1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những vụ án nổi tiếng thế giới - Biên soạn: Phương Hà, Vĩnh Hồ

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi songtunu, 14/04/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT TỘI DANH MỚI
    (Truyện Mỹ - tiếp)​
    Trong khi đó, Ermest Brinkert cũng khốn đốn: không có bằng chứng ngoại phạm, đã thế, tuy giáo sư Condon không khẳng định dứt khoát nhưng cho rằng gã có thể là tên đã gặp ông trong nghĩa trang.
    May sao, cuối cùng Ermest Brinkert được... Ermest Miller cứu thoát. Anh này tự tìm đến cảnh sát, nhận đêm đó ở vùng Violette Sharp và đôi bạn thân khác nữa. Vậy là cả bốn đều vô can. Có điều là anh ta không biết tại sao cô bạn gái tự tử. Hai Ermest được tha về.
    Tới thời điểm này xuất hiện một anh chàng đáng mặt nhân vật trong tiểu thuyết: Arthur.
    Barry có thể coi như Arsène Lupin người Mỹ, có tài chôm chỉa không kém nhân vật người Pháp trog các chuyện trinh thám cuả Maurice Leblanc. Thói táo tợn khó tin của gã đã một thời giúp báo chí bán chạy như tôm tươi. Như trong vụ trấn lột toàn bộ đồ frang sức của một chủ ngân hàng giầu nhất đám ngay giữa dạ hội khiêu vũ, trong những điều kiện hết sức nực cười... Đêm xảy ra vụ bắt cóc Arthur tới thuê căn biệt thự kế cận biệt thự nhà Lindbergh. Để làm gì? Cảnh sát thấy cần hỏi cho ra nhẽ. Sợ bị gán tội tầy đình phải lên ghế điện như chơi, gã đành bấm bụng thú nhận bằng chứng ngoại phạm của mình. Phải dùng từ ?othú nhận? trong trường hợp độc đáo này vì bằng chứng ngoại phạm của Arthur không giống ai: một vụ ăn trộm!
    Đêm đó gã tới ?othăm? một nhà ở Concordia cách xa nơi xảy ra bắt cóc chừng một trăm kilomet. Gã tả lại cuộc ăn sương rất cụ thể, với đầy đủ những chi tiết kỹ thuật chính xác đến một cảnh sát tin bằng chứng ngoại phạm của gã và thay vì thả cho về, họ phải bắt đi đếm lịch năm năm vì tội trộm cắp.
    Đã sang tháng Mười năm 1932. Cuộc điều tra chưa lần ra manh mối nào. Lực lượng cảnh sát được huy động đông đảo nhất trong lịch sử để phá một vụ án hình sự nhưng lại tỏ ra bất lực.
    Năm 1933 trôi qua, tình hình vẫn không nhúc nhích. Hai vợ chông Lindbergh hoàn toàn thất vọng, rời ngôi biệt thự đáng lẽ là tổ ấm tràn đầy hạnh phúc của họ. Họ tặng nhà cho chính quyền bang New York dùng làm nơi cưu mang trẻ nghèo. Báo chí thấy chuyện đã nhàm, chỉ thỉnh thoảng mới nhắc tới.
    Chín tháng đầu của năm 1934 lặng lẽ trôi. Bất chợt vụ án lại bùng lên trong một hoàn cảnh không ai ngờ. Lần này những yếu tố kinh tế vĩ mô đóng vai trò quyết định.
    Như nhiều người đã biết, cho tới cuộc đại khủng hoảng năm 1929, một phần các tờ bạc Mỹ có thể đổi lấy vàng, những tờ này được gọi là ?ochứng chỉ vàng?. Bất cứ ai cũng có thể mang những tờ đó tới ngân hàng đổi lấy số vàng tương ứng. Đến năm 1933, nhằm vực dậy nền kinh tế chính quyền bãi bỏ lệ này, các chứng chỉ vàng không được phép lưu hành, phải đổi lấy tờ bạc không chuyển đổi. Một phần lớn số tiền chuộc của nhà Lindbergh thuộc loại chứng chỉ vàng.
  2. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT TỘI DANH MỚI
    (Truyện Mỹ - tiếp)​
    Ngày 15 tháng Chín năm 1934, một chiếc xe tới đậu trước trạm xăng phường Bronx. Đổ xăng xong, người lái trả tờ đô chứng chỉ vàng. Chủ trạm lưu ý anh ta: lọai bạc này không còn được lưu hành, người lái xe đáp:
    - Lo gì không xài được. Tôi còn cả đống ở nhà, có sao đâu!
    Thấy khách hơi dữ tướng, chủ trạm xăng nín thing, chỉ bí mật ghi số xe, báo cảnh sát kèm theo tờ bạc. Tờ bạc mang số của khoản tiền chuộc.
    Việc xác minh tung tích gã lãi xe không khó: Bruno Hauftmann, ngụ đường 32 phường Bronx, thợ mộc, gốc Đức.
    Sau bốn ngày bám đuôi không thấy gì khác, cảnh sát quyết định bắt giữ. Trong chốc lát, Bruno vụt trở thành người nổi tiếng nhất nước.
    Bruno sinh năm 1899 bên Đức. Trong Thế chiến thứ nhất, hắn chiến đấu dũng cảm, nhưng sau khi xuất ngũ, không thích nghi được với đời sống thường dân. Hắn liên tiếp trộm cắp, đã bị chính quyền Đức kết án bốn năm tù, cấm lưu trú mười lăm năm. Hắn bèn vượt biên sang Mỹ định làm lại cuộc đời. Khởi đầu khá thuận lợi, nhờ có tay nghề thợ mộc rất khéo nên kiếm ngay được chỗ làm tốt. Sau vài năm hắn cưới cô đồng hương Anna Schoefle, đẻ một đứa con, dọn tới ở trong ngôi nhà vườn ở Bronx.
    Bruno có vẻ đã tu tỉnh, trở thành người lương thiện. Nhưng có một điều đáng ngạc nhiên: năm 1932 đột nhiên hắn bỏ chỗ làm ở công ty Lumber và tuy thất nghiệp nhưng mức sống lại lên hương: hai vợ chồng đi nghỉ hè ở Florida, tậu chiếc xe cáu cạnh.
    Ngay lần xét nhà đầu tiên cảnh sát tìm thấy số tiền chuộc cất giấu dưới tấm ván trong gara. Các cuộc thẩm vấn nối nhau không dứt nhưng Bruno chối phăng, trả lời trôi chảy mọi câu hỏi.
    - Các tờ bạc ở đâu ra?
    - Một người bạn thân tặng tôi chiếc hộp này khi anh ta sắp trở về Đức. Lúc nhận, tôi không biết hộp đựng gì.
    - Tên người đó?
    - Fisch.. Isidor Fisch.
    - Hiện giờ ở đâu?
    - Chết rồi.
    - Nói dễ nghe thế!
    - Biết làm sao được! Tôi có giết anh ta đâu? Nghe tin anh ta chết, tôi mới mở hộp ra coi và thấy toàn giấy bạc. Biết anh ta không có người thừa kế, tôi mang tiền ra xài?
    Được songtunu sửa chữa / chuyển vào 16:51 ngày 31/10/2005
  3. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT TỘI DANH MỚI
    (Truyện Mỹ - tiếp)​
    Cảnh sát đi xác minh, thấy có người tên là Isidor Fisch thật. Bị lao phổi, trở về Đức, chết ngay khi vừa tới đích. Khi lên đường, có để lại một phần tài sản cho Bruno. Vậy là lời khai của Bruno có phần đúng. Phải kiếm thêm bằng chứng.
    Bằng chứng do chuyên viên giám định đồ mộc Koehler cung cấp khá thuyết phục. Qua xem kỹ chiếc thang, ông đưa ra một kết luận thần tình, một kiết tác về suy luận khoa học. Ngay từ trước khi Bruno bị bắt, ông đã tuyên bố: chất liệu gỗ này chỉ có ở công ty Lumber, nơi Bruno đã từng làm việc. Giờ đây, ông khai còn chi tiết hơn. Một bên tay thang có bốn lỗ vuông, vừa khít với bốn chiếc đinh tìm thấy trong nhà Bruno. Thang được bào bằng lưỡi bào của Bruno: lưỡi bào đã cũ, để lại trên mặt gỗ những rãnh li ti có hình dáng đặc thù không lẫn vào đâu được, giống như dấu vân tay? Kiểm tra bộ đồ nghề của hắn thấy thiếu một chiếc đục, đúng phóc chiếc đục rớt trên hiện trường hồi tháng Ba năm 1932.
    Chưa hết, khám nhà thật kỹ lần nữa cảnh sát thấy sau cánh cửa tủ ghi một số điện thoại: số máy giáo sư Condon? Bruno tìm cách chống chế:
    - Tôi quan tâm tới vụ Lindbergh như tất cả mọi người. Đọc thấy số điện của giáo sư, tôi ghi lại để theo dõi tình hình?
    Khốn nỗi, các tòa soạn khi được hỏi đều cam đoan chưa bao giờ đăng số điện của giáo sư lên báo.
    Bruno vẫn một mực kêu oan, nhưng cuộc điều tra đến đây kết thúc. Hắn bị buộc tội bắt cóc bé Charles Auguste Lindbergh, sẽ phải ra trước vành móng ngựa.
  4. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT TỘI DANH MỚI
    (Truyện Mỹ - tiếp)​
    Phiên tòa khai mạc ngày 2 tháng Giêng năm 1935 ở Flemington bang New Jersey. Một phiên tòa kiểu Mỹ, nghĩa là rất đồ sộ, vượt qua mọi kích cỡ thông thường: trên một ngàn hai trăm ký giả chen chúc trong thành phố nhỏ, bưu điện phải thiết lập mạng điện thoại riêng cho họ với dung lượng lên tới ba triệu từ mỗi ngày.
    Bên nguyên, bên bị tập hợp tất cả các luật sư giỏi nhất. Ngồi ghế công tố là tổng kiểm sát trưởng Willentz mặt sắt đen sì với tài hùng biện đã thành huyền thoại. Bị cáo có bốn luật sư do Edward Reilly chỉ đạo. Ông là nhà tội phạm học danh tiếng nhất Hoa Kỳ thời đó, là luật gia sáng giá nhất và cũng giảo hoạt nhất.
    Cử tọa lèn chặt phòng xử chật hẹp. Không khí như bốc lửa.
    Nhân chứng đầu tiên lên khai: bà Lindbergh. Cử tọa im phăng phắc.
    Bà rất xúc động nhưng cố trấn tĩnh thuật lại vụ việc. Khi tòa đưa vật chứng ra, trong đó có bộ đồ ngủ tí xíu bằng len, bà ngã ngất?
    Bên bị đơn tỏ ra khôn khéo, tuyên bố từ bỏ quyền phản biện.
    Đến lượt đại tá. Ông vẫn giữ được vẻ sinh viên với đôi mắt xa xăm mái tóc rối bù, trông trẻ hơn tuổi băm hai. Riêng cái nhìn dường như đăm chiêu hơn, khắc khổ hơn ngày xưa? Ông nhắc lại diễn biến như bà vợ vừa kể, rồi kể tới cảnh đi nộp tiền chuộc. Không khí phòng xử càng căng thẳng vì mọi người đều biết viên đạo tá đã trực tiếp chứng kiến cảnh này, tuy hơi xa một chút. Xe chạy trong đem tối qua các đường phố vắng lặng của New York, dừng lại trước cổng nghĩa trang, giáo sư Condon ôm chiếc hộp mất hút giữa các nấm mồ? Và ông nghe tiếng gọi phía xa:
    - Tới đây, giáo sư!
    Tổng kiểm sát trưởng Willentz hỏi:
    - Sau bữa đó, có khi nào ông nghe lại giọng nói này không?
    - Có, tôi có nghe.
    - Đó là giọng của ai?
    - Của Bruno Hauftmann.
    Lời khai của đại tá gây ấn tượng mạnh, nhưng không thấm gì so với lời khai của người tiếp theo, người đang được mọi người nóng lòng chờ đợi, nguời duy nhất đã trò chuyện với tên cướp, người làm chứng số một?
  5. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT TỘI DANH MỚI
    (Truyện Mỹ - tiếp)​
    Giáo sư Condon khai ngày 9 tháng Giêng. Bữa đó công chúng hiếu kỳ kéo tới quá đông, tòa phải xin thêm cảnh sát trật tự.
    Tuy tuổi cao, tóc bạc trắng, nhưng dáng đi của giáo sư vẫn nhanh nhẹn, cứng cáp khi ông bước lên chỗ đứng khai. Ông tả tỉ mỉ, chính xác cuộc gặp trong nghĩa trang? Tổng kiểm sát trưởng hỏi:
    - Người giáo sư gặp đêm đó là ai?
    Condon quay sang bị cáo, nhìn thẳng mắt hắn, đáp chắc nịch:
    - Bruno Hauftmann.
    Đến lượt các chuyên viên. Lời khai của họ càng đè nặng lên bị cáo. Trước hết là chuyên viên nhận mặt chữ Albet Osborn có uy tín khắp thế giới. Kết luận của ông dựa trên ba mươi bản viết tay gồm mười bốn thư tống tiền gửi cho vợ chồng Lindbergh và giáo sư Condon, mười sáu bản khác của Bruno viết trước và sau khi bị bắt.
    - Tất cả các thư tống tiền đều do một người viết: Bruno Hauftmann.
    Osborn đưa ra một loạt dẫn chứng không thể bác bỏ: những lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp, hình dáng các con chữ, con số.
    Sau Osborn đến Koehler, chuyên viên kì tài về đồ gỗ. Ông trình bày các suy luận và minh chứng rất khoa học của mình: không nghi ngờ gì, các thứ tìm thấy trong nhà Bruno là những thứ đã được dùng để chế tác chiếc thang dùng trong vụ bắt cóc.
    Bên bị cho qua những lời làm chứng chính xác đó, chỉ bám chặt lấy khía cạnh duy nhất họ đang có lợi thế: đồng phạm với hung thủ là ai? Vì rõ ràng Bruno không thể hành động đơn độc. Phải có kẻ chỉ đường đi lối lại trong biệt thự, vị trí từng người trong từng phòng?
    Mặt khác, thái độ đại tá Lindbergh kiên quyết không cho thẩm vấn người giúp việc cũng rất khả nghi. Phải chăng ông ta bao che cho ai đó?
    Bên bị nêu tên các đồng phạm: Isidor Fisch, bạn chí cốt của Bruno, kẻ đã trao nộp tiền cho hắn trước khi về chết bên Đức; Violette Sharp, cô gái đã tự vẫn; bếp trưởng của gia đình Lindbergh vùa qua đời chưa lâu? Cả ba đều đã hết sống, không thể tới tòa cãi lại.
    Luật sư Reilly còn đi xa hơn. Ông lên án cô bảo mẫy Betty Gow: cô có đủ phương tiện giúp tên cướp lọt vào nhà. Giáo sư Condon cũng không thoát khỏi ông luật sư nảy lửa: tại sao giáo sư được chúng chọn đứng ra trung gian? Thật đáng ngờ!
    Tuy nhiên, tất cả chỉ là giả thuyết. Trong năm chục người làm chứng của bên bị, không ai đưa ra được bằng chứng gỡ tội nào, dù chỉ là một bằng chứng nhỏ. Trong khi bên nguyên có tới một trăm người làm chứng.
    Phiên tòa gần kết thúc. Tổng kiểm sát truởng Warrentz kết luận:
    - Hung thủ đang đứng trước mắt chúng ta. Nếu không xử hắn, ngay ngày mai sẽ không còn bà mẹ nào nhìn con mình đi tới trường mà không cảm thấy khiếp sợ. Tôi yêu cầu án tử hình.
    Bất chợt xảy ra chuyện bất ngờ. Từ cuối phòng bỗng cất lên tiếng thét:
    - Dừng lại! Dừng lại! Tôi là mục sư. Vừa có người xưng tội giết người!
  6. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1

    SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT TỘI DANH MỚI
    (Truyện Mỹ - tiếp theo và hết)​
    Đó là mục sư Vincent Brunz. Ông được dẫn lên chỗ khai. Nhưng chỉ nói được mấy câu lảm nhảm: thì ra ông ta đã mất trí từ lâu.
    Đây là sự kiện cuối cùng trong vụ án, một vụ bao phủ trong bầu không khí ồn ào không sao tưởng tượng nổi, cho tới phút chót vẫn rối rắm, hỗn loạn vì có quá nhiều tên lừa đảo, bịp bợm, dối trá can thiệp vào định đục nước buông câu...
    Ngày 13 tháng Hai năm 1935, sau mười một giờ nghị án, hội đồng xét xử tuyên bố Bruno Hauftmann phạm tội giết người có định trước, phải lĩnh án tử hình.
    Tuy vậy, chiếc ghế điện còn phải chờ lâu. Ở Hoa Kỳ có hàng loạt thủ tục tư pháp trì hoãn việc thi hành án.
    Vả lại, trong trường hợp này, không phải tất cả mọi chuyện đều rõ như ban ngày. Các tờ viết tay, chiếc thang, chiếc đục đều của Bruno, một mình nó nắm giữ các tờ bạc tiền chuộc, chính hắn tới gặp giáo sư Condon... đó là những điều đã rõ.
    Nhưng nếu hung thủ có hành động đơn độc? Nếu không có đồng phạm, làm sao nó biết chắc tối đó bé Lindbergh ở nhà chứ không tới ông bà ngoại như đã dự định? Làm sao nó biết đích xác phòng ngủ của đứa nhỏ?
    Và nếu Bruno không phải là hung thủ duy nhất thì phần trách nhiệm của nó đến đâu? Hắn có phải là kẻ giết bé Charles Auguste?... Đây là những nghi vấn không thể không đặt ra.
    Vì những lẽ đó, một Uỷ ban bảo vệ Bruno ra đời, do Anna, vợ hung thủ đứng đầu. Chị ta tổ chức nhiều cuộc họp tại tất cả các thành phố lớn có đông kiều dân Đức. Tại các cuộc họp, họ đả đảo Lindbergh, hoan hô Bruno Hauftamann. Các luật sư kháng án sáu lần... nhưng đều bị bác, tổng thống Mỹ không ký lệnh ân xá.
    Ngày 3 tháng Tám năm 1936, một năm hai tháng sau khi bị kết án, Bruno Hauftmann phải lên ghế điện tuy vẫn một mực kêu oan.
    Qua xác minh, thẩm định, giờ đây có thể khẳng định chắc chắn Bruno Hauftmann là hung thủ. Nhưng có kẻ nào khác tiếp tay hắn không thì vẫn còn là một câu hỏi. Một câu hỏi không bao giờ có lời giải đáp.
    Có điều chắc chắn là qua vụ án này từ vựng ngành tội phạm học của Mỹ có thêm một thuật ngữ mới: "Kidnapping" (Bắt cóc trẻ con). Sau này, cũng chính xã hội Mỹ sẽ cho ra đời nhiều tội danh mới nữa như: Serial-killer (Giết người hàng loạt), Serial-adulterer (Thông dâm hàng loạt)
    Được songtunu sửa chữa / chuyển vào 15:18 ngày 01/11/2005
  7. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    BÀ CỐ VẤN VỀ TAI NẠN GIAO THÔNG
    (Truyện Pháp)​
    La Celle Saint-Cloud là một vùng ngoại ô dân cư của thủ đô Paris. Ngôi nhà lộng lẫy của hai vợ chồng Jacques và Louise Bertin thể hiện đầy đủ sự thành đạt trong xã hội của họ, hơn nữa còn là biểu tượng một cuộc sống dư thừa: biệt thự mênh mông xây theo kiến trúc no nằmg giữa thảm cỏ bát ngát trồng nhiều cụm hoa hồng, một sự xa hoa hiếm có trong vùng.
    Một sáng tháng Tư năm 1959, hai vợ chồng cùng ngồi ăn sáng như thường lệ. Jacques Bertin sáu mưới tuổi, tóc muối tiêu, dáng vẻ đường bệ vốn là luật gia. Louise kém chồng mười tuổi là một thiếp phụ tóc vàng, khuôn mặt đầy nét cương nghị. Trên mặt bàn bà ta đang ngồi, bên ly cà phê và đĩa bánh sừng bò là xấp báo chừng mười tờ của nhiều tỉnh lẻ do bà đặt mua dài hạn. Louise bóc mạnh tờ trên cùng: công việc trong ngày bắt đầu? Từ nhiều năm nay, bà là người nuôi sống gia đình này. Người chồng chỉ hành nghề luật của ông ta từng lúc và không mặn mà lắm, vì nó chỉ đóng vai trò vỏ bọc hợp pháp cho nghề của người vợ, một nghề rất đặc biêt, rất độc đáo.
    Louise mở tờ ?oTia chớp Clermont Ferrand?, bỏ qua các trang tin tổng hợp, lật ngay tới trang tin vắn. Vừa lướt mắt đảo qua vừa lẩm bẩm nhận xét:
    - Tai nạn xe hơi: hai mạng nghẻo? Thêm một tên nữa đi đứt? Vô bổ!
    Một vụ án mạng? cũng cho qua luôn?
    Bỗng bộ mặt dài như mặt ngựa của Louise Bertin tỏ vẻ kích động mạnh:
    - Anh Jacques nghe này! Thật kỳ lạ?
    Jacques Bertin dúi chiếc bánh vào ly cà phê:
    - Anh nghe đây. Đọc đi xem sao?
    Louise Bertin tuy hơi cận thị nhưng không chịu đoe kính vì sợ xấu gái, mụ nâng tờ ?oTia chớp Clermont Ferrand? gí sát mặt và đọc to:
    ?oMột phép lạ vô vùng kỳ diệu? Bữa qua bà Léonie Wallon đang đi trên cầu Tự Dorothy bắc ngang qua đường xe lửa thì gặp nạn. Chiếc xe hơi chạy cùng chiều hất tung bà qua thành cầu. Một sự may mắn kỳ lạ chưa từng thấy: đúng lúc bà Léonie rớt xuống cầu thì một đoàn tàu hàng chở toàn cát chạy dưới gầm cầu. Bà Léonie Wallon hạ cánh đúng giữa đống cát. Hiện bà đang nằm viện để bác sỹ theo dõi, nhưng xem ra không hề hấn gì ngoài vài vết bầm tím sơ sơ. Thật là kỳ diệu như phép lạ vậy, khó tin và có thât?? Anh thấy ca này thế nào, Jacques?
    Ông Bertin vừa gặm chiếc bánh sừng bò vừa gật gù:
    - Anh thấy em nên tới ngay Clermont Ferrand. Đây là một ca em đang cần chớp lấy.
    Quả thật đây là một ca Louise Bertin đang cần? Chỉ những ca như của bà Léonie Wallon này mới là dịp cho Louise hành nghề? Một nghề độc đáo, hái ra tiền, độc đáo tới mức không có tên gọi? Nhưng để kể tiếp câu chuyện này, dù sao cũng phải đặt cho nó một cái tên? Vậy ta cứ tạm gọi đó là nghề cố vấn tai nạn.
  8. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    BÀ CỐ VẤN VỀ TAI NẠN GIAO THÔNG
    (Truyện Pháp - tiếp)​
    Ngày 19 tháng Tư năm 1959, một phụ nữ tóc vàng, khổ người to lớn, khuông mặt hơi dài mặt ngựa, khoác chiếc áo choàng y tá, tới đập mạnh cửa căn hộ số 37 trên đại lộ Gambetta thành phố Clermont Ferrand. Một thiếu phụ khoảng ba lăm tuổi ra mở. Thiếu phụ này tóc nâu, người mảnh khánh, nét mặt lộ vẻ ngần ngại.
    - Bà Léonie Wallon phải không ạ?
    - Dạ phải. Nhưng sau khi bị tai nạn tôi đã nhờ nhiều bác sỹ khám giúp rồi. Họ cho biết không có gì đáng lo.
    Louise Bertin nhe hết bộ răng to đùng cười xởi lởi:
    - Tôi chỉ là y tá, không phải bác sĩ, và định tới nói với bà về một chuyện rất thú vị liên quan tới vụ tai nạn vừa rồi?
    Léonie Wallon hình như càng ngần ngại hơn. Bà quay đầu gọi với vào trong nhà:
    - Anh Eugène, ra đây chút xíu đi.
    Chồng của Léonie là Eugène Wallon trông bề ngoài gần giống bà vợ, nhỏ con, gầy ốm, và cũng tỏ ra bối rối không kém vợ. Ông ngước mặt lên nhìn người nữ y tá cao hơn mình hẳn một cái đầu:
    - Bà cần gì xin cho biết?
    Nụ cười trên miệng Louise Bertin vẫn chưa tắt:
    - Cần giúp ông bà, chỉ thế thôi ạ. Sau khi nghe tôi nói rõ đầu đuôi, ông bà sẽ không tiếc thì giờ bỏ ra tiếp tôi?
    Vừa sửng sốt vừa tò mò, hai vợ chồng đưa vị khách khác thường vào nhà mình.
    Louise Bertin không khách sáo ngồi phịc xuống ghế trong phòng ăn và đi ngay vào chuyện:
    - Thưa bà Wallon, tai nạn đã gây cho bà những thương tổn gì?
    - Các bác sĩ chỉ thấy vài vết bầm tím nơi hông, vậy thôi. Nhưng bà cần biết để làm gì?
    Louise Bertin không đáp. Im lặng giấy lát:
    - Giá như bà bị nặng hơn, ví dụ như bị mù chẳng hạn? Quỹ cứu trợ Xã hội sẽ trả cho bà số tiền rất lớn.
    - Tôi vẫn chưa hiểu bà định nói gì?
    - Thưa bà Wallon, để tôi nói bà nghe? Sau một tai nạn như trường hợp của bà, có khi qua nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần các biến chứng nghiêm trọng mới xuất hiện. Lại nói về Quỹ cứu trợ Xã hội để bà hiểu thêm: bà có biết họ trợ cấp bao nhiêu cho một ca mù mắt không?? Từ 10 tời 15 triệu Frăng đấy.
    Léonie Wallon cố ghìm tiếng kêu sửng sốt? Từ 10 tới 15 triệu Frăng năm 1959 là khoản tiền bà khó tưởng tượng nổi (1 Frăng hồi đó giá trị bằng 6 Frăng hiện nay).
    Nhưng ông chồng lại tỏ ý không bằng lòng, thốt lên với giọng hơi sẵng:
    - Nhờ ơn Chúa, bà xã nhà tôi không bị mù. Vậy bà tới đây để làm gì?
    Louise Bertin không vì thế mà bối rối chút nào.
    - Tôi tới đây với ý muốn giúp đỡ ông bà? Tôi đã tốt nghiệp y tá, có bằng đàng hoàng, nên biết rất rõ mọi triệu chứng cần tạo ra để bịt mắt các bác sỹ. Ông bà cần chứng cớ, phải không?
    - ? Này nhá, chỉ riêng trong năm ngoài thôi, tôi đã làm ra một ông mù ở Lille, một bà liệt toàn thân ở Montbrisson và một ông điếc ở Cancale. Cộng cả ba vị này lại, họ đã vớ được cả thảy 40 triệu chứ ít ỏi gì!
    Giọng Louise càng trở nên thuyết phục hơn:
    - Mà sau khi mang về cho các vị món tài sản không nhỏ đó, tôi chỉ xin nhận phần công xá rất khiêm tốn: có một phần ba thôi. Giả dụ ông bà được lãnh 12 triệu, ông bà chỉ chi phần tôi có 4 triệu thôi à!
    Im lặng kéo dài. Lúc này cặp Wallon đã hiểu rõ lời đề nghị bất ngờ của bà khách tới viếng. Cũng như hồi nãy, vẫn ông chồng lên tiếng trước:
    - Tám triệu đối với gia đình tôi quả thật rất?
    Câu nói hàm ý bắt đầu ngả theo làm và vợ lập tức phản ứng:
    - Riêng tôi, không đời nào chấp nhận. Không ai được phép làm chuyện bỉ ôi như vậy. Rất xấu xa, và lại là điềm gở nữa, sẽ mang họa vào thân chứ chẳng chơi.
    Louise Bertin nhếch miệng mỉm cười, để mặc hai vợ chồng tranh cãi. Mụ đã có kinh nghiệm, biết chắc cuối cùng sẽ đâu vào đó? Quả nhiên ít phút sau Léonie Wallon thở dài rồi nói:
    - Thôi được. Chiều lòng ông xã, tôi đồng ý. Bà cho biết tôi phải làm gì bây giờ.
  9. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    BÀ CỐ VẤN VỀ TAI NẠN GIAO THÔNG
    (Truyện Pháp - tiếp)​
    Bụ Bertin liến thoắng như con buôn chào hàng:
    - Kể ra thì giả mù là ngon ăn nhất, được nhiều tiền nhất. Nhưng phải là người có khiếu cơ. Mỗi ngày phải đi ngoài đường vài trăm mét, tay cầm chiếc gậy sơn trắng đập đạp vào bậc vỉa hè để dò đường, thỉnh thoảng dám đập đầu mình vào cột đèn, khi bác sỹ chiếu đèn pha vào mắt để kiểm tra vẫn phải tỉnh bơ không chớp mắt. Không phải ai cũng làm được.
    Léonie Wallon khẽ rùng mình:
    - Bà nói đúng, làm mù khó quá. Có lẽ giả điếc ngon hơn?
    Louise đáp bằng giọng con nhà nghề lão luyện:
    - Thưa bà thân mến, nhìn bên ngoài thì tưởng thế thôi. Giả điếc lại có những đòi hỏi riêng của nó. Nhất là phải đặc biệt cảnh giác cao độ. Luôn luôn phải tự nhủ thầm: ?oMình điếc đặc. Mình điếc đặc?. Lơi lỏng một tí tẹo thôi là lộ tẩy liền. Như đang đi ngoài đường chợt nghe có người gọi lại giật nảy mình chẳng hạn. Hoặc đang ngồi trong nhà thấy tiếng gõ cửa liền đứng dậy đi ra mở. Những phản ứng theo thói quen từ lâu đới ấy vô cùng phản trắc, chúng có thể xảy ra bất chợt bất cứ lúc nào, không dễ gì chế ngự. Chưa kể tới những âm thanh choáng óc mà bác sỹ khám nghiệm đưa vào ống nghe gắn nơi tai bà để thử. Tập diếc mất khá nhiều thời giờ và phải chịu đựng không ít gian truân?
    Đoạn miêu tả những khổ hình của người giả điếc chắc đã gây ấn tượng sâu sắc nơi bà Léonie Wallon.
    - Chịu thôi! Tôi chả chơi trò đó. Không bao giờ.
    - Hay là giả liệt, thưa bà?? Giả bị bán thân bất toại, ngồi xe lăn. Chẳng phải làm gì hết, chỉ việc ngồi trên xe lăn cho người ta đẩy đi. Dễ ợt!
    Bà Léonie bất giác giật lùi:
    - Không, không chịu nổi. Ngồi như vậy, tôi sẽ không ngớt nghĩ tới những người khốn khổ bị liệt thực. Và mắc cỡ cả đời.
    Lần đầu tiên trên mặt Louise Bertin thoáng vẻ phật ý.
    - Bà thật khó tính quá xá. Nếu vậy, chỉ còn lại chứng suy sụp toàn thân thôi. Nhưng được trả rất ít: 4 triệu, xin ông bà nhớ cho chỉ được 4 triệu thôi đây nha! Được cái dễ đóng giả nhất hạng.
    Bà Wallon rụt rè hỏi:
    - Thế tôi phải làm những gì?
    - Chẳng phải làm gì hết. Tôi sẽ cho bà uống mấy viên thuốc tiêu mỡ, bà vô phòng đóng kín mọi cừa chính, cửa sổ ở tịt trong đó mười lăm ngày không động chân động tay. Khi được đưa vào viện, số thuóc họ bắt uống vô bụng sẽ khiến bà đờ đẫn tới mức chẳng cần giả bộ nữa.
    Bà Léonie Wallon cúi đầu nhìn thân hình ốm o trơ xương của mình.
    - Đã thế này mà còn uống thuốc tiêu mỡ nữa ư? Tôi được có 45 kg hơi.
    - Thế mới tốt! Kết quả sẽ càng ngoạn mục. Ngoài ra, tôi chẳng còn gì khác để giới thiệu với ông bà. Phải quyết định đi thôi.
    Ông Eugène Wallon xen vào:
    - Đúng đây, Léonie. Em phải quyết đi. Chịu đựng một phen ngắn ngủi thôi mà. Nghe lời hướng dẫn của bà đây đi nào. Phải nghĩ tới số tiền lớn ta sẽ được lãnh chứ?
    Bà Léonie nhìn chồng, nhìn người nữ y tá, lại nhìn chồng, mãi mới tuyên bố ưng thuận?
    Mụ Louise Bertin lưu lại vài ngày trong căn hộ tại Clermont Ferrand theo dõi kết quả đợt ?ođiều trị?? Mụ thấy ngay không có gì trục trặc, liệu pháp của mụ tỏ ra hiệu nghiệm hơn dự kiến nhiều. Hình nhân Léonie biến thành bộ xương biết nói, đã không động chân động tay lại bị lương tâm giày vò vì chuyện bày trò lừa đảo nên bà bắt đầu suy sụp thực sự cả về thể chất lẫn tâm thần kinh? Thành ra chỉ sau một tuần ông chồng đã phải đưa bà vào cấp cứu trong bệnh viện.
    Mụ Bertin trở về biệt thự lộng lẫy của vợ chồng mụ ở La Celle Saint-Cloud? Lại trúng mánh lần nữa rồi. Sau khi nhân viên Quỹ cứu trợ Xã hội tới kiểm tra bệnh trạng bà Léonie, mụ sẽ nhận phần của mụ. Chắc ăn như tất cả những lần trước, vì vợ chồng Wallon không điên tới mức đút túi toàn bộ số tiền được lãnh. Để bị tố giác và mất tất cả. Không, cũng như những người trước, họ sẽ phải chi ra một phần ba như hợp đồng miệng đã thỏa thuận.
  10. songtunu

    songtunu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2004
    Bài viết:
    4.799
    Đã được thích:
    1
    BÀ CỐ VẤN VỀ TAI NẠN GIAO THÔNG
    (Truyện Pháp - tiếp và hết)​
    Ngày 26 tháng Năm năm 1959, tức một tháng sau. Giờ ăn sáng của hai vợ chồng nhà Jacques và Louise Bertin. Chông ngồi nhấm nháp bánh sừng bò nhúng cà phê sữa, vợ lật các tờ báo địa phương tìm những nạn nhân gặp may trong tai nạn giao thông hoặc tai nạn lao động? Tiếng chuông cửa. Bà vú ra mở, rồi trở vào cùng với một người đàn ông khoác áo mưa. Anh ta tự giới thiệu:
    - Cảnh sát trưởng Guerand? Xin được hỏi bà Louise Bertin vài điều.
    Jacques Bertin can thiệp ngay tức thì, đầy tự tin ở trình độ nắm pháp luật của mình. Gã đã nghiên cứu tất cả những luật lệ cần thiết để phòng trường hợp vợ gặp rắc rối.
    - Xin vui lòng cho biết bà nhà tôi có điều gì không phải?
    Nhưng gã không hề dự đoán được câu trả lời cảu viên cảnh sát:
    - Thưa ông, bà Louise Bertin bị tình nghi giết người.
    Đúng lúc đó, nhân vật nữa xuất hiện giữa phòng, trong bộ đồ tang. Ông ta chỉ tay giữa mặt mụ Louise, căm hờn thét lên:
    - Chính nó! Ông cảnh sát trưởng ơi, chính nó giết vợ tôi!
    Louise Bertin giật nảy? Cảnh sát trưởng Guerand từ tốn giải thích:
    - Sau khi từ bệnh viện trở về nhà, bà Léonie Wallon đã tự vẫn. Để lại bức thư tuyệt mệnh nói rõ vì bà hối hận điều đã làm. Ông Wallon đây tới gặp chúng tôi tố giác các người đã nhúng tay vào vụ này như thế nào: lửa đảo Quỹ cứu trợ Xã hội, thuốc tiêu mỡ và các trò bịp bợm khác. Bi kịch là ở chỗ bà đã thành công quá mức, bà Bertin! Bà đã gây ra một cơn suy sụp toàn diện cho bà Wallon đáng thương khiến bà ấy thiệt mạng.
    Louise Bertin đã kịp trấn tĩnh. Mụ làm ra vẻ phẫn nộ:
    - Chẳng hiểu chuyện này là thế nào nữa. Tôi chẳng quen biết gì cái ông này, thử hỏi xem là tôi có quan hệ gì nào?
    - Có đấy, thưa bà. Có số điện thoại của bà ở nhà ông Wallon để ông trả công cho bà cố vấn, tức là bà Louise Bertin.
    Gã chồng lại xông vào cuộc chiến:
    - Số máy điện thoại này cũng do ông ta bịa ra như mọi chuyện kia. Quá đau khổ vì vợ chết, ông này lú lẫn đổ vấy tùm lum. Tôi nói không sai.
    Cảnh sát trưởng Guerand gật đầu:
    - Tôi cũng đã từng cho là như vậy. Nhưng vợ ông đã phạm một sai lầm lớn. Vì muốn khoe tài, hoậc vì muốn nêu bằng chứng cụ thể, vợ ông đã kể lại ba trường hợp trước đây. Ông Wallon là người có trí nhớ rất tốt. Ông vẫn nhớ ba trường hợp đó: một người đàn ông mù ở Lille, một bà liệt ở Montbrisson và một ông điếc ở Canclae. Chúng tôi đã tới từng nơi kiểm tra kỹ, mấy ca này đều có thật.
    Louise Bertin chưa chịu đầu hàng:
    - Mấy ca đó chứng minh được cái gì nào? Ông Wallon đọc thấy trên báo chí, thế thôi.
    - Chúng tôi đã mở cuộc điều tra tại chỗ. Kết quả thật đáng ngạc nhiên. Người mù vẫn sáng mắt, người bại liệt vẫn đi lại như thường và ông điếc vẫn thính tai như mọi người, mà cả ba người này đều không có ai tới lễ nhà thờ Đức Bà ở Lourdes hết? Thế nào, bà Bertin, bà giải thích sao?
    Mụ Louise đột nhiên như già đi mười tuổi. Quay nhìn ông Wallon với vẻ buồn bã:
    - Tôi không hiểu nổi. Thông thường mấy viên tiêu mỡ đó đâu có nguy hại gì?
    Sáu tháng sau, hai vợ chồng bị đưa ra hầu tòa. Louise lãnh mười năm tù ngồi vì tội giết người không cố ý và tội lừa đảo. Chồng mụ lãnh án hai năm tù vì tội đồng phạm, nhưng được hưởng án treo.
    Ít lâu sau, Louise tự sát trong xà lim. Bác sỹ kết luận: do cơn suy sụp toàn diện đột ngột xuất hiện. Như trường hợp bà Léonie Wallon. Nhưng khác ở chỗ: thật sự chứ không phải nhân tạo.
    Được songtunu sửa chữa / chuyển vào 09:37 ngày 02/11/2005

Chia sẻ trang này