1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ninh Bình ơi! Ninh Bình à!

Chủ đề trong 'Ninh Bình' bởi omaichotnho, 22/12/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. karakapuri

    karakapuri Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    850
    Đã được thích:
    0
    Bác chưa gặp à, giúp em cái nhé. nhỡ có vị khách nào hỏi thì khó trả nhời đấy!
  2. karakapuri

    karakapuri Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    850
    Đã được thích:
    0
    Tiện thể mong các bác cho em thông tin đầy đủ về dòng Ngô Đồng nhé. Độ dài, Độ sâu, chế độ dòng chảy, chảy qua các địa danh nào...
    Cảm ơn các bác!
  3. windream

    windream Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/06/2006
    Bài viết:
    124
    Đã được thích:
    0
    khiếp bạn hỏi như thế thì làm sao mà trả lời được, chơi hơi khó nhau rồi đấy
  4. duyhiep1984

    duyhiep1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2004
    Bài viết:
    335
    Đã được thích:
    0
    Các di tích ở tỉnh Ninh Bình
    Trở ra Phủ Lý theo quốc lộ 1A đi vào phía trong đến thị xã Ninh Bình.
    Hoa Lư
    Trên cánh đồng chiêm bát ngát một màu xanh mát mắt của hai huyện Gia Viễn và Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình là 99 ngọn núi đá vôi lô nhô nối tiếp nhau kéo dài như bức trường thành. Đôi chỗ có một ngọn đột ngột vươn cao như toà tháp canh sừng sững vây quanh những thung lũng rộng thoáng, có sông ngòi uốn khúc, có hồ đầm mặt nước lấp loáng như gương in bóng cảnh núi non hùng vĩ và bầu trời khoáng đãng. Đó là thắng cảnh "Hạ Long trên cạn" của Ninh Bình, có khu di tích Hoa Lư- kinh đô của nước Đại Việt xưa.
    Cồ Việt quốc đường Tống Khai Bảo
    Hoa Lư đô thị Hán Trường An
    (nước Đại Cồ Việt ngang hàng với nhà Tống đời Khai Bảo; Hoa Lư là kinh đô Đại Cồ Việt cũng như Tràng An là kinh đô nhà Hán vậy).
    Đôi câu đối bên cột đền vua Đinh ở Hoa Lư nói lên lòng tự hào của tổ tiên ta trước tầm vóc lớn lao của Tổ quốc bước vào giai đoạn độc lập tự chủ.
    Những ghi chép trong sách cũ thì cố đô Hoa Lư nằm trên địa phận của hai xã Trường Yên Thượng và Trường Yên Hạ ngày nay. Tường thành cao từ 8 - 10 m, đắp bằng đất, bó gạch lớn, có in chữ "Đại Việt quốc quân thành chuyên". Thành Hoa Lư rộng khoảng 300 héc ta, chia làm hai khu vực: Thành ngoại ở phía đông và thành nội ở phía tây ăn thông với nhau qua một ngách núi gọi là quèn Võng. Giữa hai khu từng có cổng lớn xây bằng đá, cầu đá bắc qua hào sâu, mang tên Cầu Đông, Cầu Dền... Từ thời Đinh đến Tiền Lê, qua 41 năm (968-1009), nhiều cung điện được xây dựng trong thành.
    Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua Lê Đại Hành cho xây dựng điện "Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân, cột dát vàng bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Tử Hoa, bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Long Lộc, mái lợp ngói bạc". Thành ngoại cũng có nhiều công trình kiến trúc, dinh thự, kho tàng... Khu vực này còn di tích chùa Một Cột với cột Kinh Lăng hình trụ tám cạnh dựng năm 988; hàng trăm cột kinh Phật của Nam Việt Vương Đinh Liễu tiến cúng; đền thờ công chúa Phật Kim con vua Đinh Tiên Hoàng; Am Tiên, vốn là nơi nuôi hổ báo để trị tội đồ, sau biến thành nơi thờ Phật; Núi Cột Cờ cao hơn hai trăm mét, cắm cờ của triều đình Đại Cồ Việt; Núi Chợ, Ao Giải, Hang Muối, Hang Tiền, Đầu Đông Quân, tuyến đường lát gạch in hoa cúc, phượng múa, hai bên có nhiều cột lim nối liền núi Cột Cờ với núi Thanh Lân ở tuyến thành phía đông... Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, có cho dựng lại ở kinh đô mới một số cầu, cổng, đền chùa....vốn có ở Hoa Lư như chùa Một Cột, Cầu Đông, Cầu Dền...
    Về thăm Hoa Lư, từ Hà Nội theo quốc lộ 1A rẽ theo đường Tiên Yết, vào tới khu di tích.
    Thoạt đầu là động Thiên Tôn - trạm gác tiền tiêu của cố đô, nằm dưới chân núi Dũng Đương. Động chia làm hai phần: Phần ngoài rộng khoảng 200 m vuông, nền đẳng, trần cao, giữa có hương án khá đồ sộ, chạm đẹp. Bên trái là bệ thờ 18 vị La hán. Bên phải treo quả chuông lớn đúc thời Cảnh Hưng. Phía sau hương án là một hành lang ngắn ăn thông vào một hang nhỏ tạo thành hình chuôi vồ, có án thư, bệ thờ, Long Đình đôi rồng chầu toàn bằng đá. Trong Long Đình có tượng Trấn Vũ Thiên tôn bằng đồng, nặng khoảng bốn tạ, đứng chống gươm trên lưng rùa đá, trông oai nghiêm đường bệ. Phía sau Long Đình có một giếng tròn gọi là giếng Rồng, quanh năm có nước. Từ động Thiên Tôn đi tiếp đến Quèn Ổi - cửa ngõ phía đông của đô thành Hoa Lư.
    Đền thờ vua Đinh và đền thờ vua Lê được xây dựng trên nền cung điện chính thuở xưa, nằm ở trung tâm khu vực thành ngoại. Đền vua Đinh tựa lưng vào dãy núi Phi Vân, phía trước là Mã Yên Sơn (núi Yên Ngựa). Theo lời các cố lão ở địa phương thì đền được xây từ thời Lý, quay về hướng bắc. Sau đợt trùng tu lớn vào thời Hậu Lê (cuối thế kỷ XVII); đền mới hướng về phía đông. Đền làm theo kiểu "nội công ngoại quốc". Ngoài cùng là cổng lớn được gọi là "Ngọ môn quan", tiếp đó là hồ sen núi giả, rồi đến nghi môn ngoại (cổng ngoài). Một con đường lát gạch, hai bên là vườn hoa, dẫn tới hai cột trụ cao có đôi câu đối nêu bật địa thế hiểm trở của núi non sông nước Hoa Lư. Gần đó là tấm bia lớn dựng năm Chính Hoà thứ 17 (1696), ca tụng công chúa Phật Kim. Qua hai trụ cổng là đến sân rồng. Giữa sân rồng là một sập rồng, đặt trên bệ cao dài khoảng 1,90 m rộng 1,40 m, mặt sập và thành sập là nguyên một khối đá, một con rồng lớn có sừng giữa trán, tai như tai trâu, râu xoắn dưới cằm, bờm hất ngược, vùng vẫy trong mây, choán gần hết mặt sập. Viền quanh sập, trên chân sập kiểu "châu quỳ dạ cá" là các hình rồng, phượng, hoa tranh, lá dẻ, vân mây... và còn có cả tôm tép, cua cá, chuột.
    Hai bên sập rồng có đôi nghê đá rất sống động. Đền gồm ba lớp: ngoài là toà bái đường; giữa là gian thiêu hương thờ Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lu Cơ Bổn, những "khai quốc công thần" triều Đinh.
    Lớp trong cùng là toà chính cung, chính giữa có tượng Đinh Tiên Hoàng đúc bằng đồng, khoác mũ áo thiên tử, ngồi trên bệ rồng. Bên trái là tượng Nam Việt Vương Đinh Liễn; bên phải là tượng Đinh Toàn, Đinh Hạng Lang, là các con của vua Đinh.
    Đền vua Lê cách đền vua Đinh khoảng 500 m, bên một nhánh của sông Hoàng Long, dựa vào núi Đìa, phía trước là núi Đèn, kiểu thức xây dựng về đại thể cũng giống như đền thờ vua Đinh, cũng có nghi môn ngoại, hồ sen núi giả, nghi môn nội, sân rồng, sập rồng, bia ca tụng công đức vua Lê Đại Hành dựng năm Hoàng Đinh thứ 9 (1608), ba toà bái đường thiêu hương, chính cung. Đền vua Lê còn giữ được nhiều dấu tích kiến trúc trang trí cổ. Đặc biệt có sáu đầu bẩy chạm sáu con rồng, mỗi con một dáng vẻ, con vờn ngọc, con đấu hổ, con phun lửa... rất sinh động và bộ cánh cửa toà chính cung có hình độc long trên nền gấm chữ triện hoa, tranh chạm trổ rất công phu. Nhiều mảng trạm trổ trên cổng ván bưng, trên điểm bia, bệ đá... với các hình rồng ổ, rồng đàn, tôm, cua, khỉ, sóc... thể hiện cảm hứng nghệ thuật phóng khoáng và tài năng điêu luyện của các nghệ nhân đương thời. Trong chính cung đền Lê có đặt tượng vua Lê Đại Hành ngồi trên ngai vàng, mang dáng dấp võ tướng; bên phải là tượng Lê Long Đĩnh, bên trái là tượng Dương Vân Nga xiêm y lộng lẫy, nét mặt thanh tú.
    Lăng vua Đinh Tiên Hoàng đặt trên đỉnh Mã Yên Sơn có thể nhìn bao quát toàn cảnh khu di tích. Ở giữa là dòng Hoàng Long quanh co uốn khúc. Bên tả sông Hoàng Long có ngọn Kiếp Lĩnh (núi cắm gươm). Ven sông, ruộng đồng chia ô như bàn cờ. Dưới những lùm cây xanh tốt um tùm vây quanh chân núi, thấp thoáng ẩn hiện những lớp mái rêu phong của các đền miếu cổ xưa.
    Hằng năm để tưởng nhớ công lao người anh hùng đã dựng nền thống nhất độc lập cho đất nước, nhân dân vùng Trường Yên - Hoa Lư tưng bừng mở hội vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch. Người bốn phương kéo về dự hội rất đông. Hội có lễ dâng hương có tổ chức nhiều trò chơi mang tinh thần thượng võ, có những màn đồng diễn "cờ lau tập trận", xếp chữ "Thái Bình" là niên hiệu đầu tiên của Đinh Tiên Hoàng, đua thuyền, đấu vật, rước rồng... kéo dài tới ba bốn ngày.
    Về đầu trang
    Nhà thờ Phát Diệm
    Là một công trình kiến trúc tôn giáo, làm bằng đá, tổng thể quy hoạch khá bề thế.
    Kim Sơn là một huyện mới được thành lập vào năm 1829. Phát Diệm là thị trấn huyện lỵ Kim Sơn. Lúc đầu, vào năm 1862 ở Phát Diệm mới có một nhà thờ bằng tre lá. Nhà thờ như hiện nay được khởi công xây dựng từ năm 1875 và đến năm 1898 cơ bản hoàn tất. Nhà Thờ Phát Diệm gồm nhiều công trình kiến trúc, chủ yếu chia làm hai khu vực chính là khu nhà thờ và khu vực nhà chung. Đây là một tổng thể mang rõ phong cách kiến trúc đình làng Việt Nam, do người Việt Nam thiết kế và thi công.
    Trên một mặt bằng rộng lớn, khu nhà thờ có một trục chính là phương đình và nhà thờ chính oà. Các điện thờ và hang đá khác được xây dựng cân đối ở hai bên.
    Nhìn từ đường 10 vào nhà thờ Phát Diệm, trước tiên là một hồ nước lớn. Giữa hồ có một đảo nhỏ dựng tượng chúa Ki tô cao 3m, bên dưới là những lùm cây thấp xanh tốt, tiếp đó là phương đình bằng đá mái cong duyên dáng soi bóng xuống gương nước mặt hồ. Nhà thờ chính toà dựng tiếp sau phương đình. Phía đông là các điện thánh Rô cô, hang Bộ Đức Phía tây có các điện thánh Giuse, Phê rô, hang Bê lem, hang Táng xác và điện Trái tim Đức Bà.
    Năm 1875 hang Táng xác là công trình xây dựng đầu tiên để thử nghiệm độ lún của đất bột phù sa Phát Diệm.
    Năm 1876 khởi công xây dựng phương đình bằng đá, độc đáo và bề rộng lớn có một trục chính là phương đình và nhà thờ chính thể, cao 25m dài 24m, rộng 17m. Tầng dưới có cả cửa lớn, ở gian giữa kê một sập đá toàn khối dài 4m, rộng khoảng 3m, cao 0,35m. Tầng trên là gác chuông. Chuông đúc năm 1891; nặng 1,5 tấn; cao 1,15m; đường kính 1,2m.
    Phương đình có năm nóc mái cong lợp ngói, nóc giữa đặt thánh giá, còn bốn nóc ở bốn phía đặt các tượng thánh sư.
    Năm 1889 dựng điện Trái tim Đức Bà toàn bằng đá, sau hang Táng xác. Điện rộng 9 m, dài 15 m, nền cột, xà hoành đều bằng đá, tường bên trong chạm nổi hình con phượng hàm thư và hình sư tử. Điện trái tim chúa Kitô làm bằng gỗ mít, sáu gian, tổng cộng dài 19m, rộng 12m. Chính diện điện này cũng dựng bằng đá khá lớn và đẹp, kiểu tam quan.
    Năm 1891 xây dựng Nhà thờ chính toà. Mặt chính toàn bằng đá cao ba tầng, mái cong. Cột, kèo, tường, nền bằng đá, mái lợp ngói, trên đỉnh cao có thánh giá. Các công trình bên trong bằng gỗ và đá. Đây là công trình lớn nhất ở nhà thờ Phát Diệm, dài 80m, rộng 24m, cao 18m, bao gồm 48 cột lim, chia làm sáu hàng, mỗi cột chu vi 2,4 m. Riêng 16 cột ở hai hàng giữa, mỗi cột cao 12m. Hai gian thánh điện có 14 bức phù điêu bằng đá miêu tả cuộc đời chúa Ki tô. Còn mặt chính điện được chạm gỗ sơn son thiếp vàng rực rỡ ở chín gian tiếp theo, hai bên có 72 bộ cửa gỗ bức bàn, tháo mở thuận tiện. Nhà thờ chính toà mang rõ kiến trúc đình làng xoay theo chiều dọc tiền đao hậu đốc, kết cấu gỗ theo kiểu trồng diêm với ba lớp mái. Năm 1894 xây dựng các điện thánh Giuse, Phêrô và Rôcô.
    Cũng với gỗ, đá và tam quan, mái cong như kiểu đình chùa, nhà thờ Phát Diệm còn sử dụng nhiều nét chạm khắc gỗ đá dân tộc với tay nghề vững vàng, điêu luyện. Về đề tài động vật có sư tử, phượng, hươu nai, chim chóc các loại. Về thực vật có tùng, mai, cúc, trúc, đặc biệt là nhiều hoa sen, hoa chanh. Các phù điêu, chạm đá kể chuyện thánh nhưng được thể hiện với phong cách dân gian Việt Nam. Trong phương đình, toà thánh điện, các điện thờ dùng khá nhiều đại tự, câu đối bia ký bằng chữ Hán mang đậm tính chất trang trí các kiến trúc cổ Việt Nam.
    Nhà thờ Phát Diệm là một quần thể kiến trúc tôn giáo có giá trị. Từng di tích đều có phong cách riêng, lại được đặt trong một tổng thể rất cân đối, bố cục chặt chẽ. Các công trình kiến trúc và điêu khắc gỗ, đá của nhà thờ đã kế thừa được các phong cách truyền thống của nhiều địa phương trong cả nước.
    Về đầu trang
    Bích Động - Tam Cốc
    Khu di tích thắng cảnh nổi tiếng này, nằm trong rặng núi đá vôi Trường Yên, gần khu di tích Hoa Lư. Thăm Bích Động, ngồi trên con thuyền nhỏ chầm chậm di chuyển trên làn nước trong xanh in bóng mây núi, luồn lách dưới những mái đá phủ thạch nhũ óng ánh muôn màu, lướt qua những vách đá cao ngất còn ghi lại những vần thơ tức cảnh lưu đề của Trần Nhân Tông:
    Tứ biên sơn nhiễu thuỷ bồi hoàn
    Sơn thuỷ như đô cảnh tự nhiên
    (Bốn bề núi vây bọc nước quanh co
    Sông núi như tranh, phong cảnh đẹp tự nhiên)
    Bích Động xếp hàng thứ hai sau động chùa Hương Tích, được gọi là "Nam thiên đệ nhị động"(Động đẹp thứ nhì dưới trời Nam). Phía trước động là đồng lúa mênh mông, có nhánh sông Hoàng Long chảy qua, uốn khúc quanh năm ngọn núi quây quần thành cụm như đoá hoa sen. Trên núi, cây cối xanh um; thấp thoáng ẩn hiện những vạt mái ngói rêu phong của ngôi chùa cổ. Chùa Bích Động được dựng với quy mô lớn từ đầu thời Lê. Trong chùa còn quả chuông lớn đúc từ đời Lê Thái Tổ, mộ tháp các vị hoà thượng có công xây dựng chùa. Thời Cảnh Hưng chùa được trùng tu mở rộng thêm, bao gồm Chùa Hạ, Chùa Trung, Chùa Thượng, trải ra trên ba tầng núi. Vào Chùa Hạ phải qua một cầu đá ba nhịp. Chùa xây bằng đá tảng mài nhẵn trên khối nền kè đá cao tới gần 2m, trông khá bề thế: Cột thềm, lan can... chủ yếu đều được tạo dựng bằng chất liệu đá, mái chồng lợp ngói mũi hài to bản, hai bên là hai toà giải vũ, phía trước là sân gạch rộng và phương đình. Bên trái Chùa Hạ có lối lên Chùa Trung đục đá thành bậc, mát rượi dưới tán lá cây lưu niên. Chùa Trung nằm kề cửa động, trên vách đá có khắc hai chữ Hán "Bích Động". Phía bên trái có tấm bia "Bích Sơn thiền tự bi" (Bia Chùa Bích Sơn) dựng thời Lê Dụ Tông, phía bên phải là tấm bia thời Cảnh Hưng, tạc ngay dưới sườn núi. Từ Chùa Trung, trèo 22 bậc đá nữa qua Hang Tối có chuông cổ, tượng phật bằng đồng, qua cổng đá cuốn, sẽ lên tới Chùa Thượng. Chùa dựng trên điểm cao chót vót gần đỉnh núi, đã đổ nát, chỉ còn lại mấy cột đá đứng chơ vơ giữa những cây đại cồ thụ.
    Đứng trên nền Chùa Thượng có thể ngắm nhìn toàn cảnh Bích Động, như bức tranh sơn thuỷ tuyệt đẹp, trải rộng ra trước mắt.
    Gần Bích Động là động nước Tam Cốc, đền Thái Vi và khu hành cung Vũ Lâm thời Trần. Từ Bích Động đến Tam Cốc tuy gần nhưng chỉ có đường thuỷ. Dòng sông nhỏ nước xanh thẫm, in bóng vách núi hoa rừng, đến núi Kiều thì thắt hẹp lại, luồn qua ba cái hang (Tam Cốc): Hang Cả, Hang Hai, Hang Ba. Trong hang nhiều nhũ đá lóng lánh đủ màu sắc lại như được pha lẫn kim nhũ, ngân nhũ dưới ánh đèn đuốc. Không khí trong hang mát lạnh.
    Vua Trần Thái Tông đã dựng một am nhỏ trên vạt đất cao gần Hang Cả làm nơi tu hành. Hang Cả trong Tam Cốc tuy đẹp nhưng khuất nẻo, không tiện đi lại, nên về sau nhà vua lại dời am ra đất Vũ Lâm.
    Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai, khu hành cung Vũ Lẩm trở thành căn cứ địa vững chắc của quân dân nhà Trần.


    Hi vọng chút đây giúp ích được phần nào cho Bác Kara...!
    Được duyhiep1984 sửa chữa / chuyển vào 18:09 ngày 02/02/2007
  5. duyhiep1984

    duyhiep1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2004
    Bài viết:
    335
    Đã được thích:
    0


    Xuôi thuyền theo dòng Ngô Đồng đi thăm Suối Tiên.
    (Dân trí) - Tam Cốc thuộc địa phận thôn Văn Lâm , xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Tam cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba. Du khách đi thăm Tam Cốc chỉ có một con đường thủy duy nhất vào và ra mất khoảng 2 tiếng đồng hồ.
    Những chiếc thuyền nan sẽ đưa du khách tới thăm hang Cả, hang lớn nhất cũng là hang đẹp nhất với chiều dài 127 m, nằm dưới một quả núi lớn cắt ngang qua dòng Ngô Đồng.

    Du khách sẽ cảm nhận được không khí trong lành, mát lạnh của hương đồng gió nội. Khi đi sâu vào lòng hang, thạch nhũ từ trần hang rủ xuống lô nhô óng ánh như những khối châu ngọc kỳ ảo?Tiếp tục cuộc hành trình xuyên thủy, du khách vào hang Hai và hang Ba. Cũng gần giống như hang Cả nhưng hai hang này ngắn và thấp hơn?

    Những người ưa mạo hiểm có thể tiếp tục xuôi thuyền theo dòng Ngô Đồng khoảng 2 km nữa tới thăm suối Tiên và tham gia chuyến du lịch mạo hiểm leo núi vào đền Nội Lâm.

    [​IMG]
    [​IMG]
  6. karakapuri

    karakapuri Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    850
    Đã được thích:
    0
    @windream: Tớ hổi thực lòng dấy không phải đánh đố đâu. Tớ là dân Hướng dẫn du lịch nên phải biết trước những cái như thế, bọn nước ngoài hay quan tâm đến những cái như chế độ thuỷ văn, dòng chảy, roi linh tinh nhiều thứ nữa.
    @duyhiep1984: cảm ơn bạn vì những thông tin bổ ích.
  7. duyhiep1984

    duyhiep1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2004
    Bài viết:
    335
    Đã được thích:
    0
    Kara...à, bạn có thể tìm kiếm thông tin này trên mạng rất nhiều mà, tui chỉ sợ nói ra những cái mọi người biết cả rùi thui.
    Ví như :
    - http://www.vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/Du-lich/
    - http://www.vietnamtourism.com.vn/
    - http://www.dulichachau.vn
    - http://www.nea.gov.vn
    -http://www.thanhgiong.net.vn/web_directory/GotoDirectoryDetail.do?id=1101718153802
  8. binhminh_nb2003

    binhminh_nb2003 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/09/2006
    Bài viết:
    35
    Đã được thích:
    0
    cảm ơn anh rất nhiều về những thông tin trên, nó rất cần thiết cho công việc sau nay của em.
  9. binhminh_nb2003

    binhminh_nb2003 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/09/2006
    Bài viết:
    35
    Đã được thích:
    0
    ko bít sau này em có yêu ngành van hoa du lich ma em đang theo học không( hien tai la KHONG), nhung em lai von rat thich duoc di du lich. cac danh lam thang canh , di tich lich su noi tieng o nb em di duoc gan het roi. hinh nhu o yen mo có hồ đồng thái là em chưa đuoc quan sat truc tiep, moi chi xem qua TV. co bac nào da den noi nay rui ko? cho em 1 loi khuyen di. khoang thang 3 em se dan ca lop em ve nb choi 1 vong ma. nb nhieu nơi đẹp wá, khó chọn lắm.

Chia sẻ trang này