1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những vũ khí của Hezbola sử dụng => còn nhiều không?

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi DuMaSiGon, 24/07/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. DuMaSiGon

    DuMaSiGon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2006
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Xem kỹ lắm rồi, nhưng vẫn hận một điều là trước đây Hitler va Himler vẫn hơi nhẹ tay !
    =======> Lịch sử xung đột giữa Israel và các quốc gia Ảrập
    Từ khi Israel ra đời đến nay, chiến tranh đã bao lần xảy ra giữa Nhà nước Do Thái và các quốc gia Ảrập láng giềng, tiêu tốn hàng tỷ đôla và cướp đi hàng nghìn sinh mạng. Phải chăng giữa đôi bên tồn tại một mối thù không bao giờ rửa được, để đến ngày nay, Trung Đông vẫn là miền đất nóng bỏng của thế giới, với lò lửa Palestine - Israel?
    Hãy cùng nhớ những lần xung đột trong quá khứ của Israel với thế giới Ảrập để đi tìm một câu trả lời cho câu hỏi trên.
    Chiến tranh giành độc lập của người Do Thái năm 1948
    Ngày 14/5/1948, nước Anh kiệt lực trong Đại chiến Thế giới II chính thức từ bỏ sự bảo hộ đối với Palestine, sau một nghị quyết của Liên Hợp Quốc về phân chia lãnh thổ giữa người Ảrập và người Do Thái. Ngay lập tức, những người theo chủ nghĩa phục quốc Zion nắm lấy cơ hội và thành lập một nhà nước Israel. Tuyên ngôn độc lập được đọc tại Tel Aviv cũng trong hôm 14/5.
    Thế giới Ảrập, không hài lòng với quyết định của Liên Hợp Quốc thành lập đồng thời hai nhà nước Do Thái và Ảrập trên lãnh thổ Palestine, đã nhanh chóng điều quân tới với dự định bóp chết quốc gia Israel non trẻ. Sớm 15/5, lực lượng vũ trang chính quy của các nước Ai Cập, Syria, Transjordan và Iraq chia nhiều hướng tiến vào bao vây Tel Aviv để hỗ trợ người Ảrập Palestine.
    Tuy nhiên, khối Ảrập đã không thể nuốt chửng Nhà nước Do Thái mới. Người Israel chiến đấu hết sức kiên cường cho sự tồn vong của dân tộc và quyết tâm của họ tỏ ra mạnh hơn sự ràng buộc lỏng lẻo trong nội bộ các nước Ảrập. Những cuộc phản công mạnh mẽ gần Bethlehem đã giúp quân Do Thái xoay chuyển tình thế. Chiến sự tiếp diễn tới tháng 1/1949 và mãi tới tháng 7 năm đó, hiệp định đình chiến mới thực hiện được.
    Trên thực tế, quốc gia mới phải huy động đội quân đông gần gấp 3 (khoảng 40.000-60.000 chiến binh) để có thể chọi lại 21.000 quân Ảrập.
    Cuộc chiến tranh đã cho quốc gia mới thành lập Tây Jerusalem và 20% lãnh thổ (6.700 km2) lẽ ra thuộc về người Hồi giáo ở Palestine, theo sự phân chia của LHQ. Số dân Ảrập sinh sống trong phạm vi Israel giảm từ 700.000 xuống 165.000. Nhiều người chạy lánh nạn khi quân Do Thái phản công, bởi nghe tin về các vụ thảm sát tại làng mạc Ảrập. Lúc ấy, ít người trong số họ biết rằng họ sẽ không bao giờ được trở về nhà.
    Phần còn lại của lãnh thổ Ảrập thuộc Palestine nhanh chóng được sáp nhập vào các quốc gia láng giềng. Ai Cập giành quyền quản lý Dải Gaza và Transjordan (bây giờ có tên Jordan), chiếm phần lớn Bờ Tây, trong đó có thành phố cổ Jerusalem.
    Cuộc chiến kênh đào Suez năm 1956
    Suez dài trên 150 km, nối liền Địa Trung Hải và Hồng Hải, là con đường biển quan trọng đặc biệt về mặt giao thương và cả về quân sự.
    Anh và Pháp, hai cổ đông lớn trong công ty xây dựng kênh đào, sẽ chịu thiệt thòi nhiều nhất khi Ai Cập giành lại quyền kiểm soát Suez. Một kế hoạch can thiệp và lật đổ tổng thống Nasser lập tức được vạch ra. Tel Aviv, kình địch của Cairo, cũng được kéo vào cuộc.
    Israel có nhiều lý do để tham gia cuộc chiến năm 1956. Những năm đầu thập kỷ 50, quan hệ giữa quốc gia Do Thái và các láng giềng Ảrập càng ngày càng căng thẳng.
    Sau khi Israel lập quốc, hơn 900.000 người tị nạn đã tập trung ở biên giới của nước này, đòi quyền đối với vùng đất Palestine. Đây chính là cơ sở hình thành các nhóm du kích Hồi giáo. Những hoạt động nổi dậy khiến người Israel không có lúc nào được yên ổn. Quan hệ giữa quốc gia Do Thái và các nước láng giềng Jordan, Ai Cập, đặc biệt là Syria, mỗi lúc một tệ hơn. Damacus chống lại dự án nắn dòng sông Jordan để lấy nước tưới tiêu. Người Syria cũng tấn công cao nguyên Golan từ phía đông bắc. Trong năm 1955, đụng độ Israel - Ảrập xảy ra trên hầu khắp biên giới. Chạy đua vũ trang bắt đầu ở Trung Đông với việc khối Ảrập ra sức mua quân bị từ Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa, và Israel không ngừng nhận viện trợ quân sự của Mỹ.
    Năm 1956, cùng với việc quốc hữu hóa kênh đào, tổng thống Nasser còn lệnh cho hải quân phong tỏa eo Tiran - con đường ra Hồng Hải duy nhất của Israel. Mặt khác, một lượng lớn quân đội Ai Cập cũng đồn trú trên bán đảo Sinai, ngay sát nách quốc gia Do Thái. Với Israel, căn cứ quân sự này như cây giáo thỉnh thoảng lại thúc vào mạng sườn họ đau điếng, và Tel Aviv rất mong có cơ hội đập tan nó.
    Cơ hội đó đến cùng với kế hoạch uy hiếp Cairo do Paris và London chủ xướng.
    Ngày 29/10/1956, theo đúng kịch bản, Israel bất ngờ tấn công vào ào ạt quân Ai Cập trên khắp các mặt trận. Sau 5 ngày, quân Do Thái đã chiếm gần hết bán đảo Sinai, Dải Gaza và các mục tiêu khác.
    Pháp và Anh can thiệp. Hai nước trao cho cả Cairo và Tel Aviv một tối hậu thư, trong đó đề nghị cho Anh, Pháp đưa quân vào chiếm đóng kênh Suez và thiết lập vùng đệm 16 km ở hai bờ, để ngăn cách lực lượng Ai Cập và Israel. Người Do Thái chấp thuận ngay, còn Ai Cập thì bác bỏ thẳng thừng.
    Vậy là đã có cớ. Máy bay ném bom Anh và Pháp lập tức quần đảo bầu trời Ai Cập. Ngày 31/10/1956, hai nước gửi quân tới kênh Suez, uy hiếp chính quyền Cairo. Hành động này của London và Paris bị lên án mạnh mẽ ở Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Matxcơva đe dọa sẽ can thiệp nhân danh nhân dân Ai Cập. Mỹ, hoàn toàn bị bất ngờ trước hành động của các nước đồng minh, cũng không ủng hộ.
    Lúc này, Chiến tranh Lạnh đang ở cao trào. Mỹ có nhiều vấn đề khác để lo trong cuộc đấu với Liên Xô (đặc biệt việc Matxcơva can thiệp vào Hungary) hơn là những lợi ích của Anh và Pháp ở Suez. Tổng thống Eisenhower không có lý do gì để mong muốn chiến sự lan rộng ở Trung Đông.
    Trước sức ép của Washington, London và Paris đành chịu thúc thủ. Trên thực tế, đình chiến bắt đầu từ 23h45'' ngày 7/11 đối với liên quân Anh-Pháp. Đến ngày 22/12 năm đó, toàn bộ lực lượng của hai nước đã rút hết khỏi Ai Cập. Về phần Israel, ngày 8/3/1957, người lính Do Thái cuối cùng đã rời Sinai. Mỹ cũng buộc Tel Aviv trả lại Dải Gaza cho Ai Cập. Đồng thời, Lực lượng Khẩn cấp của Liên Hợp Quốc được gửi tới để đảm bảo hòa bình.
    Nhìn lại, cuộc xung đột Suez năm 1956 là một thời điểm bản lề ở Trung Đông.
    Mặc dù đây là một chiến dịch ít tốn kém máu xương - người Anh chỉ thiệt mất 20 quân nhân, Pháp 10, nhưng cuộc chiến đã báo hiệu sự suy giảm ảnh hưởng trong khu vực của hai nước đế quốc già cỗi, đồng thời bồi thêm một quả đấm mạnh vào hy vọng vốn đã xa vời cho một giải pháp hòa bình ở Trung Đông.
    Mối hằn thù Ảrập - Israel càng sâu sắc thêm. Ai Cập chịu nhiều tổn thất nhất với cơ sở hạ tầng bị hư hại và tổng cộng 921 người thiệt mạng trong cuộc xung đột. Tuy nhiên, kết thúc chiến tranh, Cairo đã đạt được mục tiêu đề ra ban đầu: giành quyền kiểm soát hoàn toàn đối với kênh đào Suez. Uy tín của tổng thống Nasser trong nước và trong khối Ảrập tăng đột biến. Chủ nghĩa quốc gia cũng có cơ hội lan mạnh trên toàn khu vực. Về phần mình, Israel tuy thiệt hại 200 binh lính nhưng đã đạt được mục tiêu phá hủy căn cứ quân sự trên bán đảo Sinai.
    Chỉ có Anh và Pháp là thất bại. Hai nước này đã gửi tổng cộng 22.000 quân tới khu vực kênh đào nhưng cuối cùng lại phải sớm cuốn gói. Chiến dịch của London và Paris không thành công chủ yếu là do sự phản đối của Washington và Matxcơva. Sau xung đột Suez, Ai Cập trở nên thân thiết với Liên Xô hơn. Vai trò to lớn của Mỹ cũng được thừa nhận lần đầu tiên. Điều này tạo cơ sở cho học thuyết Eisenhower, trong đó Nhà Trắng quyết tâm trợ giúp bất kỳ nước Trung Đông nào "bị cộng sản đe dọa".
    ( vẫn còn)
  2. DuMaSiGon

    DuMaSiGon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2006
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Cuộc chiến Sáu Ngày
    Hoàn toàn bị bất ngờ, Cairo không kịp trở tay. Thế trận trên không mà quân đội Ai Cập dày công xây dựng vỡ vụn: Gần 400 máy bay cùng các ụ pháo cao xạ bị phá hủy. Israel giành quyền làm chủ bầu trời. Lúc này, bộ binh Do Thái mới chia ra 3 mũi, vượt bán đảo Sinai (Ai Cập) tiến sát tới thủ đô nước láng giềng. Cùng lúc, ở mặt trận phía bắc và đông đối đầu với Syria và Jordan, đại bác Israel khai hỏa.
    Trong 6 ngày khó tin từ mồng 5 tới 11/6/1967, quân đội Do Thái làm cỏ bán đảo Sinai (Ai Cập), chiếm Dải Gaza, khu Bờ Tây sông Jordan, trong đó có thành cổ Jerusalem, cao nguyên Golan. Tối 7/6, khi xe tăng Israel chỉ còn cách thủ đô Amman 10 km, vua Jordan buộc phải chấp nhận yêu cầu đình chiến. Hôm sau, Đại sứ Ai Cập tại LHQ Mohammed Awad El Kouni không giấu nổi sự nghẹn ngào khi thông báo tại Hội đồng Bảo an rằng chính phủ của ông bằng lòng ngừng chiến. Lực lượng vũ trang Syria cầm cự được thêm hai ngày nữa rồi cũng phải buông súng vào mồng 10/6. Chiến dịch quân sự phòng ngừa chớp nhoáng (pre-emptive action) của Israel kết thúc thắng lợi.
    Trên thực tế, Tel Aviv đã đi một nước cờ hết sức mạo hiểm khi chủ động tấn công các láng giềng Ảrập. Làm như vậy, Israel sẽ mang tiếng gây hấn trước, phải một lúc thọ địch ở cả 3 phía (sau lưng là biển) - chống lại liên minh Ai Cập, Jordan và Syria mà chỉ riêng Ai Cập đã có 70 triệu dân. Trong khi đó, tổng động viên già trẻ lớn bé Do Thái mới chỉ được 2,5 triệu người. Mặt khác, Israel đứng trước nguy cơ bị cô lập hoàn toàn nếu khiêu chiến. Liên Xô và các nước thuộc khối cộng sản đã hứa đứng về phe Ảrập. Ngày 2/6, De Gaulle, tổng thống Pháp khi đó, tuyên bố sẽ không tán thành nước nào động thủ trước, chứ đừng nói là ủng hộ. Mỹ thì đang mắc kẹt ở Việt Nam nên không muốn can thiệp vào Trung Đông.
    Trong khi đó, tình hình khu vực xấu đi nghiêm trọng. Sau khi giành thắng lợi trong chủ trương quốc hữu hóa kênh đào Suez, buộc Anh, Pháp và Israel phải rút quân và trả lại những vùng đất chiếm đóng, uy tín của tổng thống Ai Cập Nasser tăng đột biến. Các nước Ảrập xem ông như một nhà lãnh đạo có khả năng dẫn dắt họ nhổ cái gai Israel và rửa mối nhục thất bại trong cuộc chiến tranh năm 1948. Năm 1966, Ai Cập và Syria ký hiệp ước liên minh. Ngày 31/5/1967, vua Hussein của Jordan quyết định gia nhập hiệp ước trên. Như vậy, cả 3 nước láng giềng của Israel ở đông, nam, bắc đã bắt tay nhau. Lúc này, Ai Cập tập trung 270.000 quân sát biên giới với quốc gia Do Thái (trong đó 100.000 binh sĩ đồn trú trên bán đảo Sinai, ngay cạnh sườn Israel), với những vũ khí tối tân do Liên Xô và Tiệp Khắc cung cấp. Syria cũng điều đến cao nguyên Golan - hơn 60.000 người. Về phần mình, sau khi gia nhập liên minh, Jordan cử 60.000 quân lên biên giới và đặt dưới quyền chỉ huy của một tướng Ai Cập. Ngoài ra, Libăng cũng gửi tới một đạo binh nhỏ. Các nước Ảrập khác như Iraq, Algeria, Kuwait tuyên bố sẵn sàng viện trợ quân sự khi cần thiết. Theo ước tính, vào thời điểm năm 1967, liên minh tay ba có tổng cộng 465.000 binh lính, hơn 2.880 xe tăng và 810 máy bay, trong tư thế sẵn sàng bóp cổ Israel.
    Tổng thống Ai Cập Nasser nhận thấy tình hình chưa bao giờ thuận lợi như vậy đối với khát vọng trừ bỏ nhà nước Do Thái. Cairo tuyên bố thẳng thừng: "Mục tiêu cơ bản của chúng tôi là hủy diệt Israel. Nhân dân Ảrập muốn chiến tranh". Nasser tự tin yêu cầu LHQ rút toàn bộ 3.400 binh sĩ thuộc Lực lượng khẩn cấp khỏi bán đảo Sinai. Đội quân này vốn làm nhiệm vụ ngăn cách hai chú bò hăng đấu Ai Cập Israel sau chiến tranh 1956.
    Bầu không khí bỏng rẫy. Nhất là khi vào ngày 23/5, Ai Cập đưa hải quân tới phong tỏa eo Tiran, ngăn cản tàu Do Thái tới Elath, cửa ngõ ra Hồng Hải. Bị chặn ở phía đó, Israel như bị cắt mất một lá phổi. Chiến tranh là không thể tránh khỏi.
    Tel Aviv liền huy động tất cả lực lượng dự bị động viên. Đồng thời, chính quyền Do Thái phát động chiến dịch ngoại giao. Ngay đêm Ai Cập phong tỏa eo Tiran (cửa vịnh Akaba), nội các Israel nhóm họp và ra tuyên bố kêu gọi phương Tây giúp đỡ bảo đảm con đường thông thương trên biển cho tàu bè Do Thái. Ngoại trưởng Abba Eban lên đường sang Pháp, Anh và Mỹ mong tranh thủ sự ủng hộ của các cường quốc này. Paris cảnh cáo Israel không được nổ súng trước. Còn tổng thống Johnson nói thẳng: Washington không muốn Tel Aviv hành động đơn phương. Mỹ đề xuất thành lập một lực lượng hải quân quốc tế để buộc Ai Cập mở cửa vịnh Akaba. Tuy nhiên, kế hoạch này không thành.
    Khi các biện pháp ngoại giao rõ ràng không giải quyết được gì, Chính phủ Do Thái vào ngày 4/6 cho phép Bộ Quốc phòng thực hiện kế hoạch tấn công phòng ngừa để xóa bỏ mối nguy lơ lửng trên đầu dân tộc. Tel Aviv quyết định vời vị tướng lão luyện Moshe Dayan - có biệt hiệu là Độc long tướng quân - về làm Bộ trưởng Quốc phòng. Ông Dayan vốn thân cận với cựu thủ tướng Ben Gurion, thuộc phe đối lập với chính phủ đương nhiệm của Eshkhol. Tuy nhiên, dưới sức ép của nhân dân và trước mối nguy Ảrập, nội các Eshkhol buộc phải hy sinh quyền lợi riêng. Cỗ máy chiến tranh được phát động.
    Tuy nhiên, Mỹ và Nga không hề có ý định can thiệp vào chảo lửa Trung Đông. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến dịch quân sự năm 1967 của Israel.
    Mặt khác, xét về thực chất, Israel có nhiều lợi thế. Mặc dù khối Ảrập tập trung tới hơn 450.000 quân nhưng chỉ có nhiều nhất 300.000 người có thể dự chiến. Quan trọng hơn, sau những cuộc thanh trừng chính trị nội bộ, hàng ngũ tướng tá của phe Ai Cập bị xáo trộn. Những nhân vật mới lên đều thiếu kinh nghiệm. Binh sĩ tuy đông nhưng chưa qua huấn luyện kỹ càng. Việc phối hợp hậu cần hết sức bê bối. (Có trường hợp một nhóm quân Ai Cập bị bỏ đói khát suốt 3 ngày, khi được lính Israel cho một ca nước, họ đã mừng rơi nước mắt).
    Người Do Thái lại ở trong cái thế không có chỗ lùi. Họ bị bao vây 3 mặt, sau lưng là biển. Chính vì thế, tinh thần chiến đấu của sĩ tốt Israel rất hăng. Tổng cộng, Tel Aviv nắm trong tay một đội ngũ gần 300.000 quân rất có kỷ luật. Mặt khác, hoạt động tình báo của Israel bấy giờ hết sức hiệu quả. Theo giới sử học, các điệp viên Do Thái gửi về nước thông tin chi tiết về hải lục không quân đối phương. Ví dụ, họ biết được số lượng phi cơ và binh lính ở các sân bay, kiểu máy bay, đường bay, sĩ quan chỉ huy, giờ giấc hoạt động, chỗ nào là máy bay thật, chỗ nào chỉ nghi binh thôi. Tướng Moshe Dayan phải khen rằng: "Bất kỳ một quân đội nào trên thế giới cũng phải tự hào khi có một cơ quan tình báo như vậy".
    Quan trọng nhất, Israel có được Bộ trưởng Quốc phòng biết điều binh khiển tướng hết sức tài ba. Độc long tướng quân Moshe Dayan là vị chỉ huy chưa hề biết đến thất bại. Ông đã chiến đấu trong quân đội Anh hồi Thế chiến II, rồi chỉ huy cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc 1948-1949, làm tư lệnh quân lực Israel từ năm 1954 đến năm 1958. Ông chủ trương buộc các sĩ quan từ tướng tá trở xuống luôn phải xung phong trước quân sĩ để nêu gương. Bên cạnh Dayan còn nổi lên các gương mặt như Yitzhak Rabin (người sau này làm thủ tướng Israel), tướng Yigael Yadin và tướng Mordekhai Hod, tư lệnh không quân.
    Vấn đề còn lại là lập ra một phương án tác chiến hợp lý để giành thắng lợi tối đa trong khoảng thời gian ngắn nhất. Tel Aviv biết rằng, các cường quốc sẽ không ngồi yên mãi nhìn 4 quốc gia Trung Đông thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau.
    Moshe Dayan quyết định dùng chiến thuật đánh thốc: tập trung một đoàn thiết giáp ồ ạt tiến lên, mở đường xuyên qua phòng tuyến địch, tấn công vào một vị trí. Khi một lỗ hổng được mở, xe tăng xông lên và tiến tới không ngừng nghỉ. Bên cạnh đó, bộ binh và đặc nhiệm sẽ nhảy dù xuống khu vực kênh Suez.
    Ngoài ra, radio Israel còn tung những tin tức thất thiệt để đánh lừa địch, tạo sự hỗn loạn trong hàng ngũ tướng lĩnh đối phương. Khi nghe tin quân sự qua làn sóng đài Do Thái, Bộ chỉ huy tối cao Ảrập lầm tưởng rằng quân Israel đang cùng quẫn trên sa mạc Neguev hay trên Dải Gaza, trong khi trên thực tế, Cairo bị uy hiếp đến nơi. Có một lần các máy bay Ảrập đua nhau hạ cánh xuống phi trường Al Arish. Chẳng có gì đáng ngờ cả, cờ Ai Cập vẫn phấp phới trước gió và đài kiểm soát không lưu vẫn lanh lảnh giọng phát thanh viên Ảrập. Mà có thông tin nào về việc Israel đã chiếm được phi trường này đâu. Thế là, quân Do Thái tóm gọm cả một phi đội.
    Chiến dịch quân sự diễn ra theo đúng dự kiến của Bộ Quốc phòng Israel. Đòn phủ đầu sấm sét được tung ở Ai Cập. Sau những loạt bom, rocket và liên thanh của Israel, Cairo hầu như không còn một chiếc máy bay nào chiến đấu được. Phải mất 1 tiếng đồng hồ sau, nội các Nasser mới hiểu chuyện gì đã xảy ra. Tất cả thế giới ngạc nhiên, không hiểu tại sao phi công Israel lại nhằm trúng đích một cách tài tình như vậy. Báo chí hồi đó đồn đại Tel Aviv có một khí giới bí mật nào đó. Tuy nhiên, những bức ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy các sân bay đều bị san phẳng bởi bom và rocket thường.
    Trên bộ, Moshe Dayan vẫn dùng chiến thuật từ năm 1956: chia 3 mũi tấn công. Tới ngày 8/6, toàn bán đảo Sinai đã lọt vào tay Israel. Eo Tiran và vịnh Akaba được giải tỏa. Quân Israel tiến không ngừng. Cho tới lúc đình chiến tối 8/6, Ai Cập thiệt hại 10.000 quân, 5.000 người bị bắt làm tù binh, gần 500 phi cơ tan xác, 400 xe tăng bị hủy, 300 chiếc khác bị cướp. Còn phía Israel có 275 binh sĩ tử trận, 800 người bị thương, 61 tăng bị phá hủy.
    Vì ngày đầu phải đem quân diệt Ai Cập - quốc gia đứng đầu liên minh tay ba - nên ở mặt trận Jordan phía đông, Tel Aviv không mở đợt tấn công ồ ạt ngay được. Cuộc chiến đấu giành giật cổ thành diễn ra ác liệt trên từng khúc đường, từng căn nhà. Rốt cuộc, ngày 7/6, quân Israel chiến được Đông Jerusalem. Trong lúc đó, một cánh quân Do Thái khác chiếm Naplouse, Djenine và tiến vào bờ tây sông Jordan. Chiều 7/6, vua Hussein đành chịu thua. Trên 6.000 người của phía Jordan bị chết hoặc mất tích, 760 bị thương, 460 bị bắt làm tù binh, khoảng 1/3 trong tổng số 300 chiến xa bị phá hủy, máy bay hư hỏng toàn bộ. Quân Do Thái tổn thất 350 người. 300 binh sĩ khác bị thương.
    Trong 3 nước Ảrập, Syria chiến đấu hăng hơn cả. Damascus dồn lên biên giới lực lượng khá mạnh: 75.000 quân được trang bị đầy đủ với 400 xe tăng. Syria lại có lợi thế cao nguyên Golan hiểm trở với nhiều thành lũy kiên cố do Đức, rồi Nga xây cất. Israel bị tổn thất khá nặng trên chiến trường này dù ngay từ đầu họ làm chủ không phận. Tel Aviv dùng chiến thuật tiêu hao và tấn công bất ngờ. Họ dùng máy bay dội bom dồn dập vào phòng tuyến đối phương, nã đại bác suốt 5 giờ liền, rồi từ thung lũng sông Jordan đánh thốc lên cao. Khi cửa đã mở, xe tăng lập tức xung trận. Tổng kết cuộc giao tranh, Syria có 200 người chết, 5.000 người bị thương, 80 xe tăng bị phá hủy, 40 bị cướp. Còn Israel thiệt 115 quân, 306 bị thương. 18h ngày 10/6, hai bên ngưng chiến theo lệnh của LHQ. Bộ trưởng Ngoại giao Syria đau lòng tuyên bố "Syria thua vì không được không quân yểm hộ" (không lực Ai Cập tan rã ngay từ đầu).
    Vậy là khối Ảrập thêm một lần bại trận trước Israel. Tel Aviv đã tranh thủ cuộc chiến 1967 để chiếm thêm nhiều đất của phe Ai Cập. Cao nguyên Golan, khu Bờ Tây, Dải Gaza màu mỡ về tay Israel. Sau khi đình chiến, các nước Ảrập đứng trước tình thế hết sức khó khăn: Nội bộ bất ổn, kinh tế yếu ớt. Nước nào cũng thiếu tiền. Kênh Suez buộc phải đóng cửa khiến Ai Cập thiệt mỗi tuần cả 1,5 triệu đôla. Jordan mất đi thành cổ Jerusalem - nguồn lợi du lịch đem lại 34 triệu USD mỗi năm. Cả khu Bờ Tây trù phú cung cấp 80% sản lượng dầu ô liu, 65% rau trái cho nước này cũng bị quân Do Thái chiếm mất. Các quốc gia khác như Ảrập Xêút, Iraq, Kuwait cũng mất nguồn tiền bán dầu khi tức giận cắt quan hệ với phương Tây. Khối Ảrập bị chia rẽ mạnh. Hội nghị Khartoum (tháng 8/1967) do Ai Cập chủ xướng thất bại trong việc tìm ra một giải pháp chung buộc Israel rút quân.
    Về phần mình, quốc gia Do Thái chiếm được nhiều đất, tạm thời loại bỏ được mối nguy từ các nước Ảrập. Tuy nhiên, điều này làm sâu sắc thêm sự hằn thù dân tộc ở Trung Đông. Sau chiến tranh, rất nhiều người Israel đem gia đình tới lập khu định cư ở Bờ Tây và Dải Gaza. Cho tới nay, 2% dân số quốc gia Do Thái (khoảng 400.000 người) đang ngụ tại khu vực này. Giải quyết bài toán đảm bảo cuộc sống cho những người định cư và kiến tạo hòa bình với Ảrập từ đó luôn làm Tel Aviv vò đầu bứt tai. Thực tế, nội bộ Israel luôn chia rẽ trên vấn đề đó. Những người cánh hữu cảm thấy vùng đất mới là chiến lợi phẩm hợp lý trong cuộc chiến chính nghĩa, trong khi cánh tả cho rằng nên đổi nó lấy hòa bình.
    Một lần nữa, chiến thắng quân sự lại khiến người ta lo ngại hơn cho số phận của đất nước Do Thái. Sự xấu hổ và phẫn nộ của thế giới Ảrập từ thất bại ê chề trên đã đẻ ra phong trào Hồi giáo quá khích ở Trung Đông. Chiến tranh cũng dẫn tới một cuộc tái thiết hoạt động du kích và sự xuất hiện của lực lượng kháng chiến Palestine thực sự khi thêm nhiều người trở thành dân tị nạn.
    Sau năm 1967, uy tín của Liên Xô suy giảm ở Trung Đông do nước này không can thiệp để cứu Ai Cập. Còn Mỹ và phương Tây giành thắng lợi lớn về tinh thần. Một loạt nước Ảrập (tiêu biểu là Jordan) quyết định ngả hẳn sang phe Washington.
    Còn cần tìm hiểu gì nữa nào !?! nhưng vẫn không ưa bọn Juda !
  3. Mig19Farmer

    Mig19Farmer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/03/2004
    Bài viết:
    1.465
    Đã được thích:
    1
    Một dân tộc bị kẻ thù bao vây bốn bề với một mục đích cuối cùng và duy nhất là huỷ diệt họ đến người cuối cùng nên đã chống trả kiên cường và anh dũng vì sự tồn vong của dân tộc thì có tội gì chứ. Tôi thấy chúng ta lâu nay theo đường lối chống Mỹ nên cái gì thân Mỹ cũng đều là tay sai, là quân cờ cả. Thực sự thì tôi thấy dân tộc Do Thái rất anh hùng, đọc lại lịch sử thấy trong những thời khắc nguy hiểm nhất cho sự tồn vong, họ đã vượt qua nhờ tinh thần và ý chí chiến đấu. Xin đừng ai nói là họ dùng súng Mỹ nên chỉ là lính đánh thuê cho Mỹ, nếu chúng ta tiếp tục dùng bom ba càng, súng ngựa trời, SKZ, lựu đạn Phan Đình Phùng, mã tấu gậy tầm vông, cối 160mm tự tạo thì chúng ta cũng chẳng thể nào giành được độc lập dù chúng ta có anh dũng đến đâu đi nữa. So sánh tương quan lực lượng thì thời đó nước Do Thái quá như nhỏ bé trước tiềm lực cả về quân sự và kinh tế của khối Ả rập- những quốc gia có lúc từng tuyên bố trắng trợn: nhân dân chúng tôi muốn chiến tranh và họ muốn nhổ cái gai cắm vao mông họ càng sớm càng tốt. Đúng là Israel được Mỹ viện trợ vũ khí rất nhiều nhưng phía bên kia là liên minh các nước Ả rập với nguồn dầu mỏ dồi dào để mua toàn những thứ vũ khí tối tân nhất của Lien xô.
    Về vũ khí thì có lẽ lâu nay ta quen với hình ảnh xe tăng hiện đại của Israel đàn áp đám thanh niên Palestin vừa chạy vừa ném đá mà lầm tưởng rằng họ luôn vượt trội về vũ trang so với khối A rab. Thực ra thì trong quá khứ họ phải đối đầu với quân đội hùng hậu của đối phương với nhiều vũ khí hiện đại, họ phải một mặt cầu cứu viện trợ các vũ khí tối tân nhất, một mặt tận dụng cải tiến tất cả các vũ khí mình có trong tay để chống trả. Về mặt cải tiến tận dụng đồ cũ thì dân DO thái là bậc thầy rồi, các phương án nâng cấp trang bị để kéo dài thời gian phục vụ của các khí tài lạc hậu có thể nói là quá tuyệt vời: xe tăng Sherman lạc hậu vẫn tham chiến tốt khi đối đầu với đối phương xài cả IS-3 và T-54, hàng trăm T-54 bị bắt sống vẫn phục vụ tốt cho quân đội Do Thái, sau đó phần lớn đwợc hoán cải thành APC hạng nặng, các gói nâng cấp Mig-21, PT-76, T-54, M-113 của họ được nhiều quốc gia quan tâm. Về vũ khí mới thì bên cạnh nguồn hàng Mẽo, họ khá chủ động trong thiết kế và chế tạo vũ khí: súng trường tấn công Gali của họ thuộc dòng AK, từng tự chế tạo F-16 nhái nhưng ko thành, tự chế tạo tăng, APC, tên lửa hành trình đối hạm, các loại tên lửa không đối không của họ rất nổi tiếng và nhiều loại có phần vượt trội loại tương đương của chính Mẽo.
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 10:23 ngày 27/07/2006
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Các bác chú ý hộ em: chủ đề bàn về vũ khí của Hezbola. Hezbola có bao nhiêu loại vũ khí, nguồn gốc, khả năng chế tạo vũ khí của Hezbola,... không bàn về chuyện ai là khủng bố, ai khủng bố ai.
    Còn bác nào có nhu cầu bày tỏ tình cảm với Do Thái hay Hezbola hoặc bàn chuyện ai là khủng bố, ai khủng bố ai thì các bác sang box Thảo luận đi. Bên đó mở cửa rồi đấy. Còn một loạt các bài lạc đề em đã sửa xoá rồi.
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 08:14 ngày 28/07/2006
    u?c ptlinh s?a vo 08:15 ngy 28/07/2006
  5. LVHa74

    LVHa74 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    09/11/2002
    Bài viết:
    479
    Đã được thích:
    0
    1. Cuộc chiến tranh này vì cái gì?
    Hezbollah:
    - Mục đích tuyên truyền: Đòi thả tù chính trị bị giam giữ tại Israel.
    - Mục đích thực tế: Gây rộng thêm ảnh hưởng tại Lebanon.
    Hamas:
    - Mục đích tuyên truyền: Đòi thả ít nhất 1.000 tù chính trị bị giam giữ tại Israel.
    - Mục đích thực tế: Hợp nhất quyền lực tại khu vực Gaza và Bờ Tây.
    Jihad Hồi giáo (Thánh chiến Hồi giáo): (1)
    - Mục đích tuyên truyền: Tiêu diệt Israel.
    - Mục đích thực tế: Tiêu diệt Israel
    Israel:
    - Mục đích tuyên truyền: Giải thoát những người lính bị bắt giữ và quyền tự vệ trước tấn công của Hezbollah từ phía Nam Lebanon.
    - Mục đích thực tế: Loại trừ Hezbollah ra khỏi miền Nam Lebanon và đưa lại sự kiểm soát khu vực này về tay quân đội Lebanon.
    Lebanon:
    - Mục đích tuyên truyền: Chống trả lại cuộc xâm chiếm quân sự.
    - Mục đích thực tế: Giữ gìn sự đoàn kết của một đất nước bị chia rẽ và một chính phủ yếu kém.
    Iran:
    - Mục đích tuyên truyền: Xoá bỏ Israel.
    - Mục đích thực tế: Giành vị thế lãnh đạo tại khu vực Trung Đông và đường vào cho việc sản xuất vũ khí hạt nhân.
    Syria:
    - Mục đích tuyên truyền: Buộc Israel quay lại vị trí biên giới hoạch định trước cuộc chiến 1967.
    - Mục đích thực tế: Lấy lại ảnh hưởng bị mất và cao nguyên Golan.
    2. Tiềm lực của các bên
    LEBANON:
    - Lực lượng chiến đấu: 40 ngàn người.
    - Vũ khí: Vũ khí đã lạc hậu có từ thời Liên Xô; một số xe tăng T-55; đại bác di động 155mm; 22 trực thăng Huey; súng tiểu liên tự động Mỹ M-16 và của Liên Xô AK-47.
    - Khả năng tác chiến: chỉ có thể giữ trật tự nội vụ, bất khả kháng trước Israel.
    Kháng chiến quân nhân dân
    Nguồn: thewe.cc
    POPULAR RESISTANCE COMMITTEE:
    - Lực lượng chiến đấu: Cao nhất là 1.000 ngàn người.
    - Vũ khí: Tiểu liên tự động Liên Xô; lựu đạn và mìn.
    - Khả năng tác chiến: Đang có khủng hoảng trong lãnh đạo sau khi thủ lĩnh Jamal Abu Samhadhan bị giết hồi tháng 6 vừa qua.
    HAMAS:
    - Lực lượng chiến đấu: Khoảng vài ngàn người
    - Vũ khí: Tiểu liên tự động Liên Xô; một số lượng không nhiều súng chống tăng và tên lửa Kaciusa của Liên Xô buôn lậu từ Egypt qua; lựu đạn sản xuất thủ công, bom tự sát và mìn lạc hậu cùng một số tên lửa Kasam với độ bắn chính xác rất kém.
    - Khả năng tác chiến: Không kéo dài được khả năng chống trả với cuộc tấn công của quân đội quy mô và liên tục.
    - Thành phần tín ngưỡng: Đa phần là Hồi giáo phái Sunni.
    HEZBOLLAH:
    - Lực lượng chiến đấu: 600 chiến binh chuyên nghiệp, nhà nghề và khoảng 3 ngàn lính đang được huấn luyện. Hàng chục ngàn người khác có thể tham chiến khi được kêu gọi, động viên.
    - Vũ khí: 3 ngàn tên lửa trong đó có loại 122 mm; tên lửa đạn đạo tầm 200 km; tên lửa chống tăng và đánh phá tàu chiến C-802 được điều khiển bằng radar. Các loại pháo kích cỡ 60 và 120 mm.
    - Khả năng tác chiến: Là một trong những đạo quân du kích có kinh nghiệm vào bậc nhất trên thế giới, có kỷ luật cao, được huấn luyện chuyên nghiệp và chiến đấu vì lý tưởng.
    - Thành phần tín ngưỡng: Đa phần là Hồi giáo phái ****te.
    SYRIA:
    - Lực lượng chiến đấu: 200 ngàn lính.
    - Vũ khí: Các loại vũ khí từ thời Liên Xô; xe tăng T-62, T-72; đại bác loại 122 và 152 mm; tên lửa Scud có khả năng mang đầu đạn hoá học hoặc sinh hoá.
    - Khả năng tác chiến: Một số đơn vị có khả năng chiến đấu tốt vì được huấn luyện chuyên nghiệp, nhưng không có khả năng đối phó với Israel.
    - Thành phần tín ngưỡng: Hồi giáo phái Sunni 74%, phái ****te 15%.
    IRAN:
    - Lực lượng chiến đấu: 768 ngàn quân trực chiến và 11.700 quân dự bị.
    - Vũ khí: Có thể đang chế tạo vũ khí hạt nhân; tên lửa Fajr-3, MIRV, Hoot, Kosal, Pateh 110 và Szahab-3. Hầu như tự cung tự cấp được nhu cầu vũ khí.
    - Khả năng tác chiến: Là một trong những quốc gia hùng mạnh nhất khu vực với đội quân có kỷ luật và được trang bị tốt.
    - Thành phần tín ngưỡng: Đa phần là Hồi giáo phái ****te, chiếm 89%, Sunni 9%.
    ISRAEL:
    - Lực lượng chiến đấu: 150 ngàn quân trực chiến và 500 ngàn quân dự bị.
    - Vũ khí: Có vũ khí hạt nhân (nhưng không thừa nhận chính thức); máy bay F-16; trực thăng chiến đấu Apache; máy bay gián điệp không người lái; tàu chiến; tàu tuần tra và hàng trăm xe tăng hiện đại.
    - Khả năng tác chiến: Là tiềm lực quân sự mạnh nhất tại Trung Đông. Hàng năm được Hoa Kỳ viện trợ quân sự 2,4 tỷ USD.
    3. Tiếng nói của báo chí Ả-Rập và Israel
    Israel Insider (Israel): Trước hết là chiến tranh, sau đó là con đường ngoại giao. Trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ II, đồng minh đã thắng Đức và Nhật. Họ đã ném bom và phá huỷ thành phố Dresden, người Mỹ đã ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản. Sau tất cả những điều trên, người Đức và người Nhật trở thành những công dân khuôn mẫu của thế giới. Nếu như Israel không huỷ diệt kẻ thù từ suốt năm 1948 đến nay thì sẽ thất bại. Hoặc là chiến thắng toàn diện của Israel hoặc là con đường thất bại và một Holocaust mới sẽ đến. Chỉ một tin vui là, sự lựa chọn con đường nào không phụ thuộc vào Israel.
    The Daily Star (Lebanon): Một chương trình Marshall khu vực. Khi bụi bặm bay đi hết, Israel chắc chắn sẽ quay lại phương pháp đã sử dụng từ hàng chục năm nay: Israel sẽ ép các chính quyền non yếu của Palestine hay Lebanon bắt những tổ chức chiến binh phải tuân phục trên lãnh thổ mình và sẽ làm suy yếu những chính quyền này bằng mọi cách. Chỉ một lối thoát duy nhất ra khỏi vòng kim cô này là một hiệp ước hoà bình gắn liền với chương trình Marshall (2) khu vực.
    Al-Watan (Qatar): Các nước G8 mắc sai lầm: Thủ tướng Israel Ehud Olmert và đạo quân phát-xít của ông ta đã mở cuộc chiến tranh tàn ác chống lại nhân dân Palestine và Lebanon. Thế nhưng chính phủ của Bush đã vô hiệu hoá một quyết định của cộng đồng quốc tế để có thể ngăn chặn cuộc tiến công xâm lược của Israel vào Lebanon.
    Ad-Dustur (Jordan): Lebanon trả giá cho sự yếu kém của người Ả-Rập. Israel không bỏ lỡ cơ hội để phục hận cuộc tháo lui nhục nhã từ Beirut 20 năm trước đây. Giờ đây Israel muốn đẩy lùi nước này khỏi con đường phát triển và huỷ diệt tất cả những gì người ta đã xây dựng nên từ thời gian đó đến nay. Israel muốn bẻ gãy mọi chống trả của người Ả-Rập và đưa tới sự bất khả kháng của toàn bộ thế giới Ả-Rập.
    Al Kuds Al-Arabi (London): Họ không khuất phục được linh hồn người Hồi giáo. Sức mạnh của quân đôi Hoa Kỳ đã hạ gục toàn bộ quân đội Iraq chỉ 3 tuần sau cuộc đổ quân, nhưng họ đã không xây dựng được một cấu trúc nhà nước, không mang lại an ninh và ổn định cho người dân Iraq. Cùng một chiến thuật này Israel đang áp dụng. Có thể Israel phá huỷ các cơ sở của Hezbollah, phong toả cảng Beirut, làm sập cầu cống, giết hại đàn bà và trẻ em, nhưng không bao giờ Israel có thể loại bỏ được ảnh hưởng của người Hồi giáo cũng như làm suy yếu Hezbollah.
    Al-Hajat (London): Không thể trông chờ Liên Hiệp Quốc (LHQ). Lần đầu tiên Israel mở cuộc chiến với sự ủng hộ hoàn toàn và khuyến khích của dư luận thế giới. Số phận của dân tộc Lebanon không làm các vị nguyên thủ G8 xúc động khi thừa nhận lập trường của Israel. Hội đồng Bảo An (HĐBA) LHQ không ra nghị quyết định kêu gọi ngừng chiến. Điều này chứng tỏ rằng chẳng có thể trông đợi gì ở HĐBA LHQ, một cơ cấu đã đánh mất niềm tin ở công lý và nhân bản.
    La Tribune (Algieria): Nhà nước chiến tranh. Nếu như Israel lý giải lý do cho cuộc xâm lăng là vì bị đe doạ từ phía Hezbollah, thì mục tiêu của sự tấn công phải là đảng của người ****te. Vậy tại sao máy bay Israel lại ném bom phá huỷ cơ sở hạ tầng, cầu đường và cảng Beirut? Nếu như không có Hezbollah thì Israel cũng sẽ nghĩ ra một cái gì khác. Nhìn những gì Israel làm trên đất Palestine thì nhận ra rằng, nhà nước Do Thái này không muốn hòa bình và chỉ tồn tại nhờ chiến tranh và vì chiến tranh.
    As-Safir (Lebanon): Ăn miếng trả miếng. Israel trở thành con tin của chính tiềm lực mình, một thứ tiềm lực không do dự sử dụng trước những người láng giềng non yếu nhất. Quân đội của Israel có đủ khả năng tấn công Syria và thậm chí cả Teheran, nhưng bạo lực không đảm bảo an ninh cho Israel và cũng không đưa đến sự việc là Israel sẽ trở thành một quốc gia giống các quốc gia khác.
    Jediot Aharonot (Israel): Chúng ta phải chiến thắng. Nếu như Hezbollah và Hamas giành thắng lợi thì sẽ đồng nghĩa với sự kết thúc dự án Do Thái. Israel phải thắng trong cuộc chiến tranh này. Đây là điều cần thiết tuyệt đối.
    The Jerusalem Post (Israel): Làm tê liệt quân tấn công. Ehud Olmert có lý khi gọi cuộc chiến tranh là sự đánh trả quân Hezbollah tấn công vào lính Israel bảo vệ biên giới phía Bắc của Israel. Nhiệm vụ của chính quyền là làm tê liệt quân tấn công và khôi phục lại an ninh cho dân tộc Israel. Vào lúc mà chúng ta phản công vào thế lực khủng bố nguy hiểm nhất trên thế giới, chúng ta mong đợi sự ủng hộ của các dân tộc. Nhưng tiếc thay, chỉ mỗi tổng thống Hoa Kỳ đứng bên cạnh chúng ta.
  6. kyto

    kyto Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/08/2005
    Bài viết:
    344
    Đã được thích:
    0

    ... Trên khắp miền nam Lebanon, các du kích quân Hezbollah đã bắn khoảng 350 tên lửa mỗi ngày vào các thành phố của Israel, từ một kho vũ khí chứa ước chừng 13.000 tên lửa. Ít nhất có 100 trong hơn 900 tên lửa pháo kích tới Israel đã rơi vào Haifa, thành phố lớn hàng thứ ba của nước này, đồng thời có một tên lửa chống tàu chiến điều khiển bằng rađa (C-802) do Iran viện trợ cho Hezbollah đã bắn vào một tàu chiến Israel ở ngoài khơi Lebanon. Ngoài ra, các chiến binh Hezbollah còn tổ chức thành những nhóm 50 người, tấn công lính Israel, phá hủy các xe tăng và kể cả đột kích thị trấn Metulla của Israel.
    TIME - July 31, 2006. Page 16
  7. victorcharlie

    victorcharlie Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2003
    Bài viết:
    454
    Đã được thích:
    0
    Hờ hờ đúng rồi Nga ngố cũng chỉ là đệ tử của Việt Nam, sống bằng mì Vifood. Đã nghe đến câu "Bao giờ Mỹ có độc lập thì Palestine có độc lập chưa"??
  8. DuMaSiGon

    DuMaSiGon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2006
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Hiện, trong khi cuộc xung đột giữa Hezbollah và Israel đang ngày một leo thang, quân đội Lebanon vẫn án binh bất động. Vấn đề sức mạnh quân sự là một chủ đề nhạy cảm tại đất nước vốn phải trải qua 15 năm nội chiến này.
    Sau nội chiến, Lebanon nỗ lực thu hút các nhóm tôn giáo chính như Shi''ite, Sunni, Druze và Cơ đốc giáo - để thành lập một lực lượng quốc gia thực sự.
    Lực lượng vũ trang Lebanon được chia làm 3 binh chủng: bộ binh, hải quân và không quân với nhiệm vụ bảo vệ an ninh và ổn định đất nước, đảm bảo an ninh biên giới, hải cảng, tham gia các chiến dịch cứu trợ, cứu hộ, chữa cháy và chống buôn bán ma tuý.
    Cả 3 binh chủng trên đều chịu sự chỉ huy và điều phối của Bộ tư Lệnh lực lượng vũ trang Lebanon, đóng tại Yarzeh, phía đông Thủ đô Beirut.
    Có tới gần 80% khí tài của Lực lượng vũ trang Lebanon do Mỹ chế tạo, phần còn lại do Anh, Pháp và Liên Xô cũ sản xuất.
    Bộ binh Lebanon
    Bộ binh Lebanon bao gồm:
    5 Tư lệnh vùng
    11 Lữ đoàn cơ giới
    1 Lữ đoàn Vệ binh Cộng hoà
    1 Trung đoàn biệt kích
    5 Trung đoàn đặc nhiệm
    1 Trung đoàn không vận
    1 Trung đoàn biệt kích hải quân
    2 Trung đoàn pháo binh
    Lữ đoàn vệ binh cộng hoà có nhiệm vụ bảo vệ Tổng thống và luôn tháp tùng Tổng thống ở bất kỳ nơi nào.
    Khí tài:
    Gần 700 xe bọc thép M-13 do hãng Ford sản xuất.
    100 xe tăng hạng trung M-48 A1/A5 do Mỹ sản xuất
    200 xe tăng hạng trung T-54/T-55 do Liên Xô cũ sản xuất
    40 xe tăng hạng nhẹ AMX-13 do Pháp sản xuất.
    Lực lượng bộ binh cũng được trang bị pháo và hệ thống tên lửa.
    Lực lượng không quân Lebanon hiện đang thiếu chiến đấu cơ. Các máy bay hiện có chủ yếu là trực thăng cũ của quân đội Mỹ:
    30 chiếc Bell UH-1H
    4 chiếc Robinson R44 Raven II
    Không quân Lebanon vừa được trang bị 4 chiếc trực thăng Robinson mới, chủ yếu phục vụ công tác huấn luyện và hiện đang đậu tại Căn cứ không quân Rayak, miền Bắc Lebanon.
    Hải quân
    Hải quân Lebanon có nhiệm vụ bảo vệ hải phận, cảng biển và chống buôn lậu hàng hoá.
    Khí tài:
    5 Tàu tuần dương loại ATTACKER do Anh sản xuất
    2 Tàu tuần dương loại TRACKER do Anh sản xuất
    2 tàu sân bay loại EDIC do Pháp sản xuất
    Thiếu và yếu
    Với hơn 38.000 quân, lực lượng vũ trang Lebanon là một lực lượng quân đội chính thống có quy mô nhỏ với nhiệm vụ bảo vệ đất nước Lebanon.

    Quân đội Lebanon đứng nhìn đất nước bị Israel tàn phá.
    Tuy nhiên, Amin Hoteit - cựu chỉ huy quân đội Lebanon - cho biết lực lượng quân đội nước này được trang bị nghèo nàn so với nhiệm vụ nặng nề được giao.
    Quân đội thiếu các vũ khí cơ bản như tên lửa phòng không để chống lại các đợt không kích của Israel. Không lực Lebanon không có máy bay tiêm kích, hải quân không có tàu chiến.
    ''''Quân đội Lebanon không có ai để chiến đấu. Họ không thể tấn công chiến đấu cơ của Israel trên trời'''', Gen Hoteit cho biết.
    Sức mạnh của Hezbollah
    Với tình trạng thiếu và yếu của quân đội Lebanon, tầm quan trọng của sức mạnh quân sự của Hezbollah ngày một tăng.
    Tướng Hoteit miêu tả, Hezbollah là một ''''bộ phận không thể tách rời của lực lượng phòng thủ của Lebanon'''' dù không có bất kỳ mối quan hệ chính thức nào giữa hai lực lượng chiến đấu chính tại Lebanon này.
    Trong khi quân đội Lebanon là lực lượng chiến đấu chính thống, thì chính Hezbollah - một lực lượng chiến đấu không chính thống - lại đang phát động tấn công vào các mục tiêu của Israel.
    Do Hezbollah là một tổ chức bí mật nên việc đánh giá sức mạnh quân sự rất khó.
    Tuy nhiên, các nhà phân tích quân sự tin rằng, tổ chức này có hàng nghìn tay súng được huấn luyện bài bản và được vũ trang tốt.
    Được Sheikh Hassan Nasrallah lãnh đạo, trong những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, Hezbollah được Iran tài trợ nhằm chống lại cuộc xâm lược của Israel.

    Binh sĩ Hezbollah được trang bị vũ khí hiện đại và được huấn luyện bài bản.
    Chính sự bất lực của quân đội Lebanon tại miền Nam đã nâng cao hình ảnh của Hezbollah như một lực lượng chiến đấu chính.
    "Hezbollah đã lấy lại tự trọng cho thế giới Ảrập khi giải phóng được miền Nam Lebanon lần đầu tiên trong lịch sử'''', cựu Tướng quân đội Lebanon Elias Hanna nhận xét.
    Hầu hết người dân Lebanon đều tỏ lòng biết ơn Hezbollah vì đã chấm dứt sự chiếm đóng của Israel. Tuy nhiên, hiện nhiều người nghĩ rằng chính Hezbollah đã đẩy họ vào cuộc chiến mà họ không lựa chọn.
    Họ coi Hezbollah là ''''lực lượng quân đội thứ hai'''' của Lebanon, chịu sự ảnh hưởng của những người ủng hộ chứ không chịu ảnh hưởng của Chính phủ.
    Đã có nhiều đề nghị giải giáp Hezbollah, trong đó có nghị quyết 2004 của LHQ. Tuy nhiên, Hezbollah đã bác bỏ tất cả các đề nghị nói trên.
    Dù vậy, quân đội Lebanon không muốn chống lại Hezbollah. Nhiều binh sĩ thuộc quân đội Lebanon là người Shi''ite ủng hộ Hezbollah.
    ''''Làm gì có chuyện một người lính Shi''ite lại đi tước vũ khí của một người Shi''ite khác mà anh ta tin rằng có quyền chống lại Israel'''', Tướng Hanna cho biết.
    Hiện, Israel tuyên bố, mục tiêu duy nhất của quân đội nước này là Hezbollah. Tuy nhiên, Chính phủ Lebanon doạ sẽ tham gia chiến đấu nếu Israel triển khai ồ ạt quân tại miền Nam Lebanon.
    ''''Chúng tôi sẽ bảo vệ mảnh đất của chúng tôi đến người lính cuối cùng....'''', Bộ trưởng Quốc phòng Lebanon Elias Murr cho biết.
    Nhưng đến bay giờ, mới chỉ có Hezbollah đang chiến đấu.
    >>>>> thế mà chính phủ Lebanon vẫn để cho Israel lộng hành, Beirus có ở miền Nam Lebanon đâu sao cứ bị Do Thái oanh tác. Lực lượng có tới cả tầu sân bay mà nhu nhược !!! Cứ chỉ tuyên bố thôi, sợ tới lúc hành động thì đã quá muộn.
    Đề nghị của tôi : Lại chiến tranh Trung Đông lần 5 luôn! Tôi ủng hộ Arập !
  9. hatakekakashivn87

    hatakekakashivn87 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/04/2006
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    0
    Đã nói thì nói cho công bằng. Bác nào có tiềm lực của Ixarel thì nói thêm đi, em tin thằng này có nhiều thứ để nói.

    Báo cáo của "Cơ quan Tình báo phương Tây" cho biết thêm Iran đã tài trợ 50 triệu USD cho việc huấn luyện Hezbollah, Hamas và các nhóm khủng bố khác sử dụng tên lửa các loại, trong đó có loại Fajr-5 và tên lửa phòng không SA-7. Đặc biệt, Iran còn huấn luyện Hezbollah và các nhóm khủng bố Palestine tiến hành "những vụ đánh bom tự sát dưới nước". (?)
    Theo các quan chức Mỹ và Anthony Cordesman - chuyên gia về Trung Đông của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế có trụ sở ở Washington, lực lượng Vệ binh Cộng hòa ưu tú của Iran được cho là đang cung cấp các cố vấn quân sự cho Hezbollah, cùng với sự hợp tác với Syria ở mức độ nào đó.
    Giới chuyên gia đã tranh luận trước những tuyên bố của thủ lĩnh Hezbollah, Hassan Nasrallah, người đã nhiều lần tuyên bố rằng nhóm của ông sở hữu hơn 12.000 quả rocket, trong khi những tính toán khác lại cho thấy nguồn cung cấp rocket đã tăng lên tới 10.000 quả trong năm nay. Giới chức Israel cho biết một chiếc tàu của Hải quân ngày 21/7 đã bị tấn công bằng loại tên lửa hành trình C-802 được điều khiển bằng rađa do Iran chế tạo, có tầm bắn tới 119 km. Iran đã bác bỏ cáo buộc này, và giới quan chức Mỹ chưa có thông tin nào để xác nhận rằng đó là tên lửa C-802.
    Hezbollah có thể có khả năng do thám hạn chế. Trong năm 2004 và 2005, nhóm này đã phóng đi ít nhất là 2 thiết bị bay không người lái. Cả Hezbollah và Israel đều nói rằng những thiết bị bay tầm thấp và nhẹ này do Hezbollah tự chế tạo, nhưng các chuyên gia phân tích Mỹ tin rằng các thiết bị đó là do Iran chế tạo.
    .....
    (Vnmedia)
    Được hatakekakashivn87 sửa chữa / chuyển vào 22:28 ngày 28/07/2006
  10. daulauxuongcheo

    daulauxuongcheo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/01/2005
    Bài viết:
    406
    Đã được thích:
    0
    Lebanon có tới 2 tàu sân bay mà lại không có máy bay à??Sao không bán bớt đi 1 chiếc mà mua máy bay.

Chia sẻ trang này