quý tộc Wiston đã vào những nơi có sẵn con mồi: rạp hát, phòng hòa nhạc, vũ trường? dùng những mánh khóe đúng như vậy, nói những câu y hệt như vậy, dụ dỗ được mười bảy cô. Chắc không chỉ có từng ấy, vì nhiều cô há miệng mắc quai không dám trình báo thưa kiện mà đành chịu ngậm quả bồ hòn làm ngọt. Riêng một mình cô thứ mười bảy kịp thời tỉnh ngộ và có đủ can đảm đi báo cảnh sát. Wiston bị tóm cổ.
    Tên thật của hắn là John Smith, công dân Anh sinh ở Áo. Hắn bị đưa ra xử tại tòa. Chánh án Fulton kết tội hắn 5 năm tù ngồi vì tội lừa đảo.
    Đếm hết ba cuốn lịchm, Smith được thả. Hắn tung tin sẽ trở về Áo. Và từ đó biệt âm vô tín.
    ? Bốn năm sau, một người đàn ông chứng hơn năm mươi dọn tới Luân Đôn. Ông có vẻ giàu có, trọ trong khách sạn, mướn thư ký riêng giúp công việc giấy tờ kể cả việc thư từ với các cô gái trong vùng. Vì ông là người NaUy, nói tiếng Anh chưa sõi và càng không viết được tiếng Anh. Tuy vậy ông rất giỏi khoa tán gái, giỏi tởi mức nhiều bà vợ cho vay những món tiền lớn để ông trang trải công nợ trong việc làm ăn, tuy chẳng bà nào biết ông ta làm ăn những gì. Ông sống độc thân nên thỉnh thoảng lui tới các ổ diếm mà cảnh sát Luân Đôn vẫn để ý canh chừng. Tên ông là Beck.
    ? Thời gian trôi qua. Một hôm, cũng trên đường phố Luân Đôn này, một người đàn ông đỏm dáng tự xưng là nhà quý tộc Wiston tới bắt chuyện với một phụ nữ trẻ vừa phải, đeo những nữ trang vừa phải đang đi trên đường phố. Ông ta mời thiếu phụ đi dùng trà với ông trong đại khách sạn, mời làm quản gia cho ông, đưa những tờ ngân phiếu hậu hĩnh đề cô mua sắm váy áo đẹp, bảo cô giao đồ trang sức cho ông mang đi đánh thành những đồ hợp thời trang hơn? và biến mất. Vẫn diễn viên cũ, kịch bản cũ, những lời lẽ cũ.
    Một vụ, hai vụ, rồi nhiều vụ xảy ra liên tiếp. Điều rất lạ là có rất nhiều bà mắc hợm. Trong số nạn nhân, không chỉ các mụ khờ dại hoặc tham lam mà có cả những bà có học thức, thông minh, khá giả, có bò góa, có các bà nạ dòng và có cả nhiều cô gái tơ mơn mởn? Đơn thưa kiện xếp thành chồng cao ngất trong Sở Cảnh sát Luân Đôn, tuy vẫn không ít bà chịu ngậm đắng nuốt cay còn hơn ra tòa thưa kiện.
    Vào một ngày cuối năm ấy, cô Ottili nữ giáo sư âm nhạc người Đức gặp nhà quý tộc Wiston trên đường Thắng Lợi. Sau vài câu xẽ giao, cô Ottili mời nhà quý tộc bữa sau tới nhà cô uống trà. Như mọi bận, trong khi uống trà, Wistion tuôn ra những điệp khúc quen thuộc về người quản gia, váy áo, ngân phiếu, nữ trang? Sau khi vị khách quý tộc ra về, cô Ottili thấy chiếc đồng hồ bằng vàng của mình đã không cánh mà bay. Những ngày sau đó, cô đi tuần khắp các ngả dường, nhìn thẳng mặt mọi người đàn ông gặp trên đường. Một tháng truy tìm như vậy. Cho tới bữa kia, đang đi trên đường cô Ottili bỗng giật nảy: Tên lừa đảo kia rồi! Cô Ottili chạy băng qua đường túm áo gã, tri hô: ?oCảnh sát! Gọi cảnh sát giúp tôi với! Thằng kẻ trộm đây rồi!?.
    Người bị túm áo tỏ vẻ rất ngạc nhiên, cố vùng chạy. Nhưng dân chúng bủa tới đông nghẹt, không còn đường thoát. Tuy cố biện bạch kêu oan, gã vẫn bị điệu về đồn cùng với cô Ottili.

Chia sẻ trang này