1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nơi đề cử bài viết cho hợp tuyển của box Lịch Sử Văn Hoá.

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi NguCong, 03/07/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. NguCong

    NguCong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/02/2002
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    0
    Nơi đề cử bài viết cho hợp tuyển của box Lịch Sử Văn Hoá.

    Chào các bạn !
    Ngày hội TTVNonline 27/7 sắp đến gần. Đây là dịp để mỗi box trong mái nhà chung TTVNonline chúng ta thể hiện bản sắc và khẳng định mình.
    Box ta tuy mới thành lập chưa lâu, những với tư cách là một box học thuật quan trọng, tập trung rất nhiều cao thủ bốn phương thì việc cần thiết có một sản phẩm đặc trưng để khẳng định mình lại càng cần thiết hơn.

    Trên cở sở tinh thần đó, " đại hội box Lịch Sử Văn Hoá lần thứ nhất " tổ chức tại quán cà phê Nhân diễn ra vào hồi 8.00 hôm nay đã ra quyết định sẽ cho ra đời một tạp san ( một hợp tuyển ) của box , gồm những bài viết hay nhất về Lịch Sử - Văn Hoá mà box có .
    Tạp san sẽ hình thành trên cơ sở tập hợp những bài nghiên cứu, bài bình luận hay.. về Lịch Sử, Văn Hoá của các thành viên trong box ( khuyến khích những bài tự viết ) và nhiều mục khác.

    7/7, đại hội toàn bộ của box LSVH tổ chức tại Nhân đã ra thông cáo số 2 về nội dung cở bản của hợp tuyển.
    Tôi xin trình bày lại để các bác tham khảo và cho ý kiến.
    Hợp tuyển sẽ gồm các phần sau :
    1 . Phần mở đầu :sẽ là một bài giới thiệu ngắn về box LSVH, về tạp san. Việc
    này chị Quang sẽ đảm nhận.
    2. Phần nội dung :
    Ở phần này chúng ta sẽ tuyển những bài viết về lịch sử văn
    hoá của các thành viên.Do đặc thù của hợp tuyển là nói lên
    suy nghĩ của tuổi trẻ về LSVH nên ưu tiên những
    bài tự viết. Nôi dung các bài cổ thể là về LS, VH hoặc tuỳ bút...
    Trước mỗi bài viết, chúng ta sẽ để nửa trang để giới thiệu về
    thành viên được chọn bài. Bài giới thiệu sẽ do thành viên tự
    viết, nếu thành viên không có điều kiện viết thì Yasunari sẽ
    phụ trách phần giới thiệu.
    3. Phần diễn dàn,
    Sẽ tập hợp một số đoạn tranh luận hay giữa các thành viên về một chủ đề LS,VH nào đó.
    4. Phần vui vẻ.
    Để làm cho hợp tuyển của chúng ta nhẹ nhàng hơn.
    Phần vui vẻ sẽ tập hợp những mẩu chuyện vui về lịch
    sử, văn hoá, những câu đố vui.
    ----------
    Đây là nội dung chính của hợp tuyển đã được thông qua vào 7/7, các bác tiếp tục cho ý kiến và chọn bài vào các chủ đề nhé.

    + Về vấn đề chọn bài vào tạp san. Bài được chọn sẽ dựa trên những nguyên tắc là :
    - Được sự đồng ý của tác giả.
    - Được nhiều người đề cử
    - Khuyến khích những bài tự viết và .. không quá nhạy cảm, lưu ý mọi người không đề cập đến các vấn đề thuộc về LS Việt Nam hiện đại và tình trạng VN đương đại , mong mọi người thông cảm vì trong dịp trọng đại mà mọi con mắt đều đổ vào TTVN này thì " cẩn tắc vô áy náy ".
    ( Việc chọn bài cho tạp san sẽ kết thúc vào 20/7 )

    Note: Nguyên tắc đề cử bài như sau:
    Tất cả các thành viên sẽ tự chọn những bài mình thích, khuyến khích các tác giả tự chọn bài viết của mình( vì chắc chắn tác giả biết đâu là bài viết mình ưng ý nhất ). Các bạn sẽ paste những bài mình đề cử vào chủ đề này ( có kèm theo link, hoặc chỉ ra bài của ai, trong chủ đề nào, và các bác mod sẽ điền giúp cái link vào nhể - thanks ). Các thành viên sau khi đọc bài được đề cử, nếu có cùng quan điểm sẽ vote vào bài. Những bài được vote nhiều nhất sẽ được chọn vào tạp san. Mọi việc tuyển chọn sẽ được tiến hành công khai.
    Mọi góp ý, đề cử cho tạp san xin paste vào chủ đề này hoặc gửi PM cho chúng tôi gồm có NguCong,Yasunari, MinhZhaowei, mystery_aries, Desert Rose

    Mong mọi người lưu tâm để đứa con tinh thần của chúng ta ra đời thành công.






    Cho tớ thêm một ý : chúng ta sẽ lấy cả những đoạn tranh luận hay hay trong các topic nữa , cộng vào đó lời giới thiệu khái quát về nội dung tranh luận , trước đoạn được trích , sau đoạn được trích .







    Được NguCong sửa chữa / chuyển vào 18/07/2002 ngày 01:35

    Được cdtphuc sửa chữa / chuyển vào 18/07/2002 ngày 17:08

    Được chitto sửa chữa / chuyển vào 03:22 ngày 04/06/2003
  2. NguCong

    NguCong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/02/2002
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    0
    Tôi xin đề cử bài đầu tiên
    Qua thời gian - tác giả : Quang
    http://ttvnonline.com/forum/topic.asp?TOPIC_ID=92594&whichpage=1

    Tâm như vạn hoá do tư Việt
    Thân đáo tam sinh bất cố Tần

    Được NguCong sửa chữa / chuyển vào 03/07/2002 ngày 01:21
  3. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    Đây là bài của Quang , đã xin phép tác giả :
    Qua thời gian
    *****************
    Lịch nghĩa là trải qua,là rõ ràng.Sử là ghi chép.Nhưng Lịch sử không chỉ đơn thuần là thu thập thông tin về quá khứ mà còn là những tư tưởng mong muốn phát hiện trên con đường của những sự kiện,hiểu được nó.Vậy đấy là cái mà hậu thế nhận được trong lĩnh vực hiểu biết đời sống con người trước đó đã trải qua.
    Văn hoá là danh từ cửa miệng,sâu vào tâm trí con người,cho dù là một bác nông dân,một anh thợ nề hay một học giả trí thức,đơn giản,văn hoá là môi trường sống của con người về mặt tinh thần và vật chất trải qua thời gian.
    Bỏ qua khái niệm và những sự lý giải cặn kẽ,tôi thích nhìn vào những gì còn lại,những gì đã mất qua thời gian, nói cho cùng năm tháng là thước đo giá trị của Lịch sử và Văn hoá.Đi xa tìm học,đọc Lịch sử Tây Tàu đủ cả,sâu trong lòng vẫn thấy điều thiết thực là hơn,chẳng đâu xa ,lịch sử văn hoá xã hội nước ta cũng tốt đẹp.
    Hôm nay ngó cái TV xem chương trình Phố Hà Nội.Người Việt vốn có câu "sâu rễ,bền gốc".Thoắt giật mình,những khu phố mới,những toà chung cư cao tầng đang thi nhau đua chen mà chưa kịp biết tường tận thế nào có nơi mang danh : Khu phố cổ
    Khu Phố cổ sót lại trên Hà thành hiện thấy chỉ có từ thế kỷ 19,nhưng theo sử sách đích thị đây là nhân lõi của kinh đô Thăng Long từ khi mới thành lập,tức là có đến ngàn năm tuổi.
    Có thể coi không gian khu phố cổ là một hình tam giác cân có đỉnh là phố Hàng Than,cạnh phía đông là đê sông Hồng,cạnh phí tây là các phố Hàng Cót,Hàng Điếu,Hàng Da,đáy là trục Hàng Bông,Hàng Gai,Cầu Gỗ.Phố chi chít dọc ngang như bàn cờ,hầu hết mang tên mặt hàng sản xuất hoặc kinh doanh,nhà thì cùng một loại kiến trúc,san sát hai bên đường theo kiểu nhà ống.Có dịp hãy quan sát kĩ lưỡng những căn nhà ,dài như một cái ống,hẹp và sâu,sâu có khi thông liền ra một mặt phố khác.Gian ngoài là gian dùng để buôn bán hoặc làm hàng,đi vào trong là một khoảng sân lộ thiên để hứng nắng,gió,đi tiếp là vào gian nhà dùng để ăn,ở.Nhà nào cũng bình dị,nhỏ bé,vừa làm nơi sản xuất,vừa làm chỗ ra vào sinh hoạt,hầu hết đều rất thấp,chẳng mấy khi có không gian để trổ cửa sổ,nếu có cũng rất nhỏ.Đứng ở giữa một phố cổ nhộn nhịp sầm uất bán mua,ngắm nhìn những căn nhà liền mái,liền tường,gồng mình chống đối lại với dấu ấn thời gian để nâng đỡ,nương tựa vào nhau,dễ thấy khu phố cổ như một cơ thể gắn bó khăng khít. Thi thoảng bắt gặp những mái đình chùa cong cong,một chút không gian cây xanh mềm mại còn sót lại , giữa cái không gian đô thị vật chất kia,hương vị cổ muôn năm cũ nay thấp thoáng ,ẩn chìm như muốn giữ cho muôn đời tâm linh của người Hà nội xưa.
    Nối với Hồ gươm là Hàng Đào ngược xuống.Được biết dân Hải Hưng (Đan Loan) xưa đến đây nhuộm vải rồi dần dà thành phố bán tơ lụa,gấm,vóc.Bây giờ đi qua bộ mặt khu phố gần như thay đổi,những cửa hiệu đồng hồ sang trọng,bóng nhoáng,dân nơi đây nam thanh nữ tú xa hoa vào loại bậc nhất,chẳng trách từ xưa phố có tiếng là hào hoa nhất đô thành.
    Đi tiếp lên trên là Hàng Đường.Nay,so với Hàng Đào,phố này còn giữ được phần nhiều bóng dáng xa xưa.Vẫn những cửa hàng buôn bán tạp hoá đủ loại,những chị bán hàng xồ xuề phe phẩy cái quạt nan,giữa phố có mái chùa Cầu Đông còn giữ được bức tượng"bụt cười",góc phố có hàng bánh dày,bánh giò,chả cốm ,giò lụa,nem chua đủ loại,người già con trẻ vui vẻ kề cà cầm tay miếng bánh,miếng nem ngồi ăn bên vỉa hè như một thú vui dân dã cố hữu.Quán này có loại bánh dày Tàu rất lạ,bánh to bằng lòng bàn tay,lớp bột mịn màng trắng dẻo bao lấy nhân vừng đen,cắn một miếng ,vừa mới nhận ra vẻ tinh khiết của thứ bột nếp nguyên chất,khô nhưng mịn màng không dai thì vị ngọt bùi của cùi dừa xen lẫn mùi thơm đặc trưng của vừng đen kịp trào ra đúng lúc.Ai thích ăn đồ khô ắt hẳn không nên bỏ qua loại bánh này.Có lẽ,trong những phố cổ Hà thành,tôi thích thú nhất với phố Hàng Đường,mỗi giờ,mỗi ngày đi qua đây tôi đều cảm nhận được những gì của xa xưa không giống trước.Hôm nay phát hiện ra hàng bún bánh đa cua vỉa hè,cũ mà mới,ngày mai Tết đến,chen chân trước chợ Cầu Đông ngắm nhìn những đào,những thược dược,những Violet,mới mà không cũ,hôm nào tháng giêng ngày rộng dài loăng quăng đem tiền mừng tuổi ra cuối phố mua vài gói ô mai,vài cái nơ kẹp tóc nhét vào cặp làm quà đến lớp mừng tuổi cho lũ bạn,đồ quen thuộc nhưng vun đắp thêm một tình cảm mới mẻ vững bền...Đó là sự hoà đồng tự nhiên, là một sự giao hoà từ qua khứ đến hiện tại trong mỗi góc tâm linh nhỏ bé của con người.
    Lại phải kể đến phố Hàng Mã...Những ngày còn thơ dại,tôi theo mẹ lên nhà bà chơi.Bà tôi làm đèn giấy trung thu cổ truyền có tiếng vào bậc nhất Hà thành. Lúc đó Hàng Mã chỉ bày bán đồ chơi làm từ giấy,không có đồ dùng pin và bằng nhựa hiện đại như bây giờ.Dịp trung thu,đi cả dọc phố chỉ thấy hai màu xanh và đỏ làm chủ đạo.Tôi bám áo bà đi xích lô từ Hàng Chuối vòng ra Hàng Mã giao hàng, mỗi bận bán cả trăm cái đèn ***g,để chuẩn bị cho một đợt giao hàng vào trung thu như thế,bà tôi mất nửa năm để quét phẩm,in hoa,gấp,chun và hồ từng chiếc đèn.Không biết bây giờ thế nàonhưng những năm 90,người buôn bán trên Hàng Mã,tay lúc nào cũng đỏ lự,tim tím vì dính phải phẩm màu chưa khô,bán những thứ đồ này,ngoài trung thu ra thì quanh năm trầm lặng,người ta buôn bán hương,giấy tiền vàng âm phủ,có lẽ thế nên ít mau mồm mau miệng.Phố Hàng Mã ngày nay vắng bóng những đèn ***g,những ông tiến sĩ bằng giấy mộc ,thay vào đó là vô vàn màu sắc rực rỡ của đủ loại đồ chơi vui mắt ,vui tai.Đời sống,nhà cửa đầy đủ,văn hoá nhiều mặt đến chỗ suy đồi,nhưng thú vui sắm đồ trung thu cho trẻ nhỏ,cho cả lũ thanh niên vẫn ngày một góp phần khiến một nét văn hoá tươi tắn và nhộn nhịp hẳn lên.
    Khi con sông Tô còn chen chân chảy trong khu phố cổ,người ta nói,có thể mua cá tươi ở phố Chả Cá.Lại có người kể xưa kia phố này mang tên Hàng Sơn,chỉ bán sơn,mãi đến cuối thế kỉ 19 có gia đình họ Đoàn ở số nhà 14 nghĩ ra cách nướng cá làm chả,ăn kèm với bún và một số gia vị,nhiều người thích thú đâm thành tên phố.Trước của hiệu,chủ nhà bày tượng Lã Vọng,một tay cầm cần câu,một tay xách xâu cá,cái tên chả cá Lã Vọng cũng từ đấy ra.Cho đến nay khách nước ngoài vẫn tìm đến phố để yêu cầu thưởng thức món chả đặc sắc này.Khách tới ngồi vào bàn ăn,theo đúng cung cách thì nhà hàng đem đến một cái lò đất con hừng hực than hồng,trên đặt chiếc chảo nhỏ mỡ nổ lách tách vui tai.Xung quanh là vài ba đĩa ra ăn kèm,nhất thiết không thể thiếu thì là và hành hoa.Một bát nước chấm pha chanh,ớt tỏi hoặc mắm tôm tuỳ sở thích,một cuộn bánh đa gỏi,một đĩa bún đơm tơi bông lên theo sợi.Tất nhiên chú ý nhất là đĩa cá chủ đạo.Ngon nhất là làm bằng thịt cá lăng,nếu không may thì dùng cá quả ,cá chuối hay cá trắm đen thay thế cũng được.Cá được lạng ra thành từng miếng không dày cũng không mỏng,bản to vừa,ướp tiêu hành ớt ,sả gia vị vừa ngon,miếng cá bóng màu vàng ngậy của nước nghệ,xếp thành đĩa.Mùa đông,bên ngoài gió rét,mưa phùn lạnh cóng,bên trong chụm đầu quây quanh lò than hồng,đợi chảo mỡ nóng,thả ít hành hoa vào lèo xèo rồi nhúng từng miếng cá cho săn đều hai mặt,gắp ra ngay đặt vào miếng bánh đa cuộn thành gỏi có kèm bún và các loại gia giảm.Cấm cái gỏi cuốn chấm đẫm nước mắm tôm,hoặc mắm tỏi,nhỏ thêm vài giọt cà cuống thật tuyệt.Ngó xung quanh ,không gian mờ mờ,khói thơm lan toả,thật quyến rũ đậm đà..
    Buổi chiều tối mùa đông,bước ra từ hàng Chả cá,đi một đoạn gặp ngay mùi thuốc Bắc đang được sao tẩm trên phố Lãn ông,đi một đoạn lại thoáng nghe tiếng gò bạc,gò đồng ở phía sau,phố Lò rèn,nay là Hàng Dừa,loăng quăng một vòng,thấm mệt quay lại đầu Hàng Gai ngắm những cửa hiệu tranh thêu,lụa Hà Đông trang trọng.Xưa kia nơi đây nổi tiếng bởi con người lịch thiệp và tao nhã vì lòng yêu mến và trân trọng nghệ thuật. Ngay đầu phố men theo lối vào tối và hẹp là hàng Cafe phố cổ,đã bao lâu vẫn giữ được một khoản không gian nguyên sắc nguyên tình.Khách ngồi giữa sân giời,gọi ly càphê trứng,(bác Sốt nhỉ hihihìhì),ngắm buồng chuối cảnh trước mặt đang độ trổ hoa đỏ rực,tựa lưng vào bức tường ẩm mùi rêu phong,nhâm nhi cái vị ngọt mềm và tan nhanh của kem trứng,đứng dậy bước chân vào trong nhà sờ tận tay mân mê những món đồ cũ đầy bí hiểm.Chủ nhà hẳn là người lịch thiệp và nhã nhặn khi để khách mặc sức tỏ ý trân trọng kỉ vật, như nếp xưa , như người Hàng Gai của những căn nhà theo lối sắp xếp cũ, đàm đạo thơ văn giữa sân cảnh và giếng trời ...
    Bước chân ra gặp ngay cái ồn ào của đô thị khi thành phố lên đèn.Bấy nhiêu chưa đủ,nhưng đọng lại trong tâm trí những dư âm của một Hà thành cổ xưa đang bền bỉ , bền bỉ thở cùng nhịp thở thời đại.
    Nếu em là chim non
    Em bay lên bầu trời
    Thì em sẽ chỉ hót
    Cho I-a-xơ nghe
    ==============
    Một hôm đi học qua dòng suối ,
    Biết Tuốt nhẩy lên con cá chuối .
  4. mystery_aries

    mystery_aries Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0
    Mình đề cử bài của Kobeito81, tuy không phải tự viết nhưng cũng khá hay . Sẽ Paste vào đây nhé !
    Hà Nội đã có bao nhiêu tên gọi
    Thăng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trướckhi trở thành kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kì nhà Tuỳ (581-618) , nhà Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc . Từ khi hình thành cho đến nay , Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi . Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại :Chính quy và không chính quy theo thứ tự thời gian như sau :
    Tên chính quy
    1.Long Đỗ : Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường , vào năm 866 đắp thành Đại La , thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ . Do đó trong sách sử thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ . Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10(1397) đời Trần Thuận Tông , Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời đô về đất An Tôn , phủ Thanh Hoá. Khu mật chủ sự lúc đó là Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can rằng : " Ngày xa , nhà Chu , nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên , có sông Lô Nhị ( sông Hồng) núi cao sông sâu , đất bằng rộng rãi". Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi của Hà Nội thời xưa.
    2.Tống Bình: là tên do bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy(581-618), Đường(618-907) đặt cho trị sở của chúng, tức Hà Nội ngày nay. Trước đây "trị sở" (hiểu như là cơ quan hành chính trung ương) của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tuỳ, chúng mới chuyển đến Tống Bình.
    3.Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng ngoài cùng bao bọc lấy kinh đô. Theo kiến trúc xưa, kinh đô thường có "Tam trùng thành quách" : Trong cùng là "Tử cấm thành" nơi và hoàng tộc ở, giữa là "Kinh thành" và ngoài cùng là "Đại La thành". Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chĩa hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có đoạn :"...Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương(tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..."
    4.Thăng Long: Đây quả là cái tên có tính văn chương nhất , gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Lý do hình thành tên này đã được nêu khá cụ thể ở trên nên Tớ không nhắc lại nữa.
    5.Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "...Mùa hạ , tháng 4 năm Đinh Sửu(1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương(tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô...". Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục , sử thần nhà Nguyễn có chú thích: "Đông Đô tức là Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô".
    6.Đông Quan: Đây là tên do quân xâm lược nhà Minh đặt cho Thăng Long-Hà Nội với hàm nghĩa kỳ thị kinh đô của nước ta, chỉ được chúng ví như "cửa quan phía Đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly rồi đặt bộ máy cai trị nước ta ở thành Đông Đô, đổi tên Đông Đô thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý(1408) Giản Định Đế bảo các quân " Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng".
    7.Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: " Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi(1427) Vua(tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở Đông Kinh, tức là thành Thang Long. Tương tự như Đông Đô , vì Thanh Hóa còn được gọi là Tây Đô nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh".
    8.Bắc Thành: Đời Tây Sơn(Nguyễn Huệ-Quang Trung 1787-1802). Vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân( Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc Thành.
    9.Thăng Long: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân , không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời được nhân dân sử dụng phổ biến nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là "Rồng" thành chữ "Long" là "thịnh vượng" với lý do là Rồng là tượng trưng cho Vua, nay Vua không còn ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "Rồng"
    10.Hà Nội: vẫn Sách Lịch sử Hà Nội cho biết : "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp mới mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của tỉnh Hà Nội".
    Tên không chính quy
    Là tên trong văn thơ , ca dao, khẩu ngữ ... vẫn được dùng để chỉ Thăng Long-Hà Nội.
    Tràng An: Bắt nguồn từ Trường An vốn là kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất Trung Quốc. Do đó, được các nhà Nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó dân gian mới sử dụng nhiều trong ca dao , tục ngữ để chỉ Thăng Long.
    Hiếm có người Việt Nam nào lại không biêt hai câu:
    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
    Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
    2.Phượng Thành(Phụng Thành): xuất hiện trong bài Phú Nôm rất nổi tiếng tả cảnh mùa xuân ỏ Thăng Long :" Phượng Thành xuân sắc phú"(Tả cảnh săc mùa xuân ở thành Phượng) của ông Trạng Nguyễn Giản Thanh.
    3.Long Biên sách Quốc trềi đăng khoa lục có chép đoạn về tiểu sử Tam Nguyên Trần Bích San(1838-1877), ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, co 2 câu đầu như sau :
    Long Biên tài hướng
    Phượng Thành hồi
    Triệu đối do hỹ, vĩnh biệt thôi
    Dịch nghĩa :
    Nhớ ngươi vừa tự thành
    Long Biên về tới Phượng Thành
    Trẫm còn đang hy vọng
    Triệu ngươi vào triều bàn đối sách, bỗng vĩnh biệt ngay
    Thành Long Biên ở đây , vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giwò Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức triệu ông về Kinh Đô Phú Xuân để sung chức thần qua nước Pháp, nhưng chưa kịp đi thì Ông mất.
    4.Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng Kỷ Dậu(1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quan phục kỷ thực(Ghi chép việc khôi phục Long thành)
    5.Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội, được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Và hiện nay cũng được dùng tương đối phổ biến.
    6.Hoàng Diệu: sau Cách mạng Tháng Tám 1945 , đôi khi trong các sách báo chúng ta có sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
    Ngoài ra m trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long-Hà Nội như : Kẻ Chợ(Khéo tay hay làm nghề đất lề ẻ Chợ-Khôn khéo tợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh , tên này để nói đất Kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long(Chẳng thơm cũng thể hoa nhài , Chẳng lịch cũng thể congngười Thượng Kinh); Kinh Kỳ , tên này nói đất có Kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh Kỳ , thứ nhì phố Hiến)...
    Loại tên "không chính quy" của Thăng Long-Hà Nội còn nhiều và được sử dụng khá linh hoạt trong văn học , ca dao...khó có thể kể hết được.
    Theo tạp chí Xưa và Nay
    Hy vọng không ai phản đối hay đòi bản quyền !
    mystery_aries
  5. mystery_aries

    mystery_aries Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0
    Đề cử thêm một bài nữa - của Anomonymous trong title " Các cụ ta nói tiếng Tàu " - trang 2 . Cũng Paste luôn dzô đây để mọi người tiệ theo dõi :
    Trước hết nói về lịch sử ngôn ngữ TQ và VN là như thế này:
    Trước kia, từ nhà Chu về trước (tức là tính trước Tần Thuỷ Hoàng) thì thực ra TQ cũng chỉ là một vùng rất nhỏ so với TQ bây giờ nằm ở hạ lưu sông Hoàng Hà và Trường Giang (Dương Tử). Còn vùng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) vẫn chưa được coi là thuộc TQ. Hơn nữa, khi đó TQ không chỉ chia 5 xẻ 7 mà bị chia trăm xẻ ngàn nên mỗi ngôn ngữ mỗi nước nhỏ cũng khác nhau rất nhiều. Đến Tần Thuỷ Hoàng thì Lý Tư đã làm nhiệm vụ thống nhất chữ viết toàn TQ, đó là một công lao rất lớn luôn được nhắc đến khi nói về TTH (TTH đã nói là "xa đồng quỹ, thư đồng văn"). Vào thời kỳ đó, nước ta chưa bước vào thời kỳ Bắc thuộc, theo mình biết thời đó ta đã có chữ viết của riêng mình, người ta bảo nó chữ như giun theo kiểu Lào và Campuchia (cần nói thêm rằng ngôn ngữ của ta thuộc nhóm Môn-Khmer) bây giờ nhưng hiện nay không ai biết thứ chữ đó nữa.
    Từ đời nhà Tần, TQ bắt đầu xâm lược ta, nhưng chẳng mấy chốc thì nhà Tần sụp đổ và nhà Hán thay. Các vua nhà Hán cũng như các đời vua sau này luôn có ý định đồng hoá dân tộc Việt, và chữ Hán trở thành thứ chữ bắt buộc trong các kỳ thi (tất nhiên là mình chỉ nói đến những lúc có giặc thôi), và chữ Hán xâm nhập vào ta từ đó. Nhưng người TQ đã không đạt được mục đích, ban đầu người Việt đã cố dùng chữ Hán để ghi các âm Việt bằng cách dùng những từ phát âm gần đúng trong tiếng Việt, nhưng tất nhiên những chữ đó không thể đủ để ghi những từ trong tiếng Việt được. Vì vậy, chữ Nôm đã ra đời (có trên dưới 1 vạn chữ, mình sẽ nói cấu tạo chữ Nôm ở dưới). Người ta thấy rằng nhiều chữ Nôm đã xuất hiện ngay từ thế kỷ I nhưng đến tk VI thì mới phát triển nhất. Tuy nhiên chữ Hán vẫn khá phổ biến trong sáng tác thơ văn của VN, hầu hết các trước tác đều bằng tiếng Hán, ngay cả đến đời Trần thì Hịch tướng sĩ và đến đời Lê thì Bình Ngô đại cáo vẫn được viết bằng tiếng Hán. Chỉ đến sau này mới có phong trào khuyến khích dùng chữ Nôm thay chữ Hán (nhất là Hồ Quý Ly, nhưng vẫn trước Nguyễn Trãi), một số tác giả thơ Nôm nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Du và đến Nguyễn Khuyến thì đã khá gần ta rồi.
    Cần phải nói rằng chúng ta chưa bao giờ được gọi là nói tiếng Hán cả, tiếng Việt ta đang dùng vẫn được dùng từ thuở sơ khai, tất nhiên có thể có nhiều khác biệt về cách phát âm và ngữ nghĩa của nhiều từ. Chữ quốc ngữ ta đang dùng chỉ là phần sáng tạo về chữ viết của các nhà truyền đạo Bồ Đào Nha.
    Chữ Hán: Nói lại rằng chữ Hán là chữ của người TQ dùng vào thời Hán nhưng đã được đọc trệch theo âm tiếng Việt. Tuy nhiên cách phát âm đó khá gần với cách đọc thật. Tuy nhiên đến nay, cách phát âm của người TQ đã biến đổi rất nhiều. Người ta thấy rằng vào đời nhà Đường (tức là bắt đầu sau nhà Hán khoảng 3 thế kỷ và kết thúc sau 7 thế kỷ) thì cách phát âm vẫn khá giống với cách đọc chữ Hán. Vì thế cho nên người ta nói rằng ở TQ hiện nay không ai có khả năng làm thơ Đường luật nữa do sẽ thất niêm vì lý do phát âm khác nhau. Chữ TQ hiện nay cũng có rất nhiều chữ được lược bớt các nét cho đơn giản (gọi là lối viết giản thể, hơn một nửa số chữ TQ đã có cách viết mới, có những chữ có đến 3 cách viết), nhưng nếu bạn viết chữ theo kiểu cũ thì người TQ vẫn có thể đọc được. Nhưng mà các bạn mới học tiếng TQ thì mình thử viết một số chữ kiểu cũ họ lại không biết.
    Chữ Nôm: thực chất là cách viết theo hệ thống của chữ Hán, vẫn dùng 214 bộ, 6 nét vốn có của chữ Hán. Có một số cách tạo thành chữ Nôm như sau:
    +lấy luôn từ chữ Hán: tức là những chữ có sẵn trong tiếng Hán, mượn cả âm lẫn nghĩa. Hiện nay đây chính là những từ Hán Việt. Cái này khỏi phải lấy ví dụ nữa nhé.
    +mượn âm: mượn một chữ có âm giống hoặc gần giốn trong chữ Hán và gán cho nó một nghĩa mới của tiếng Việt. VD: "qua" (tiếng Hán là cái mác để đánh nhau). Cũng vì lý do này mà một chữ Nôm có thể có cách đọc, mỗi cách đọc lại ứng với một nghĩa khác nhau. VD: "nhưng" và "những" (2 chữ này trong chữ Nôm viết giống nhau và giống chữ "nhưng" trong tiếng Hán).
    +mượn nghĩa: mượn một chữ phát âm khác hẳn nhưng lại giống nghĩa trong tiếng Hán. Như vậy, những chữ này trong tiếng Hán đọc một kiểu nhưng chữ Nôm lại đọc một kiểu. VD: "cụ" (nghĩa là sợ hãi) trong tiếng Hán đọc là "sợ" trong tiếng Nôm.
    +ghép chữ: có thể coi là phổ biến nhất, nó tương tự với kiểu hình thanh trong việc lý giải nguồn gốc một lượng lớn chữ Hán (trong chữ Hán, có nhiều chữ do ghép từ 2 chữ lại, một chữ có nghĩa gần giống và một chữ có cách phát âm gần giống, và tạo ra một chữ mới, nên gọi là hình thanh), chỉ khác là mượn một chữ trong tiếng Hán có nghĩa giống hoặc tương tự ghép với một chữ Hán khác có cách phát âm giống hoặc tương tự và tạo nên một chữ Nôm mới. VD: chữ "má" ghép từ hai chữ trong tiếng Hán là "nhục" (nghĩa là thịt, gần về nghĩa) và chữ "mã" (là con ngựa, gần về phát âm).
    Ngoài ra cũng có nhiều chữ Nôm có nhiều cách viết khác nhau, lý do là mỗi vùng có một cách sáng tạo khác nhau. Như vậy bạn cũng thấy rằng thực tế chữ Nôm khá lộn xộn. Những người học chữ Nôm bây giờ nhiều khi nhìn một văn bản (nếu có ít chữ) mà không biết là chữ Nôm hay chữ Hán, nếu nhận ra là chữ Nôm thì nhiều khi cũng không biết là đọc như thế nào và nghĩa như thế nào.
    Hổng bít mọi người nghĩ sao ?
    mystery_aries
  6. mystery_aries

    mystery_aries Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0
    Thêm bài nữa của Beethoven nè các bạn :
    Duy về cái sự Trịnh-Nguyễn thì tôi xin phép bàn thêm và mở rộng ngọn nguồn nó ra một tí.
    Chắc các bác vẫn còn nhớ chuyện nhà Hậu Lê (hay còn gọi là Lê so) sau thời vua Lê Thánh Tông thì dần dà suy yếu-->nội loạn-->dến Lê Cung Hoàng (Lê Xuân) thì mất nuớc vào tay Mạc Ðang Dung. Dung là nguời khôn ngoan, muu luợc, giữ tới chức Thái phó, từng buớc thoán doạt quyền bính dể thoán ngôi. Nam 1527, sau khi bức tử Lê Cung Hoàng khi ấy mới 21 tuổi, Dung lập ra triều Mạc.
    Triều Mạc thực ra cung chẳng dến nỗi nào. Tuong dối thịnh trị! Mạc Ðang Dung theo lối nhà Trần, sớm thoái vị dể nhuờng ngôi cho con là Mạc Ðang Doanh, còn mình làm Thái Thuợng Hoàng nhung vẫn quán xuyến những công việc trọng dại của quốc gia. Cứ 3 nam một mở kỳ thi hội và thi dình. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm-Trạng Trình của chúng ta dã dỗ Trạng Nguyên và rất duợc vị nể duới triều Mạc. Ân tình ấy, Bạch Vân cu si Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này có lẽ dã báo dáp bằng cách mách nuớc cho Mạc Hậu Hợp ?oCao Bằng tuy tiểu, khả dung sổ thể? (Cao Bằng nhỏ nhung cung nuong thân duợc vài dời).
    Ðến thời Mạc Ðang Doanh, ở khu vực rừng núi hiểm trở Thanh Hóa giáp biên giới Việt Lào, một lực luợng mới dang ầm thầm nổi lên mà sau này sẽ kết liễu họ Mạc. Nguyễn Kim-cựu thần trung thành của nhà Lê tích cực mộ quân, quy tụ anh hào các noi dể khởi phục tiên triều. Ðến nam 1533 thì Kim lập Lê Duy Ninh, hạt giống còn roi rớt của nhà Lê lên ngôi, Ninh lấy hiệu Lê Trang Tông, mở dầu thời kỳ Lê Trung Hung (các bác còn nhớ chuyện Chúa Chổm không ạ?) Nguyễn Kim có nguời con rể tên là Trịnh Kiểm và con trai tên là Nguyễn Hoàng.
    Lực luợng nhà Lê Trung Hung ngày càng lớn mạnh. Nam 1543 Nguyễn Kim chiếm Tây Ðô (Thanh Hóa), cho dóng dô ở dấy, hình thành nên cục diện ?oNam-Bắc triều?. Cung mở khoa thi dàng hoàng nhu ai, nam 1554 khoa thi dầu tiên tuyển mộ duợc khá nhiều nhân tài phò tá. Nhiều van nhân võ tuớng trong thiên hạ bỏ Mạc mà phù Lê. Nam 1545, Nguyễn Kim không may bị hàng tuớng của nhà Mạc dánh thuốc dộc chết, con rể Trịnh Kiểm lên nắm quyền, bắt dầu thời kỳ ?ovua Lê-chúa Trịnh?. Nam 1577 Mạc Kính Ðiển dem quân tiễu phạt, không ngờ thua to phải nhảy xuống sông mới thoát. Trịnh Kiểm lại khôn khéo cho quân bang rừng vuợt núi, vòng ra sau lung Kinh thành mà dánh vào hậu phuong nhà Mạc nhu Tuyên Quang, Son Tây?, tạo thành thế gọng kìm. Mạc ngày càng lụn bại, thêm nỗi dến dời vua Mạc Hậu Hợp thì ông này sa vào gái gú, ruợu chè suốt ngày( lòng nguời chán nản. Ðến 1592, thuỷ quân Lê Trung Hung dánh tổng lực vào Hải Duong, áp sát Kinh thành, truy duổi bắt giết gần hết tôn thất nhà Mạc. Những nguời sống sót chạy lên Cao Bằng. Nhà Mạc-Cao Bằng còn kéo duợc thêm 5 dời nữa, dến 1677[/b[ (dời vua Mạc Kính Vu) mới chịu dứt bóng. Tuởng từ nay sẽ chỉ còn một nhà Lê, song dất nuớc ta vẫn chua hết cảnh phân tranh?
    Sau khi lên nắm quyền, Trịnh Kiểm bắt dầu ngấm ngầm hãm hại con cháu Nguyễn Kim dể dộc tôn quyền lực. Nguyễn Uong, con truởng Nguyễn Kim là nạn nhân dầu tiên. Truớc tình cảnh ấy, dể tìm cách thoát thân, nam 1558 Nguyễn Hoàng mới vận dộng chị mình là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa, khi ấy còn là miền viễn biên hoang dã, rừng rú. Kiểm vờ nghe vợ nhung ý thực là nghi Nguyễn Hoàng sẽ gục truớc vô vàn gian khổ, giặc giã trong ấy. Lệnh ban ra, co hội sống sót dã mở rộng truớc mắt, dù dang giữa ngày dông tháng giá, Nguyễn Hoàng tức khắc lên thuyền vuợt biển vào Nam. Cùng di là khá nhiều thân thích, họ mạc (chủ yếu có gốc ở huyện Tống Son, Thành Hóa) cùng rất nhiều quân thần trung thành với triều Lê, uớc lên dến nghìn nguời. Ðến Quảng Trị, Nguyễn Hoàng cho dong thuyền vào cảng Cửa Việt, lập dinh thự ở Ái Tử thuộc huyện Ðang Xuong, Quảng Trị. Tiếc là không có cái dài kỷ niệm nào ở noi này, bởi Ái Tử dã ghi dấu một cột mốc rất lớn trong hành trình Nam tiến của dân tộc Việt.
    Thế kỷ 17 dáng phải duợc coi là một trong những thế kỷ dặc sắc nhất trong lịch sử dân tộc. Ðặc sắc, bởi cha ông chúng ta - những nguời có khi suốt dời không ra khỏi luỹ tre làng, lên dến huyện có khi dã coi là sự kiện lớn trong dời, dứng truớc biển nhung chua bao giờ có nổi dội thuyền vuợt biển xa... - mà nay lại ở trong vai trò của những nhà thám hiểm (bất dắc di), di vào một vùng dất lạ dầy bất trắc và hiểm nguy.
    Có ba vấn dề sống chết dối với Nguyễn Hoàng lúc này là khẩn truong xây dựng lực luợng quân sự, thu hút thêm càng nhiều càng tốt dân dịnh cu và mở rộng lãnh thổ. Có thể nói ông cung nhu một vài dời chúa Nguyễn về sau dã giải quyết cả ba vấn dề này một cách xuất sắc.
    Không có quân dội vững mạnh thì Nguyễn Hoàng không thể dối phó với Trịnh Kiểm cung nhu những sắc dân Champa dịa phuong dang tức giận vì bị mất dất. Về mặt số luợng quân, rõ là Ðàng Trong không thể ganh dua với Ðàng Ngoài có dân số vuợt trội. Vậy là chỉ còn một con duờng xây dựng lực luợng tinh nhuệ, thiện chiến và phải chuyên nghiệp, tận dụng những khí tài quân sự hiện dại và hữu hiệu nhất dể gia tang thuong vong cho phía dối phuong. Cho nên không có gì lạ khi các chúa Nguyễn rất chú trọng vào pháo binh và tuợng co.
    Tôi dọc duợc một số tài liệu cho biết khoảng giữa thế kỷ 17, chúa Nguyễn dã có trong tay hon 200 trọng pháo, chủ yếu là nhờ các thuong gia và giáo si Tây phuong mua về từ Macao. Nửa sau thế kỷ 18, số trọng pháo dã lên tới 1200 khẩu, áp dảo hỏa lực của Ðàng Ngoài. Lính Ðàng Trong cung nổi tiếng là những tay súng thiện xạ, bách phát bách trúng. Tuợng co thì vô tu bởi voi ở Ðàng Trong rất sẵn. Báo cáo của một thuong gia Hà Lan nói là nam 1642, dội tuong co của chúa Nguyễn dã có khoảng 600 thớt voi.
    Pháo binh và voi rất phát huy tác dụng khi giao chiến trên dịa hình tuong dối bằng phẳng. Với hai bửu bối này, lực luợng quân sự Ðàng Trong dã dẩy lui những dợt tấn công của quân Trịnh có quân số gấp dôi, thậm chí gấp bốn.
    Nói thêm với các bác một chút về chế dộ binh dịch của Ðàng Trong. Tất cả thanh niên trai tráng từ 16 tuổi trở lên dã có nghia vụ tòng quân, dến 60 tuổi mới duợc về nhà (chẳng biết còn sống duợc mà về không?). Khác với chúa Trịnh gọi dân là ?obách tính? (tram họ), chúa Nguyễn gọi dân là ?oquân dân?. Bởi quân với dân thì cung gần nhu là một. Tuy vậy, dể dảm bảo dân số vẫn sinh sôi dều dặn, chúa cho phép binh lính mang vợ vào ở cùng doanh trại?
    Có thể các bác sẽ thắc mắc rằng các chúa Nguyễn lấy dâu ra tiền dể trong một thời gian ngắn xây dựng một lực luợng quân sự tinh nhuệ nhu thế? Phi thuong bất phú. Chủ yếu là nhờ thuong nghiệp cả thôi. Nhờ mở rộng cửa buôn bán với nuớc ngoài, quan hệ tốt với thuong nhân và giáo si Tây phuong, Nhật Bản, Trung Hoa?, chua kể Ðàng Trong khi ấy lại dóng cả vai trò diểm trung chuyển hàng hóa trong khu vực, nên những khoản thuế vào túi chúa Nguyễn thật nhiều không tả xiết. (Chuyện này trong chủ dề ?oÐã có truyền thống trọng tín nghia?? bác Cuoihaymeu và tôi cung có dề cập dến)
    Thu hút dân dến dịnh cu cung nằm trong chiến luợc tạo nguồn nuôi và bổ sung quân dội, dồng thời tạo sức ép lấn thêm dất của Champa và các tộc nguời thiểu số khác. Chúa Nguyễn có những những chính sách rất cởi mở dành cho dân tứ xứ, trong dó có một bộ phận lớn Hoa kiều ?ophục Minh phản Thanh? (nhu Mạc Cửu) dến khai hoang. Dân khai hoang duợc sở hữu dất của họ. Không phải dóng thuế trong ba nam dầu tiên, thậm chí một số vùng duợc miễn thuế hoàn toàn. Ngoài ra, nạn dói và giặc giã khủng khiếp ở Ðàng Ngoài thời Nam-Bắc triều cung góp phần thúc dẩy một bộ phận lớn nông dân (dặc biệt ở hai tỉnh Thanh, Nghệ) rời bỏ quê huong chạy vào Ðàng Trong. Ðàng Trong khi ấy có sức quyến ru nhu một miền dất hứa, noi nguời nông dân không phải è cổ gánh suu cao thuế nặng (nhất là thời kỳ dầu), noi họ duợc tự do khai khẩn và canh tác trên những thửa ruộng thẳng cánh cò bay?
    Về chính sách mở rộng lãnh thổ, phải nói chúa Nguyễn dã gặp duợc cả thiên thời, dịa lợi và nhân hòa. Thiên thời vì khi ấy Champa dã rệu rã lắm, hon nữa Champa không phải là một khối thống nhất mà là liên minh của nhiều bộ tộc, dễ bị ?ochia dể trị?. Nguời Champa còn chủ dộng dời thủ phủ của họ lùi dần về phía Nam, ảnh huởng và quyền lực của chính quyền trung uong lên vùng giáp ranh vì thế mà cung nhạt di. Ðịa lợi vì dịa hình suốt một dải miền Trung không nối liền mà bị cắt khúc bởi các con sông dâm ra biển, thuận cho chiến thuật ?ocắt từng miếng bánh?. Nhân hòa vì bản tính mềm mỏng, khôn khéo và dễ thích ứng của dân Việt ta. Cho nên suốt mấy thế kỷ ?omở rộng cuong vực?, không xảy ra uýnh nhau lớn giữa dân bản dịa và dân di cu, kể cung là một diều thần kỳ.
    Nếu tôi nhớ không nhầm thì cách dây chua lâu, cô bé Roses xinh dẹp của chúng ta có thắc mắc tại sao chuyện Nam tiến và các chúa Nguyễn ít duợc nhắc dến và dề cao trong chính sử. Roses dã thắc mắc dúng. Nguyên nhân thì các bác dã nêu ra nhiều, nhung tôi cung mạn phép dua ra thêm một lý giải nữa.
    Trong tâm thức của nguời Việt (dặc biệt là nguời Bắc), có hai diều thiêng liêng và rất nhạy cảm. Thứ nhất là truyền thống chống ngoại xâm và di kèm với nó dôi khi là tình cảm thù ghét ngoại bang. Thứ nữa là ý thức coi trọng sự doàn kết và thống nhất, mà cụ thể với nguời nông dân là doàn kết và thống nhất trong họ mạc và làng xóm.
    Thế mà hành trình Nam tiến dã phá vỡ mối liên kết cộng dồng trong làng xóm và tai hại thay, gắn liền với cục diện phân chia dất nuớc. Nguyễn Ánh-hậu duệ các chúa Nguyễn, thì liên kết với ngoại bang dể giành lại quyền lực, liên kết hết với quân Xiêm lại dến quân Pháp.
    Phạm vào hai diều thiêng ấy nên không tránh khỏi khuynh huớng coi nhẹ lịch sử Ðàng Trong trong chính sử?
    Xin duợc tạm dừng ở dây. Lần sau tôi sẽ xin tiếp tục hầu chuyện các bác về sự hòa nhập van hóa của nguời Việt ta ở Ðàng Trong
    --------------------------------------------------------------------------------
    2 nhân vật quan trọng nhất của Nhà Nguyễn, chúa Nguyễn Hoàng và Hoàng đế Nguyên Ánh
    -Nguyễn Hoàng là con thứ của Nguyễn Kim (người có công đánh Mạc phục hưng nhà Lê, chính thức mở ra đời Lê trung hưng. Nguyễn Kim sau được con cháu truy tôn là Triệu tổ Tĩnh Hoàng đế).
    NH sinh năm 1525 (tháng 8 năm Ất Dậu)
    Vào trấn thủ Thuận Hoá năm 1558 ( tháng 10 - Mậu Ngọ). 12 năm sau (1570) chính thức cai quản toàn bộ vùng phía Nam ( trước đó ngoài Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hoá còn có trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Bá Quýnh)
    Năm 1593 ( Quý Tỵ) được phong làm Thái Uý, Đoan quốc công. Trong thời gian ở ngôi, Nguyen Hoàng chỉ một lần đánh lớn với Chiêm Thành ( lúc này đã tan rã thành các tiểu quốc),trạn đánh xảy ra vào năm 1611 ( Tân Hợi ), biên cương được mở rộng đến Phú Yên ngày nay.
    Ông ở ngôi chúa 55 năm, được dân sùng bái gọi là chúa Tiên. Mất tháng 6 năm Quý Sửu ( 1613) thọ 88 tuổi.
    Sau được con cháu truy tôn làm Thái tổ Gia Dụ Hoàng đế.
    Trừ 2 cha con N Kim, N Hoàng, còn lại tất cả các vua chúa Nguyen đều mang đệm là Phúc.
    Có 2 điều thú vị liên quan đến NHoàng mà nay trở thành 1 nét văn hoá phổ biến của người miền Nam. Thứ nhất là chữ Hoàng phải kiêng đi mà gọi chệch thành Huỳnh trong mọi trường hợp giao tiếp, dù văn bản hay ngôn bản. Thứ 2 là vì N Hoàng là con thứ nên người miền trong gọi con cả của mình là Hai ( anh Hai ) chứ ko gọi là cả hai nhất hay một ... , con thứ gọi là anh Ba ...
    Hiện nay Nguyễn Hoàng chưa được coi là danh nhân thì phải. Ở Huế nay có một bến xe nhỏ nằm ngay dưới chân Kinh thành Huế mang tên Nguyễn Hoàng. Tôi ko rõ liệu có đại lộ hay một công viên, quảng trường nào trên đất nước VN này mang tên ông chưa, nhưng ai mà chẳng biết một câu nói nổi tiếng của nhà thơ người Đa-ghet-xtan A-bu-la-tip " Nếu ta bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào ta bằng đại bác". Các bác nhỉ.
    -Nguyễn Ánh ( Nguyễn Thế Tổ) họ tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Chủng, tự là Phúc Ánh, sinh ngày 15-1-Nhâm Ngọ (1762)
    Ông là con thứ 3 của Nguyễn Phúc Luân ( tức Nguyễn Phúc Kỳ ), cháu của Chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Nguễn Phúc Luân bị Trương Phúc Loan hại chết vào năm 1765, 4 anh em của Nguyễn Ánh cũng mất sớm, cả nhà chỉ còn duy nhất N Ánh.
    Năm 1774, quân Trịnh đánh chiếm Phú Xuân, N Ánh theo chú ruột là chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định. 1777, Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn đánh đuổi ở Gia định, trên đường rút lui bị Tây Sơn giết.
    1780 Nguyễn Ánh chính thức lên ngôi vương( chứ ko lên ngôi chúa), quy tụ lực lượng chống Tây Sơn.
    N Ánh lần lượt dánh bại các lực lượng Tây Sơn, năm 1802 ( ngày 2-5-Nhâm Tuất) Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long.
    Ông ở ngôi 17 năm, mất ngày 19-5-Kỷ Mão ( 1819 ) thọ 57 tuỏi.
    Nguyễn Ánh rất được dân miền trong sùng bái, cũng như triệu tổ Tĩnh Hoang đế Nguyên Hoàng vậy. Chính vì được nhân dân che chở nên Nguyễn Ánh nhiều lần thoát khỏi tay Tây Sơn chỉ trong gang tấc. . Và cũng rất nhiều lần Nguyễn ÁNh bị Nguyễn Huệ đánh cho tơi bời đến nỗi chỉ còn một mình một ngựa chạy tháo thân, nhưng ngay sau khi N Huệ rút về thì chẳng bao lâu N Ánh lại mộ đủ lực lượng tiếp tục chiến đấu chống Tây Sơn. Cho nên nhiều người đã nói Trời giúp Nguyễn Ánh làm vua. Vở tuồng cổ nổi tiếng "Gia Long phục nghiệp" cũng có đoạn nói về N Ánh bị Tây Sơn đuổi gấp đến nỗi cưỡi ngựa lao cả xuống sông bỏ chạy, lao ra đến giữa dòng thì bỗng có cá thần xuất hiện đưa sang sông giúp.
    So với nhà Trịnh thì nhà Nguyễn sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt hơn.Cuộc đấu tranh sinh tồn đã khiến các đời chúa Nguyễn ra sức chăn dân mở nước thay vì ăn chơi hưởng lạc, cho nên những thế kỷ chúa Nguyễn trị vì ở đàng Trong là một giai đoạn khá thịnh trị . Ngoài việc mở rộng lãnh thổ, các chúa Nguyễn đã có công thúc đẩy sự phát triển của thương nghiệp, tức là mở cánh cửa cho một phương thức sản xuất mới mẻ và tiến bộ vào VN.
    4 đời vua đầu, triều Nguyễn là một vương triều hùng mạnh vào hàng bậc nhất trong lspk. (1802-1884) , sau đó là một giai đoạn gần 200 năm làm bù nhìn yếu ớt.
    Nói chung dưới triều Nguyễn lần đầu tiên cả nưóc thống nhất dưới một chính quyền, bao trùm cả lãnh thổ 2 đàng. Quốc hiệu Việt Nam cũng chính thức được dùng vào thời này. 1802 N Ánh đặt tên nước là Nam Việt, 1804, nhà Thanh đổi lại thành Việt Nam và tên này chính thức dùng từ đó. Đến Minh Mạng lại đổi thành Đại Nam, nhưng cuối cùng thì 2 từ VN vân thông dụng hơn cả. ( Đấy là nói về sử dụng quốc hiệu chính thức thôi, còn tên VN có từ bao giờ thì cho đến nay còn chưa cãi nhau xong thì phải )
    Lãnh thổ , năm 1848 Tự Đức trả lại Chân Lạp 5 châu mà năm 1757 vua Chân Lạp là Nặc Tôn đã cắt tặng cho Mạc Thiên Tứ ( Tướng của chúa Nguyễn đã giúp Nặc Tôn lên ngôi), phần đất này nằm ở cực nam Căm pu chia, giáp mấytỉnh miền Tây Nam bộ. Bản đồ nước ta ngày nay định hình từ năm 1848.
    Đề nghị các tác giả cho ý kiến nữa nhé !

    mystery_aries
  7. annonymous

    annonymous Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2002
    Bài viết:
    2.070
    Đã được thích:
    0
    Cái bài chữ nói về chữ Tàu kia của mình nếu cho vào thì nhờ ai viết lại giùm đi vì mình viết lủng củng quá!
    Bài này của Kobeto81 chẳng hay sao mà chị Mystery bỏ qua vậy? Thật tiếc là mấy bài về HN rất hay thì toàn không phải người trong hội viết.
    Cái tên Hà Nội thực ra xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1931 nhân một cuộc cải cách hành chính lớn thời Minh Mạng . Lúc đó nhà Nguyễn gọi là Tỉnh Hà Nội , Hà Nội của nhà mình được gọi là Thành Phố là khi Pháp thành lập "Thành Phố Hà Nội" vào năm 1886 sau khi chiếm được Tỉnh Hà Nội vào năm 1883 . Còn bà con mình thì vẫn cứ gọi là Hà Nội cho ngắn gọn .
    Nhưng theo Tớ nếu tính LS Hà Nội từ năm nào thì nên tính từ khi Hà Nội bắt đầu đóng vai trò quan trọng nổi bật trong đời sống Kinh Tế , Văn Hoá , Chính Trị của nước mình , do đó Tớ thấy bắt đầu từ năm 1010 là được, giống bác CHM .
    Đúng là kể từ thời điểm đó Thăng Long - Hà Nội luôn là nơi xảy ra những sự kiện quan trọng đối với mệnh hệ của dân tộc mình.
    Vua Lý Thái Tổ khi dời đô về Đại La , rồi như chúng ta vẫn biết là dựa vào truyền thuyết " Rồng bay lên " mà sinh ra cái tên Thăng Long . Chuyện có thể không thật nhưng các cụ nghĩ ra chuyện đó chắc không phải đề Loè ai cả mà có lẽ chỉ là một niềm tin , một dự đoán , một mong muốn rằng từ đây Thăng Long rồi Hà Nội sau này , đi vào lịch sử như là Trái tim của dân tộc Việt .
    Tớ xin được nhắc lại một số mốc quan trọng trong Lịch sử 1000 năm Thăng Long- Hà Nội .
    Trong 3 lần kháng chiến chống Nguyên Mông , Thăng Long đã 3 lần thành "Vườn không nhà trống" làm cho quân giặc lâm vào cái cảnh " Lui thì không xong mà Đánh thì chẳng biết đánh nhau với ai" rồi cuối cùng cũng bị đánh cho chạy mất dép.
    Đến thời Lê Lợi , Nguyễn Trãi đánh giặc Minh . Thăng Long trở thành chiến trường cuối cùng khi quân giặc , khiếp sợ trước sức mạnh của Nghĩa quân Lam Sơn , đã phải thề ở cổng thành phía Nam ( không biết là cửa Ô nào trong năm cửa Ô) , xin đầu hàng.
    Trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn , Thăng Long lại trở thành nơi chứng kiến thiên tài quân sự của người anh hùng "Áo vải " Nguyễn Huệ , bằng một cuộc cuộc hành quân thần tốc (Tớ không rõ nó diễn ra trong bao lâu mà chỉ biết điểm đến là Thăng Long và vào ngày mồng 5 Tết ) đã đánh tan 30 vạn quân xâm lược Mãn Thanh .
    Dưới triều Nguyễn ( kể từ Nguyễn Ánh) tuy không còn là Thủ Đô nữa nhưng Thăng Long - Hà Nội vẫn là một trung tâm Văn Hoá Kinh Tế Chính Trị quan trọng của thời đó .
    Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp rồi Mỹ , Thăng Long- Hà Nội vẫn xứng đáng là trái tim của cả nước . Nổi bật là trong Cách mạng Tháng Tám , Hà Nội là một trong những địa phương nổi dậy giành chính quyền sớm nhất trong cả nước , và đến ngày 2/9/1945 tại Quảng Trường Ba Đình lịch sử , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ...rồi đến ngày 19/12/1946 Hà Nội lại là nơi mở đầu cho cuộc kháng chiến 9 năm của cả dân tộc . Đến thời chống Mỹ thì Hà Nội cùng với các tỉnh miền Bắc trở thành hậu phương lớn của miền Nam ruột thịt .Rồi trong 12 ngày đêm ác liệt năm 1972 nhân dân Hà Nội đã làm lên một Điện Biên Phủ trên không , buộc Mỹ phải kí hiệp ước Paris chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
    Hê hê... Hà Nội nhà mình cũng Anh hùng ra phết đấy chứ nhỉ .
    Họ mặt ngoài không thò nanh vuốt
    Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon
  8. KhuongDuy

    KhuongDuy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/02/2002
    Bài viết:
    68
    Đã được thích:
    0
    Tôi đề cử bài này của bác yuyu .
    Chương trình cải cách của Nguyễn Trường Tộ
    Năm 1866, sau khi đi Pháp về, ông Nguyễn Trường Tộ thấy các nước Tây Phương hùng mạnh và có nhiều điều tiến bộ nên ông viết một bản điều trần đề nghị sửa đổi nhiều mặt trong nước để làm cho nước nhà trở nên hùng mạnh đuổi kịp các cường quốc phương Tâỵ
    Sau đây là một đoạn trích dẫn bản điều trần của ông Nguyễn Trường Tộ.
    Phần trong ngoặc là nhận xét của người đánh bài .
    Trích dẫn bản điều trần:
    1. Ngoại Giao
    1.1 Phải hòa với người Pháp, vì lẽ chống nhau với người Pháp thế nào cũng thua và có hại, chứ nếu giao kết với nước Pháp thì ở ngoài có thể chống lại cường quyền khác muốn dòm ngó đất ta, ở trong được bình yên mà lo việc cải cách cho nước giàu mạnh lên
    1.2 Phải gia thiệp với các cường quốc, một mặt thì đặt sứ thần và lĩnh sự ở các nước ấy để giữ tình giao hiếu với họ và biết rõ tình thế trong thiên hạ, một mặt cho người họ dế thông thương ở nước mình; như thế nước ta vừa được lợi mà các nước ấy , đều có quyền lợi ở nước ta sẽ tự kiềm chế nhau không để nước nào xâm chiếm nước ta được
    (Ông Nguyễn Trường Tộ là một chính trị gia giỏị Nếu vua Tự Đức biết nghe lời ông thì có lẽ nước ta tránh khỏi bị đô hộ.
    Thái Lan nhờ biết mở của giao thiệp với cả Anh và Pháp và nhờ Anh và Pháp kiềm chế nhau nên tránh khỏi bị một nước chiếm. Trong hoàn cảnh nước ta lúc đó, yếu kém về cả kinh tế lẫn quân sự Chắc chắn chúng ta không đánh lại Pháp nhưng biết dùng đường lối ngoại giao khôn khéo thì có thể kéo dài thời gian độc lập trong khi cố gắng canh tân)
    2 Nội chính:
    Việc nội chính phải cải cách cho nước mạnh dân giàụ Lần lượt ông xét các vấn đề sau này:
    2.1 Cai trị
    2.1.1 Nên giảm số tỉnh , phủ, huyện để bớt số quan lại vô ích thì mới ó thể tăng lương và nghiêm trị sự hối lộ và sự hà lạm.
    (Nạn hối lộ, tham nhũng cũng có thời đó. Có lẽ thời nào và nước nào cũng có nạn tham nhũng. Nhưng nếu chính quyền cương quyết loại trừ và có biện pháp đúng đắn thì nó sẽ bớt đi).
    2.1.2 Nên phân biệt quyền thẩm phán và quyền cai trị để cho các quan tư pháp được biệt lập mà phân xử theo lẽ công bằng.
    (Từ thời đó mà ông Nguyễn Trường Tộ đã có ý niệm muốn tách tư pháp ra khỏi hành pháp để các quan tòa được độc lập thì việc xử án mới được vô tư)
    2.2 Vũ bị
    2.2.1 nên hậu đãi quân lính để cho nghề võ được tro.ng.
    2.2.2 Mở trường và đón thầy ngoại quốc để dạy dỗ và luyện tập sĩ tốt theo binh pháp mớị
    2.2.3 Tổ chức lại quân đội : tuyển lính trẻ và mạnh; chọn kỹ các quan võ.
    2.2.4 tổ chức sự phòng bị : xây pháo đài; chế khí giới; tích trữ vật liệu cần dùng khi có chiến tranh; sửa sang các đường bộ, đường thủy trong nước
    2.3 Học chánh- sau khi chỉ trích những điều sai lầm và thiếu thốn của lối học cũ, ông xin :
    2.3.1 cải cách việc học, việc thi trong nước : dạy các khoa thực dụng : canh nông, cơ khí, luật lệ thiên văn; định lại chương trình các khoa thi : khôngnhững chỉ có văn chương phải có cả các khoa học hợp thờị
    2.3.2 Dùng Quốc văn trong việc dạy học, làm sách và các giấy tờ việc quan.
    2.3.3 Phái học sinh sang du học các nước Âu châụ
    (Việc du học các vua nhà Nguyễn sau này có làm nhưng nước ta đổi mới không kịp và bị Pháp đánh chiếm)
    2.3.4 Dịch các sác sách ngoại quốc (thứ nhất là sách về máy móc), ra tiếng Nam; in và phát sách có ích và nhật trình để dân được biết luật lệ và công việc của chính phủ.
    2.4 Tài chánh
    2.4.1 Bắt mọi người trong nước phải chịu thuế; bỏ cái lệ miễn sưu cho nhiều hạng người không có ích gì cho nước mà đước hưởng đặc ân.
    2.4.2 Đặt thứ thuế đánh vào các nhà giàu là những ngươòi được hưởng nhiều ân huệcủa nhà nước mà có nhiều quyền lợi phải bảo vệ
    2.4.3 Điều tra dân số trong nước để đánh thuế cho công bằng.
    2.4.4 Đạc điền để định rõ diện tích và thuế ngạch các ruộng đất cho công bằng và tránh gian lận.
    2.4.5 Đặt các thuế mới đánh vào các cách ăn chơi xa xỉ (cờ bạc, rượu, thuốc lá, thuốc phiện) để khuyến khích sự tiết kiệm và sự điều độ.
    2.4.6 Tăng thuế các hàng nhập cảng, thứ nhất là xa xỉ phẩm và các hàng trong nước đã có để khuyến khích sự dùng nội hóa và công ghệ bản quốc.
    2.5 Kinh tế:
    Làm giàu cho công quĩ chưa đủ, lại phải lo tính cho dân trong nước được giàụ
    (Tuy rằng nước ta đang bị đe dọa về quân sự nhưng ông Nguyễn Trường Tộ không chỉ chú trọng về củng cố quân sự không thôị Trái lại ông chủ trương làm cho dân giàu là cái gốc để cho nước mạnh và nhờ đó sẽ có nền quân sự mạnh)
    2.5.1 tổ chức một sở địa dư và vẽ địa đồ để biết hình thế và tài sản trong nước, rồi mới theo đấy mà làm các công tác (đường sá, đê điều, dẫn thủy nhập điền,v.v.) được.
    2.5.2 chấn hưng nông nghiệp :đặt nông quan (lấy các cử nhân tú tài cho chuyên học tập về nông chánh) và các sở chuyên môn để cải lương cách làm ruộng, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang; kinh lý việc dẫn thủy nhập điền.
    2.5.3 Chấn hưng công nghệ : khuyến khích và ban thưởng cho những người sáng chế các đồ dùng mới mẻ và tiện lợi, hoặc tìm ra những cách chế hóa các đồ ăn, đồ uống cho hương vị tăng lên hay có thể để lâu mà không hư hỏng.
    2.5.4 Chấn hưng thương nghiệp : khuyến khích và ban thưởng cho những người biết hợp cổ để buôn, hoặc đóng và mua được các tàu biển để thông thương với nước Tàu và các nước khác.
    2.5.5 Khai khẩn các mỏ : ề việc này, ông trình bày các kế hoạch rất tường tận. Ông bàn lúc đầu phải cộng tác với các công ty khai mỏ người Pháp để họ đứng chủ trương việc tìm khoáng mạch trông nom cách khai mỏ và huấn luyện các thợ chuyên môn để sau này người nước ta có thể thay họ mà làm việc ấy được.
    Ông Nguyễn Trường Tộ lại xét cẩn thận các điều khoản về bản hợp đồng phải ký với các công ty ấy có thể nào cho có lợi và tránh những sự xung đột về saụ
    (Tiếc rằng các đề nghị của ông không được nghe nên nước ta vì lạc hậu đã bị người Pháp chiếm)
  9. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Xin đính chính một tí : Bài này tớ cũng luợm được ở trên net chứ không phải của tớ trước tác , tuy nhiên bài viết cũng không đề tên tác giả là ai ( thực ra người đầu tiên viết cũng không có viết gì nhiều mà chỉ là trích dẫn một số điều trong bản điiều trần của Nguyễn Trường Tộ rồi thêm vào vài lời bình thôi ) . Hơn nữa sự đánh giá về Nguyễn Trường Tộ vẫn chưa hẳn là thống nhất : Có nhiều người đề cao, nhưng cũng không ít người phê phán. Hiện nay vì nhiều chủ đề quá , nên mọi nbgười có khi không đủ thì giờ để tham gia thảo luận hết cả mọi điều trên diễn đàn cùng lúc. Nhiều chủ đề ngưng lại nhưng chỉ là tạm thời, rồi có lúc ai có đủ thời gian hoặc hứng thú thì nó lại được hâm nóng lên nhiều lần . Mong các bạn lưu ý .
  10. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    À , thế này , có lẽ ở cuốn sách của chúng ta , ta nên có lời giới thiệu cho từng bài được trích . Chính tác giả sẽ là người nói những giới thiệu chính trên topic này , như bác yuyu ấy . Ban biên tập sẽ dựa vào đó để làm .
    ==============
    Một hôm đi học qua dòng suối ,
    Biết Tuốt nhẩy lên con cá chuối .

Chia sẻ trang này