1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nói Chuyện Tam Quốc - Vũ Tài Lục

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vladimir_illich, 03/06/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vladimir_illich

    vladimir_illich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/06/2006
    Bài viết:
    48
    Đã được thích:
    0
    Nguồn: vnthuquan.net

    NÓI CHUYỆN TAM QUỐC

    Vũ Tài Lục

    Việt Chiến xuất bản 1967

    PHẦN TỬ TRÍ THỨC - ĐẠO ĐỨC VÀ CHÍNH TRỊ - NHỮNG CHIẾN TRANH QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG TAM QUỐC - CHÍNH SỬ VÀ DIỄN NGHĨA - CÁCH ĐỌC TAM QUỐC CHÍ DIỄN NGHĨA - LUẬN VỀ CÁC NHÂN VẬT - QUY LUẬT LỊCH SỬ

    LỜI NÓI ĐẦU

    Trong lịch sử, những thời kỳ quá độ đều là thời kỳ cực trọng yếu, ảnh hưởng lớn mạnh đến động hướng của Quốc gia, Dân tộc và Xã hội. Thời kỳ Tam-quốc là một thời kỳ quá độ, cũng như Hán Sở tranh hùng là thời kỳ quá độ từ Tần qua nhà Hán, Xuân thu Chiến quốc là thời kỳ quá độ từ Chu qua Tần.
    Thời kỳ quá độ thì bao giờ tranh chấp cũng rất khốc liệt và chính trị tính thật cao. Vì thế ông Kim Thánh Thán mới đề trong nguyên tự của bộ Tam quốc mấy chữ: Tam quốc giả nãi cổ kim tranh thiên hạ chi nhất đại kỳ cục (Tam quốc là một cuộc tranh chấp chính trị kỳ diệu)
    Do tính chất điển hình văn hóa Trung quốc, do tính chất kỳ diệu của tranh chấp chính trị, thêm vào đấy bút pháp thần kỳ của nhà văn La Quán Trung, pho chuyện Tam quốc chí đã trở thành một tác phẩm văn học phổ biến nhất của Trung quốc. Các giai tầng xã hội kể từ phần tử trí thức, đến quí tộc, thường dân, nông dân, từ vị tuổi tác đến đàn bà con trẻ chẳng ai là không biết tên Lưu Bị, Tào Tháo, Khổng Minh. Không những Tam quốc chí diễn nghĩa phổ biến trong nhân dân Trung quốc, nó còn phổ biến trong dân gian các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung quốc nữa. Thứ nhất là người Việt chúng ta, nói Tam quốc và “nhấm nháp" thú vị Tam quốc hầu như rất quen với tất cả và thuộc đủ tầng lớp. Các trẻ em ta vui chơi thường hát vè rằng:
    “Bồ cu bồ các
    Tha rác lên cây,
    Gió đánh lung lay,
    Là vua Cao tổ.
    Những người mặt rỗ,
    Là ông Tiêu hà,
    Nước chảy qua đường,
    Là dượng Tào Tháo
    Đánh bạc cố áo,
    Là anh Trần Bình.
    Nhà văn Nam Cao tả trong một đoản thiên tiểu thuyết của ông, hình tượng điển hình nhất để nói lên cái “thú vị chi cực” của Tam quốc đối với người Việt. Có người xem xong một đoạn Tam quốc, khoái quá anh ta đã vỗ đùi đánh đét mà chửi đổng một câu” Tiên sư cái thằng Tào Tháo!” để tỏ lòng phục tài của một chính trị gia lỗi lạc.
    Có điều đáng tiếc, đa số chúng ta chỉ đem Tam quốc để tán trà dư tửu hậu mà thôi. Phải chăng thói quen ấy đã đáp ứng với tinh thần của bài từ mở đầu qua mấy câu ca dao:
    Nhất hồ trọc tửu hỷ tương phùng
    Cổ kim đa thiểu sự.
    Đô phó tiếu đàm trung.
    Tạm dịch:
    Gặp nhau hồ rượu đầy vơi,
    Xưa nay bao nhiêu việc,
    Phó mặc cuộc nơi cười.
    Nhưng chuyện Tam quốc chí còn mang một giá trị rất lớn về tư tưởng và quyền thuật chính trị. Người phương Đông đọc Tam quốc, bàn luận về Tam quốc cũng cần thiết như người phương Tây đọc và bàn Le Prince, l'Etat et la révolution. Chúng ta có thể tỉa rút từ Tam quốc nhiều kinh nghiệm, nhiều qui luật chính trị. Sự phong phú kinh nghiệm, phong phú qui luật chính trị chứa chất trong pho Tam quốc càng làm nổi bật cái tài hoa của Đông phương, đã tan biến được ý thức về chính trị sâu sắc và rắn chắc vào một hình thức nhẹ nhàng giản dị: thông tục tiểu thuyết. Dưới hình thức thông tục tiểu thuyết, Tam quốc chí diễn nghĩa không chỉ làm cho dễ hiểu, hứng thú, còn gây cho người đọc một lực tưởng tượng dồi dào. Dễ hiểu, hứng thú, tưởng tượng dồi dào là những yêu cầu căn bản mà Tứ Thư, Ngũ kinh hoặc Nhị thập tứ sử, Thông giám, Cương giám, không có khả năng cung cấp nổi.
    Tuy nhiên, Tam quốc chí diễn nghĩa cũng không khỏi chịu sự câu thúc của tư tưởng Đạo thống chính thống cho nên vẫn thấy xuất hiện ít nhiều thiên kiến.
    Ngoài ra Tam quốc còn một đặc điểm nữa: dùng thú vị tiểu thuyết lôi cuốn độc giả vào chỗ tế nhị của tư tưởng quân sự. Trong Tam quốc, “binh pháp” Tôn Vũ tử hầu hết được đem chuyển từ sắc thái tư tưởng trừu tượng thành những bức tranh cụ thể, linh động. Cho nên phàm người nào muốn tìm hiểu Tôn Tử binh pháp mà không đọc Tam quốc, không suy tư về những chiến trận trong Tam quốc, thiết nghĩ thật là một điều khiếm khuyết vô cùng. Bởi vì nếu xét lại tự sự chiến trường Tam quốc, ai ai cũng phải công nhận, tư tưởng Tôn Vũ Tử như đã hòa vào máu đỏ để chảy trong huyết mạch nhà văn La Quán Trung.
    Tóm lại: pho Tam quốc chí diễn nghĩa xứng đáng là một tác phẩm gối đầu giường của mọi người. Tán chuyện Tam quốc là một cái khoái vô song. Bàn luận nghiêm túc chính trị, nhân vật, chiến sự Tam quốc là một nhu yếu rất thiết thực, thứ nhất đối với thời thế “Tam phân ngũ liệt” của chúng ta bây giờ.
  2. vladimir_illich

    vladimir_illich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/06/2006
    Bài viết:
    48
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG VIỆC ĐI TRƯỚC TAM QUỐC

    Truyện Tam quốc được khai đoan bằng một câu: “Phù thiên hạ đại thế, phân cửu tất hợp, hợp cửu tất phân”. (Thế lớn thiên hạ, chia lâu rồi lại hợp, hợp lâu lại rồi chia).
    Đó là một qui luật lịch sử, một đoạn nhân quả tiếp nối để thúc đẩy lịch sử chuyển mình, diễn tiến. Nếu nghĩ rằng chia hay hợp chẳng qua là tự nhiên do mệnh trời xếp đặt, thì hiện tượng phân hợp của lịch sử trở nên trống rỗng (và Tam quốc cũng mất hết ý nghĩa)
    Nhận định lịch sử bằng quan niệm “mệnh trời” không khác gì ý muốn “trói voi bỏ rọ”. Nhận định ấy tất sinh sản ra những lý luận không chính tắc, đôi khi tức cười nữa. Tỉ dụ cuốn Tân biên Ngũ đại Lương sử Bình Thoại ghi chép một chuyện cũ về Tam quốc như sau:
    “Khi Lưu Bang thắng được Hạng Vũ rồi, nhân có bụng nghi các công thần nên giết Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bá. Cả ba liền kiện Lưu Bang trên Thiên đình. Trời bèn cho Hàn Tín thác sinh làm Tào Tháo, Bành Việt thác sinh làm Tôn Quyền, Anh Bá thác sinh làm Lưu Bị để trả thù xâu xé cướp lại cơ nghiệp của Hán cao Tổ. Bởi vậy mới thành Tam quốc”
    Mục đính cố sự trên được bịa đặt ra nhằm tác dụng đề cao thuyết ân oán báo ứng. Điểm đáng chú ý là: nó gây một ảnh hưởng không nhỏ và đã được lưu truyền rất rộng rãi trong đại chúng.
    Lịch sử là tổng hợp sinh hoạt nhân loại. Luận đoán lịch sử đương nhiên không thể đặt dưới chiều ánh sáng chân lý siêu việt ngoại tại. Lịch sử phải được phê phán dưới chiều ánh sáng chân lý nhân sinh nội tại.
    Theo chân lý nội tại nhân sinh, thì những bước đi của lịch sử không bao giờ độc lập tự tồn, mà chúng phải chịu qui luật tiếp diễn, nhân quả. Ở đây có những tính phổ biến, tính cộng đồng. Phân hay hợp mỗi giai đoạn đều mang tác dụng và nhiệm vụ riêng. Bây giờ nói về hiện tượng “chia ba chân vạc” của thời đại Tam quốc, chúng ta có thể khẳng định như sau:
    - Nguyên nhân trực tiếp là: triều chính Hán mạt thối nát.
    - Nguyên nhân gián tiếp là: Những vấn đề còn chưa xong của thời đại Xuân thu Chiến quốc.
    - Nhiệm vụ của sự chia cắt là tiếp tục công cuộc thống nhất Hán triều bỏ dở.
    - Tác dụng của “tam phân” là thống nhất từng mảnh rồi mới thống nhất toàn bộ.
    Có tìm hiểu minh bạch “bối cảnh lịch sử thời đại” thì mới phát hiện được thực chất Tam quốc, mới đặt được trung tâm hướng dẫn bàn luận về những quan niệm chính trị, chiến sự và nhân vật. Dưới đây chúng tôi xin nêu ít luận cứ:
    Từ tám trăm đến mười.
    Xu hướng thống nhất bắt đầu dâng cao lên kể từ đời vua Trụ. Nhưng triều chính của vua Trụ quá thối nát không thể lãnh đạo được xu hướng đó. Thừa cơ, nhà Chu liền khởi nghiệp tự lập làm vua. Văn Vương mất, Vũ Vương kế vị được hai năm thì quyết định thanh toán triều đại nhà Ân mà Trụ vương làm đại biểu. Vũ Vương hội tám trăm chư hầu ở Mạnh Tân, sau trận giáp chiến tại Mục Dã, nhà Ân mất hẳn.
    Để đáp ứng với nhu yếu thống nhất, nhà Tây Chu đã thôn tính rất nhiều bộ lạc lẻ tẻ rời rạc, đồng thời kiến lập nền móng một trật tự trung tâm, một cốt cách văn hóa trung tâm cho Trung quốc.
    Tính đến lúc nhà Chu chuyển từ Tây sang Đông được gọi là Đông Chu, số chư hầu chỉ còn lại hai trăm. Nhưng mạnh nhất và ảnh hưởng đến cục diện vẻn vẹn có mười nước.
    Giai cấp mới.
    Đông Chu được lập 49 năm, tranh chấp thôn tính biến tính chất, trở nên gay go quyết liệt hơn, vì quy mô cùng lực lượng tranh chấp đã lớn lên rất nhiều. Sự cạnh tranh giữa các liệt quốc tạo thành sự hưng thịnh của học thuật. Thế hệ tư tưởng nhờ các thế lực khác nhau bảo trợ, nhờ hiện tượng mỗi ngày một phức tạp của xã hội vun tưới, đã trổ bông rườm rà, cỏ lạ hoa thơm. CÙng một lúc với sự hưng thịnh của học thuật là sự thành lập riêng biệt một giai cấp mới: giai cấp sĩ (phần tử trí thức).
    Bình dân tham chính.
    Bản thân thời đại Xuân thu bao quát sau 242 năm, cuối cùng chỉ còn lại bẩy nước tồn tại là: Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, ******, Tần. Cuộc tranh hùng giữa bẩy nước, lịch sử ghi lại dưới một tên khác: thời đại Chiến quốc.
    Hai thời đại Xuân thu và Chiến quốc mang một hiện tượng đặc sắc là: Bình dân tham dự chính quyền. Về hiện tượng này ông Triệu Dực viết như sau:
    Từ cổ, chư hầu tự cai quản nước mình, khanh đại phu truyền con, truyền cháu làm quan trị dân. Dưới chế độ “cường thần đại tộc”, dân chúng bị ngược đãi điêu linh, loạn ly không dứt. Tranh chấp đến Chiến quốc thì phạm vi bành trướng to rộng quá. Khanh đại phu bị chìm ngập, lãnh đạo chính trị không thể theo con đường thế khanh, thế hầu được nữa. Do đó mới xuất hiện các chính khách như: Phạm Thư, Sái Trạch, Tô Tần, Trương Nghi, các võ tướng như Tôn Tẫn, Bạch Khởi, Nhạc Nghị, Liêm Pha, Vương Tiễn. Và xa xưa nữa như: Nịnh Thích, Bá Lý Hề. Những người này hết thẩy đều áo vải chân trắng.
    Kết cục tranh chấp Thất hùng: nhà Tần kiêm tính sáu nước Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, ****** dựng nên Tần triều, chấm dứt thời đại Chiến quốc kiến lập cơ sở thống nhất đầu tiên.
    Ai diệt lục quốc?
    Nhà Tần sở dĩ dựng lên là vì đáp ứng với nhu yếu thống nhất, Tần kéo được về phía mình một lực lượng to tát: nhân tâm quy hướng. Ông Đỗ Mục có một lời phê rất đúng: “Không ai diệt lục quốc cả, chỉ lục quốc tự diệt mà thôi”. Bất quá vũ lực và thủ đoạn của Tần triều đã không nghĩ thế. Khi thống nhất rồi, họ liền cho vũ lực là vạn năng, thủ đoạn là vạn năng.
    Tần triều không tìm đến một phương thức lãnh đạo thích hợp với tình trạng mới, mà chỉ đem phương thức “Bá” nhỏ hẹp để thống trị đại thiên hạ. Tần Thủy Hoàng hạ lệnh đốt sách, nhằm qui hết tư tưởng vào một mối. Tần chỉ đem pháp chính ra mong làm chủ lưu tư tưởng, pháp chính là một mặt rất hẹp của tư tưởng thì làm sao có thể lấp bít hết những trống rỗng trên nhiều mặt khác?
    Hạng Võ đi ngược chiều lịch sử.
    Phương thức bá nghiệp đã bất lực với việc thống trị đại thiên hạ. Bốn phương lại ly loạn. Lòng phục hận của con cháu Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, ****** tạo nên nguy cơ phân xé. Tuy nhiên chẳng sức mạnh gì có thể ngăn chặn lịch sử tiến bộ được. Sí đồ phân chia chư hầu liệt quốc của dòng họ sáu nước thất bại. Diệt Tần, nhưng điều căn bản vẫn là tiếp tục hoàn thành thống nhất. Bất cứ âm mưu xé nát từng mảnh nào đều không có khả năng tồn tại. Bởi vậy, việc cướp lại thiên hạ của Tần bị thu hút vào lực lượng lớn nhất: Sở Hạng Vương, sau trận thắng lợi diệt Tần ở Cư (Cự?) lộc.
    Nhưng Sở Hạng Vương đã phạm vào lỗi lầm đưa Sở diệt vong là đi ngược chiều với xu hướng thống nhất: chia phong 18 chư hầu. Trong đó Hán Bái Công được phong làm Hán vương. Việc chia phong dẫn đến bất bình nội bộ. Hán vương liền thừa cơ lung lạc chư hầu nổi lên, đánh bại Hạng Vương ở Cai Hạ.
    Thất bại chia cắt này suýt nữa chính Lưu Bang cũng mắc phải. Tây Hán thì (chí?) kể rằng:
    “Một hôm Lịch Tự Cơ vào yết kiến Hán vương nói: Ngày xưa vua Thang vua Vũ đánh Kiệt, Trụ đều phong cho con cháu những nước bị đánh làm vua. Đến lúc nhà Tần thâu phục chư hầu mới hủy diệt xã tắc của họ. Nay nếu Đại vương noi gương Thang, Vũ lập con cháu sáu nước bị mất lên làm vua, thì Đức và Lượng của Đại vương sẽ rải khắp thiên hạ. Tôi chắc Hạng Vương cũng sẽ khép vạt áo về chầu Đại vương.
    Hán vương thích lắm, sai thợ khắc ấn sáu nước và sai Lịch Sinh đem ấn đi tìm con cái, dòng dõi chư hầu mà phong.
    Nhưng Lịch Sinh chưa đi, Trương Lương đã đến chầu.
    Bấy giờ Hán vương đang ăn, thấy Trương Lương vội đem việc đó kể lại.
    Trương Lương thất kinh nói:
    - Ai bầy cho Đại Vương cái mưu kỳ lạ đó? Vua Thang, vua Vũ phong cho con cháu Kiệt Trụ là vì Thang Vũ đủ sức làm chủ sự sống chết của họ. Còn Đại vương có thể làm chủ được Hạng Vũ chăng? Vả lại các du sĩ trong thiên hạ theo Đại vương cốt là mong hưởng mỗi người vài mảnh đất. Nếu Đại vương lập các con cháu dòng họ cũ thì ai còn theo giúp Đại vương nữa. Hễ dùng mưu đó cơ nghiệp Đại vương tất tiêu tan.
    Hán Vương nghe nói, nhả miếng cơm trong miệng ra, mắng Lịch Sinh: “Nếu tiên sinh không kịp đến, ta đã nghe lời rồ dại kia mà làm hỏng việc lớn rồi”.
    Liền truyền bỏ hủy ấn sáu nước đi.
    Lịch Sinh bị mắng xấu hổ lui ra.
    Cách vài ngày sau, Trương Lương tìm đến nói với Lịch Sinh:
    - Câu chuyện bữa trước, tôi thực tình vì nước chứ không có ý riêng. Tôi không ngờ đó là ý của tiên sinh, về sau biết được lòng tôi áy náy. Vả lại bàn việc phải xét kỹ mọi điều mới khỏi lầm lẫn. Nhà Hán tuy đã lấy được nửa đất của Sở, nhưng Hạng Vương thế lực còn mạnh lắm. Nếu ta phong cho sáu nước chư hầu, chẳng khác nào ta tự chia rẽ lực lượng của ta để mà đem trao cho địch. Tiên sinh chỉ thấy cái chỗ Hán vương với Thang, Vũ giống nhau mà không thấy cái chỗ Hán với Thang Vũ khác nhau.
    Lưu Bang biết được thế lớn.
    Thành công của Hán vương được các sử gia quy vào bốn chữ: Năng tri đại thể (biết được thế lớn). Bên cạnh bốn chữ năng tri đại thể còn phải kể đến yếu tố chủ yếu là Hán vương đã gắn liền được sự nghiệp ông ta với lực lượng giai cấp sĩ. Giai cấp sĩ lúc này đã chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của Khổng phu Tử trên sinh hoạt và tư tưởng Quản Trọng trên phương pháp.
    Sự ủng hộ của lực lượng giai cấp sĩ đem lại cho Hán vương khả năng lãnh đạo đại thiên hạ mà Tần và Sở đều không có. Hán vương nói một câu thật đầy đủ ý nghĩa: Đấu trí mà không đấu lực. Câu này xác định nhận thức đúng của Hán vương về cơ bản thành công trong tình thế mới là chính trị chứ không phải là vũ lực.
    Nhu yếu của giai cấp sĩ gắn liền với công cuộc giành thiên hạ của Hán vương là nhằm mục đích đem tư tưởng của Khổng tử, Quản Trọng từ địa vị chủ lưu tiến quân vào Chính thống.
    Lưu Bang bỏ thế lớn.
    Vận hành lịch sử không bao giờ tiến theo một vạch thẳng tắp mà tiến theo đường xoáy ốc từ thấp đến cao.
    Hán vương thống nhất thiên hạ rồi liền áp dụng chế độ hành chính thống nhất, đặt định Quận, Huyện, bổ nhiệm quan lại. Sự nghiệp ổn định sinh ra tâm lý tự kiêu trong lòng Hán vương. Giai cấp sĩ phản đối, Hán vương từ bỏ giai cấp sĩ. Bị đuổi, giai cấp sĩ liền hòa hẳn với dân chúng đem Nho học đi sâu vào nhân tâm, đặt chuẩn tắc cho xã hội.
    Còn triều đình Hán về sau càng ngày càng sa chân xuống vũng bùn xu nịnh, nguyên nhân của nạn hoạn quan, ngoại thích sau này.
    Chia lìa giữa giai cấp sĩ với triều đình nhà Hán là chia lìa giữa lực lượng thống nhất bằng văn hóa tư tưởng Và cũng là chia lìa giữa dân chúng với tập đoàn vua quan lại trị. Sự chia lìa này làm cho toàn bộ công cuộc thống nhất bạc nhược. Bạc nhược vì quyền bính chính trị thiếu sự hiệp trợ của văn hóa tư tưởng, hiệp trợ của dân chúng tất nhiên không gây dựng nổi hiệu quả chắc chắn. Còn văn hóa tư tưởng thiếu uy thế của quyền bính chính trị tất nhiên không tiến hành mau chóng được.
    Văn hóa xung kích và Tam quốc.
    Văn hóa phát triển tất có khu trung tâm (Center area) và khu biên duyên (Margin area). Khi khu trung tâm phát đạt, nó sẽ xung kích vào khu biên duyên, để khiến cho biên duyên khai hóa. Ngược lại khu biên duyên cũng chỉ chờ khu trung tâm hủ bại, nội loạn là xung kích vào trung tâm để đặt ảnh hưởng và thế lực của mình.
    Cuối đời Hán, thế xung kích qua lại giữa khu văn hóa trung tâm với khu văn hóa biên duyên trở nên gay go. Thế lực văn hóa ở khu trung tâm, để tồn tại cần phải phát triển thành thế lực chính trị chứ không thể vẫn giữ tình trạng phân ly như cũ được nữa. Nhưng khốn nỗi, sự thối nát của triều chính Hán mạt đã làm cho quyền bính chính trị tản mạn chứ không tập trung nữa.
    Nho sĩ cũng phải phân tán để kiến thiết thế lực chính trị ở các khu vực quyền bính chính trị khác nhau.
    Sự trạng này tạo nên thế Tam quốc mà chúng ta sẽ bàn luận vào chi tiết ở những bài sau.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU CỦA TAM QUỐC

    Ông Cao Nho danh sĩ đời nhà Minh phê phán Tam quốc chí diễn nghĩa có một đoạn như sau:
    - Góp nhặt tài liệu chính sử, sắp xếp lại các chuyện, chứng thực bằng lời văn, hiểu rõ tâm lý quần chúng, không thô lậu quê mùa, không hoàn toàn bịa đặt, dễ xem dễ hiểu, không phải lời văn quá vắn tắt, khó khăn của các nhà viết sử cổ xưa, không có giọng khôi hài nhạt nhẽo của người mù kể truyện rong, chép chuyện trăm năm, bao quát muôn việc.
    Sở dĩ có hai chữ diễn nghĩa, hình như dụng ý của nhà văn là để chống đối với chính sử, La Quán Trung muốn quảng đại quần chúng cũng có quyền hiểu lịch sử.
    Toàn bộ lịch sử trải qua thời kỳ tiền Tam quốc, thời kỳ chính thức xây dựng ba nước Ngô, ****, Thục cho tới ngày Tư mã Viêm thống nhất toàn quốc dựng nên nhà Tấn dài ước chừng non thế kỷ.
    Loạn Khăn vàng khởi sự vào năm đầu niên hiệu Trung bình đời Đông Hán Linh Đế, tức là năm 184 công lịch. Đến năm 280 công lịch nhà Tấn diệt Ngô thống nhất. Lỗ Tấn khi bàn về cuốn Tam quốc chí diễn nghĩa cũng nói: “Gồm đầu đuôi việc 97 năm”.
    Khoảng thời gian ngót một trăm năm lịch sử khả dĩ chia làm ba giai đoạn chủ yếu.
    Giai đoạn tiền Tam quốc từ 184 đến 220.
    Loạn Khăn vàng khởi lên vào giữa lúc thời kỳ thối nát nhất của nền chính trị cuối nhà Hán. Thanh thế Khăn vàng ban đầu mạnh như mây đùn gió nổi, nhưng vì điều kiện lịch sử hạn chế một phần, lãnh đạo lầm lỡ một phần, nên loạn Khăn vàng sau nhiều thất bại liên tiếp bị dẹp tan. Để mua sự tiêu diệt của phong trào Khăn vàng, chính quyền Đông Hán đã phải trả một giá rất đắt là: tạo nên sự lung lay và suy yếu tột độ của chính mình để cuối cùng bước tới sụp đổ. Chính quyền nhà Hán lung lay suy yếu, chế độ trung ương tập quyền tan vỡ, khiến thế lực địa phương mạnh lên, mỗi kẻ xưng hùng xưng bá một nơi.
    Năm 189, Đổng Trác tiến quân vào Lạc Dương. Năm 190 liên quân miền Đông do Viên Thiệu cầm đầu, do Tào Tháo tổ chức tiến đánh Đổng Trác. Trong quá trình thành lập liên quân, Viên Thiệu, Viên Thuật lợi dụng tăng cường thế lực, Thiệu thôn tính thêm ba châu Thanh, Tinh, U. Thời kỳ loạn kiêu binh Lý Thôi - Quách Dĩ, Tào Tháo nhờ Chu Tuấn tiến cử, được cử phá giặc Sơn Đông thống nhất một địa phương rộng lớn, thành lập thế lực cho mình.
    Từ 197 đến 207 là thời gian chiến tranh quyết liệt giữa hai lực lượng Viên Thiệu và Tào Tháo. Sau khi dẹp thế lực Viên Thiệu, Tào Tháo đề quân Nam tiến, định vượt qua sông Trường giang đánh đổ Tôn Quyền, thực hiện chí lớn thống nhất Nam Bắc. Nhưng mưu đồ này thất bại vì trận Xích Bích, vì sự kết hợp lực lượng Tôn Quyền với Lưu Bị.
    Giai đoạn xây dựng chính thức thế chân vạc.
    Nhờ chiến thắng Xích Bích, năm 209 Lưu Bị lĩnh chức Mục Kinh Châu dần dần chiếm Thành Đô, năm 219 tự xưng Vua Hán Trung.
    Năm 220 Tào Tháo chết, con là Tào Phi phế bỏ vua Hán lập nước ****. Năm 222 Tôn Quyền đổi niên hiệu là Hoàng Vũ, năm 229 xưng Đế ở Giang Đông đặt tên nước là Ngô.
    Giai đoạn ba nước tiêu diệt lẫn nhau và nhà Tấn thống nhất.
    Quan Công nhân cơ Bắc tiến đánh chiếm Phàn Thành, Kinh Tương của ****. **** sẽ khốn đốn to nếu không nhờ Tôn Quyền đánh thọc vào hậu phương Thục cướp Giang **** giết chết Quan Vũ. Hành động này gây thành mâu thuẫn một mất một còn giữa Ngô và Thục.
    Năm 222 Lưu Bị cử đại binh đi đánh Ngô trả thù cho Quan Vũ. Vì sai lầm trên quân sự, Lưu Bị thảm bại trong trận Hào Đình khiến cho quá nửa lực lượng thiệt hại. Lưu Bị chạy về Vĩnh Ân ốm chết, Lưu Thiện nối ngôi, Gia Cát Lượng phụ chính, khôi phục chính sách liên hiệp Ngô, Thục đánh ****. Năm 227 Gia cát Lượng mở chiến dịch Bắc phạt đầu tiên. Năm 234 là chiến dịch Bắc phạt cuối cùng của đời Gia Cát Lượng. Ông chết ngay nơi doanh trại Ngũ Trượng Nguyên.
    Gia cát Lượng chết, quyền bính vào tay Khương Duy, tiếp tục đánh **** từ năm 249 đến 262, ra quân đến tám lần đều bị thua. Mùa xuân 263, Tư Mã Chiêu phái Đặng Ngải, Chung Hội, Gia Cát Tự chia ba đường tấn công Thục. Lưu Thiện đầu hàng. Thục Hán diệt vong từ đó.
    Năm 265, Tư Mã Chiêu chết, con là Tư mã Viêm lật Tào Hoán chiếm ngôi, xưng là nhà Tấn, **** diệt vong từ đó.
    Năm 279, Tư mã Viêm đem 20 vạn quân chia làm 6 đường tiến đánh Ngô, vua Ngô là Tào (Tôn?) Hạo đầu hàng. Ngô diệt vong. Thiên hạ chia ba nay quy vào một mối.
    Địa lý đời Hậu Hán
    Nhiều người đọc chuyện Tam Quốc thường bỏ sót, không chịu tìm hiểu vấn đề địa lý. Sót nó khiến cho ta thưởng thức kém đầy đủ và sâu sắc. Như thế, tìm hiểu địa lý đời Hậu Hán trở nên một nhu yếu của toàn thể độc giả của tác phẩm quý báu ấy. Nó mang đến cho chúng ta nhiều vũ khí tốt cho việc nhận xét, phân tích, tóm tắt chia đoạn
    Hành chính Đông Hán khu hoạch ra làm 13 châu, 12 châu mỗi châu một Thích sử coi sóc, còn một châu đặt dưới chế độ Tư lệ hiệu úy. Đối chiếu với bản đồ ngày nay như sau:

    * U Châu: bao quát bắc bộ Nhiệt hà và tỉnh Hà Bắc. Hai tỉnh Liêu, Ninh, bắc bộ bán đảo Triều Tiên (Triều Tiên vào đời Hán cũng là một Quận, Huyện của Trung Quốc)
    * Ký Châu: thuộc nam bộ tỉnh Hà Bắc
    * Tinh châu: gồm phần lớn tỉnh Sơn Tây, bắc bộ tỉnh Thiểm Tây và một bộ phận hai tỉnh Sát cáp Nhĩ, Tuy Viễn.
    * Lương châu: bao quát hai tỉnh Ninh Hạ và Thiểm Tây
    * Thanh Châu: ở bộ phận đông bắc tỉnh Sơn Đông
    * Duyện Châu: gồm tây bộ tỉnh Sơn Đông và đông bắc bộ tỉnh Hà Nam
    * Dự Châu: gồm đông nam bộ tỉnh Hà Nam và phía bắc An Huy
    * Từ Châu: gồm đông nam bộ tỉnh Sơn Đông và phía Bắc Giang Tô
    * Dương Châu: gồm Giang Nam ở An Huy, Giang Tô và ba tỉnh Giang Tây, Triết Giang, Phúc Kiến
    * Kinh Châu: gồm tây nam bộ tỉnh Hà Nam và hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc
    * Ích Châu: gồm nam bộ tỉnh Thiểm Tây và hai tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam
    * Giao châu: gồm hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc nước Việt Nam bây giờ
    * Tư lệ hiệu úy: gồm tây bắc bộ tỉnh Hà Nam. Tây nam bộ tỉnh Sơn Tây, trung bộ tỉnh Thiểm Tây

    Cấp bậc hành chính thấp nhất dưới Hán triều là Huyện. Thấp hơn Huyện thì không còn quan trị nữa mà công việc đều đặt vào quyền điều khiển của những cơ quan tự trị. Trên Huyện đến Quận, trường hợp Quận quá lớn thì gọi là Châu. Mỗi Châu đặt một vị Thứ Sử để làm giám quan xem xét các việc của Thái Thú đứng đầu Quận
    (Nên biết rằng, trước nhà Hán, đơn vị quận là một nước)
    Ban đầu Thứ Sử là chức giám quan và Thái Thú là chức hành chánh quan còn phân biệt rõ ràng. Dần dần nhà Hán mỗi ngày một suy sụp, Thứ Sử và Thái thú biến thành một vị. Đến thời kỳ Đông Hán, nhân vì loạn lạc, địa vị Thứ Sử và Thái Thú được quyền tuyệt đối ở địa phương và đổi thành Châu Mục. Do đó mới phát sinh ra hiện tượng tranh quyền giữa chính phủ trung ương và địa phương. Địa phương phản kháng trung ương rồi tự ý hùng cứ một cõi. Sở dĩ chính quyền trung ương yếu thế là vì ngay Đông Hán, đời vua Hoàn Đế, Linh Đế, tình trạng thối nát đã đến cực điểm. Nhà vua công khai đem quan tước ra mua bán. Tước Tam Công giá 10 triệu tiền. Theo sử chép, hồi ấy có một tên hoạn quan là Hầu Lãm cướp hàng vạn khoảng ruộng, tên ngoại tộc Lương Ký gia sản ước đến 3 tỷ tiền. Họ hàng thân thích của toàn bộ hệ thống lại trị rải rác khắp các Châu, Quận, vòi vĩnh và vơ vét, hút máu dân chúng.

    (Xem bản đồ ở đây:http://img833.imageshack.us/img833/7905/allvnuz5.gif)
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    MẦM LOẠN

    Đọc chuyện Tam Quốc, ai ai cũng hiểu mầm loạn đời Hậu Hán nẩy ra từ lúc vua Linh Đế sủng bọn Thập thường Thị. Thập thường Thị là nguyên nhân dẫn đến giặc Hoàng Cân (khăn vàng), nhân giặc Khăn Vàng mà có sự khởi binh của Lưu Bị và Tôn Kiên. Lại vì vua Linh Đế băng hà, Thiếu Đế tức vị, Hà Tiến lập mưu tiêu trừ bọn hoạn quan, mở đường cho Đổng Trác đem binh vào kinh. Đổng Trác đem binh vào kinh là đầu mối của một sự phế lập. Việc Đổng Trác bỏ một vua, tôn một vua tạo ra chuyện Viên Thiệu và Tào Tháo dấy binh. Thiên hạ điêu linh, phân sẻ từ đây.
    Nói về hiện tượng hoạn quan và ngoại thích, ta không thể đổ lỗi hoàn toàn cho Linh Đế cũng như cho riêng một ông vua nào khác. Hiện tượng ấy nào phải đến Linh Đế mới có. Đời vua Tuyên Đức trước đã xuất hiện Hoắc Quang, Thạch Hiển. Vua Quang Vũ cũng rất trọng dụng ngoại thích; vậy có thể nói được rằng: hoạn quan và ngoại thích là hậu họa tất nhiên của chính trị chuyên chính lối vua quan phong kiến.
    Hoạn quan và ngoại thích là cái ung độc ẩn ngay chỗ xương cụt của chính trị phong kiến, lúc nào nó cũng rình rập cơ hội để thối ra, độc khí một khi đã bung vỡ thì chỉ có mỗi ngày mỗi thêm phát tác hủy hoại, chứ khó lòng lành lặn được nữa.
    Ngược lên ngày Lưu Bang nhất thống thiên hạ, ta đã thấy cái ung độc hoạn quan ngoại thích mọc ra rồi. Lưu Bang sở dĩ đánh bại được Sở Vương mà đoạt chính quyền là vì biết dựa vào lực lượng phần tử trí thức (giai cấp sĩ).
    Nhưng tập đoàn của Lưu Bang lại không tôn trọng phần tử trí thức cho lắm. Cái đó cũng chẳng lấy gì làm lạ, bởi tại họ hết thảy đều là những con người phong bái giang hồ. Theo phò nghĩa lớn, họ hoàn toàn trông vào sự giải quyết trước mắt, đồng thời hòng kiến lập sự nghiệp riêng, cho bõ những ngày gian khổ. Họ không cần nhìn rộng trông xa, chẳng muốn vươn duỗi vào tương lai. Nói chung, tâm lý toàn thể tập đoàn Lưu Bang cần hưởng ngay, ăn ngay. Tâm lý đó không kết hợp với kỳ vọng của phần tử trí thức. Để kéo vây cánh, Lưu Bang một mặt xây dựng cốt cán bằng những người giang hồ phong bái, mặt khác tìm mọi cách đẩy phần tử trí thức ra ngoại vi, kìm hãm không cho phần tử trí thức lớn lên trong guồng máy thống trị, không cho phần tử trí thức có quyền bính. Lưu Bang thường cáu kỉnh mệnh danh phần tử trí thức là bọn hề nho. Ngụy Báo ghi chép: “Hán Vương nhục mạ quần thần như đầy tớ, chẳng có lễ trên dưới chi cả. Cho nên tôi không muốn gặp nữa”. Tiêu chuẩn kéo vây cánh không đặt nặng vào sự củng cố và phát triển chính quyền qua ý nghĩa “Thiên hạ vi công” mà chuyên đặt nặng vấn đề củng cố cho sự an hưởng phú quý tộc họ cá nhân. Với tiêu chuẩn ấy thì phỉnh nịnh là tư cách căn bản để được chọn lựa. Con đường nguy khốn hoạn quan, ngoại thích đã vạch sẵn, không thể bước ra ngoài được nữa.
    Hoạn quan
    Độc giả Tam Quốc, phần lớn đặt rất hẹp hai chữ hoạn quan. Tất cả cho rằng bọn hoạn quan chỉ là những người bị “yêm” nghĩa là đã chịu giải phẫu để tự tước bỏ bộ phận sinh dục. Tôi e không đúng hẳn, bởi vì trong Lễ ký, thiên Khúc Lễ có câu: “Hoạn học sự sư, phi lễ bất thân” (Học làm quan phải thờ thầy, phàm cái gì phi lễ thì không gần) ý tứ của chữ hoạn đây không chỉ vào người bị “cắt bỏ bộ phận sinh dục”. Vẫn hay rằng triều Hán, vua Quang Vũ trung hưng, theo sách “Hoạn giả liệt truyện” thì nói “Trung hưng chi sơ hoạn giả tất dụng yêm nhân” (đầu trung hưng, chức hoạn đều phải dùng người bị yêm). Nhưng sách liệt truyện không đưa được chứng cứ nào rõ rệt cả.
    Như vậy ta có thể đặt định phạm vi hoạn quan như sau: Hoạn quan là sản phẩm của chính trị chuyên chính xây dựng trên cơ sở tộc họ, cá nhân. Là một tập đoàn chính trị có một thế lực rất lớn và một đường lối bại hoại. Phương thức đấu tranh duy nhất của tập đoàn hoạn quan là sự phỉnh nịnh, hiếu mị, xu phụng và tiếm quyền. Thành phần của tập đoàn, không phải chỉ có bọn yêm hoạn Trương Nhượng, Kiển Thạc mà còn có thể kể cả bọn trí thức gia nhập hệ thống lại trị, đã thoát tiết với quần chúng mà toa rập với Hoàng Triều để chạy theo lợi lộc.
    Tại sao Hoàng Đế với Hoạn quan luôn luôn là đôi bạn tương đắc? Có ba lẽ. Một là, khi quyền lực chính trị tập trung vào tay cá nhân, thì chẳng chóng thì chầy quyền lực chính trị sẽ biến thành dụng cụ xây dựng cơ nghiệp riêng, củng cố sự tọa hưởng an lạc của ông vua. Trong hoan lạc, Hoàng đế rất nhu yếu người đồng tính, du nịnh. Bọn hoạn quan có nhiều khả năng về mặt này nhất. Hai là, Hoàng Đế thường hay nghi kỵ, không ngớt lo lắng những vụ phản bội. Sợ các triều thần chân chính cản ngăn vui thú của mình, hoặc âm mưu kết đảng, còn bọn hoạn quan chỉ cần ăn sung mặc sướng no đủ, lại ít tham vọng chính trị, đáng tin cậy hơn cả. Nhưng lịch sử đã có những dẫn chứng rõ rệt ngược lại với quan niệm của Hoàng Đế về hoạn quan như bọn Dịch Nha, Thụ Điêu đời vua Tề Hoàn Công và bọn Thập thường Thị đời vua Linh Đế. Mong dùng hoạn quan để khỏi bị phản bội thì cũng chẳng khác chi chú khờ sợ chuột ăn mất mỡ bèn đem nhốt mèo vào canh. Ba là: do cái tâm chất kiêu sa của con người nắm quyền quá lớn nên thích giao tiếp với bọn nô bộc hơn là với những cộng sự thẳng thắn.
    Ngoại thích
    Mầm loạn ngoại thích so với hoạn quan cũng chẳng kém phần nguy hiểm. Hơn nữa ngoại thích với hoạn quan là hai vật tương sinh, tương thành. Ngoại thích là gì? Là thân thích của Hoàng Đế. Bọn học phiệt nịnh hót thường dùng danh từ Quốc thích để chỉ các người thân thích của vua, lâu dần danh từ Quốc thích trở nên tục thoại. Thực ra Hoàng Đế là Hoàng Đế, Quốc Gia là Quốc Gia sao lại đem gộp làm một được.
    Thân thích phân ra làm hai loại: nếu ăn theo dòng phụ hệ thì gọi là Tôn Thất. Nếu ăn theo dòng mẫu hệ thì gọi là ngoại thích. Tuy cùng thân thích, nhưng giữa Tôn thất và Ngoại thích bao giờ cũng âm ỷ một ngọn lửa xung đột. Ngoại thích không ngừng mưu toan lật đổ thế lực Tôn thất mà cướp thiên hạ cho tộc họ mình.
    Tam Quốc phân tranh nhóm lên bằng nạn Ngoại thích trầm trọng. Vua Linh Đế có hai con là Biện tức Thiếu Đế và Hiệp. Biện do chính cung Hoàng hậu Hà thị sinh ra còn Hiệp là con của một mỹ nhân hậu cung. Linh Đế yêu Hiệp hơn Biện, muốn cho Hiệp kế vị, nhưng lại sợ làm trái tập quán, nên mới đem ý định nhắn nhủ bọn Kiển Thạc. Linh Đế chết, một bên Kiển Thạc ủng hộ Hiệp, một bên anh Hà Thái Hậu là Hà Tiến ủng hộ Biện. Tranh chấp giữa bọn Trương Nhượng, Kiển Thạc với Hà Tiến lôi kéo luôn cả Đổng Thái Hậu vào vòng chiến. Đổng thái Hậu nghe lời Nhượng, Thạc giáng chỉ phong Hiệp làm Trần Lưu Vương và định thiết lập thêm một quyền thế cài bên cạnh Thiếu Đế.
    Trong hồi thứ hai, tình hình tranh chấp giữa Đổng thái Hậu và Hà thái Hậu được La quán Trung tả lại như sau:
    ‘Yến ẩm nửa chừng, Hà thái Hậu đứng dậy rót một chén rượu dâng Đổng Thái Hậu, vái hai vái rồi nói rằng:
    Chúng ta là đàn bà, theo lẽ không nên dự vào triều chính. Xưa bà Lã Hậu chỉ vì tạm giữ trọng quyền mà đến nỗi họ hàng ngàn người đều bị tru lục, tấm gương còn đó, vậy từ nay chúng ta hãy cùng rút lui vào thâm cung để dành việc lớn triều đình cho các vị nguyên lão đại thần lo toan bàn bạc. Được thế thì Quốc gia đại hạnh. Xin nghe lời thành thực này cho.
    Đổng thái Hậu nổi giận mà rằng:
    Ngươi đang tâm giết hại Vương Mỹ Nhân, tâm địa ganh ghét rành rành ra đó. Nay ngươi cậy có con vua, anh ngươi có thế lực mà đâm loạn ngôn, hỗn láo với ta à? Liệu hồn ta bảo cho mà biết, ta muốn quan Phiêu Kỵ Tướng quân lấy đầu anh ngươi lúc nào cũng dễ như trở bàn tay.
    Hà Thái Hậu nổi giận mà rằng:
    Ta lấy lời phải chăng khuyên nhủ, đã không nghe lại trở mặt giận là lý thế nào?
    Đổng Hậu mắng:
    Mày là đồ con nhà hàng thịt, thì còn kiến thức gì.

    Hà Thái Hậu đem chuyện nói với Hà Tiến, Tiến liền đem binh lực đuổi Đổng Thái Hậu ra khỏi cung cấm, và bao vây nhà Phiêu Kỵ Tướng Quân là Đổng Trọng. Đổng Trọng ra sau nhà tự tử. Người nhà khóc ầm lên. Trương Nhượng thấy Đổng Thái Hậu bị phế, tức tốc đem châu báu, vàng bạc liên kết với em trai Hà Tiến là Hà Miêu và mẹ Tiến, xin che chở. Bởi vậy bọn Thập thường Thị chẳng những vô sự mà còn được trọng dụng hơn.

    Đại khái sự diễn biến của loạn ngoại thích đều tầm thường hài hước như thế cả. Nhưng không phải là nó không có tác dụng chính trị tiềm ẩn bên trong đâu. Tranh chấp ngoại thích chính là chiếc ngòi để làm nổ cả kho thuốc súng. Tác dụng của nó là tạo nên một sự biến chuyển cơ. Nút chuyển cơ rất cần thiết cho phát triển xã hội, phát triển chính trị. Nút chuyển cơ ấy ví như tiếng sấm báo hiệu cơn mưa trong câu ca dao Việt:
    - Lúa chiêm phơ phất đầu bờ
    - Hễ nghe sấm động, phất cờ lúa lên.
    Xung đột giữa phần tử trí thức và hoạn quan
    Phần tử trí thức phẫn nộ
    Thời đại Chiến Quốc, phần tử trí thức tập trung ở Tần khiến Tần kiêm tính thiên hạ. Tần Thủy Hoàng xưng đế được tám năm, nhân áp dụng chính sách của Lý Tư, pháp lệnh quá khắt khe, đối đãi tàn ngược với dân chúng. Thậm chí nhà Tần phản bội trí thức, đốt sách chôn nho. Tần Đế chạy theo tư tưởng dị đoan cầu tiên, xin thuốc tràng sinh bất lão. Phần tử trí thức liền tan biến vào dân chúng, lãnh đạo vận động phản Tần. Đáng kể như Tiêu Hà, Trương Lương, Thúc Tôn Thông, Trương Xương, Trần Bình…. Lúc đầu họ theo phò cả Hạng Võ lẫn Lưu Bang, sau dần dần quy tụ hết lực lượng về phía Lưu Bang. Phần tử trí thức trong tay tuy không có lấy nổi một tấc sắt, sức lực cũng chẳng được bao nhiêu, nhưng sức mạnh phi thường của tri thức là mưu trí, là sự cổ súy thiên thiên vạn vạn nhân tâm. Cho nên phàm khi phần tử trí thức đã hết tin để phản đối một chính phủ nào đó thì chính phủ đó ít có khả năng tồn tại.
    James BURNHAM viết: “Khoa học chính trị và khoa học lịch sử trước hết phải nghiên cứu kết cấu, cơ sở cùng liên hệ với quần chúng của phần tử trí thức”[1] Câu đó là một quy luật bất di bất dịch đối với chính trị sử vậy.
    Lưu Bang dựa vào phần tử trí thức mà đắc thế. Chỉ ít lâu sau, Lưu Bang thi hành chính sách lại trị, quay lại thờ ơ, từ bỏ lực lượng trí thức. Chính sách lại trị của Lưu Bang ngày càng đi vào biện pháp phong kiến cũ, nghĩa là mầm phân liệt lại đe dọa nền thống nhất vừa mới gây dựng. Phần tử trí thức một lần nữa tản mạn vào trong dân chúng, dùng phương tiện văn hóa tư tưởng để gìn giữ thống nhất, đồng thời tạo thành mâu thuẫn giữa phần tử trí thức với hệ thống lại trị.
    Đến đời vua Hoàn Đế, Linh Đế thì chính trị Hán triều ác hóa đến cực điểm bằng hiện tượng hoạn quan. Thiên hạ bấy giờ có thể nói rằng: Thiên hạ của bọn hoạn quan.
    Xã hội lúc ấy một mặt thì chính trị chuyên chế trụy lạc, một mặt thì văn hóa phát triển. Một mặt thì hoạn quan tập quyền, một mặt thì khí thế của phần tử trí thức mỗi ngày một lớn. Đương nhiên cuộc xung đột không thể tránh được.
    Ẩn dật và ra mặt chống đối
    Thái độ của phần tử trí thức sau khi Hán Vương thi hành chính sách lại trị và biện pháp phong kiến khả dĩ chia làm hai giai đoạn: a) rút lui về thôn dã ẩn dật, b) ra mặt lãnh đạo vận động lật Hán Triều. Ông Khổng Tử nói: “ Dụng chi tắc hành, xã chi tắc tàng” (dùng thì hành động, bỏ thì ẩn dật). Hai chữ hành và tàng là hai thái độ nói trên. Nhưng sự ẩn dật của Nho sĩ thật nguy hiểm vì trong đó chứa chất chẳng những tâm lý bất hợp tác mà còn tiềm tàng âm mưu vận động xoay chuyển quật khởi để đánh đổ chính quyền thối nát nữa.
    Cuộc xung đột giữa phần tử trí thức và hoạn quan bùng nổ khởi từ cung đình rồi lan rộng mãi ra như vòng sóng nước.
    Hồi thứ nhất, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể rằng: “Khi vua Hoàn Đế băng hà, Linh Đế lên ngôi, có quan Đại tướng quân Đậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp trị việc nước. Thời bấy giờ có bè lũ hoạn quan Tào Tiết lộng quyền làm bậy. Đậu Vũ, Trần Phồn mới lập mưu tru diệt chúng để trừ vạ cho nước, nhưng vì mưu không kín đáo, hai vị này cũng bị giết hại.
    Có quan Nghị Lang là Thái Ung dâng sớ tâu rằng: “Rắn sa, gà mái hóa trống là điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước”. Lời dâng thống thiết, Vua xem qua thở dài, bùi ngùi một lúc rồi quay vào thay áo. Bấy giờ Tào Tiết đứng sau lưng nghe trộm bản tâu, giận lắm, liền vào bầy mưu với phe cánh của hắn. Chúng bèn bầy mưu kiếm việc gieo tội cho Thái Ung và cách chức đuổi ông về.
    Rồi đến vụ Thập Thường Thị lộng hành. Hoạn quan Trương Nhượng được Linh Đế gọi bằng Á Phụ, Thập Thường Thị uy hiếp phần tử trí thức trong triều như Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn….
    Loạn Khăn Vàng, tranh chấp ngoại thích và hoạn quan, quân phiệt Đổng Trác vào Kinh đô gây chuyện phế lập đều là những đòn chí mạng đánh quỵ Hán Triều. Toàn dân mong mỏi biến đổi, phần tử trí thức khắp bốn phương trời hết thẩy cảm thấy có trách nhiệm phải lập lại một nền trật tự mới. Họ liền tự động đi tìm hoặc gây lực lượng ngay ở địa phương mỗi người cư ngụ.
    Do đó, lần lượt người ta thấy những: Giả Hủ, Thẩm Phối, Tuân Úc, Trình Dục, Tuân Dy (Du?), My Trúc, Trịnh Huyền, Trần Cung, Trần Đăng, Trần Khuê, Ngu Phiên, Quách Gia, Cố Ung, Trương Chiêu, Chu Du, Dương Tu, Trần Lâm, Vương Xán, Tư mã Huy, Từ Thứ, Thôi Châu Bình, Bàng Thống, Gia Cát Lượng….. xuất hiện ở nhiều nơi và phò giúp những lực lượng khác nhau. Tuy phần tử trí thức phân tán vào các quyền bính chống đối, nhưng chống đối bất quá chỉ để mong chính quyền cả thiên hạ thu vào tay mình mà thôi. Tất cả đều có một khuynh hướng chung là quy tâm vào thống nhất.
    Loạn Khăn Vàng
    Nói đến loạn Hoàng Cân (khăn vàng), chúng ta cần phải nêu ra mấy đặc điểm của vận động này:
    A) Loạn Khăn Vàng là một cuộc vận động chống bọn thống trị nhà Hán của nông dân tự phát khởi vì nông dân quá đói khổ. Bằng chứng là loạn Khăn Vàng đều nhóm lên từ những khu vực đất đai nghèo, hoang, mất mùa.
    B) Do tranh chấp tư tưởng Hoàng Lão với tư tưởng chủ lưu Khổng Tử, Quản Trọng. Thời Xuân Thu, Chiến Quốc các nước phân tranh, tư tưởng tự do phồn thịnh trăm nhà lên tiếng. Sau Tần thì thiên hạ thống nhất, các học thuyết cũng chịu áp lực chính trị quy vào thống nhất. Tần triều quy vào pháp lệnh, đầu đời Hán quy vào thuyết Hoàng Lão, đến Hán Vũ Đế thì biểu chương Lục Kinh, tôn phụng Khổng Tử mà truất bãi các thuyết khác. Một ngành của học thuyết Hoàng Lão biến thành tư tưởng thần quyền vào phong tục tế tự ở nông thôn, dựa vào đầu óc chất phác của nông dân mà chống lại trí thức Nho của Khổng môn.
    C) Do tranh chấp quyền bính với trung ương vì những nhân vật trọng yếu của vận động Hoàng Cân đều là quan quân thủ hạ của Ích Châu mục Lưu Yên. (Ích Châu gồm các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên và miền nam tỉnh Thiểm Tây bây giờ)
    D) Chịu ảnh hưởng chính sách ruộng đất của Vương Mãng và tổ chức Xích Mi
    Loạn Hoàng Cân mở đầu bằng việc: tại núi Long Hổ tỉnh Giang Tây và tại Cự Lộc có mấy người họ Trương như Trương Lỗ, Trương Giốc tự xưng là Đại Hiền Lương sư, theo đạo Hoàng Lão, có tài phù thủy đọc chú chữa bệnh vì đã được Nam Hoa Lão Tiên trao cho bộ Thiên thư Thái Bình Yếu thuật. Nông dân vì quá đói khổ nên mê tín Thần Quyền. Bọn Trương Lỗ, Trương Giốc tổ chức hội kín lập đạo thờ Thái Thượng Lão Quân. Nông dân nô nức hùa theo Trương Lỗ, Trương Giốc. Nhờ vậy phong trào Khăn Vàng càng lên vọt. Trương Lỗ, Trương Giốc dựa vào uy thế thần quyền mà tung ra câu sấm “Sương thiên dĩ tử, Hoàng thiên đương lập” (Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên) làm khẩu hiệu đấu tranh.
    Muốn tìm sự thành công và thất bại của cuộc vận động Hoàng Cân, trước hết phải xét lại xuất xứ của nó.
    Căn cứ vào Tam Quốc Chí thì gốc loạn Hoàng Cân khởi tự đạo sĩ Trương Lăng. Trương Lăng người tỉnh Tứ Xuyên, tu đạo ở núi Thước Minh và cũng truyền đạo ngay tại vùng này. Những người muốn đến học đạo của Trương Lăng đều phải làm lễ bằng năm hộc gạo. Trương Lăng chết, truyền nghiệp cho con là Trương Hành, Trương Hành chết truyền cho con là Trương Lỗ.
    Căn cứ vào Hậu Hán Thư Linh Đế Ký thì vận động Hoàng Cân khởi tự tên Phù Thủy Trương Tu, dùng tà đạo phiến hoặc dân chúng nổi lên cướp Ba quận. Trương Tu thường xưng là: Ngũ Đấu Mễ Sư (ông thầy năm đấu gạo).
    Nhưng quan bộ hạ căn cứ theo các thuyết của nhiều sách khác đem so sánh tổng hợp lại thì đều có nói rằng: Trương Lỗ và Trương Tu là quân dưới trướng Ích Châu mục Lưu Yên. Lưu Yên sai Lỗ và Tu vào cướp Hán Trung. Vào Hán Trung rồi Trương Lỗ liền giết Trương Tu rồi cải biến sát nhập lực lượng Trương Tu thành lực lượng của mình. Khi có thanh thế khá vững mạnh, Trương Lỗ ly khai với Lưu Yên, đem quân đánh cả vào vùng Lưu Yên cai trị là U Châu. Do đó mới có chuyện Lưu Yên treo bảng chiêu mộ nghĩa binh tạo ra cơ hội cho gặp gỡ và kết nghĩa vườn đào.
    Trong ba người: Trương Giốc, Trương Lỗ và Trương Tu thì Trương Giốc là kẻ nhiều mưu đồ hơn hết. Trương Giốc hy vọng phiến động nhân dân nổi loạn để mà chiếm thiên hạ. Trương Lỗ và Trương Tu trên chính trị hoàn toàn chỉ là một lực lượng phụ trợ chứ không phải là lực lượng chỉ đạo. Căn cứ vào sách Hậu Hán, chuyện Hoàng Phủ Tung thì lực lượng Trương Giốc lan ra khắp các châu bao quát các tỉnh Giang Tô, An Huy, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc bây giờ. Đảng Trương Giốc lên tới mấy chục vạn, chia ra làm 36 phương, mỗi phương ước hơn vạn người.
    Về câu sấm “trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa thường không để ý vì nghĩ những lời ấy chẳng qua là thuyết của bọn thảo khấu, chẳng nghĩa lý gì cả. Thật ra không phải đơn giản như thế.
    Từ Hoàng Cân, hoạn quan đến quân phiệt
    Một khẩu hiệu tung ra, muốn làm giao động nhân tâm thì trước hết khẩu hiệu đó có thể giải thích cho mọi người hiểu được. Người xưa còn ưa những điều huyền bí cho nên khẩu hiệu cần ***g vào cái cốt huyền bí, nhưng không phải vì vậy mà người ta bảo rằng đấy là mê hoặc nhân tâm, đấy là một lời nói vu vơ.
    Mấy chữ “Sương thiên dĩ tử, hoàng thiên đương lập” chẳng những không mê hoặc mà còn có hàm súc ý nghĩa về sự biến thiên của xã hội trong quan niệm của nông dân lúc bấy giờ nữa. Dưới đây là chứng cớ:
    Theo Hán thư thì lúc bắt đầu khởi nghiệp, Hán cao Tổ đang đêm đi đường hốt gặp một con rắn trắng rất lớn nằm chắn ngang đường, bèn rút gươm chém đứt làm hai đoạn. Khi Hán cao Tổ đi rồi, có người trông thấy một bà lão xõa tóc ngồi khóc ngay chỗ con rắn trắng chết. Người kia bèn lại hỏi nguyên do, bà lão đáp: con tôi là con vua Bạch Đế hiện đã bị con vua Xích Đế giết rồi. Nói xong bà lão biến mất.
    Những màu sắc trắng, đỏ, vàng, đen, xanh rất quan hệ đối với tâm lý nông dân Trung Quốc. Tại sao? Bởi vì nông dân làm ruộng chỉ trông cậy vào khí hậu bốn mùa biến hóa làm cho cây cỏ sinh ra, lớn lên và chín. Trước biến hóa của tự nhiên, người nông dân tin rằng mỗi mùa đều có một vị thần linh chủ trì. Và mỗi vị thần linh đều ứng theo mỗi màu sắc trong tự nhiên. Do đó người nông dân mới thờ bốn vị thiên đế: Ông Trời Xanh chủ về mùa xuân sinh ra vạn vật cây cỏ. Ông trời Đỏ chủ về mùa hạ làm cho vạn vật lớn lên. Ông trời Trắng chỉ về mùa thu làm cho hoa lợi chín. Ông trời Đen chỉ về mùa đông, nhắc mọi người gặt hái và dự trữ thóc gạo.
    Nhưng Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn hết thẩy đều phải nương tựa vào ruộng đất, bởi vậy mới có vua vàng (đất sắc vàng) để làm chủ ruộng đất tùy thời biến hóa.
    Từ đấy, lại diễn thành tư tưởng ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Lại từ ngũ hành sinh khắc chế hóa mà giải thích biến thiên xã hội, giải thích phát triển xã hội, giải thích các hiện tượng bình, loạn của xã hội.
    “Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” chính là trỏ vào chế độ cường thần đại tộc đã chết và thời đại đại chúng bình dân tham dự chính quyền bắt đầu vậy. Vì màu xanh là mầu dẫn đầu các mầu đỏ, trắng, đen thuộc các hiện tượng trên trời chỉ vào các cường thần đại tộc. Còn màu vàng thuần thuộc về ruộng đất chỉ vào nông dân. Trương Lỗ, Trương Giốc lấy trời vàng để làm tượng trưng cho sức mạnh của nông dân.
    Tuy vậy trời vàng bất quá cũng chỉ là tín ngưỡng do bọn Trương Lỗ, Trương Giốc đưa ra để quy tụ những vụ phản kháng lẻ tẻ của nông dân thành một vận động lớn lao mà thôi. Nguyên nhân chính khiến cho nông dân nổi loạn chính là do khuyết điểm của chế độ Hán Triều trên mặt kinh tế ruộng đất. Nhà Tần biến cải phép tỉnh điền thành canh điền và lực điền, vì không chịu nổi sưu cao thuế nặng nên nông dân ùa theo Hạng Võ, Lưu Bang. Lưu Bang thắng lợi liền áp dụng chánh sách giảm nhẹ tô thuế. Nhưng chánh sách này càng làm càng mất công hiệu vì bọn nhà giàu cứ xâm canh chiếm cứ thêm nhiều ruộng đất, trong khi người nghèo lại không có một tấc đất cắm dùi. Oán hận chồng chất lên. Vương Mãng lợi dụng tình thế để đánh đổ nhà Hán thi hành chánh sách ruộng đất mới, đem ruộng đất thâu quy quốc hữu. Chánh sách của Vương Mãng quá đột ngột và mới mẻ, lại không có giáo dục từ trước nên việc thi hành hỗn loạn, khiến đa số nổi lên phản đối. Hơn nữa Vương Mãng không nương cậy thực sự vào nông dân, mà chỉ nhờ thế lực ngoại thích mà tạo cuộc chính biến, bởi vậy mà sự nghiệp chẳng lâu dài được bao nhiêu. Tuy nhiên tư tưởng Vương Mãng không phải không có ảnh hưởng sâu xa vào đám nông dân nghèo khổ. Vận động Hoàng Cân cũng chịu ảnh hưởng của Vương Mãng.
    Tính chất huyền bí tu tiên, luyện phép phát triển trong vận động Khăn Vàng chính là sự phản công của đạo Hoàng Lão định dựa vào tế tự phổ thông, dựa vào thần quyền để đả kích tư tưởng Nho đạo. Cuộc tranh chấp ấy chẳng phải chỉ thấy ở loạn Khăn Vàng mà thôi. Trong Tam Quốc chí diễn nghĩa còn thấy hiện tượng tranh chấp đó qua những việc:Tôn Sách giết Vu Cát, Tào Công đuổi Tả Từ, nghi ngờ Quản Lộ
    Vận động Hoàng Cân mặc dầu rộng lớn, khí thế mạnh mẽ, nhưng bọn Trương Giốc, Trương Lỗ đã không biết lãnh đạo vận động chuyển vào đấu tranh chính trị; họ nhìn chỉ thấy một mặt thần quyền bùa chú, cho nên mới gặp ít trận nhỏ, Lưu Quan Trương, Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đã đánh cho tập đoàn Khăn Vàng tan tác. Những phép lạ của bọn họ Trương bị máu chó, máu dê, phân lợn làm cho mất thiêng. Rút cục, chỉ còn độc trụi Trương Lỗ giữ được Hán Trung, sau cùng bị Thục và Ngụy thôn tính.
    Vận động Hoàng Cân cũng như chính biến Vương Mãng đều mắc cùng một lỗi lầm tai hại là: manh tâm “gia thiên hạ” nghĩa là coi thiên hạ làm việc riêng nhà mình, của mấy người lãnh đạo phong trào.
    Qua thảm bại của vận động Khăn Vàng, người ta tìm thấy ở tư tưởng Đạo gia những gì? Nếu nó bị rơi vào bọn lưu manh, bọn trí thức thầy bùa, thầy ngải, cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ chủ nghĩa, bê trễ sinh sản, thiếu kỷ luật và thích nhàn chơi với những khẩu ngữ: Tuyệt thánh khí trí, tuyệt nhân khí nghĩa. Tự do. Phóng nhiệm. Trông bề ngoài chúng mang một hình thái đại cách mạng, nhưng bề trong chỉ là một tâm lý làm loạn vô tổ chức, phá hoại vô kiến thiết. Do đó mà không chống lại được với hệ thống tư tưởng quý tộc và chủ đất bấy giờ. Tư tưởng Đạo gia không có khả năng lập thành một thế hệ phương pháp đấu tranh. Cho nên nó không giúp nổi vận động nông dân tạo thành lực lượng vững chắc.
    Quân phiệt Đổng Trác
    Kể từ đời Đông Hán, các châu mục đều có quyền tăng cường binh lực địa phương. Khi loạn Hoàng cân dấy lên thì những binh quyền địa phương lại càng tha hồ khoáng triển chẳng ai kiểm soát
    Sau khi bọn Thập Thường Thị dụ được Hà Tiến vào cung, sai phục binh giết, Viên Thiệu, Tào Tháo theo yểm hộ Hà Tiến bèn thả quân vào hoàng cung đuổi bắt sát hại bọn hoạn quan, triều đình đại loạn. Chính trị hoạn quan tất tạo nên tình trạng nhân tâm giải thể. Nhân tâm giải thể tức là nhân tâm nghĩ đến sự loạn. Để tạm thời chấm dứt loạn lạc đương nhiên một chính quyền vũ lực mới xuất hiện. Chính quyền ấy là chính quyền quân phiệt.
    Trước tình hình chưa phân trắng đen, mỗi địa phương ở xa thì cắt đoạn với mệnh lệnh trung ương, ở gần thì lăm le kéo quân về Kinh Đô, mượn tiếng phò giá, nhưng chính là để thừa cơ nắm trọn quyền bính. Trong số đó Đổng Trác được nhiều may mắn hơn hết.
    Đổng Trác tên chữ là Trọng Đỉnh xuất thân từ giai cấp địa chủ. Tính tình hào hoa, phóng đạt. Truyện ký có chép rằng: "Lúc Trác ở nơi điền dã thường yến ẩm với bọn hào súy, người Khương, người Hồ. Nhờ bọn hào súy ủng hộ mà khởi giá". Khi có loạn Hoàng Cân, Đổng Trác được phái đi dẹp loạn, bị thua, sắp bị triều đình trị tội. Trác khôn khéo kết liên với bọn Thập Thường Thị, đút lót, luồn cúi bọn quyền quý. Cho nên chẳng những Trác tránh khỏi tội mà chức vị của Trác còn được thăng lên vùn vụt; từ chức Trung Lang Tướng, Trác nhảy vọt lên chức Tiền Tướng quân Ngao Hương Hầu Tây Lương Thứ Sử, trong tay thống lĩnh hai mươi vạn quân Thái Hoàng Thái hậu lập nên.
    Thời cơ khiến cho Trác có dịp tranh cướp chánh quyền khởi tự Hà Tiến muốn dùng quân các trấn tiếp tay giết trừ phe cánh hoạn quan. Nhưng chính quyền vào tay Đổng Trác lại là nhờ thủ đoạn của Trác.
    Đọc chuyện Tây Hán, chắc không ai quên bốn chữ mà Khoái Thông xúi Hàn Tín lật Lưu Bang: Tiệp túc tiên đăng (nhanh chân lên trước).
    Đổng Trác đã ứng dụng được ý nghĩa nhanh chân của Khoái Thông vào cơ hội mình. Đổng Trác còn xử dụng nguyên tắc nhanh chân một cách linh động nữa là không vội vã. Kéo quân về trước nhất nhưng Trác biết dừng lại đợi cho bọn hoạn quan giết Hà Tiến rồi mới ra tay, chứ Trác không giúp Hà Tiến ngay.
    Trước đây, Đổng Trác cũng đã tạo cho mình được một thời gian củng cố và khoáng trương binh lực bằng cách lấy cớ biến loạn Khương Hồ từ chối hai lần triệu hồi của chánh phủ trung ương. Trác cứ đồn trú binh ở ngoài mà ngồi rình cục diện biến đổi, chờ tới giờ phút trái quả chín tới, Trác vào hứng đỡ chẳng phải hao tốn công lao là mấy.
    Nhưng ngàn đời đáng tiếc cho Trác, Trác chỉ có thủ đoạn chộp mau và đúng thời cơ, mà Trác lại không có thủ đoạn để bảo vệ thời cơ đã nắm được. Trác chưa từng tham dự chính trị. Cho nên lúc bước vào lãnh vực chính trị, Trác đối đãi chính trị hoàn toàn và tuyệt đối bằng bạo lực. Nắm được chính quyền rồi, Trác đảo lộn toàn bộ cương kỷ một cách vô ích. Vô ích nhất là chính sách phế lập bỏ Thiếu Đế, tôn Hiến Đế. Phế lập không phải để đáp ứng một nhu cầu chính trị nào cả. Phế lập bất quá chỉ là kết quả mối cảm tình riêng của Trác đối với Trần Lưu Vương
    Những nguyên nhân thất bại
    Tam Quốc Chí diễn nghĩa có nói đoạn: "Xa giá chưa đi được vài dặm, bỗng thấy tinh kỳ rợp đất, bụi bay mù trời, một đoàn binh mã sực kéo tới phía trước, bá quan đều thất sắc, vua cũng sợ hãi. Viên Thiệu vội thúc ngựa ra trước thốt hỏi: "Binh mã của ai đây?" Từ dưới bóng một ngọn cờ thêu rực rỡ, một tướng bên kia thúc ngựa ra lớn tiếng hỏi: "Thiên Tử đâu?" Vua càng sợ không dám lên tiếng. Trần Lưu Vương quất ngựa sấn ra nạt rằng: "Nhà ngươi là ai?" Tướng ấy đáp: "Thứ Sử Tây Lương Đổng Trác đây". Trần Lưu Vương vặn ngay: "Anh tới đây bảo hộ xa giá hay cướp xa giá?" Trác vội đáp: "Tới để hộ giá". Vương hạch rằng: "đã tới hộ giá, vậy Thiên tử kia sao anh không xuống ngựa?" Trác lật đật xuống ngựa, khấu đầu bên cạnh đường, miệng tung hô vạn tuế. Trần Lưu Vương lấy lời ngọt ngào phủ úy Đổng Trác. Từ đầu chí cuối lời lẽ đàng hoàng. Trác thầm lấy làm lạ, sinh lòng khâm phục vô cùng. Và ý định phế Đế nọ lập Vương này nảy ra từ đó.
    Đoạn trên chứng thực Trác tính chuyện phế lập hoàn toàn vì một chút cảm tình riêng tư. Sự phế lập chính là nhát cuốc đánh bật cái rễ uy tín của Trác đang cần phải ăn sâu xuống nữa, nó biến Đổng Trác từ một kẻ mang sứ mạng dẹp loạn thành một tên đầu sỏ nhiễu loạn. Phế lập đã đem lại cho Đổng Trác một kết quả vô cùng tai hại là việc Trác buộc phải thiên đô từ Lạc Dương về Tràng An. Thiên "xét về cái thế" ông Tô Triệt viết: "Trị thiên hạ, định sở thượng" (Muốn trị thiên hạ, trước hết phải nhận biết thiên hạ ưa chuộng điều gì?). Thời đại của Đổng Trác tư tưởng tôn quân còn rất mạnh, rất phổ biến, Đổng Trác động binh với danh nghĩa phò giá, mà hốt nhiên vô cớ tính chuyện phế lập tất nhiên sẽ bị phản đối kịch liệt. Trước hết là những cá nhân lẻ tẻ như Thứ Sử Kinh châu Đinh Nguyên, Lư Thực, Đinh Quản đứng trên danh nghĩa triều thần phản đối bằng lời nói, rồi đến Ngu Phu và Tào Tháo phản đối bằng cách cho Trác ăn mũi dao sắc, rồi đến phản đối bằng sự khởi binh từ khắp các châu quận kéo về đánh Trác, do Tào Tháo khởi xướng.
    Nguyên nhân thất bại thứ hai của Đổng Trác là không ước thúc được binh sĩ, để chúng thả cửa cướp bóc, hãm hiếp, đe dọa đời sống nhân dân; đôi khi chính Trác là thủ phạm nữa. Thí dụ vụ Trác sai binh sĩ bổ vây giết hết đàn ông con trai, bắt hết phụ nữ và lấy hết của cải, đem hơn ngàn đầu người chở về thành, xảy ra tại đám hội tháng hai vùng Dương Thành. Thậm chí Đổng Trác còn thích một lối thị oai phát nguyên tự tâm lý khát máu là ngay giữa đám vui sai mang tù nhân ra xẻo tai, cắt mũi, bỏ vạc dầu.
    Luận về chính quyền và cái chết của Đổng Trác
    Nguyên nhân thất bại thứ ba của Đổng Trác là nền kinh tế phá sản, Đổng Trác không giải quyết được nguy cơ cấp dưỡng trên tài chính. Biện pháp kinh tế, tài chính của Trác cũng đặt trên nguyên tắc quân sự, mang vũ lực đi cướp tiền dân, cướp tiền của người sống chán rồi, Trác sai đào các mồ mả, lăng tẩm để cướp của người chết. Tiền của cướp được, Trác bỏ vào túi, lại sai đúc những tiền lớn thành tiền nhỏ để mang tăng gia số lượng tiền tệ. Tiền nhỏ của Trác đúc ra bị mất giá ngay, dân chúng đua nhau chợ đen, hóa vật tăng vọt lên. Cứ theo sử chép thì muốn mua một thúng thóc phải trả đến mấy vạn tiền của Trác. Dân chúng đói khổ ai oán vô cùng
    Thấy tình trạng nguy ngập, Đổng Trác ve vãn phần tử trí thức, mời các nhân sĩ ra giúp việc. Nhưng khốn nỗi đôi mắt Trác chỉ có khả năng nhận ra được bọn ngụy trí thức mà thôi, thành thử những người Trác dùng như: Thái Ung, Tuân Sảng, Hàn Phức v..v... hết thảy đều chỉ là bọn thư sinh, danh hão, đọc sách để tìm con gái đẹp, nhà vàng và ngàn hộc gạo chứ chẳng có người nào kinh quốc cả. Tờ hịch của Tào Tháo được các trấn hưởng ứng, chư hầu tụ hội chia ra làm 18 đạo kéo về Lạc Dương, Trận giao phong đầu tiên, tướng của Trác là Hoa Hùng bị Quan Vân Trường chém chết. Trận thứ hai Lã Bố bị thua ở Hổ lao quan. Thế của Trác đã trở nên hết sức nguy ngập. Để cứu vãn, Đổng Trác sai Lý Thôi sang liên kết với Tôn Kiên, ngỏ ý đem con gái mình gả cho con trai Tôn Kiên, hòng làm chia rẽ Liên quân miền đông. Nhưng kế cầu hôn của Trác bị thảm bại. Tôn Kiên nổi giận chửi mắng, Lý Thôi ôm đầu lủi thủi như con chuột trở về phục mệnh Đổng Trác
    Thiên đô về Tràng An
    Kế cầu hôn để phá liên quân miền đông không thành. Đổng Trác chỉ còn một đường thoát là rút về căn cứ của mình. Trác bèn theo kế của Lý Nho, rời đô từ Lạc Dương về Tràng An. Chuyện rời đô, bình thoại của Mao Tôn Cương trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa có phê: "Vô cố nhi thiên Thiên Tử tắc tỉ ư mông trần. Vô đoan nhi thiên bách tính đắc đẳng ư lưu thoán" (nghĩa là: vô cớ mà rời chuyển Thiên Tử thì thực là chuyện mờ ám, vô cớ mà rời chuyển trăm họ thì cũng chẳng khác gì trốn chạy). Mấy chữ "vô cớ", "mờ ám" và "chẳng khác gì" của ông Mao Tôn Cương không có tính chất minh bạch cần thiết cho việc phê phán một sự kiện chính trị. Thật ra chuyện thiên đô là một nhu yếu chính trị quan hệ sống chết đối với Đổng Trác lúc ấy. Lạc Dương bị liên quân miền đông uy hiếp. Mặc dù lực lượng Đổng Trác còn mạnh, nhưng đã trót đi vào con đường danh bất chính, ngôn bất thuận rồi. Hơn nữa quân đội các châu quận phía đông thanh thế cũng chẳng thua kém, địch lại khó lòng. Thiên đô về Tràng An sẽ đem lại cho Đổng Trác nhiều lợi điểm khả dĩ lọt khỏi ngõ bí mà Trác đang bị đẩy vào. Thứ nhất: Trác là người Tây Lương, những người theo Trác thì toàn thị là dân Tây Lương, Tràng An với Tây Lương gần nhau. Thứ hai: có Hàm cốc quan là nơi hiểm yếu che chở cho Tràng An, quân phía Đông không dễ gì khắc phục được. Thứ ba: tránh đụng độ để chờ chư hầu nghi kỵ bất hòa với nhau.
    Quả nhiên kế hoạch thiên đô của Đổng Trác thành công. Liên quân phía Đông thấy kẻ địch đã chạy trốn, lập tức trong hàng ngũ phát sinh mâu thuẫn vì tranh chấp quyền lợi. Sức mạnh như thác đổ của Liên quân nhạt dần, đến độ phật phờ lối "hàng tổng đánh kẻ cướp".
    Trong hồi thứ sáu, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể rằng: tới Lạc Dương, Viên Thiệu hạ lệnh cho quân chư hầu đóng trại không tiến nữa. Tào Tháo thấy vậy đến hỏi ngay Viên Thiệu: "Đổng Trác đã bỏ chạy về miền Tây, nay chính là lúc nên thừa thế đánh đuổi mà bắt nó, sao Bản Sơ lại đóng quân không động là ý thế nào?" Viên Thiệu nói: "Quân mã chư hầu đã mỏi mệt, tiến nữa không ích gì". Tháo nói: "Giặc Đổng đốt rụi cung điện, hiếp bức Thiên Tử mang đi, thiên hạ náo loạn ngơ ngác không biết theo ai, bây giờ đúng là lúc chỉ cần đánh một trận nữa là bình được thiên hạ. Cớ sao chư hầu lại hồ nghi không tiến?" Chư hầu nghe Tháo nói ai cũng bàn ngang rằng: "Chưa nên kinh động". Tào Tháo giận tím người, nói một mình: "Không thể mưu việc với bọn trẻ con này được". Nói rồi Tháo tự dẫn một vạn quân cùng các bộ tướng suốt ngày đêm đuổi theo đánh Đổng Trác.
    Giả sử, nếu Liên quân phía Đông đừng có một chủ súy vô mưu như Viên Thiệu, tự ổn định được mâu thuẫn nội bộ, mang quân đánh dấn đi thì chắc chắn lực lượng vô kỷ luật của Đổng Trác không có đất mà chôn, dù Tây Lương hay cửa Hàm Cốc cũng không che chở cho Đổng Trác nổi. Trong đám người lãnh đạo Liên quân phía Đông, có độc một mình Tào Tháo là người đại lược, biết nhìn xa thấy rộng mà thôi. Rút lại cuộc tụ hội thảo phạt gian tặc thành ra chuyện đầu voi đuôi chuột. Kết thúc bằng việc Tôn Kiên đi nhặt nhạnh xương cốt và đắp mồ mả đã bị Đổng Trác đào bới.
    Cái chết của Đổng Trác
    Sau khi rút về Tràng An, Đổng Trác tự biết đã hết thế tung hoành nên tính kế hưởng thụ. Trác cho xây ở My huyện một cung điện riêng cho mình, tuyển lựa 800 thiếu nữ thanh tân nhốt vào cung, tích trữ vàng bạc gấm vóc, lại cho làm những kho chứa lương thực đủ ăn trong 20 năm. Trác vẫn thường nói: "sự thành hùng cứ thiên hạ, sự bất thành thủ thử dã túc dĩ chung thân liễu". (thành ra thì hùng cứ cả thiên hạ, không xong thì giữ chặt nơi đây cũng được hết đời). Trác tin tưởng vào thế hiểm yếu, vào lương thực tích trữ. Nhưng Trác quên rằng kẻ giết Trác chính là Trác vậy, là cái cá tính độc ác, hẹp hòi, ích kỷ của Trác. Do cá tính đó, Trác đã tự mình tạo nhận cho âm mưu Vương Doãn, Lã Bố. Trong chính sử tuy không thấy nói đến liên hoàn kế và Điêu Thuyền, nhưng Vương Doãn và Lã Bố cũng vẫn là hai vai chủ gốc trong vụ giết Đổng Trác. Sử chỉ chép: "Lã Bố tư thông với tỳ thị của Trác, sợ việc bại lộ trong lòng không yên. Tư Đồ Vương Doãn thấy Bố vũ dũng nên hết sức hậu đãi". Phải chăng nhà văn La quán Trung đã tiểu thuyết hóa tên thị tỳ thành ra Điêu Thuyền, tưởng tượng ra liên hoàn kế cho câu chuyện Trác thêm phần kỳ thú?
    Tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã khéo tưởng tượng ra nàng Điêu Thuyền diễm lệ.
    Một cành gió lả hoa mềm,
    Mùi hương ngào ngạt đầy thềm vẻ Xuân.
    Rồi mượn hương sắc mỹ nhân mà lột hết cái chí khí hẹp hòi cùng tâm trạng độc đoán của Đổng Trác ra lời nói, như đoạn: Sau khi Đổng Trác nghe Điêu Thuyền khóc lóc phản đối việc đem mình gả cho Lã Bố theo kế hoạch của Lý Nho, Trác mủi lòng bèn thay đổi ý kiến.
    Lý Nho thấy vậy chạy vào thưa:
    - Xin Thái Sư đừng để cho một người đàn bà mê hoặc như thế.
    Trác biến sắc mặt mắng Nho rằng:
    - Thế vợ mày, mày có chịu đem cho thằng Lã Bố không? Thôi việc Điêu Thuyền cấm không được bàn đến nữa. Nói thêm ta chém đầu.
    Những lời đối đáp của bọn cao cấp ngoan cố vẫn thường hữu lý theo cái lối "đức ông cưỡi voi" như vậy. Nếu họ đi hành quân mà có người nhắc họ lưu ý sợ bị đánh tập hậu, họ sẽ chẳng suy nghĩ gì để trả lời ngay rằng: "bị tập hậu thì ta quay lại, địch còn đánh tập hậu vào đâu?"
    * * *
    Âm mưu liên kết với Lã Bố để giết Đổng Trác của quan Tư Đồ Vương Doãn nẩy mầm từ bữa Trác thiết tiệc bá quan trong Tỉnh đài, chém quan Tư Không Trương Ôn ngay giữa bàn tiệc để khủng bố. Việc này chứng tỏ ý thức chính trị của Trác đã hoàn toàn khô cạn. Đổng Trác chỉ trông vào sự khủng bố và võ lực của Lã Bố, một tên trùm phản trắc để chống lại những âm mưu phản bội mình. César chịu nhát dao cuối cùng của Brutus, ông ta tỉnh ngộ ngay và nói với Brutus rằng: "nếu cả Brutus cũng giết ta thì ta phải chết". Đổng Trác ngu si ngoan cố cho đến chết. Chẳng thế mà hơn 100 vũ sĩ theo lời Vương Doãn hô to: "Phản tặc đã tới đó" và cầm giáo đâm như mưa vào mình Đổng Trác, thế mà y vẫn chưa tỉnh ngộ còn vội kêu lớn: "Phụng Tiên con đâu". Chính ông con quý báu đó đã tặng cho Trác một nhát kích trúng giữa yết hầu kết liễu đời Trác
    Điêu Thuyền và cái chết của Đổng Trác
    Trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa, La quán Trung dành riêng ra hồi thứ tám và nửa hồi thứ chín để đặc biệt tiểu thuyết hóa cái chết của Đổng Trác, qua những câu văn vần mở đầu cho mỗi hồi: Kế liên hoàn Vương tư Đồ khéo dụng, Đình Phượng Nghi Đổng thừa tướng đâm khùng, và Trừ hung bạo, Lã Bố giúp Tư Đồ.
    Từ kế liên hoàn đến việc làm cho Đổng Trác điên khùng mắng đuổi và phóng kích định giết con nuôi, rồi nghĩa tử Lã Bố giúp Tư Đồ Vương Doãn giết Đổng Trác nhất nhất đều do Điêu Thuyền gây nên cả.
    Nhưng trong chính sử không thấy có tên Điêu Thuyền bao giờ. Các sách khác cùng bao chuyện truyền kỳ, cổ tích của đại chúng cũng chẳng nhắc đến về tung tích cũng như về thân thế nàng. Vậy thì Điêu Thuyền phải chăng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết do tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa nặn ra.
    Nhân vật Điêu Thuyền xuất hiện là tác dụng kỳ thú hấp dẫn của văn học nhằm giải quyết mối thắc mắc bị thất lạc trong chính sử. Mối thắc mắc đó là nguyên nhân mâu thuẫn nội bộ tập đoàn quân phiệt Đổng Trác.
    Như chúng ta đã rõ, cái chết của Đổng Trác là kết quả của cuộc tranh chấp một mất một còn giữa nhóm quan lại cựu trào Hán Đại với phe cánh Đổng Trác. Nhóm quan lại cựu trào cảm thấy tính mệnh và quyền lợi của họ đã bị đe dọa cực độ sau vụ Trương Ôn.
    Một hôm, Trác ở sảnh đài, hai bên bách quan ngồi sắp hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần thì Lã Bố đi tắt vào, ghé tai Đổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng: à ra thế! Nói rồi, sai Lã Bố lôi quan Tư Không tên là Trương Ôn cũng đang ngồi ăn ở tiệc đem xuống dưới thềm. Các quan không biết đầu đuôi như thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một mâm đỏ, giữa để đầu của Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía.
    Sự khủng bố trắng trợn báo hiệu giờ phút không thể dung thứ nhau được nữa. Đại diện phái quan lại cựu trào lúc đó là Vương Doãn, Vương Doãn hôm ấy về đến phủ, nghĩ lại những việc trông thấy trong bữa tiệc, ngồi đứng không yên. Đến đêm khuya trăng sáng vằng vặc chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi ngửng mặt lên trời rỏ nước mắt khóc.
    Với Vương Doãn thì cái thế phải giết Đổng Trác là tất nhiên rồi, nhưng còn một điều chưa có cách gì giải quyết là Lã Bố. Ai đến gần Đổng Trác ngoài Lã Bố? Lã Bố mà phụ lực cho Đổng Trác bằng sức vóc muôn người không địch của y, thì việc giết Đổng Trác thật khó lòng mưu toan lắm. Chính vì điểm ấy Vương Doãn đứng ngồi không yên.
    Vậy, việc giết Đổng Trác phải bắt đầu bằng kế hoạch ly gián Trác với Bố. Kết quả Lã Bố đâm chết Đổng Trác. Kế ly gián Bố với Đổng Trác thế nào, nó đặt trên xung đột tư tưởng, chính sách? Hay chỉ là một kế mỹ nhân? Xét cho kỹ về tư cách Lã Bố và Đổng Trác thì mặc dầu chúng ta không có sử liệu về Điêu Thuyền, nhưng kế mỹ nhân là đắc sách nhất, hợp lý nhất. Bởi thế tên họ Điêu Thuyền có thể nói do nhà văn La Quán Trung tạo ra và cũng có thể nói liên hoàn kế là thật. Nếu ta nhận rằng: Mũi nàng Cléopâtre chỉ dài thêm chút nữa thôi, bộ mặt thế giới sẽ khác hẳn. Thì chuyện Điêu Thuyền với vẻ đẹp
    Mây bay một áng điểm thềm hoa,

    Mày ngài gợi khách sầu man mác,
    Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha.
    Khả dĩ phá đổ quyền thế chính trị của Đổng Trác, thiết tưởng chẳng có chi hoang đường cả.

    [1] Trích Politique et Verité của James Burnham
  3. vladimir_illich

    vladimir_illich Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/06/2006
    Bài viết:
    48
    Đã được thích:
    0
    PHẦN TỬ TRÍ THỨC


    Từ Xuân thu, Chiến quốc đến thời đại Tam quốc, phần tử trí thức là một vấn đề hết sức trọng đại. Bởi thế, đi sâu vào vấn đề này rất cần thiết đối với nhận định chính trị Tam quốc, và việc đọc chuyện Tam quốc.
    Thường thường mỗi khi nói đến lịch sử, chúng ta vẫn đặt những câu hỏi: Biến động lịch sử do hoàn cảnh quyết định hay bởi ý chí con người quyết định? Tồn tại quyết định ý thức hay ý thức quyết định tồn tại? Sinh hoạt quyết định tư tưởng hay tư tưởng quyết định sinh hoạt? Tư tưởng và sinh hoạt tự động biến hóa hay là do ngoại lực làm cho biến hóa?
    Trước kia, thảo luận để tìm một giải đáp cho những câu hỏi trên, các phe phái hay đi vào con đường cực đoan, rồi đưa ra nhiều luận cứ bênh vực cho chủ trương: hoàn cảnh quyết định lịch sử, sinh hoạt quyết định tư tưởng, tồn tại quyết định ý thức, nhất thiết biến động lịch sử đều do ngoại lực tạo nên; hoặc bênh vực cho chủ trương: ý chí con người quyết định lịch sử, ý thức quyết định tồn tại, tư tưởng quyết định sinh hoạt, nhất thiết biến động lịch sử đều do ý chí con người tạo ra.
    Nhưng gần đây, hầu như tất cả đã công nhận rằng: hoàn cảnh với ý chí, tồn tại với ý thức, tư tưởng với sinh hoạt, ngoại lực với nội tại đều có tác dụng qua lại mà làm ra biến động lịch sử. Chiếc cầu nối sự qua lại đó là Văn hóa. Do tác dụng qua lại giữa con người với hoàn cảnh nên Văn hóa được sản sinh. Phương hướng của Văn hóa, độ nhanh chậm của Văn hóa chịu ảnh hưởng từ kết quả của tác dụng qua lại của nhân duyên nội với ngoại.
    Theo Hồ Thu Nguyên: Tổ tiên chúng ta thời thượng cổ, đương nhiên chịu chi phối của hoàn cảnh, nhưng nhân loại không như các động vật khác, đối với hoàn cảnh ngoài cố gắng thích ứng, loài người còn tìm cách chống lại, chế ngự, cải tạo và lợi dụng. Bởi thế nên loài người mới chế tạo ra công cụ. Nhưng đi đôi với sự chế tạo công cụ phải có ý, có tư tưởng, có tiếng nói. Nếu không có ý, có tư tưởng, có tiếng nói thì không thể chế tạo ra công cụ được. Vậy giữa công cụ với tư tưởng ta đừng nên đặt vấn đề công cụ có trước, tư tưởng có sau hay ngược lại. Chẳng qua ta hãy quan niệm cả hai là cùng một lúc.
    Từ sử tự nhiên bước vào sử nhân loại, loài người trở nên động vật văn hóa, loài người lấy văn hóa để mở đầu lịch sử cho mình, văn hóa thành ra một năng lực mới cho sự giao thiệp của người với hoàn cảnh.
    Văn hóa là nhân tố hết sức trọng yếu đối với việc giải thích lịch sử. Lịch sử thông qua văn hóa mà biến động, trí thức là quyền lực. Do đấy mà phần tử trí thức nắm phần chủ yếu trong mọi biến động lịch sử.
    Lý luận Vilfredo Paréto
    Nhà Xã hội học Vilfredo Paréto cho rằng:
    - Trị, loạn, cách mạng, hòa bình, chiến tranh gồm nhiều nguyên nhân: địa dư, kinh tế, văn hóa, chính trị v.v.. Nhưng quyết định đều ở nơi kết quả vận chuyển của phần tử trí thức.
    Phần tử trí thức Paréto chia ra làm hai loại:
    a- Nắm chính quyền
    b- Không nắm chính quyền.
    Phần tử trí thức hay ưu tú trong xã hội không bao giờ nằm im, trái lại nó luôn luôn vận động. Vận chuyển của nó là đấu tranh thay thế nắm quyền bính để đưa vận mệnh xã hội, vận mệnh chính trị lên con đường mới.
    Khi phần tử trí thức tại quyền không còn đủ khả năng, đủ lực lượng để lãnh đạo chính trị, lãnh đạo xã hội, bắt kịp nguyện vọng thời đại nữa sẽ bị đào thải, chính quyền sẽ chuyển sang tay lực lượng trí thức khác đủ khả năng hơn. Chính quyền nào không thu hút nổi các lực lượng mới, để các lực lượng ngoài tách rời mình tự trưởng, tự thành, phát triển lên được thì chính quyền đó chẳng chóng thì chầy phải bị lật đổ. Những hiện tượng tiêu diệt, trưởng thành của các lực lượng xã hội chính là những diễn biến lịch sử vậy.
    Phần tử trí thức đời Xuân thu, đời Chiến quốc
    Nhà Chu lúc thiên sang Đông là bắt đầu thời đại Xuân thu, Chiến quốc. Xuân thu, Chiến quốc dài 551 năm. Xuân thu, Chiến quốc là một thời đại ghi nhận sự biến hóa lớn lao của chính trị, kinh tế, văn hóa Trung quốc. Hai chữ Xuân thu xuất xứ từ sử liệu nước Lỗ. Hai chữ Chiến quốc do cuốn sử Chiến quốc mà ra.
    Ông Hồ Thu Nguyên viết:
    - Hình thành ra Xuân thu, Chiến quốc ngoài nguyên nhân nhân khẩu tăng gia còn là kết quả của sự xung đột giữa trào lưu văn hóa nhân văn chủ nghĩa với chế độ phong kiến nhà Chu. Lấy Quản Trọng và Khổng Tử làm đại biểu phần tử trí thức lãnh đạo cuộc chiến đấu trên.
    Kể từ lúc Tề hoàn Công dùng Quản Trọng, gây dựng nghiệp Bá chư hầu, những cương giới phong kiến bị tiệt trừ, kinh tế thương nghiệp phát triển.
    Chiến tranh và kinh tế thương nghiệp không những đã phá đổ lực lượng hữu hình phong kiến, còn quan trọng hơn nữa là sự sản sinh một văn hóa lực mới. Văn hóa lực mới khi biểu hiện trên những lực lượng hữu hình mới, liền thành một lực lượng quyết định chuyển động lịch sử.
    Văn hóa lực mới là gì?
    Học vấn được phổ cập, lực lượng của giai cấp sĩ xuất hiện. Tính chất quan trọng của giai cấp sĩ là nhờ học vấn phổ cập, do cạnh tranh của liệt quốc mà bình dân đã thông qua trí thức để nhẩy lên vũ đài chính trị. Trước kia thời Tây Chu và ngược lên nữa, chính trị đều ở tay quí tộc nắm giữ. Vận mệnh xã hội, quốc gia phải chịu bọn Vương Công đại nhân, các Công tử, Vương Tôn, Thế Khanh truyền tử truyền tôn điều khiển.
    Sang Xuân thu, Chiến quốc thì tình trạng lật ngược hẳn, xã hội liên tiếp có những vận động hạ khắc thượng (dưới chống trên). Chư hầu không thừa nhận Vương Thất, Đại Phu không thừa nhận Chư hầu, Gia thần không thừa nhận Đại phu, dân chúng không thừa nhận quyền uy của đại tộc, thế khanh. Mỗi bậc, mỗi mức trong quá trình đấu tranh đều giác ngộ quyền lợi của mình. Nhu cầu trí thức chính trị lên cao. Phần tử trí thức càng hệ trọng đối với những vận động lịch sử. Phần tử trí thức càng hệ trọng thì thế lực bình dân càng lớn mạnh. Khổng Tử nắm một phần chủ yếu trong việc đào tạo phần tử trí thức mới và lực lượng bình dân.
    Nếu dùng niên lịch để phân biệt Xuân thu với Chiến quốc, đại khái chúng ta có thể nhận thời Chiến quốc khai mào từ sau ngày Khổng Tử mất một năm đến lúc nhà Tần thống nhất. Chiến quốc lâu chừng 260 năm.
    Mặc dầu có những điểm không giống nhau trên trình độ cũng như trên bản chất, nhưng thực sự Chiến quốc chỉ là sự phát triển của Xuân thu. Hết thẩy các vận động đều đặt trên cơ sở:
    - Phá hoại thái ấp phong cương và giai tầng phong kiến.
    - Phát triển quốc gia vương quyền và phát triển để thống nhất.
    - Phân hóa văn hóa cổ điển để tung hợp thành xu hướng tân văn hóa.
    260 năm thuộc thời đại Chiến quốc, đứng về mặt học thuật và chính trị mà nói, có thể chia ra làm ba thời kỳ lớn:
    1- Thời kỳ nước Sở nước Việt thay nhau làm Bá chư hầu và nước ****** nước Tề tranh hùng.
    2- Thời kỳ vận động liên hoành và hợp tung.
    3- Thời kỳ nước Tần tiêu diệt lục quốc.
    Chiến quốc có năm tiến hóa trọng đại:
    a- Tiến bộ kỹ thuật.
    b- Kinh tế phát triển, chế độ công điền bị triệt bỏ, đô thị mở rộng, thương nghiệp hưng thịnh, hóa tệ phát đạt.
    c- Chiến tranh ác liệt hóa, quan hệ tình trạng quân quốc hóa của nước Trung hoa.
    d- Chiến tranh và kinh tế tạo ra quốc gia quân chủ tập quyền.
    e- Phần tử trí thức làm chủ tể chính trị.
    Thời Xuân thu, bình dân quật khởi mới chỉ là thiểu số, tới Chiến quốc thì quí tộc, thế khanh lần lượt nhượng vị cho các du sĩ văn học. Phong khí tư tưởng tự do đi đôi với tình thế chiến tranh đã tạo nên những hiện tượng sử sĩ hoành nghị, và bố y khanh tướng, (áo vải lên khanh tướng).
    Trước đấy, thế lực bọn thế khanh quí tộc đã bị lung lay vì những tư tưởng Khổng, Mặc. Bây giờ lại thêm tự do kinh tế khiến phần tử trí thức không còn phải sống bám quí tộc nữa, càng làm cho khí thế phần tử trí thức to lớn hơn.
    Thời Chiến quốc, các ông vua vì đều có chung một chính sách đối nội: tước trừ thế lực quí tộc, đối ngoại thì hùng cường với các nước khác, cho nên phải dựa vào các lực tân hưng, bằng cách chiêu hiền nạp sĩ, chỉnh đốn học thuật. Nhờ vậy mà các học thuyết dấy lên, trăm hoa đua nở. Sinh thời, Khổng Tử thất bại với 72 ông vua, thì ở Chiến quốc các người chịu tư tưởng của ông nhất nhất đều được trọng dụng. Tỉ dụ như: thầy Tử Hạ được ****** Văn Hầu bái kiến. Lỗ Mục Công dùng Tử Tư và Công Nghi Thể. Hàn quốc dùng Thân Bất Hại. Tề Uy Vương trọng đãi Tôn Tẫn, Sô (Trâu?) Kỵ v.v.. Thời Chiến quốc có thể gọi là thời kỳ của phần tử trí thức bình dân.
    Phần tử trí thức đời Tần
    Sáu nước suy tàn hấp hối chờ Tần thôn tính. Tình hình chính trị nhu yếu một quyền lực chặt chẽ thống nhất. Dĩ nhiên, không khí “đua nhau lên tiếng” của chư tử trên lãnh vực tư tưởng trở nên một vật chướng ngại to tát cho công cuộc kiến lập quyền lực kia. Chính các học gia cũng hô hào thống nhất tư tưởng. Nhóm Lã Bất Vi mở đầu vận động này. Môn khách trí thức nhà họ Lã thảo luận và trước tác cuốn Lã thị Xuân thu. Sách Lã thị Xuân thu tung hợp nhiều phái tư tưởng khác nhau, gồm 26 thiên pha trộn nào Pháp gia, Mặc gia, Nho gia, Đạo gia v.v. Tỉ dụ: Thiên “Quý sinh” và “Vô tư” gốc ở Nho gia, thiên “Thượng hiền”, “Kiệm táng” gốc ở Mặc học v.v..
    Nhưng sách Lã thị Xuân thu không được Tần Thủy Hoàng ưa. Một phần vì Lã thị Xuân thu chưa đáp ứng đúng với nhu yếu chính trị mới. Một phần vì Tần Thủy Hoàng thù hận Lã bất Vi. Về sau Tần Thủy Hoàng hưởng ứng tư tưởng Hàn Phi, bèn giải tán học phái họ Lã, đầy Lã bất Vi sang Thục, tại đây Lã bất Vi uống thuốc độc tự tử.
    Hàn Phi là một nhà tư tưởng thuộc phái Pháp gia. Tư tưởng Hàn Phi chịu ảnh hưởng của pháp thuật của Thân Bất Hại, Thương Ưởng, lý luận và khí chất của Tuân Tử, hành động của Lão. Lão học kết hợp với pháp thuật liền biến chất mà thành một thứ hư vô chủ nghĩa. Hàn Phi chủ trương:
    a- Không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả.
    b- Lấy pháp để răn dạy, lấy lại làm thầy, lấy chém đầu làm dũng.
    c- Lấy công dụng và kinh nghiệm làm tiêu chuẩn chân lý.
    d- Chống lại thuyết chuộng hiền của Nho, Mặc, coi Nho, hiệp, thương, công như bọn du thực.
    e- Đốt thi thư để làm sáng pháp lệnh, đề cao nông chiến.
    Chủ trương của Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng áp dụng đã khiến cho phần tử trí thức gặp một phen khốn đốn. Mặc dầu Tần Thủy Hoàng nghe Lý Tư giết Hàn Phi, nhưng chính sách Hàn Phi vẫn tiếp tục.
    Sự kiện đốt sách chôn nho chính là kết quả tất nhiên của xung đột giữa phần tử trí thức với chính sách Hàn Phi đem thi hành bằng vũ lực.
    Các nhà nho bị buộc phải từ bỏ lý luận và đọc sách. Muốn học thì đến thụ huấn ở bọn lại, muốn đọc sách chỉ độc có hai loại sách bói toán. Nho phái liền ẩn lý luận Dịch vào sách bói toán để phát huy tư tưởng.
    Phần tử trí thức lật đổ nhà Tần
    Đối đãi với phần tử trí thức, Tần Thủy Hoàng dùng hai chính sách:
    1- Tiêu diệt bằng vũ lực và
    2- Tiêu diệt bằng dụ dỗ.
    Tiêu diệt tư tưởng bằng vũ lực dĩ nhiên là một điều không thể làm được. Tiêu diệt phần tử trí thức bằng dụ dỗ thì chỉ đem lại hiệu quả phần nào thôi. Đa số phần tử trí thức không bị lay chuyển bởi Danh, Lợi, Uy như vua Tần vẫn lầm tưởng.
    Dưới triều Tần, trí thức tản mạn vào đồng ruộng, núi rừng để truyền bá tư tưởng phản Tần. Từng nhóm, từng nhóm nổi lên như: Phạm Tăng, Hoàn Sở, Sương Hải Quân, Hoàng Thạch Công, Trương Nhĩ, Trần Dư, Điền Hoành, Khoái Thông v.v..
    Những vận động tư tưởng chuyển thành đấu tranh vật chất nhóm lên bằng mũi chùy của Trương Lương, rồi đến Trần Thiệp khởi sự.
    Phần tử trí thức giao thời Tần-Hán
    Cuối Chiến quốc phần tử trí thức tụ tập ở nước Tần, giúp cho Tần kiêm tính thiên hạ, Tần thi hành bạo chính, trí thức thoái về dân gian vận động chống Tần.
    Như vậy trí thức đời Tần chia làm hai phái:
    - Phái nắm chính quyền.
    - Phái dựng thế lực bên ngoài chống chính quyền.
    Vận động phản Tần mạnh lên thì phần tử trí thức tại triều cũng bắt đầu tan rã. Sự tan rã này phân định làm ba loại:
    - Giao động nên nghĩ cách tự tư, tự lợi như bọn phương sĩ Lư Sinh, Từ Phúc lừa tiền bỏ trốn.
    - Do tranh chấp quyền thế bị đào thải như bọn Lý Tư.
    - Hưởng ứng Cách mạng như nhóm Tôn thúc Thông, Trương Lương, Tiêu Hà.
    Các thế lực trí thức chống chính quyền tuy rằng có sự chia rẽ giữa Nho đạo và đạo Hoàng Lão, nhưng chỉ là sự chia rẽ trên học thuật thôi, không đưa dẫn đến chia rẽ chính trị phản Tần.
    Vận động phản Tần đã ghi một thành tích tuyệt đích cho lịch sử đấu tranh của phần tử trí thức bình dân là: từ khanh tướng áo vải chuyển lên Hoàng đế áo vải.
    Phần tử trí thức đời Tây Hán
    Lưu Bang vốn không phải là người đọc sách. Lưu Bang đoạt thủ chính quyền nhờ biết dựa vào phần tử trí thức. Phần tử trí thức nỗ lực chẳng phải vì Lưu Bang mà vì nghĩa vụ diệt bạo Tần. Bởi vậy giữa Lưu Bang và phần tử trí thức vẫn có bức tường ngăn cách khó phá thông.
    Ngay sau khi nhà Tần bị tiêu diệt, Hán cao Tổ đã tỏ thái độ bất dung trí thức. Thấy thế ****** Báo từ khước bái yết Cao tổ, Trương Lương đi ẩn, nguyện bỏ dân gian sự để rong chơi (nguyện khứ dân gian sự, tòng xích tùng tử du).
    Sở dĩ phần tử trí thức tiêu cực phản đối, là tại chính quyền Hán nhất nhất rập theo chính sách của chế độ Tần triều. Phần tử trí thức ghét chính trị Tần chứ không ghét tập đoàn giang hồ Lưu Bang….. Thêm một nguyên nhân nữa là phần tử trí thức vẫn hoài niệm phong độ Chiến quốc, phóng khoáng, lãng mạn.
    Thời Tây Hán, trí thức tham gia chính trị phải tuân theo một pháp chế chặt chẽ, khuôn mức không giống thời Chiến quốc, trí thức áo lá, nón rách đến diện kiến quốc vương dùng biện thuyết mà đoạt tướng ấn Công Khanh.
    Dĩ nhiên đem nhu yếu phóng túng tự do riêng tư để chống lại nhu yếu chính trị đại thể, đương nhiên phần tử trí thức không thể thắng Hán triều. Khi Hán Vũ Đế đại định thiên hạ, thì phần tử trí thức từ bỏ vận động vãn hồi tình trạng tư tưởng tự do thời Chiến quốc. Người trí thức muốn xuất chính phải bước từ huyện học lên tới Quốc lập đại học. Tốt nghiệp học viên phải trở về quê hương bản quán đảm nhiệm một tiểu chức nơi nha môn, dần dần tạo nhiều thành tích mới được đề bạt lên trung ương. Phần tử trí thức thời Tây Hán, đại bộ phận xuất hiện từ nông dân thuần phác, nên phong thái thường đơn hậu. Ở Chiến quốc học giả vẫn tự coi mình ngang với thánh nhân. Ở Tây Hán thì đại (địa?) vị học giả xuống thấp. Theo với quyền lực thống nhất pháp, thống nhất chế, học thuật cũng cần thiết một vị sư biểu. Do đó, Khổng Tử được thần thánh hóa và đưa lên độc tôn.
    Phần tử trí thức thời Đông Hán
    Vương Mãng tranh thiên hạ rồi Lưu Tú dựng lại Hán thất gọi là Đông Hán hay Hậu Hán.
    Khoảng thời gian giữa Tây Hán, phần tử trí thức chớm khuynh hướng quần tụ. Một đại sư có tới mấy trăm môn đệ. Thái học sinh ban đầu chỉ ước chừng 50 người, dần dần tăng lên 200 rồi 3000, cuối Đông Hán con số lên gần 30.000.
    Bản thân Thái học thành hẳn một xã hội riêng biệt (Vương Mãng, Lưu Tú đều thuộc nhóm Thái học sinh). Vì ở tiếp cận với trung ương chính phủ nên Thái học là tập đoàn có thế lực, tiếng nói của nhóm Thái học hướng dẫn dư luận toàn quốc, ảnh hưởng nhiều đến chính trị. Địa vị người học lại dần dần nâng cao. Nhưng thế lực tập đoàn Thái học cũng làm cho bộ mặt và tình hình của của phần tử trí thức Đông Hán khác hẳn với Tây Hán.
    Thời đại Tây Hán, học vấn vốn vẫn là vũ khí nhiều khả năng nhất của bình dân muốn xuất chính. Tập đoàn Thái học thành hình thì những người bình dân thông qua học vấn để xuất chính trước đây nay đã trở nên quý tộc. Thái học biến ra xã hội con ông cháu cha, tạo thành tình trạng ******* cố môn đệ. Tập đoàn Thái học trên chính trị, xa rời quyền lợi bình dân, chuyên chú vào những âm mưu tranh chấp ******* nhóm, không biết dựa vào thế lực chính trị mà tranh thủ xã hội. Trên học thuật tư tưởng, Thái học nhân vì tập nhiễm xã hội đô thị nên mất hết phong thái đôn hậu chất phác, bỏ hẳn chủ trương lấy chí dụng làm cơ sở cho học vấn, để vùi đầu trong tư tưởng hoa mỹ, tận hưởng thú vị nghệ thuật. Tóm lại, bản chất tập đoàn Thái học sinh giống như tinh thần câu ca dao Việt:
    Học trò đèn sách hôm mai,
    Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào,
    Làm nên quan thấp, quan cao,
    Làm nên võng tía, võng đào nghênh ngang
    của hình thức thư sinh quý tộc, không còn phong độ “kiếm bạt nỗ trương” (rút kiếm, giương cung) thời Chiến Quốc nữa.
    Do tính chất môn phiệt của tập đoàn trí thức Thái học mà phần tử trí thức bị phân hóa, nhiều lực lượng trí thức bình dân rộ lên và trưởng thành đòi quật đổ bọn trí thức thống trị. Đồng thời trong triều đình, thế lực hoạn quan mỗi ngày mỗi lớn chèn ép tiếng nói Thái học
    Xung đột giữa tập đoàn quý tộc trí thức Thái học với hoạn quan, xung đột giữa lực lượng trí thức mới dậy với bọn trí thức tại quyền, sự tan rã của quyền lực trung ương và sự bành trướng của quyền lực địa phương - đó là tất cả cục thế loạn ly thời kỳ mở vào Tam Quốc phân tranh.
    Trí thức tại triều bị hoạn quan quật ngã
    Đời vua Hoàn Đế, bọn hoạn quan giết chết Lương Ký. Nhân cơ hội hoạn quan ngoại thích đánh nhau, nhóm trí thức tại triều liền được triệu tập để tiêu trừ hoạn quan. Cầm đầu vận động là các vị Đại thần Hoàng Huỳnh, Trần Phồn. Lực lượng cơ sở gồm thanh niên đô thị và tập đoàn Thái học sinh. Đường lối, chính sách là đòi hỏi thanh lọc.
    Những danh sĩ thời đó phụ giúp có: Chu Mục, Lưu Hựu, Tuân Dục, Sài Diễm, Vương Hoàng, Phạm Khang. Bọn hoạn quan trước sức tấn công của nhóm trí thức triều thần, bị bắt và bị giết khá nhiều.
    Nhưng chưa được bao lâu, thế lực hoạn quan phản công ngay. Nhờ vụ Lý Ưng, hoạn quan xoay chuyển hẳn tình thế, vua Hoàn Đế hạ lệnh tầm nã tập đoàn Thái Học để cho hoạn quan tha hô mà giết. Sang triều vua Linh Đế thì phe triều thần trí thức quỵ hẳn.
    Vương Doãn một điển hình
    Vương Doãn điển hình cho cái gì?
    Cho tính chất đã thiếu khả năng lãnh đạo của nhóm trí thức tại quyền. Chúng ta đều đã biết rõ nguyên nhân loạn có hai mặt:
    -Thứ nhất: Chính trị chuyên chế bị hoạn quan ngoại thích lũng đoạn.
    -Thứ hai: Tệ hại ngay trên bản thân văn hóa và phần tử trí thức.
    Thế lực hoạn quan và ngoại thích khi đã tràn ngập Hoàng Triều, nó liền một tay nắm trọn guồng máy chính quyền bằng cách đan kết một cái lưới bè nhóm, ân huệ, tư tình, hôn phối. Thành phần cai trị mỗi ngày thêm ác hóa. Công Khanh, Đại Thần dần dần chỉ còn là lực lượng hậu bị của hoạn quan ngoại thích. Phần tử trí thức trong triều nếu không chạy theo xu phụng hoạn quan ngoại thích tất bị loại trừ. Triều thần trí thức chống lại nhưng không nổi.
    Sở dĩ phần tử trí thức tại quyền thất bại, để hoạn quan ngoại thích ***** áp là tại trí thức đã tự mình phiệt duyệt hoá, chuyên chế hóa, đem cả sinh hoạt, học vấn, quan niệm tâm lý lẫn khí chất sô vào con đường thật nguy hiểm:
    a) Thoát ly dân chúng, thoát ly xã hội.
    b) Hưởng thụ bằng đại vị ăn trên ngồi chốc.
    c) Không làm chính trị đại thể mà chỉ làm chính trị âm mưu.
    Thân xác trí thức tại quyền cuối Đông Hán đầy những tệ bệnh nào là:
    Bệnh chỉ khỏe nói quân tử tiểu nhân, mà căn bản không biết phải giải quyết vấn đề.
    Bệnh học phiệt, tự cho mình là những người khác thường.
    Bệnh hư văn, lễ nghi phiền toái.
    Bệnh danh tiết, làm việc chỉ vì trung nghĩa, lối trung nghĩa của luân lý “gia thiên hạ”.
    Bệnh gàn dở kiêu căng.
    Bệnh danh sĩ hỗn hợp gàn dở kiêu căng với danh tiết.
    Vương Doãn là một nhân vật điển hình, điển hình cho phần tử trí thức tại quyền đang hấp hối vì Ông ta mang gần đủ những thứ bệnh nói trên.
    Chúng ta hãy cùng đọc lại hồi thứ chín (9) trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa để nhận xét hành động của Vương Doãn qua những sự việc:
    -Kế liên hoàn, Doãn dùng cái danh lão phu để lạy hết Đổng Trác và Lã Bố. Mục đích chỉ để hoàn thành một mưu mô chẳng lấy gì làm đẹp cho lắm.
    -Giết xong Đổng Trác, vào chính quyền rồi, Vương Doãn như người say rượu lóng ngóng. Vương Doãn đã phạm hai lỗi cực lớn:
    1) Chém Sái Ung chỉ vì Sái Ung khóc Đổng Trác.
    2) Đẩy bọn Lý Thôi, Quách Dĩ đến bước cùng, khiến cho người Khương Hồ dầy đạp, đầy đọa dân chúng. Kết quả việc làm của Vương Doãn là thay tình trạng quân phiệt bằng tình trạng kiêu binh.
    Trung nghĩa hão, nên lúc thất bại Doãn lưu lại một lời kỳ thú “Hà tất đa ngôn, ngã Vương Doãn kim nhật hữu tử nhi dĩ”. Lời này cụ Phan Kế Bính dịch sang Việt ngữ còn lý thú hơn: “Tao chỉ còn cái xác tao đây, chúng bay muốn làm gì thì làm".
    ****** trí thức cùng loại Vương Doãn
    Từ Xuân Thu, Chiến Quốc nhiệm vụ của người trí thức đã được đặt định hết sức minh bạch:
    Đem tâm huyết cống hiến, giáo hóa dân chúng.
    Phấn đấu cho lợi ích của bình dân.
    Đoàn kết dân chúng.
    Phấn đấu cho đạo đức, tư chất bản thân chống với những áp đảo tiền bạc, vũ lực của bọn quý tộc, của chính quyền.
    Dùng học vấn làm công cụ nâng cao hạnh phúc dân chúng.
    Những nhiệm vụ ấy được nhân cách hóa và trờ thành phong độ của tất cả những người trí thức. Nó gói tròn bằng ba chữ cơ bản: Nho, Hiệp -chung đúc bởi tư tưởng Khổng, Mặc - và Ẩn của Đạo học.
    Nho lấy tu dưỡng bản thân yên trăm họ (quân tử tu kỷ dĩ an bách tính) làm trách nhiệm tâm; lấy không lo, không mê hoặc, không sợ (bất ưu, bất hoặc, bất cụ) làm tự tôn tâm, lấy trang nhã, cung kính, khiêm nhường (trang cung khiêm nhượng) làm thái độ xử thế.
    Hiệp là thái độ mềm nhưng không nhũn nát, cứng nhưng không giòn gẫy, không khinh mạn người thế cô, không sợ sệt kẻ cường bạo.
    ****** trí thức là thế nào?
    ****** trí thức có nhiều hạng. Hoặc là bọn người chỉ hấp thụ ít nhiều học vấn nhưng lại thiếu tu dưỡng nhân cách. Hoặc là bọn người chỉ chăm chú câu nệ tu dưỡng chữ nhân chữ đức mà bỏ mất học vấn hữu ích. Hoặc là bọn người chỉ biết đem học vấn bán ra nuôi miệng, nuôi dục vọng vị kỷ. Hoặc là bọn người chỉ biết văn chương phú lục mà không có tư tưởng chính trị.
    Hồi tiền Tam Quốc, mặt ****** trí thức xuất hiện rất nhiều, phần lớn đều là những kẻ tách xa đại chúng để a dua với tập đoàn thống trị, từ bỏ phong độ tu kỷ an bách tính, bám vào hàng ngũ thống trị, lại thêm tật tự coi mình là quý tộc. Trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa ghi nhận ****** trí thức như bọn: Dương Bưu, Dương Mặc, Phàn Trù, Chu Tuấn, Cảnh Vũ, Quan Thuần, Vương Kỳ, ******án v.v… Nhưng có mấy mặt điển hình nhất là Vương Doãn, Sái Ung và Lý Túc. Vương Doãn thuộc vào hạng Nho cũng dở mà Hiệp cũng dở. Sái Ung thuộc vào hạng Hiệp mù quáng nhiều cảm tình tri kỷ nhưng thiếu quan điểm quần chúng. Lý Túc thuộc vào hạng chẳng Hiệp cũng chẳng Nho, chỉ biết biện bác vặt, xui dại, xui khôn, thầy cò. Lý Túc hết khuyên Lã Bố giết Đinh Nguyên lại dụ Đổng Trác vào Tràng An cho Vương Doãn sát hại. Nhưng lúc ra chỉ huy ba quân thì tài biện bác vẫn không đủ sức cáng đáng trách nhiệm nữa, dĩ chí để Ngưu Phụ cướp mất trại, di lụy đến thân.
    Nói chung, mặc dầu mỗi giai đoạn lịch sử đều có những sắc thái riêng biệt, nhưng trên căn bản ta có thể bảo ****** trí thức là bọn người cắn chặt vào quyền thống trị cũ, chế độ cũ, sinh hoạt cũ, gặp tình hình biến chuyển mới hoàn toàn bị cạn ý thức, không ngoi lên được ngoài những vùng vẫy vô ích trước khi chìm nghỉm.
    Văn hóa biên duyên xung kích - Loạn Khương Hồ và kiêu binh
    Đổng Trác tuy bị giết hại nhưng thủ hạ vây cánh quân đội của Trác còn đông đặc tại triều đình. Bọn chúng vừa mất chủ vừa lo thân nên chúng tác loạn cướp bóc tứ tung trong khi chính quyền mới lại không có một chính lệnh nào để làm an lòng chúng, thành ra Kinh đô thiếu an ninh, dân chúng cực khổ. Chính quyền mới chỉ chú ý đến lực lượng của Ngưu Phụ đóng ở Thiểm huyện, nên sai Lã Bố tiến đánh. Sở dĩ Vương Doãn chú ý Ngưu Phụ có lẽ không vì nhu cầu chính trị hay quân sự mà chỉ vì Ngưu Phụ là con rể Đổng Trác, cái tâm lý môn phiệt tôn tộc xưa nay vẫn vậy. Thực ra lực lượng Ngưu Phụ đâu có đáng sợ bằng mối loạn ngay trong lòng ruột, xem việc Ngưu Phụ cùng Hồ xích Nhi chôn dấu vàng bạc rồi bỏ đi thì đủ biết.
    Đến khi Lã Bố chống không nổi bọn Lý Thôi, Quách Dĩ, chạy về Tràng An thì quân giặc trong ngoài đông nghịt, chẳng khác mây che mưa phủ, vây kín thành trì. Số phận Vương Doãn, Lã Bố đã được quyết định.
    Tràng An lọt vào tay Lý Thôi, Quách Dĩ, với những thủ đoạn kiêu binh bắt giết, *********** và bức vua phong tước cho chúng thực cao, toàn Hầu, Tướng.
    Cảm nỗi cơ cực, nàng Sái văn Cơ, con Sái Ung, làm một bài thơ tả cảnh loạn ly, với nhiều câu rất xác thực như:
    Trảm lục vô tiết di
    Thi hài tương trưởng cự
    Mã biên huyền nam đầu
    Mã hậu tải phụ nữ
    Can tỳ vi lạn nhục
    ………………….
    Dục tử bất khả đắc
    Dục sinh vô nhất khả.
    Tạm dịch:
    Chém giết chẳng chừa ai
    Thây chất chồng chất đống
    Cổ ngựa treo đầu trai
    Lưng ngựa thân gái trói
    Ruột gan thối nhầy nhụa
    ………………………
    Muốn chết, chết chẳng được
    Muốn sống, sống không xong.
    Trong bài thơ của Sái văn Cơ còn một câu:
    Lai binh giai Hồ, Khương (quân lính toàn rợ Hồ, Khương)
    Câu thơ đó chứng minh rằng: Quân đội Tây Lương của Đổng Trác, sau này của Thôi, Dĩ, phần lớn lẫn lộn các dị tộc nhân Trung Quốc loạn, mượn thế tràn vào.
    Người Khương bây giờ hãy còn ở mức kinh tế du mục, căn cứ tại miền Đông tỉnh Cam Túc bây giờ. Thời Chiến quốc từng hỗn nhập với người nước Tần mà tràn vào bờ phía Tây sông Hoàng Hà. Thời Tây Hán người Khương bị đánh đuổi chạy ngược lên phía Tây. Cuối triều Vương Mãng, thừa cơ Trung Quốc loạn lạc, người Khương lại xâm lấn, lần này họ vượt qua sông, nhưng bị văn hóa Trung Quốc quá khỏe đồng hóa mất. Tuy thế, người Khương đã luôn luôn tham dự các vận động gây rối loạn do tâm lý ưa cướp bóc của những dân du mục chưa thuần tính với nông nghiệp.
    Người Hồ nguyên là giống Hung nô, phân chia làm Đông vực Hồ và Tây vực Hồ. Cả hai đều ở phía Bắc Trung Quốc. Những cuộc tràn lấn của các người Hồ, Khương đợt này qua đợt khác tạo thành một thời kỳ đen tối cho lịch sử Trung quốc sau này: thời kỳ “Ngũ hồ loạn hoa”.
    Như vậy chứng tỏ rằng việc quân Tây Lương của Đổng Trác phạm Tràng An không phải chỉ giản dị là vấn đề chính trị nội bộ. Nó còn bao hàm các vấn đề sâu rộng hơn như vấn đề Dân tộc và Văn Hóa. Văn Hóa biên duyên nhân cơ hội trung tâm rối loạn nên quật khởi xung kích.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    QUÁ TRÌNH TIÊU, TRƯỞNG CỦA CÁC LỰC LƯỢNG

    Việc Lý Thôi, Quách Dĩ hoành hành ở Tràng An là nhát dao cuối cùng chém gãy gục hẳn chính quyền trung ương, Thiên tử nhà Hán bất quá chỉ còn mang giá trị như một đồ vật tượng trưng, một ấn ngọc tỉ biết nói biết đi, biết ăn biết khóc mà thôi. Chính quyền trung ương sụp đổ, đương nhiên quyền lực để mưu đồ thiên hạ chuyển qua tay các lực lượng địa phương. Cái thế “Rồng tranh hổ đấu” lúc bấy giờ kịch liệt gay go nhất tại những địa phương: U, Tinh, Ký, Thanh, Duyện, Dự, Từ cùng các châu Kinh, châu Dương phía Bắc.
    Tình thế châu U
    Sự tiêu diệt khuynh loát lẫn nhau giữa các lực lượng khởi từ châu U.
    Cuối triều Linh Đế, châu U thuộc quyền cai trị của quan châu mục Lưu Ngu. Ngu vốn dòng tôn thất nhà Hán, tâm tính nhân hậu, trăm họ yêu mến, nhưng thiếu tài lược cần thiết cho lúc loạn. Tại đây có một vị quân quan tên gọi Công tôn Toản tay nắm binh quyền, hoài bão nhiều cao vọng, Toản từng rình rập ngôi vị Lưu Ngu. Ngặt vì chính trị trật tự chưa đảo lộn nên Toản phải gián chịu nép. Lúc Đổng Trác chuyên quyền bỏ vua này lập vua khác, Hiến Đế do Đổng Trác đưa lên, bị phe chống Đổng Trác không thừa nhận. Viên Thiệu bèn cùng Ký châu mục Hàn Phức liên hợp định suy tôn Lưu Ngu làm Hoàng Đế. Lưu Ngu phần sợ thành bù nhìn vì thiếu thực lực, phần sợ phá hoại nghĩa vua tôi nên cương quyết chối từ. Chối từ xong, Lưu Ngu mật phái người tâm phúc đến Tràng An triều kiến Hiến Đế. Tiếp xúc với bộ hạ của Lưu Ngu giữa lúc đang bị Đổng Trác làm khổ, Hiến Đế như người bệnh lâu ngày trông thấy thuốc, mừng rỡ viết chiếu chỉ, giấu đút giao cho con Ngu là Lưu Hòa hiện làm quan tại triều đem đi cầu viện. Để tránh tai mắt của Đổng Trác, Hòa không dám vượt ải Hàm Cốc, phải vòng phía đông qua Thương huyện, nên Hòa bị quân Viên Thuật bắt gặp ở Nam Dương, nơi mà Thuật vừa đoạt lại từ tay Tôn Kiên. Thấy có cơ hội làm ăn lớn, Thuật bèn giữ Lưu Hòa rồi sai người đến báo cho Lưu Ngu biết, và ước hẹn Ngu đem quân đến Tây Thượng hợp với quân Thuật ứng lời chiếu về Tràng An. Công Tôn Toản hay tin rất lo sợ cho sí đồ của mình, một mặt xui Lưu Ngu đừng gởi quân đến Tây Thượng, mặt khác thông với Thuật nói Lưu Ngu không muốn ai chia sẻ công lớn. Thuật giận giam Lưu Hòa. Khi Ngu gửi quân, Công tôn Toản chẹn đường cướp binh. Cơ hội nghênh giá của Lưu Ngu tiêu tan. Cơ hội liên kết giữa Viên Thuật với Ngu cũng lỡ chỉ vì một chút tiểu xảo của Công tôn Toản. Toàn bộ sự việc trên tuy nhỏ, nhưng có liên quan tới Đế vị cho nên ảnh hưởng không phải là không to tát vào tình thế chính trị Tam Quốc.
    Hậu quả của hành động mua giây thắt cổ
    Toản thực hiện được dã tâm của mình lấy làm đắc ý, liền dựa trên danh nghĩa thảo tội Đổng Trác mang quân đánh Ký Châu[1]. Ký Châu đặt trong tình trạng nguy cấp. Ai ngờ việc Toản làm lại mở đường cho Viên Thiệu xơi ngon Ký Châu. Hàn Phức thấy Ký Châu bị Toản uy hiếp, vừa lúc Đổng Trác thiên đô chạy, Thiệu kéo quân về, Phức nghe lời Thiệu thuyết phục, nhường Ký Châu cho Thiệu. Thế là Toản chiếm đất chẳng được, còn rước thêm con thú dữ về cạnh nách. Viện Thiệu sợ Toản, Thuật liên minh nên quyết tiêu diệt thế lực Toản.
    Lực lượng Tào Tháo trưởng thành
    Tranh chấp sơ khởi hết sức phức tạp, nên chính sách của mỗi thế lực đều mang hai mặt:
    Một mặt liên hợp. Một mặt đấu tranh.
    Bởi vậy ta mới thấy những hiện tượng: Tào Tháo liên kết với Viên Thiệu, Lưu Bị dung Lã Bố, Viên Thiệu hợp tác với Lưu Bị, Tào Tháo giúp Lưu Bị đánh Lã Bố, v.v. Những hiện tượng ấy hoàn toàn xuất phát từ nhu yếu chính trị, chứ không phải do cảm tình cá nhân như tinh thần Tam Quốc Chí diễn nghĩa diễn tả.
    Trong tình trạng rối ren, Tào Tháo chỉ có hai bàn tay trắng với chút ít lực lượng chẳng đáng kể. Thế mà thế lực Tào Tháo lớn như thổi. Sở dĩ Tháo mạnh là nhờ những tư tưởng rất thực tiễn của Tháo. Sau thời kỳ say sưa với ********, làm dũng sĩ mưu sát hại Đồng Trác không xong, kế sách cùng Liên quân Đông đánh dấn Đổng Trác không được nghe, đơn thương độc mã, một mình Tào Tháo vác quân đuổi theo quân Trác, bị phục binh Lã Bố, Từ Vinh theo kế Lý Nho đánh suýt bỏ mạng. Tào Tháo tỉnh ngộ. Áp dụng chính sách từ gần đến xa, từ nhỏ đến lớn, gần tre ẩn nắng, gần mía bẻ cây, Tháo biến tất cả mọi hoàn cảnh nghịch hay thuận thành lợi thế cho mình. Ý thức chính trị của Tháo chuyển từ lãng mạn sang thực tế thật nhanh và thật sắc bén.
    Đổng Trác chết, Tào Tháo nhờ cậy Viên Thiệu tiến cử xin vua Hiến Đế phong cho mình làm Thái Thú Đông Quận. Thiệu vin cớ Tháo đã bình định được giặc giã ở Duyện Châu mà xin.
    Năm Hiến Đế thứ ba, quân Khăn Vàng ở Thanh Châu đại tấn công Duyện Châu. Việc này La quán Trung tiên sinh kể như sau:
    Đám giặc ở Thanh Châu nổi dậy, tụ quân vài mươi vạn khởi loạn, cướp bóc của dân. Thái bộc Chu Tuấn xin tiến cử một người đi dẹp giặc.
    Thôi, Dĩ hỏi ai? Tuấn nói:
    Muốn phá giặc Sơn Đông, phi Tào Tháo không xong.
    Lý Thôi hỏi:
    Bây giờ Tào Tháo ở đâu?
    Chu Tuấn thưa:
    Hiện đang làm Thái thú Đông quận, có nhiều quân sĩ, giá sai người này đi đánh giặc thì không mấy bữa giặc tan.
    Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Đông quận sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc.
    Tháo vâng chiếu, hợp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương.

    Sở dĩ nói sai phái với phong chức vì Tam Quốc Chí diễn nghĩa vẫn chú trọng đạo đức lý luận chính thống. Thật ra lúc ấy Trung ương chẳng có chút quyền nào với địa phương hết.
    Việc đi đánh dẹp Duyện Châu là chuyện riêng giữa Pháo Tín với Tào Tháo. Quân Hoàng Cân lúc tấn công Duyện Châu đã giết chết ngay viên thứ sử châu này là Lưu Đại. Pháo Tín, võ tướng đất Duyện vốn vẫn hâm mộ Tào Tháo nên tự mang quân đến liên kết với Tào Tháo, đồng thời đem Duyện Châu cho họ Tào.
    Dẹp loạn ở Duyện Châu xong, nhờ chính sách cải biên, lực lượng quân sự Tào Tháo tăng lên hơn 30 vạn người. Thêm bàn đạp châu Duyện làm Tào Tháo mạnh như cơn sóng cả.
    Khái quát thực trạng đấu tranh và liên hợp giữa các lực lượng
    Nói về đất Kinh Châu, hồi này do Thứ sử tên Lưu Biểu nắm giữ. Kinh Châu tuy lớn, nhưng Lưu Biểu vô tài nên không mạnh. Kinh Châu lại tiếp cận với Nam Dương, địa bàn của Viên Thuật. Lúc đó lực lượng Tôn Kiên là một lực lượng không có căn cứ, tạm đóng ở huyện Lỗ Sơn tại Hà Nam. Viên Thuật vì muốn dòm ngó Kinh Châu, liên kết với Kiên bằng cách vận động cho Tôn Kiên được phong làm Thứ sử Dự Châu, để uy hiếp Kinh Châu.
    Mưu đồ của Thuật đã tạo nên minh ước Viên Thiệu-Lưu Biểu.
    - Nói về đất Từ Châu, địa thế tiếp cận với Duyện Châu, nơi mà thế lực Tào Tháo đang lên như vũ bão, Duyện Châu với Từ Châu không thể không thôn tính nhau.
    - Nói về đất Thanh Châu, bấy giờ thuộc Thứ sử Điền Khải cai trị. Điền Khải là người của Công Tôn Toản.
    Thế đấu tranh phân ra hai điều tuyến:
    - Viên Thiệu tại Ký Châu, Lưu Biểu tại Kinh Châu, Tào Tháo tại Duyện Châu đứng trên một điều tuyến.
    - Công Tôn Toản (con người có thực quyền) tại U Châu, Viên Thuật tại Nam Dương, Tôn Kiên tại Dự Châu, Đào Khiêm tại Từ Châu đứng trên một điều tuyến.
    - Còn Lưu Bị chưa đáng kể vào đâu, vẫn coi như gia tướng của Công Tôn Toản.
    Hai tập đoàn đấu tranh. Tập đoàn Thuật, Toản thất bại. Công Tôn Toản tiến binh đánh Viên Thiệu, Toản thua. Viên Thuật đẩy Tôn Kiên công kích Lưu Biểu, tuy chiến thắng nhưng vì Tôn Kiên dùng binh quá khinh suất nên bị quân Biểu bắn chết tại trận. Thừa thế, Lưu Biểu dồn quân cắt đứt đường tiếp tế của Thuật.
    Công Tôn Toản phát động Lưu Bị hợp cùng Đào Khiêm đánh vào Tây Bắc Sơn Đông để làm khốn Viên Thiệu, Viên Thiệu bèn liên kết với Tào Tháo đẩy lui được địch quân.
    Mặt khác Viên Thuật cũng tự mình đem quân đến địa phương Trần Lưu hòng đánh vỗ lưng Tào Tháo, nhưng việc không thành, Viên Thuật chạy trốn lên mãi quận Cửu Giang trong đất Dương Châu (nay thuộc huyện Thọ Xuân tỉnh An Huy). Tại đây Thuật giết ông Thứ Sử Dương Châu mà chiếm lấy đất này làm căn cứ.
    Chiến cục Tào Tháo và Đào Khiêm
    Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể cuộc chiến tranh Đào Khiêm, Tào Tháo rằng: Tào Tháo bình định Duyện Châu xong liền cho luyện binh, thu tướng, nạp hiền, phát triển thế lực. Khi uy danh đã lừng lẫy, Tháo sai Ung Thiệu về quê đón bố là Tào Tung. Tung hay tin Tào Tháo, mới cùng Tào Đức đem theo hơn một trăm gia nhân với nhiều của cải về Duyện Châu. Dọc đường đi qua Từ Châu, Tào được quan Thái thú Từ Châu là Đào Khiêm, xưa nay vẫn muốn làm quen thân với Tào Tháo nên thân hành ra đón. Khiêm mở tiệc khoản đãi Tung mấy ngày liền. Lúc Tung đi, Khiêm sai Trương Khải đem năm trăm bộ binh hộ tống. Không ngờ Trương Khải vốn là dư **** Khăn Vàng, thấy Tào Tung có nhiều tiền bạc, thói xưa lại nổi dậy, Khải giết sạch toàn gia Tào Tung lấy hết của cải rồi trốn về Hoài Nam.
    Tháo nghe tin khóc lăn xuống đất, nghiến răng mà nói: “Đào Khiêm hỡi! Dám thả cho quân giết bố tao. Thù này mày với tao không đội trời chung được. Nay ta khởi hết đại quân sang giết sạch cả Từ Châu mới hả được giận này”.
    Liền sai Tuân Úc, Trình Dục lĩnh ba vạn quân ở lại giữ Nhân Thành, Phạm Huyện, Đông A, còn bao nhiêu quân kéo cả đến Từ Châu, sai Hạ hầu Đôn, Vu Cấm, Điển Vi làm tiên phong. Tháo hạ lệnh:
    “Hễ đánh được thành trì nào, bao nhiêu dân trong thành giết nhẵn để báo thù cho cha”[2]
    Diễn tả hồi này bằng giọng điệu trên đây, tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa muốn cho nhân vật Tào Tháo theo ý ông càng linh hoạt, đầy đủ đức tính đáng gờm. Chẳng những Tháo đại gian mà còn đại ác nữa.
    Sự thật cái chết của Tào Tung không có chứng cớ, thủ phạm rõ rệt. Chiến tranh giữa Từ và Duyện hoàn toàn thuộc chính sách ra sức phát triển lực lượng của Tào Tháo. Những trận đánh gay go quyết liệt làm cho đổ máu nhiều chứ không phải Tào Tháo ra lệnh giết nhân dân mà báo thù cho cha. Tào Tháo không phải là người kém chính trị như vậy. Nếu có chuyện báo thù chăng nữa chẳng qua cũng chỉ là thủ đoạn mượn danh nghĩa để che đậy mưu đồ phát triển của Tháo mà thôi.
    Lưu Huyền Đức gặp cơ hội đầu tiên
    Tào Tháo khởi đại binh đánh Đào Khiêm, mặc dù phía Đào Khiêm có Lưu Bị, Viên Thuật, nhưng cả Khiêm lẫn Lưu Bị và Viên Thuật đều không phải là những mặt đủ khả năng đối địch với Tào Tháo. Tào Tháo chắc chắn nuốt trôi Từ Châu, nếu không có Lã Bố xuất hiện ngăn trở.
    Số là: “Lã Bố từ khi gặp loạn Lý Thôi, Quách Dĩ, trốn ra cửa Vũ Quan, định đi theo Viên Thuật, Thuật ghét Bố hay phản phúc không dùng. Bố lại đến với Viên Thiệu, được Thiệu dung nạp, Thiệu cùng Bố đánh tan Trương Yên ở Trường Sơn. Từ đấy, Bố lấy làm đắc chí, khinh nhờn những Tướng sĩ của Thiệu, Thiệu giận muốn giết. Bố lại bỏ sang với Trương Dương. Lý Thôi, Quách Dĩ biết, đòi Trương Dương phải giết Lã Bố. Bố liền bỏ Dương sang ở với Trương Mạc.
    Giữa lúc ấy thì em Trương Mạc là Trương Siêu đưa Trần Cung đến ra mắt Trương Mạc. Cung bảo Mạc rằng:
    Nay thiên hạ bị chia xé, anh hùng nổi dậy, ông có đất ngàn dặm sao lại chịu ở dưới quyền người khác, há chẳng hèn lắm sao? Nay Tào Tháo đánh mặt Đông, Duyện Châu bỏ trống. Lã Bố là dũng sĩ đời nay, giá ông cùng với Lã Bố đánh lấy Duyện Châu thì bá nghiệp có thể làm nên được.
    Trương Mạc cả mừng liền sai Lã Bố ra phá Duyện Châu, rồi chiếm cả Bộc Dương. Chỉ có ba xứ Nhân Thành, Đông A, Phạm Huyện may nhờ Tuân Úc, Trình Dục lập kế cố giữ được, các xứ kia đều bị phá vỡ cả. Tào Nhân đánh nhau mãi, nhưng không đương nổi, vì thế phải đi cấp báo với Tào Tháo.
    Tháo giật mình khi nghe tin và nói rằng:
    - Nếu Duyện Châu mất ta sẽ không còn chỗ để về nữa. Phải kíp lo toan ngay
    [3].
    Tổng kết chiến tranh Tào Tháo-Đào Khiêm thì chỉ riêng Lưu Bị là có lợi, vì Tào Tháo định thôn tính Từ Châu nên Lưu Bị mới vào được đất này.
    Vì Lã Bố đánh Duyện Châu, Tào Tháo phải rút nên Lưu Bị mới bỏ được cảnh ăn nhờ ở đậu, có đất Tiểu Bái làm vốn khởi nghiệp. Vốn ấy không bao lâu đã sinh số lợi khá lớn là toàn thể Từ Châu.
    Về phần Táo Tháo, việc Lã Bố đánh Duyện Châu thực có quan hệ mất còn, sống chết của Tào Tháo. Giả thử đại bản doanh của Tào Tháo bị Lã Bố phá vỡ hoặc chủ lực quân Tháo về cứu bị Lã Bố đánh tan thì Tào Tháo chắc mất hẳn đất đứng. May nhờ ba huyện cố thủ nên Tào Tháo mới có căn cứ đương đầu.
    Lã Bố thua
    Nguyên nhân nào khiến cho Lã Bố thua Tào Tháo? Tam Quốc Chí diễn nghĩa mượn lời Tào Tháo bảo rằng: Lã Bố là đồ vô mưu. Hai chữ vô mưu ở đây mang ý nghĩa thuần túy quân sự. Câu trên đây Tam Quốc Chí đã chịu ảnh hưởng của Tam Quốc Chí **** Vũ Đế ký ghi: Tào Tháo thấy Lã Bố đồn binh tại Bộc Dương mới nói: “Lã Bố một sớm chiếm lãnh hẳn một châu, thế mà không biết chặn Đông Bình, cắt đứt Thái Sơn, Khang Phụ để chẹn ta, lại đóng quân ở Bộc Dương, Lã Bố chỉ là đồ vô dụng”. Tôi không chối cãi tính chất vô mưu và vô dụng của Lã Bố. Nhưng trong trận này, kế hoạch quân sự của Lã Bố rất chính xác. Bởi vì Lã Bố vào đất mới chiếm, cơ sở chính trị chưa thể củng cố ngay, nếu chủ lực Tào Tháo tồn tại, thì Lã Bố không đủ khả năng làm cuộc chiến tranh lâu dài với Tháo. Trung tâm hoạt động của Lã Bố lúc này là bằng mọi cách tiêu diệt chủ lực quân Tào. Trần Cung mới bầy cho Bố mẹo nội gián nhà họ Điền đưa thư cho Tào Tháo hẹn đến cướp thành.
    Quả nhiên Tào Tháo mắc mẹo, trận Bộc Dương thành làm cho chủ lực Tào Tháo hao tổn khá nhiều. Tháo bèn dùng chính sách lâu dài đấu tranh với Lã Bố. Hai bên giữ nhau ròng rã sáu tháng. Lã Bố bắt đầu nao núng, lại thêm nạn đói kém vì sâu bọ phá hoại, giá thóc đang từ 30 tiền một hộc vọt lên năm vạn tiền. Binh sĩ đói khát. Quân Tào Tháo nhờ có cơ sở chính trị nên phân tán tự canh, tự tác kiếm được lương ăn. Quân Lã Bố đói quá sinh loạn bỏ trốn. Lã Bố thấy tình trạng nguy ngập đưa vợ con chạy. Trương Siêu tự vận chết. Trương Mạc về đầu hàng Viên Thiệu.
    Một điều tuyến nứt rạn
    Giữa lúc cuộc chiến tranh Lã Bố, Tào Tháo kết thúc, thì bên Từ Châu, Đào Khiêm lâm bệnh nặng. Khiêm sai My Chúc đến Tiểu Bái mời Lưu Bị về để nhường Từ Châu cho Lưu Bị. Lưu Bị trong những ngày cai trị Tiểu Bái đã ra công kiến lập uy thế chính trị cho mình cho nên khi nhận ấn Châu mục Từ Châu, Lưu Bị không vấp trở ngại nào. Vừa kịp Lữ Bố thua chạy đến Từ Châu xin nương nhờ, Lưu Bị thu dụng Lã Bố cho ra trấn giữ Tiểu Bái.
    Có địa bàn vững chắc rồi, nhưng lực lượng họ Lưu không phát triển, rút cục còn bị đánh bật khỏi Từ Châu là vì:
    Thứ nhất: Lưu Bị không có một chính sách nào mới ngoài chủ trương dựa vào đám triều thần để duy trì trật tự cũ.
    Thứ hai: Lưu Bị thiếu người tài giỏi điều khiển chính trị, quân sự cùng nhiều mặt khác, đồng thời Lưu Bị chỉ giỏi sử đãi cán bộ nhưng rất kém mặt trị sự.
    Thứ ba: Từ Châu sang tay Lưu Bị liền bị du vào cái thế “Tứ diện thụ địch”. Trước hết là địch ở ngay trong tâm phúc. Lã Bố tại Tiểu Bái lúc nào cũng chờ cơ hội phản bội. Rồi đến hành động ngu xuẩn nóng vội của Viên Thuật mắc mưu gây mâu thuẫn nội bộ của Tào Tháo (Kế Tuân Úc).
    Viên Thuật, Lưu Bị, Lã Bố mâu thuẫn, xung đột, điều tuyến chính trị do Viên Thuật gây dựng nay Viên Thuật tự tay phá hoại. Sự kiện này đã tạo cho Tào Tháo một cơ hội lớn để kiến trúc Đế nghiệp nhà ****, mở đầu bằng việc chia binh nghênh giá Hiến Đế. Ví thử Viên, Lưu không chia rẽ, hỏi làm sao Tháo có thể rảnh tay mà đem binh về tranh thủ quyền chính Trung ương mà không phải trả một tổn phí nào?
    Khổng Dung chế độ “danh sĩ” đã hết - Tập đoàn Thái học sinh
    Đời Đông Hán các lãnh tụ tập đoàn Thái học sinh có uy quyền lớn đối với xã hội, đối với triều đình. Họ thường tự xưng tụng cũng như người thời bấy giờ xưng tụng họ làm:
    Tam quân như Đậu Vũ, Lưu Thúc, Trần Phồn (những lãnh tụ tối cao)
    Bát Tuấn (những vị anh hùng), Bát Cố (những người tài đức), Bát Cập (những người lãnh đạo, răn dạy dân) Bát Trù (những người nhiều tiền của cứu nhân độ thế).
    Sở dĩ nhóm Thái Học Sinh được chính quyền kiêng nể là vì tư tưởng, luận đàm của họ có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội.
    Về sau, Thái Học Sinh càng ngày càng mang hình thái quý tộc, ảnh hưởng Thái Học Sinh giảm dần. Tuy vậy cái tinh thần Bát Tuấn, Bát Cập, Bát Cố, Bát Trù mà Thái Học Sinh nêu ra trong cuộc đấu tranh với hoạn quan, ngoại thích người đương thời vẫn chưa quên hẳn.
    Khổng Dung
    Khổng Dung là tiêu biểu cho cái ánh sáng sắp tàn của nhóm trí thức Thái học Đông Hán. Dung không nổi tiếng hay không có uy danh bằng chức tước quan lại, mà bằng hai chữ danh sĩ. Loại danh sĩ kiểu Khổng Dung gồm những người thị tài ngạo vật, tự cao thân giá, nghị luận thanh đàm. Nhờ mánh khóe tán tụng lẫn nhau, họ đã tự biến thành một mục tiêu đức vọng truyền thống cho người đời và gây cho bản thân họ một tiềm lực trong xã hội không nhỏ.
    Lúc Tào Tháo chưa kiến lập được uy thế, nhờ ông Kiều Huyền dẫn Tháo đến yết kiến danh sĩ Hứa Thiệu. Hứa Thiệu gặp Tháo có phê bình một câu: “Tháo là người bề tôi cực giỏi nếu gặp thời trị nhưng Tháo sẽ là người cực gian hùng thời loạn.” Vì lời nói từ trong miệng Hứa Thiệu nên nó đã làm cho nhiều người chú ý đến Tào Tháo.
    Khi Khổng Dung bị quân Khăn Vàng bao vây, Dung sai người đến cầu cứu Lưu Bị. Lưu Bị kinh ngạc nói rằng: “Khổng Bắc Hải mà cũng thèm biết đến Lưu Bị ư?”
    Xem thế đủ biết tên tuổi đám nhân sĩ mạnh nhường nào. Một khi tâm lý chuộng thanh danh ấy chưa quét sạch thì bọn người kiểu Khổng Dung vẫn bám vào nó, dùng trí thức phản động để lũng đoạn xã hội. Bọn này còn lũng đoạn thì tiến hóa còn nhiều chướng ngại, xã hội lịch sử còn khó chuyển hình. Qua Khổng Dung chúng ta hãy phân tích, mổ xẻ tâm trạng và sinh hoạt của bọn danh sĩ cuối Đông Hán.
    Nói trắng ra bọn danh sĩ phần lớn chỉ hoa hòe, hoa sói mà vô thực tài, nói nhiều hơn làm. Chẳng những họ không có tài cán cứu nước cứu dân, ngay cả trên tâm lý và hoài bão cũng không sạch sẽ gì, dễ a dua phản bội.
    Danh sĩ Khổng Dung, thời gian làm Thái thú Bắc Hải nổi danh bằng sinh hoạt uống rượu tán dóc “tọa thượng khách thượng mãn, tôn trung tửu bất không”, bài binh bố trận trên bàn tiệc. Một năm mất mùa Tào Tháo cấm rượu, Khổng Dung phản đối. Dung lý luận: “Đức rượu tồn tại đã lâu. Trời có sao rượu, Đất có sao rượu, người truyền tụng Đức rượu. Vua Nghiêu dùng ngàn chum rượu để lập trật tự hòa bình. Khổng Tử không rượu lấy gì làm Thánh?”
    Mỗi lần phải giải quyết vấn đề thực tế, mỗi lần đối chọi với khó khăn, Khổng Văn Cử đều thất bại và đều áp dụng một chính sách đào tẩu.
    Chính sách Tào Tháo sử đãi bọn danh sĩ
    Thấy thế lực bọn danh sĩ vẫn còn lớn, nên Tào Tháo phải dùng chính sách chính trị giải quyết.
    Chinh sách sử đãi bọn danh sĩ là: một mặt co kéo thu dụng và giáo dục, một mặt tiêu trừ. Tào Tháo đã nhìn thấu suốt tính chất và nhược điểm của bọn người này.
    Trước tiên, Tào Tháo đem quan chức câu nhử. Tháo thừa biết các danh sĩ thường lợi dụng hai chữ danh sĩ để làm cầu vào quan lộ. Quả nhiên hầu hết các danh sĩ xúm xít quanh miếng mồi đó treo nơi đầu móc câu của Tào Tháo.
    Người mang tật quan nặng nhất là Khổng Dung. Kết cuộc Khổng Dung cũng như Dương Tu, Biên Nhượng bị Tào Tháo chặt cổ ráo. Các danh sĩ khác nhận chịu ép một bề nên hóa thành “ngự dụng phẩm” của Tháo.
    Trong tranh đấu với thế lực danh sĩ, Tào Tháo đề ra hai đường lối chính trị tài mới:
    1) Tuyển lựa nhân tài, tuyệt đối bãi bỏ lề lối môn phiệt, thế gia. Bằng biện pháp này Tào Tháo đập vỡ khối cấu kết ỷ thế lẫn nhau của môn phiệt và thế gia.
    2) Dùng người theo tài năng, không quá chú trọng cao danh mỹ đức. Những người có tài thực tế trị quốc, dụng binh, dù trên sinh hoạt phạm điều lầm lỗi, nhất nhất đều được lưu dụng.
    Lệnh Tào Tháo ra đã chấm dứt chế độ danh sĩ môn phiệt Đông Hán, mở chân trời mới cho phần tử trí thức.
    Tào Mạnh Đức cần vương
    (sai chư hầu bằng uy Thiên Tử)
    Ở Long Trung, Gia Cát đối đáp Lưu Bị, nhận định thế lực Tào Tháo rằng: “Nay Tào Tháo có dân hàng trăm vạn, ăn hiếp Thiêu Tử để sai chư hầu, tranh phong với Tháo bây giờ thật khó”. Tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa vì cần cho câu chuyện kể được ly kỳ hấp dẫn, nên chỉ chú trọng đến mấy chữ: “hiếp Thiêu Tử dĩ lệnh chư hầu.” Người đọc sau này cũng bị Tam Quốc Chí diễn nghĩa lôi cuốn nên thường cho rằng: việc mượn uy Thiêu Tử là điều kiện thắng lợi lớn nhất của Tào Tháo. Tôi nghĩ phê phán như vậy là sai, là bị tư tưởng chính thống, bị tình cảm yêu ghét của tiểu thuyết chi phối.
    Từ trước tới nay theo cổ truyền, với nền văn hóa nông nghiệp vĩ đại, vị Hoàng Đế ở Trung Quốc không quan hệ cho trăm họ nặng như mọi người vẫn tưởng đâu. Kinh Thi có câu:
    Nhật xuất nhi tắc.
    Nhật nhập nhi tức.
    Tạc tỉnh nhi ẩm.
    Đế lực hà hữu vu ngã tại.
    Dịch:
    Mặt trời lên thì làm.
    Mặt trời lặn thì nghỉ
    Đào giếng lấy nước uống.
    Cầy ruộng lấy cơm ăn.
    Oai Vua chẳng ăn thua gì đến ta.
    Mạnh Tử nói:
    “Quốc dĩ dân vi mệnh, dân dĩ thực vi tiên”, vai trò Hoàng Đế, Thiên Tử chỉ trọng yếu khi nào dân chúng thừa nhận đấy là tượng trưng, là đại biểu của dân tộc quốc gia trong cuộc đấu tranh đối ngoại, chống xâm lược mà thôi.
    Với đấu tranh nội bộ, cá nhân vị Hoàng Đế chẳng là quái gì đối với dân chúng. Dân chúng cần người nào đem lại no ấm, yên bình, tiến bộ, thế là đủ rồi. Như vậy, những danh từ Hán thất chẳng qua chỉ là phiêu ngữ của mấy người có quyền lợi nêu ra. Không thể vì đấy mà bảo: Lòng dân còn tựa nhà Hán v.v..
    Nói đến nhân tâm tư Hán, sao lúc Vương Mãng thất bại lại thấy nhiều người vì Mãng mà hy sinh?
    Chúng ta không thể nhận thức chính cục lịch sử bằng đôi mắt của Ban Cố xưa coi lịch sử làm của riêng một nhà được nữa. Chúng ta hãy phê phán với tinh thần nhận lịch sử là công vật của toàn quốc dân. Nếu nhận định dùng nhãn quan Ban Cố nhìn thời đại Tam quốc thì chính trị Tam quốc sẽ mất đi ý nghĩa. Tóm lại lý luận: Hiếp Thiên Tử, sai chư hầu xem như quan kiện quyết định thắng lợi của Tào Tháo là một kiến giải hoàn toàn không chính xác. Sự thành công của Tào Tháo ở nơi Tháo có một đường lối đấu tranh chính trị sát thực tiễn, ở cái tài dùng binh của Tào Tháo chứ không phải tại hiếp Thiên tử, dĩ lệnh chư hầu. Điều khó khăn mà Khổng Minh nói đây là phải đương đầu với tài trí của Tào Tháo cùng mấy vạn dân theo Tào đó.
    Nội tình việc đem vua về Hứa đô.
    Tuy nhiên, danh vị Hoàng Đế không phải hoàn toàn không còn chỗ nào khả dĩ lợi dụng. Hoàng Đế vẫn có thể là phương tiện tốt cho một thủ đoạn chính trị.
    Tào Tháo đánh bại Lã Bố, tái bình định Duyện Châu nhằm thời gian Hiến Đế lên ngôi đủ sáu năm. Mấy tháng sau, Hiến Đế trở về Lạc Dương, lực lượng Tào Tháo ở Hoài Dương cách Lạc Dương không bao xa. Hiến Đế trong tay bọn Lý Thôi, Quách Dĩ chẳng khác gì cá nằm trên thớt. Các cận thần của Hiến Đế mới bầy mưu cho Hiến đế vời Tào Tháo đem binh về triều. Sở dĩ có mưu kế này là vì trong triều đã quá loạn lạc, các thế lực xung đột giằng co bất phân thắng bại.
    Tam quốc chí Lã Bố truyện chép: “Hán Hiến Đế lúc ở Hà Đông, từng hạ chiếu gọi Lã Bố đến giúp. Chiếc thân phiêu bạt, Lã Bố nhận chiếu thư mà vô kế khả thi”. Nhu yếu cầu ngoại viện của triều đình đã lên đến cực độ. Tào Tháo bình định xong Duyện Châu, đang cần bành trướng sang phía Tây Nam chiếm nốt Dự Châu, dòm dỏ Lạc Dương, thì mưu mời Tào Tháo của các quan trong triều khác gì mâm cỗ sẵn cho họ Tào vậy. Tào Tháo cân nhắc: “Ủng hộ Hiến đế lợi hơn đánh đổ Hiến Đế”, cho nên Tháo mới chọn lộ tuyến cần vương. Nhờ danh nghĩa cần vương, Tào Tháo vừa chiếm lĩnh Lạc Dương mà không mất công chiến trận máu đổ xương rơi. Tại Lạc Dương, Tháo gặp Đổng Chiêu. Chiêu bầy kế cho Tháo thiên vua Hán Đế về Hứa Đô cho gần căn cứ, rồi sau hãy tiêu diệt các lực lượng. Ngoài việc bầy mưu, Đổng Chiêu còn tự thân viết thư thuyết phục bọn Dương Phụng đừng cản trở việc rời đô, khi Phụng tỉnh ngộ thì quá muộn.
    Rước Hiến Đế về Hứa Đô rồi, Tháo lần lượt đánh phá các phe **** vẫn có thế lực xưa nay ở khu vực trung tâm như Hàn Tiêm, tàn quân Thôi - Dĩ, Dương Phụng để thực hiện công cuộc thống nhất toàn ************, quân sự trong khu vực này. Chính trị họ Tào bây giờ ví như dòng sông lớn cuộn chẩy, mặc dầu có những xoáy nước nhưng sông lớn vẫn xuôi theo chiều của nó. Chỗ hơn người của Tào Tháo, là tầm nhận thức chính trị rộng rãi, đại cục. Do đó Tào Tháo mới được những tay hào kiệt loại Đổng Chiêu, mặc dù không phải là mưu thần sách sĩ của Tào Tháo mà cũng ra sức giúp đỡ Tháo.
    Vụ chiếu chỉ đai áo
    Ở Hứa Đô, trên danh nghĩa, Tháo làm Tể tướng nhà Hán, nhưng trên thực tế Tháo đã chiếm giữ một địa bàn quan trọng. Để ổn định Quốc gia, Tháo lập chính sách dập tắt hơi lửa tàn của hệ thống thống trị cũ là bọn bá quan triều thần. Mở đầu, Tào Tháo trục Dương Bưu và Triệu Phạm. Tào Tháo tổ chức cuộc đi săn Hứa Điền để dò xét phản ứng của từng người. Nhờ việc đi săn Hứa Điền mà Tào Tháo phát hiện được âm mưu do Đổng quốc Cữu cầm đầu. Tam quốc Chí diễn nghĩa viết nguyên nhân vụ đai áo chiếu như sau:
    Về cung, nghĩ đến việc đi săn hôm ấy, vua tủi mà khóc bảo vợ là Phục Hoàng hậu rằng:
    - Ta từ khi lên ngôi đến giờ gặp nhiều gian hùng. Trước thì Đổng Trác, sau thì Lý Thôi, Quách Dĩ. Những điều khổ ải người ta chưa từng thấy bao giờ, ta và Hoàng hậu đều đã nếm trải cả. Đến nay gặp Tào Tháo, tưởng nó là bầy tôi xã tắc, không ngờ nó lộng quyền tự làm uy làm phúc. Ta trông thấy nó bao giờ là như chông gai cắm vào lưng bấy giờ. Hôm nay, nó ra nhận lời chúc mừng của các quan thật là vô lễ. Nay mai tất có vạ, vợ chồng ta chưa biết chết chỗ nào.
    Phục Hoàng hậu nói:
    - Công khanh đầy triều, đều ăn lộc nhà Hán, chẳng lẽ lại không có ai cứu được quốc nạn sao?
    Phục Hoàng hậu nói chưa dứt lời thì có một người ở ngoài bước vào tâu rằng:
    - Xin vua và Hoàng hậu đừng lo, tôi xin cử một người có thể cứu được nạn nước.
    - Vua trông ra thì là bố đẻ Phục Hoàng hậu là Phục Hoàn. Vua gạt nước mắt hỏi rằng:
    - Quốc trượng cũng biết giặc Tào Tháo nó chuyên quyền à?
    Hoàn nói: Xem như việc bắn hươu ở Hứa Điền thì ai chẳng biết, chỉ vì cả triều văn võ phi là họ hàng Tào Tháo thì là đầy tớ của nó. Nếu không phải quốc thích thì ai chịu hết lòng đánh giặc. Lão thần không có quyền thế gì, khó làm nổi việc ấy, nhưng có Xa kỵ Tướng quân Đổng Thừa có thể tin cậy được.
    Vua nói: Đổng Quốc cữu nhiều lần liều mình với nạn nước, ta vốn đã biết, nên mời vào trong cung để bàn việc lớn.
    Hoàn nói: Tả hữu ở đây đều là tâm phúc của Tào Tháo, nếu việc tiết lộ sẽ xẩy ra vạ to.
    Vua hỏi: Thế thì nên làm thế nào?
    Hoàn nói: Tôi có một kế, Bệ hạ nên cho may một cái áo bào và làm một cái đai ngọc, mật ban cho Đổng Thừa, ở trong đai để tờ mật chiếu. Khi về thấy tờ chiếu, Thừa sẽ ngày đêm nghĩ kế thi hành, thế thì dù quỉ thần cũng không biết được.[4]
    Đổng Thừa nhận chiếu chỉ Hiến Đế, về nhà rủ bọn Vương tử Phục, Sung Tập, Ngô Thạc, Mã Đằng, Lưu huyền Đức lập kế giết Tào Tháo.
    Năm Kiến An thứ 5, Đổng Thừa bệnh, vua biết tin sai quan thái y Cát Bình đến chữa. Đổng Thừa nhân cơ hội rủ Cát Bình cộng tác, rồi cùng bọn Vương Tử Phục bàn dùng Cát Bình đầu độc Tào Tháo. Chẳng may người đầy tớ nhà Đổng Thừa phản bội, đem chuyện tố cáo với Tháo. Cát Bình bị bắt quả tang, Tào Tháo sai bắt luôn bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa giết hết cùng với Đổng Phi. Kinh dịch có câu: “Quân bất mật tất thất thần, thần bất mật tất thất thân, cơ sự bí mật tất hại thành” (nghĩa là: vua không kín đáo thì hại bề tôi, bề tôi không kín đáo thì hại đến thân, làm việc không kín đáo tất thất bại), thật rất hợp cho hoàn cảnh bọn Thừa – Phục. Giết xong nhóm quần thần đối lập, Tào Tháo truyền lệnh rằng: “Từ nay về sau, những người ngoại thích và tôn tộc nhà vua không được phép ta mà tự tiện vào cung thì cứ chém”. Vụ này duy có Lưu Huyền Đức nhanh chân “chuồn” được. Vương nghiệp Hán từ sau cái chết của Đổng Thừa kể như không còn nữa. Vụ chiếu đai áo, Tam quốc chí diễn nghĩa sao chép mấy câu thơ khen Đổng Thừa:
    Chớ kể thành hay bại.
    Nghìn thu trung nghĩa bền.
    Xét cho cùng, Đổng Thừa không xứng đáng với lời tán dương trên đây. Đổng Thừa bất quá chỉ là một đứa con hoang bệnh hoạn của mối tình giữa quân phiệt Đổng Trác với Hán triều đã què quặt. Với cái xuất xứ chính trị tàn phế ấy, việc làm của bọn Đổng Thừa mang thuần tính cách phản động. Có lẽ Lưu Huyền Đức cũng nhận thấy như thế mà bỏ trốn trước chăng?
    Lưu Huyền Đức
    Nhân một lần Tào Tháo dẫn Lưu Bị tới gặp Hiến Đế, Hiến Đế hỏi Lưu Bị: Tổ ngươi là ai? Lưu Bị tâu: tôi là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương, cháu xa đức Hiếu Cảnh Hoàng Đế, cháu Lưu Hùng và con Lưu Hoằng.
    Vua lấy sổ tôn tộc ra kiểm xem thấy:
    Hiếu Cảnh Hoàng Đế sinh mười bốn con, con thứ bẩy là Trung Sơn Tĩnh Vương, tên Lưu Thắng, Thắng sinh ra Lưu Chinh. Chinh sinh ra Lưu Ngang, Ngang sinh ra Lưu Lộc v.v.. và trải thêm hai chục lần sinh đẻ nữa đến Lưu Bị.
    Vua so trong thế phả thì Lưu huyền Đức vào hàng chú, Vua mừng lắm mời vào Thiên điện làm lễ nhận họ. Vua bấy giờ nghĩ bụng rằng:
    - “Tào Tháo lộng quyền, việc nước không tự ta làm chủ. Nay người chú anh hùng, may ra ta có người giúp”.
    Thân phận hậu duệ nhà Hán của Lưu Bị quả là mơ hồ. Sở dĩ Hiến Đế nhận ngay bằng chú và Lưu Bị cũng im lặng là vì cả hai đều có nhu yếu chính trị bên trong. Giả thử, Lã Bố bỏ họ Lã mà lấy họ Lưu, rồi cũng nói đại là con cháu Trung Sơn Tĩnh Vương thì Hiến Đế cũng chẳng ngần ngại gì gọi Bố bằng chú. Hai chữ Hoàng thúc trong đầu óc Hiến Đế không mang ý nghĩa máu mủ họ hàng nào hết.
    Vậy nên luận về Lưu Bị, không thể xét trên cái lý lịch tôn thất, mà xét trên lý lịch “dệt chiếu, bán chiếu”.
    Lưu Bị là một người lái buôn nơi thị tứ, gia sản trung bình. Tính tình Bị hào kiệt, từ thủa thiếu thời có nhiều bạn, phần lớn là loại thành thị buôn bán.
    Nguyên nhân khiến Lưu Bị nhẩy vào vũ đài chính trị khởi từ việc hai đại thương gia Tô Song và Trương Thế Hòa (hay Trương Thế Bình) thuê Lưu Bị vũ trang hộ tống hàng hóa của họ chống lại quân Khăn Vàng. Ít lâu sau anh em Lưu Bị mới hưởng ứng việc mộ quân của Lưu Yên.
    Tâm chất Lưu Bị khả dĩ thu gọn vào mấy điểm: “Không ưa đọc sách lắm, thích chó ngựa, khoái âm nhạc, ăn mặc quần áo đẹp, sính kết giao với các hào kiệt". Tóm lại Lưu Bị hoàn toàn mang tác phong một anh hùng thành thị, thương nhân tiểu tư sản.
    Đem so sánh với Tào Tháo về học vấn, Tháo vượt xa Lưu Bị. Tào Tháo quyền trí, làm thơ, viết sách quân sự, Lưu Bị không. Tuy thế Lưu Bị chẳng phải người thiếu sở trường. Sở trường của ông ta là: Chịu đựng, nhẫn nại, khoan hậu, khiêm hư, biết dùng người, dùng người đúng chỗ, yêu mến cán bộ, về cái học thực tế kể ra Lưu Huyền Đức cũng chẳng kém Tào Tháo bao nhiêu.
    Tào Tháo dựa vào quyền trí mà tranh thủ địa vị. Lưu Bị dựa vào cảm tình quần chúng mà tranh thủ địa vị. Vốn là người hồ hải, tang bồng, nên Bị nhận thức được tầm quan trọng của quần chúng và cán bộ quan hệ với sự nghiệp chính trị, vì vậy ngay cả lúc lưu ly, phiêu bạt, Lưu Bị không bao giờ quên săn sóc đến đội ngũ, đến dân chúng. Người dân Tân Dã có câu hát ca tụng đức tính yêu dân của Lưu Bị như sau:
    Tân Dã mục
    Lưu Hoàng Thúc
    Từ khi đến đây
    Dân được sung túc.
    Ông thường nói: “Làm việc lớn, phải cần người, nay người về với ta nỡ nào lại bỏ”. Nhờ đức tính yêu người mà Lưu Bị dầu năm bẩy phen thất điên bát đảo, các cán bộ ly tán đều tìm cách trở về với ông.
    Cuộc đời chính trị của Lưu Bị có hai quan niệm trọng đại đáng kể, đã làm cho ông giác ngộ thay đổi quan niệm chính trị và thay đổi hẳn thân thế sự nghiệp ông.
    - Quan kiện thứ nhất: ông xin Tào Tháo cho đem quân đi chặn đánh Viên Thuật để tránh vạ chu diệt. Đầu đuôi là: Lưu Bị sau khi ký vào tờ chiếu đánh giặc Tháo, mấy ngày sau Tháo sai người vời đến, tiếng rằng uống rượu thưởng mai, nhưng thực ra Tào Tháo muốn dò xét hoạt động của nhóm triều thần. Đàm luận với Tào Tháo xong, về nhà, Lưu Bị biết chắc âm mưu Đổng Thừa chẳng chóng thì chầy cũng vỡ lở, ông nghĩ ngay kế thoát thân, liền thưa cùng Tào Tháo:
    - Nếu Thuật sang với Thiệu, tất phải qua Từ Châu, tôi xin lĩnh một cánh quân đi đón đường đánh chắc bắt được.
    Tào Tháo cười nói:
    - Để ngày mai tâu vua rồi sẽ khởi binh.
    Hôm sau Huyền Đức vào gặp vua, Tào Tháo sai Huyền Đức đốc suất năm vạn quân sĩ, lại sai Chu Linh, Lộ Chiêu cùng đi.
    Huyền Đức về nhà trọ, nửa đêm thu xếp khí giới và ngựa chiến, đeo ấn tướng quân đốc thúc để đi cho chóng. Quan, Trương hỏi rằng: “Sao phen này anh đi vội vàng vậy”. Lưu Bị nói: “Ta ở Hứa Đô như chim ***g cá lưới, chuyến này đi như cá vào bể lớn, chim lên mây xanh, không bị giam hãm trong ***g trong lưới nữa”. Nói xong, thúc quân mã đi cho mau.
    Bấy giờ ở Hứa Đô, Quách Gia và Trình Dục đi khám xét tiền lương về nghe thấy Tào Tháo sai Lưu Bị đem binh sang Từ Châu vội vàng bẩm rằng: “Sao Thừa tướng lại sai Lưu Bị đi đốc binh?” Đời sau có thơ rằng:
    Gióng ngựa dục quân, lòng vội vã
    Nỗi lo canh cánh, chiếu trong đai
    Hổ tung cũi sắt về rừng rậm
    Rồng phá then vàng ra bể khơi.
    Thơ đó chẳng đúng với tâm trạng và hoàn cảnh:
    Ra đi thì sự đã liều
    Mưa mai không biết, nắng chiều không hay
    của Lưu Bị chút nào. Chuyến đi hấp tấp này mục đích để giữ cho thủ cấp khỏi rơi chứ đâu phải tâm trạng hổ về rừng rậm, rồng về biển khơi. Từ nay Lưu Bị bỏ hẳn đường lối dựa vào các triều thần cũ mà gây uy thế chính trị, đồng thời Lưu Bị cũng kiểm soát lại khả năng của mình, ông thấy cần phải đứng về phía lực lượng trí thức bình dân đang trưởng thành.
    Quan kiện thứ hai: gặp gỡ Gia Cát Khổng Minh. Trốn khỏi Hứa Đô bị Tào Tháo đuổi đánh, thua, Lưu Bị sang nương nhờ Viên Thiệu, Thiệu thất trận, Huyền Đức bỏ đi với Lưu Biểu. Sái Mạo tướng của Lưu Biểu lập kế đuổi Huyền Đức, Huyền Đức qua Nam Dương gặp Khổng Minh. Khổng Minh bày kế:
    Đây là địa đồ 54 châu ở Tây Xuyên. Tướng quân muốn thành Bá nghiệp thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía Bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía Nam, còn Tướng quân thì nắm vững lấy nhân hòa. Trước hãy chiếm Kinh Châu làm căn bản, sau đến lấy Tây Xuyên dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc, sau mới tính đến Trung nguyên được.
    Lời nói trên đây mở đường vào cuộc đấu tranh Tam quốc, toàn bộ sự nghiệp, chính lược, chiến lược của Lưu Bị cũng theo cuộc đối sách ở Long Trung mà chuyển thành.
    Hai người đàn bà có ảnh hưởng đến đời chính trị của Lưu Bị
    Cái tài ăn nói duyên dáng của Gia Cát Khổng Minh không những chỉ ở những cuộc du thuyết hoặc trên bàn ngoại giao, nó còn được sử dụng tài tình để kéo về cho Lưu Bị hai bà vợ, ảnh hưởng đến chính cục nước Thục.
    Hai người đàn bà ấy là Tôn phu nhân (Tam quốc chí diễn nghĩa có kể tỉ mỉ) và Mục Hoàng Hậu (Tam quốc chí diễn nghĩa không nhắc đến).
    Tôn phu nhân là em khác mẹ của Tôn Quyền. Trong chuyện không chú ý đến nhan sắc, mà chỉ tả nàng với những cử chỉ cân quắc anh hùng.
    Đặc điểm của cuộc hôn phối giữa Tôn Phu Nhân và Lưu Bị là chính trị chứ không phải là tình ái.
    Tam quốc chí diễn nghĩa, La Quán Trung kể:
    Qua vài hôm, quân do thám về báo:
    - Trong thành Kinh Châu cắm nhiều cờ trắng, ngoài thành mới xây một nấm mồ mới, quân sĩ đều mặc đồ tang.
    Du ngạc nhiên hỏi:
    - Ai chết thế?
    Quân do thám đáp:
    - Cam Phu nhân mới chết, bên ấy đang sửa soạn ma chay.
    Du bảo Lỗ Túc rằng:
    - Kế ta nhất định thành công! Phen này quyết làm cho Lưu Bị phải bó tay chịu trói. Kinh Châu lấy lại dễ như trở bàn tay.
    Túc hỏi: Kế ra làm sao?
    Du đáp: Lưu Bị chết vợ, tất nhiên phải lấy vợ khác. Chúa công có cô em gái hùng dũng lắm, luôn có vài trăm thị tỳ cắp gươm hầu bên cạnh, trong phòng lại bầy la liệt đủ thứ vũ khí, ngay đàn ông cũng không giỏi bằng. Ta dâng thư lên Chúa công, rồi cho người sang Kinh Châu làm mối, rủ Lưu Bị sang đính hôn rồi lừa hắn đến Nam Từ, không gả người cho mà giam lại. Đoạn sai người đến đòi Kinh Châu đánh đổi Lưu Bị.
    Rồi qua những hồi thứ 54, 55, 56 La Quán Trung nói đến các kế sách mà Khổng Minh dùng phá Chu Du trong công cuộc gả bán như sau: Phao tin cưới để Ngô Quốc Thái xen vào, Lưu Bị giả vờ khóc lóc, Lưu Bị nói khích Tôn phu nhân, đón vợ chồng Lưu Bị ở đầu sông. Đó chẳng qua là câu chuyện được tiểu thuyết hóa cho ly kỳ để nâng cao thú vị.
    Sự thật, Lưu Bị làm rể Đông Ngô hoàn toàn do sự thỏa thuận của Tôn Quyền. Về phần Tôn phu nhân nàng cũng vui lòng nhận cuộc gả bán vì chính trị chứ không vì yêu thương. Còn phần Lưu Huyền Đức thì dĩ nhiên anh chàng bằng lòng rồi bởi vì Lưu Bị vẫn ưa lấy thêm vợ. Chính trị ở đây đã tạo nên một hỷ kịch chứ không phải một bi kịch.
    Tôn phu nhân là người đàn bà cực thông minh, nàng hiểu rõ quan hệ Ngô Thục, nên hiến thân cho Lưu Bị. Cho nên khi nước Ngô cần nàng, nàng vẫn sẵn sàng về với Tổ quốc. (Xem lại hồi 61, Triệu Vân chặn sông đoạt A Đẩu).
    Do chính trị, nên Tôn phu nhân tuy cùng nằm chung giường với Lưu Bị nhưng mộng hai người vẫn khác nhau. Tôn phu nhân đem thân làm dâu một nơi xa quê hàng ngàn dặm là nàng đã tự giao mình cho một sứ mạng chính trị, đem đất Thục về cho Ngô.
    Khổng Minh rõ sự thế ấy lắm nên thường nói: “Mối lo sát nách là Tôn phu nhân gây biến động”. Bởi vậy ông luôn luôn căn dặn Triệu Vân, Pháp Chính và Trương Phi đề phòng.
    Sau khi thất bại với mưu toan mang A Đẩu về Ngô làm con tin, Tam Quốc chí diễn nghĩa không nói gì đến cuộc đời của Tôn phu nhân nữa. Nhưng theo truyền thoại thì lúc nghe tin Lưu Huyền Đức chết ở trận Bạch Đế, Tôn phu nhân vật vã khóc mấy ngày rồi tự trầm chết cho vẹn toàn nghĩa vợ chồng. Lối xử sự của Tôn phu nhân đáng kể là một kỳ nữ.

    ***
    Mục Hoàng hậu là con nhà họ Ngô. Họ này rời bỏ quê quán theo Lưu Yên vào Thục. Chuyện đầu cuối như sau:
    Cuối Hán, thời vua Linh Đế, thiên hạ loạn ly, danh thần Hán là Lưu Yên muốn yên thân nên dâng sớ xin vua cho đi làm thái thú quận Giao Chỉ. Nhưng sau nghe thầy số nói có khí tượng Thiên Tử ở Ích Châu, nên Lưu Yên đổi ý xin chuyển sang đất Thục làm Ích Châu mục.
    Đi theo Lưu Yên có toàn bộ tôn tộc nhà họ Ngô. Họ này có cô gái rất mực xinh đẹp, thông tuệ khác thường, thêm nữa được thầy tướng ca tụng không ngớt về quí tướng của nàng. Lưu Yên mới hỏi con gái họ Ngô cho con trai mình là Lưu Mạo.
    Lưu Mạo tính khí điên điên khùng khùng không xứng với Ngô thị, nên dân chúng đương thời thường ví cặp vợ chồng này như phượng hoàng với quạ đen.
    Ít lâu sau, âm mưu hùng cứ của Lưu Yên bị lộ, Hoàng Đế bèn sai con út của Lưu Yên là Lưu Chương về khuyên răn cha. Lưu Chương đến nơi thì vừa vặn Trung Nguyên loạn lớn, Hiến Đế lên ngôi và Đổng Trác nắm quyền. Lưu Yên bèn giữ con ở lại Ích Châu. Cùng lúc đó, con lớn của Lưu Yên là Lưu Phạm thông mưu với Mã Đằng phản Hán nên bị triều đình giết chết. Lại một việc khác xẩy đến là kinh đô Ích Châu bị trời ra tai cháy lớn, Lưu Yên buồn phiền thành bệnh mà chết. Truyền thoại nói rằng: lúc cháy, Lưu Mạo nhát sợ trốn vào góc nhà còn Ngô thị dùng kiếm lệnh của chồng đứng chỉ huy quan quân chữa cháy rất có trật tự. Sau vụ này Lưu Mạo bị mọi người chế diễu, nên mắc cỡ mà điên thật.
    Chức Thứ sử vì thế mà lọt vào tay Lưu Chương.
    Đến lúc Tào Tháo về Trung nguyên nắm quyền, Lưu Chương dâng biểu về và được Hán triều phong cho làm Trấn Uy tướng quân, còn Lưu Mạo làm Bình Khấu tướng quân.
    Công việc trong quân phủ của Lưu Mạo đều do một tay Ngô thị quán xuyến. Nhiều lần Lưu Chương định cướp luôn chức của Lưu Mạo, nhưng e Ngô thị, Lưu Chương đành thôi.
    Về sau Lưu Mạo chết, Lưu Chương tin lời đoán của thầy tướng nên tỏ ý muốn đón Ngô thị sang phủ làm vợ lẽ. Ngô thị dùng Đạo đức Khổng Mạnh để phá bỏ ý tưởng của Lưu Chương, Lưu Chương cũng sợ người đời chê cười hại cho uy tín sự nghiệp nên không dám cưỡng.
    Ba năm qua, Lưu Bị vào Thục, Lưu Chương ra hàng. Lúc này Ngô thị tuổi đã trên ba mươi, nhưng nhan sắc vẫn còn lộng lẫy lắm. Lưu Bị trông thấy đã mê tít cung mây, Bị đem tâm sự trình bầy với Gia Cát Khổng Minh, nhờ Gia Cát đi hỏi. Ngô thị ban đầu từ chối, sau nhờ cái lưỡi lý luận của Khổng Minh, Ngô thị mới ưng chịu.
    Lấy Ngô thị rồi, Lưu Bị xưng Đế phong Ngô thị làm Hoàng hậu. Đến đây lời thầy tướng mới nghiệm.
    Ảnh hưởng của Ngô thị vào sinh hoạt chính trị của Thục là việc: Ngô thị mến Lưu Thiện nên vận động cho Lưu Thiện kế vị Lưu Bị. Nếu không có Ngô thị thì ngôi đế Thục về tay Lưu Vĩnh như ý Lưu Bị vẫn muốn từ trước, và rất có thể chính trị nước Thục đã đổi khác hẳn.


    [1] Trong Tam Quốc chí diễn nghĩa, việc Toản đánh Ký Châu là do chính Viên Thiệu sai, rồi lật lọng đánh Công tôn Toản
    [2] Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười
    [3] Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười một, bản dịch của Phan Kế Bính
    [4] Tam quốc chí diễn nghĩa hồi thứ 20. Bản dịch: Phan kế Bính
  4. longpetrovic

    longpetrovic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2007
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    Thêm vài trang tư liệu cho những người yêu Tam Quốc: http://www.tangthuvien.com/forum/showpost.php?p=6781163&postcount=279 về tính chính thống và giá trị lịch sử đảm bảo hơn hẳn tác phẩm của Vũ Tài Lục cũng như các lạoi văn sách về thời Tam Quốc khác (kể cả Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung)[:D]
  5. anhthanhmay6

    anhthanhmay6 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/09/2006
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    23
    Sử nước ngoài các bạn am hiểu quá nhỉ.Thế thời tam quốc đó tương đương với thời nào của Việt Nam vậy các bác.
  6. htcuong

    htcuong Phải lấy người như anh!

    Tham gia ngày:
    13/02/2002
    Bài viết:
    6.542
    Đã được thích:
    9
    Tương đương với giai đoạn Bắc thuộc. Từ cuối thời Đông Hán, thái thú Giao Chỉ bấy giờ là Sỹ Nhiếp, cùng với 2 em là thái thú của Hợp Phố và Nam Hải nhân lúc phương Bắc rồi loạn, bằng chính sách đối nội đối ngoại khôn khéo đã cát cứ Giao Châu, cai trị được 40 năm. Sau khi Sĩ Nhiếp mất, con là Sĩ Huy nối nghiệp được 1 thời gian ngắn thì bị Tôn Quyền, lúc bấy giờ đã xưng Đế bắt và giết, nước ta thuộc về Đông Ngô. Sau đó là cuộc khởi nghĩa của bà Triệu và bị Lục Dận (Cháu Lục Tốn) đàn áp. Đến khi Ngô chủ Tôn Hạo đầu hàng, nước ta bấy giờ thuộc nhà Tấn.
  7. dty2102

    dty2102 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/12/2011
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0
    Dạ, các bác cho em hỏi Lý Bí có phải là Lưu Bị không ạ?
    Em đọc thấy một pic bên HSO người ta bảo Lý Bí= Lưu Bị, Tôn Quyền= Ngô Quyền. Chẳng hay thực hư sao ạ.
    http://*******.org/forum/showthread.php?t=51737
  8. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Bài viết Tháng Tám, đến nay Tháng Chạp, mà thời gian ngắn để hiển thị vẫn chưa tới.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Chịu khó nghiên cứu Tam Quốc, đến 80 tuổi đem lưỡi câu thẳng ra bờ sông Hồng câu cá,
    ắt sẽ được bầu làm Tổng Bí Thư Đ, *************, hay Thủ Tướng.

Chia sẻ trang này