1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nơi đề cử bài viết cho hợp tuyển của box Lịch Sử Văn Hoá.

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi NguCong, 03/07/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. NguCong

    NguCong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/02/2002
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    0
    Em đề cử mấy bài của ctdphuc trong " Từ thủa mang gươm đi mở cõi " của Bayern_Munich.
    http://www.ttvnonline.com/forum/topic.asp?TOPIC_ID=94555
    Tản mạn về quá trình mở mang bờ cõi đất nước VN qua các thời kỳ
    ...........................
    Từ thuở mang gươm đi mở cõi
    Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long
    ............................
    A. Vài lời nhận xét
    Tử thuở xưa, các dân tộc Việt chưa có một vùng lãnh thổ xác định, đất nước tồn tại chủ yếu dưới hình thức các bộ lạc. Tiếp sau đó VN lại rơi vào cảnh bị các triều đại TQ nhòm ngó và thôn tính, xen lẫn với các cuộc đấu tranh, khởi nghĩa. Đất nước vì thế cứ hết bị sáp nhập lại tách ra...nên chưa thể gọi là có một vùng lãnh thổ xác định rõ ràng. Vậy ta sẽ lấy mốc là thời kỳ đất nước đã bước vào thời đại tự chủ, tức là từ nhà Ngô (938) để xem xét quá trình "mang gươm đi mở cõi" của cha ông ta ngày xưa.
    Thực ra cũng chưa có một tài liệu lịch sử nào xác định rõ ràng cương giới của VN trong và sau thời kỳ Bắc thuộc (những năm đầu) (hoặc có mà tôi ko biết ! ). Tuy nhiên, dựa vào một số mốc ta có thể tạm suy đoán như sau (hì hì, "suy luận" và " đánh giá" cũng là một trong những cách học sử, phải không các bác nhể ? ): Trong Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim) có ghi rằng năm Kỷ Mão (678) Đường Cao Tông biên TQ đã "quy hoạch" lại VN thành 12 châu, 59 huyện. Trong đó có các châu Giao Châu (Hà Nội, Nam Định), Lục châu (Quảng Yên, Lạng Sơn), Ái Châu (Thanh Hoá), Hoan Châu (Nghệ An)....
    Như vậy, có thể nói rằng trong những năm (cuối) của thời kỳ Bắc thuộc đến các triều đại sau của VN biên cương lãnh thổ nước ta đã được định hình một cách tương đối, kéo dài từ vùng rừng núi phía Bắc (Lạng Sơn) đến Bắc Trung Bộ (Nghệ An).
    Đất nước từ thời còn manh mún, rời rạc cho đến lúc ấy đã có một sự phát triển đáng kể. Tuy nhiên, có lẽ sự mở rộng lãnh thổ trong thời kỳ đó chỉ mang tính tự phát (di dân..) hoặc do ý muốn của các quan Tàu muốn sáp nhập các vùng lại để cai trị cho "gọn" hơn. Ý chí mở mang bờ cõi (một cách chủ động) trong thời kỳ này hầu như chưa xuất hiện. Phải bắt đầu bước vào thời đại tự chủ sau hơn một ngàn năm đằng đẵng đau khổ dưới ách ngoại xâm, công cuộc mở mang bờ cõi mới đuợc chú ý thực sự. Cha ông ta đã có ý thức tự lực tự cường rất cao. Một mặt lo quan sát, đề phòng Bắc phương, mặt khác không ngừng ra sức mở mang bờ cõi để đất nước ngày một giàu mạnh, ít lệ thuộc vào ông hàng xóm khổng lồ kia.
    Cũng xin nói rằng quá trình mở rộng bờ cõi của đất nước trong tất cả các thời kỳ đều chỉ gói gọn trong hai chữ: Nam Tiến. Có bác sẽ thắc mắc hỏi rằng tại sao chúng ta không phát triển một cách "đồng đều" cho đất nước nó vuông vuông một tí, khôn phải "dẹt " như hình dáng ngày nay. Xin thưa rằng không phải cha ông ta không muốn nhưng do hoàn cảnh "khách quan" mà điều đó không thể thực hiện được. Phía Đông ta giáp biển, dĩ nhiên là không thể "mở" gì được cả. Phía Bắc thì lại "đụng" anh TQ, lo thủ chưa xong làm gì mà dám lấn tới! (Có lẽ trong LS VN chỉ có một vua Quang Trung Nguyễn Huệ là dám có tư tưởng Bắc Tiến táo bạo, nhưng hỡi ôi, trời chẳng chiều người.). Phía Tây thì gặp phải địa hình rừng núi, thung lũng... đầy hiểm trở, cũng không thể "xơ múi"gì nhiều. Vậy thì chỉ còn lại phía Nam: đất đai bằng phẳng, nhân tình ôn hoà, lại toàn là các nước nhược tiểu (dĩ nhiên là so với VN!) nên cha ông ta cứ thế mà thẳng tiến. Và quá trình Nam tiến liên tục được tiếp nối cho đến khi gặp phải mũi Cà Mau thì (đành) dừng lại.
    Nhân đây cũng xin nói thêm về vấn đề "chính nghĩa" của quá trình mở cõi. Một số sử gia có khuynh hướng cho rằng việc mở mang bờ cõi của VN ta là điều "tất yếu ?!" phải xảy ra, bởi lẽ dân số ngày một nhiều mà đất đai thì có hạn. Nhưng nếu "ní nuận" theo kiểu đó thì té ra anh TQ cũng có lý lẽ để thôn tính nước ta, và thậm chí ngay cả Chiêm Thành cũng có thể làm điều đó nếu có thực lực (và thực tế là họ đã "thử" nhưng không được). Theo tôi thì việc xâm chiếm, thôn tính lẫn nhau là lẽ đương nhiên, nhất là trong thời kỳ loạn lạc bấy giờ. Trong LS thế giới đã có biết bao những cuộc sát nhập, phân khai giữa các vùng lãnh thổ, có những cuộc thành công cho đến tận bây giờ, nhưng cũng có những cuộc thôn tính bất thành. Lý lẽ ở đây là mạnh được yếu thua. Dân tộc nào còn giữ được bản sắc văn hoá thì còn có cơ khôi phục, còn không sẽ bị đồng hoá và trở thành một bộ phận của nước đi thôn tính. Bởi thế, theo quan điểm của tôi, chúng ta nên cho điều đó là tự nhiên, không cần biện hộ một cách khiên cưỡng làm gì.
    Sau đây xin đi vào một số mốc cụ thể của quá trình mở đất của cha ông ta từ thuở xưa cho đến những năm sau này của thời kỳ cận đại (Chẹp, đã định nói phần này "ngăn ngắn" một tí mà té ra lại thành dài thế này, thôi thì các bác chịu khó đọc vậy).
    -------------------
    Một số mốc cụ thể trong quá trình Nam tiến, mở rộng bờ cõi của đất nước:
    Như đã nói ở trên, khi đất nước bắt đầu bước vào độc lập thì ý chí và hoạt dộng mở mang lãnh thổ đã được "liên tục phát triển". Lãnh thổ được mở rộng dần theo kiểu "tằm ăn dâu", tuy nhiên vẫn có một số mốc cụ thể để ta xác định các bước của quá trình Nam Tiến (Sẽ được đề cập sau).
    Nói ngắn gọn thì quá trình mở nước của cha ông ta chỉ gồm 2 bước
    1. Xâm chiếm và "nuốt dần" nước Chiêm Thành cho đến khi nước này mất hẳn.
    2. Xâm chiếm và chiếm của Chân Lạp (Cam-pu-chia) một vùng đất rất "đáng kể", trong đó có đồng bằng Sông Cửu Long (vựa lúa lớn nhất nước của VN ngày nay).
    Tuy nhiên, các bước trên được tiến hành dần dần, mỗi triều đại góp một chút công, để cuối cùng, đến triều Nguyễn, khi dấu chân của người VN đã đặt lên mảnh đất địa đầu Cà Mau thì nhiệm vụ cao cả đó được xem như hoàn thành. (Ngoài ra ta cũng đã xâm nhập một tí (gọi nôm na là "chấm mút") lãnh thổ của anh bạn láng giềng "dễ thương" là nước Ai Lao (Lào) nhưng nói chung là không đáng kể.)
    Giai đoạn đánh chiếm Chiêm Thành:
    Dưới thời nhà Đinh
    Như trên đã nói, khi nước ta bước vào thời kỳ tự chủ, bắt đầu từ nhà Ngô thì lãnh thổ đã kéo dài từ miền Lạng Sơn phía Bắc đến Nghệ An phía Nam, giáp ranh với Chiêm Thành. Sau đó, đất nước không may rơi vào thời kỳ loạn lạc 12 sứ quân, lãnh thổ lại bị chia năm xẻ bảy. Đến năm 968 Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, lãnh thổ bao gồm cả miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ cho đến Hoành Sơn.
    Giai đoạn này, đất nước ta mới thống nhất, quan hệ với Chiêm Thành nói chung là "êm đẹp".
    Dưới thời nhà Tiền Lê
    Năm 981, dưới thời Lê Hoàn, nước ta lần đầu tiên đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành , chiếm được Địa Lý Châu (gồm Quảng Ninh, Quảng Bình). Chiêm Thành đã phải dời kinh đô (Yudrapura) từ miền Trà Kiệu vào thành Phật Thệ (Vijaya) (tức Bình Định ngày nay). Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt: Chiêm Thành từ trước vẫn là một nước lớn (đối với VN) nhưng từ sau sự kiện này đã trở thành một "tiểu quốc", chịu thần phục Đại Việt, và có thể nói, đã tạo "tiền đề" cho các cuộc Nam tiến của các triều đại sau này.
    Dưới thời nhà (Hậu) Lý
    Sau khi chiếm được Địa Lý Châu, Lê Đại Hành đã trả lại cho Chiêm Thành, nhưng công cuộc Nam tiến thì vẫn được nhà Lý tiếp nối mạnh mẽ.
    Năm 1044, vua Lý TháiTông đem quân đánh Chiêm Thành, giết được vua Chiêm là Sạ Đẩu, chiếm được kinh đô, bắt cả vợ cả và vợ lẽ của Sạ Đẩu (!!!) nhưng sau đó lại rút về.
    Năm 1068, vua Lý Thánh Tông thân chinh đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Nhưng khác với các lần chinh phạt trước( quân ta chỉ lo đánh thắng Chiêm Thành rồi "trưng dụng" của cải, bắt vua Chiêm phải cống nộp chứ không có ý muốn lấy đất), lần này, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, quân ta không chỉ chiến thắng vẻ vang mà còn bắt Chiêm Thành phải nộp cống, không chỉ của cải mà còn là ba châu: Địa Lý ( nay thuộc Quảng Bình), Ma Linh (Quảng Trị) và Bố Chính (Quảng Bình). (LTK là người có tầm nhìn chiến lược. Ông đã nhận thấy sự chật hẹp của đồng bằng Bắc Bộ và nhận định rằng muốn phát triển đất nước hùng mạnh, bắt buộc phải mở rộng bờ cõi về phương Nam. Có thể nói, ông là người có công lớn trong việc thu phục lãnh thổ của Chiêm Thành).
    Năm 1103, nhân vụ Lý Giác làm phản chạy sang Chiêm Thành, xúi giục vua Chiêm tiến quân đòi lại 3 châu, Chiêm Thành bèn rục rịch kéo quân nhưng đã bị Lý Thường Kiệt đánh cho một trận đại bại, không còn dám "đòi" lại nữa.(Nhân đây cũng xin nói thêm rằng nước ta từ thời ấy, sau nhiều sự kiện "oanh liệt" với Chiêm Thành, đã trở thành một "tiểu đế quốc" ở phương Nam. Các nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Ai Lao... đều "xưng thần" và hàng năm triều cống rất chu đáo ! Tất nhiên, tiểu quốc mà lơ là thì đại quốc phải đem quân sang hỏi tội thôi. (Kể cũng oai ra phết!)).

    Dưới thời nhà Trần
    Thời nhà Trần có thể được xem là giai đoạn thịnh nhất trong lịch sử nước ta thời phong kiến (giống như nhà Đường được xem là thời kỳ rực rỡ nhất của chế độ phong kiến ở TQ). Tuy nhiên, đáng tiếc là trong thời kỳ này nước ta phải nhiều phen anh dũng chống ngoại xâm (Mông Cổ) nên công cuộc Nam tiến không "phát huy" được nhiều.
    Năm 1306 vua Trần Anh Tông thực hiện một cuộc "đổi giai nhân lấy đất" vô tiền khoáng hậu, tạo nên một trong những giai thoại "hấp dẫn" nhất của lịch sử VN. Nhà Trần gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy 2 châu" châu Ô và châu Lý. Đến năm 1037 VN chính thức tiếp quản 2 châu này: đưa dân vào, thiết lập chính quyền và đổi lại tên thành Thuận Châu và Hoá Châu.
    Sau đó nhà Trần trở nên suy yếu dần, các vua đời sau chỉ lo ăn chơi hưởng lạc.
    Trong các năm 1353 và 1367 dưới thời Trần Dụ Tông nước ta đã hai phen đem quân chinh phạt Chiêm Thành nhưng đều thu lấy thất bại nặng nề, làm ảnh hưởng đến uy tín với các nước lân bang. Lại "không may" cho VN là lúc này Chiêm Thành có một vị vua rất giỏi là Chế Bồng Nga. Nhân lúc nhà Trần ngày càng suy vi, CBN không những đã đem quân đòi lại các châu bị mất ở các thời vua trước mà còn nhiều lần đem quân đến tận Thăng Long, tàn phá kinh thành, làm vua tôi nhà Trần phải trốn chạy rất vất vả, quả là một hình ảnh không đẹp chút nào.
    Dưới thời nhà Hồ
    Tuy Hồ Quý Ly tại vị không được lâu và nói chung trong thời nhà Hồ, nội tình trong nước còn nhiều rối ren, nhưng HQL cũng đã kịp ghi cho mình một số chiến công trong việc chinh phục lãnh thổ của Chiêm Thành.
    Năm 1402 tướng nhà Hồ là Đỗ Mãn cử binh sang đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm là Ba Địch Lại phải dâng đất Chiêm Động (nay thuộc tỉng Quảng Nam) để được yên. Tuy nhiên, nhà Hồ còn "vòi" thêm cả đất Cổ Luỹ (Quảng Ngãi) nữa rồi di dân vào, đặt nền hành chính của nước ta ở các nơi mới thu phục.
    Sau đó, nhà Hồ bị sụp đổ. Đất nước lại rơi vào tay Bắc phương. Công cuộc Nam chinh xem như bị đình lại.

    Dưới thời nhà Hậu Lê
    Dưới thời nhà Hậu Lê, nước ta đã tiến một bước khá dài trong công cuộc Nam tiến.
    Sau những năm đầu lo ổn định tình hình chính trị, kinh tế (và cả lo diệt trừ công thần, bè phái, đấu đá lẫn nhau nữa!), đến thời Lê Thánh Tông, nước ta đã có những cuộc chinh phạt Chiêm Thành mới.
    Năm 1470, nhân có vụ Chiêm Thành "khiêu khích" trước, vua Lê Thành Tông thân chinh đem 26 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm đại bại. Quân ta đánh rốc vào tận kinh đô Đồ Bàn, giết được vua Chiêm. Nhằm làm cho Chiêm Thành yếu đi, LTT thực hiện chính sách "chia để trị" (xem ra không chỉ người Pháp mà cả người VN ta cũng rành món này!), chia nước Chiêm thành 3 phần: Chiêm Thành, Hoá Anh và Nam Phan, giao cho các cựu thần của nước Chiêm cũ cai trị. Đồng thời vua "thu hồi" lại các đất Đồ Bàn, Đại Chiêm và Cổ Luỹ, lập ra đạo Quảng Nam để "nhập" vào nước ta. Trận đánh này làm nước Nam lừng danh, khôi phục lại uy tín cũ, các nước lân bang lại tới tấp sang chầu và xưng thần !
    Có thể nói, sau chiến công oanh liệt này, Chiêm Thành đã đi vào chỗ suy vi, không còn có cơ hội cường thịnh trở lại. Vì vậy, các triều đại sau, tuy không thật mạnh nhưng công cuộc chinh phạt Chiêm Thành vẫn được tiến hành từng bước vững chắc, và cho đến các đời sau này, Chiêm Thành cứ mất dần mất dần cho đến khi bị tiêu diệt hẳn vào đời chúa Nguyễn.
    ---------------------------------------------------

    Thời kỳ loạn lạc
    Nhà Lê, sau các triều vua đầu anh minh, đã trở nên suy vi với các vị vua kém tài kém đức, dẫn đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi, đẩy đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng triền miên, sự nghiệp Nam tiến một lần nữa lại bị đình lại.
    Dưới thời chúa Nguyễn
    Sau khi sự nghiệp "Diệt Mạc phù Lê" thành công thì hai họ Trịnh Nguyễn lại quay sang đấu đá lẫn nhau. Trịnh ở phía Bắc, Nguyễn ở phía Nam. Để khuếch trương lực lượng nhằm có thể "chiến đấu lâu dài" với họ Trịnh hùng mạnh ở Bắc Hà, chúa Nguyễn đã tiến hành "mở rộng" lãnh thổ về phương Nam.
    Năm 1611 Nguyễn Hoàng đem quân vào đánh Chiêm Thành, chiếm đất lập ra phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuyên Hoà.
    Năm 1617 chúa Nguyễn chiếm thêm đất Chiêm Thành, lập ra dinh Trấn Biên.
    Năm 1653 Chiêm Vương là Bà Thấm "không biết điều", đem quân quấy nhiễu phủ Phú Yên, bị quân Nguyễn đánh bại. Nhà Nguyễn, nhân cơ hội đó, tiếp tục lấy thêm đất của Chiêm Thành, lập ra phủ Diên Khánh (nay thuộc tỉnh Khánh Hoà).
    Năm 1693 Chiêm vương Bà Tranh bỏ tiến cống. Nhà Nguyễn không bỏ lỡ cơ hội này. Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai tổng binh Nguyễn Phúc Kính đem quân "hỏi tội", bắt được vua Chiêm. Đất đai của Chiêm chiếm được bị đổi thành phủ Thuận Thành, sau đổi lại thành phủ Bình Thuận, lại lấy đất Phan Lý (Phan Tri), Phan Lang (Phan Rang) làm huyện Yên Phúc và huyện Hoà Đa.
    Từ đó Chiêm Thành xem như mất hẳn.
    Như vậy trong khoảng chưa đến một thế kỷ mà nhà Nguyễn đã thôn tính được hoàn toàn Chiêm Thành, điều mà những triều đại trước tốn bao công sức mà không gặt hái được nhiều thành công. Điều này có nguyên do rất lớn từ bản thân Chiêm Thành. Thực ra quân lực chúa Nguyễn không phải là quá mạnh, nhưng kể từ sau thất bại trước vua Lê Thánh Tông nhà Lê, rồi bị chia thành 3, Chiêm Thành đã ngày càng suy yếu, không thể gượng dậy được và chỉ còn chờ ngày diệt vong.

    Giai đoạn đánh chiếm Chân Lạp
    Các cuộc xâm chiếm đất Chân Lạp (Cam-pu-chia) để mở mang bờ cõi về phương Nam của người VN diễn ra có phần êm thắm hơn. Nguyên do dải đất miền Trung của cúa chúa Nguyễn vốn không được màu mỡ. Đất đai cằn cỗi, làm ăn khó khăn, lại thêm hoạ chiến tranh Trịnh-Nguyễn nên người dân dần dần di cư vào Nam, lúc ấy còn thuộc Chân Lạp, rất nhiều.
    Cả miền Đông Nam Bộ và ĐB SCL bây giờ thời ấy còn khá hoang vu, đất rộng người thưa. Đất đai lại trù phú, màu mỡ, thành ra người Việt di cư vào đó ngày càng đông.
    Trong những năm 1658 đến 1674, Chân Lạp có loạn tranh giành quyền lực, có phe lại "mời" chúa Nguyễn vô "giải quyết dùm". Nhà Nguyễn được thể cứ kéo binh vào "bình định", mỗi năm lại mở rộng thêm tầm ảnh hưởng của mình ở đấy.
    Năm 1679 có quan nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến vì bất mãn nhà Thanh nên theo về. Chúa Nguyễn nhân cơ hội đó, muốn khai khẩn thêm đất ở Chân Lạp, bèn cho họ vào ở đất Đông Phố, đất Lộc (nay thuộc Gia Định, Đồng Nai), Mỹ Tho...
    Năm 1698 chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông phố ra làm dinh , huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Nhà Nguyễn bắt đầu củng cố địa vị và quyền lực của mình ở rẻo đất phía Nam màu mỡ này.
    Thời bấy giờ có người TQ là Mạc Cửu, nhân vì hoạ nhà Thanh, lưu lạc sang đất Chân Lạp. Ông chiêu mộ lưu dân , lập nên 7 xã gọi là Hà Tiên.
    Năm 1708 Mạc Cửu xin thuộc về nhà Nguyễn. Lãnh thổ nước ta lại được mở rộng thêm một phần.
    Trong khoảng thời gian đó, nước Chân Lạp xảy ra biến luôn, các vua tranh giành quyền lực rồi lại chạy sang nhờ chúa Nguyễn hay Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên. Sau mỗi lần bình ổn ta lại được vua Chân Lạp "tạ ơn", mỗi lần vài huyện... Cuối cùng đất đai 6 tỉnh Nam Kỳ đều thuộc về VN.
    Đến sau khi Nguyễn Ánh diệt được nhà Tây Sơn thì VN còn có nhiều dịp "can thiệp vào nội bộ" của Chân Lạp, nhưng tiếc là các quan ta hành xử không khéo nên không "mở" thêm được bờ cõi mấy.
    Đến đây, công cuộc "mang gươm" đi mở cõi của cha ông ta có thể xem như đã hoàn thành.
    Nhìn chung cuộc Nam tiến chiếm đất của Chân Lạp được diễn ra tương đối thuận lợi. Bởi lẽ Chân Lạp thời ấy đã suy vi, các triều vua lo tranh giành quyền lực, không ngó ngàng gì đến lãnh thổ đất nước. Các vua được nước ta đưa về nắm chính quyền thì lại sung sướng, sẵn sàng "tặng" đất để tỏ lòng biết ơn. Có thể nói, VN ta đã có những cơ hội "trời cho" hết sức quý giá để mở rộng được lãnh thổ về phương Nam. Trong đó đáng kể nhất là miền Đông Nam Bộ (nay là đầu tàu của nền công nghiệp VN) và ĐBSCL (mà theo một số chuyên gia, nếu quy hoạch khéo có thể trở thành vựa lúa của cả khu vực Đông Nam Á).
    (ct)
    ---------------------------------------------------
    Đôi điều nhìn lạiĐến đây xin mời các bác chúng ta cùng nhìn lại quá trình Nam tiến từ thuở xưa cho đến thời Cận đại một lần nữa.
    Có thể nói, lãnh thổ nước ta từ thuở Bắc thuộc, chỉ là một dải đất chật hẹp ở đồng bằng Bắc Bộ, cho đến thời kỳ Cận đại, vươn dài đến tận mũi đất Cà Mau, đã trải qua một quá trình phát triển rất dài và nhiều biến động. Cuộc Nam tiến vĩ đại đó đã chứng tỏ một tinh thần anh dũng, quật cường và ý chí vươn lên của dân tộc ta.
    Ta hãy nhớ lại. Từ thời nước ta vẫn còn là những miền đất manh mún, chia cắt và bị đè nặng dưới ách ngoại xâm thì Chiêm Thành đã là một nước lớn ở phía Nam. Ấy thế mà theo thời gian VN ta đã lớn mạnh dần và ngày càng cường thịnh còn Chiêm Thành ngày càng lụn bại, và cuối cùng bị VN thôn tính. Như vậy, có thể nói, chúng ta có quyền tự hào về sức sống mãnh liệt của dân tộc, về các võ công oai hùng của cha ông thuở trước.
    Có thể có người còn thương xót, luyến tiếc cho Chiêm Thành một thuở oanh liệt với lầu son gác tía, với đền đài lộng lẫy của một nền văn hoá rực rỡ. Có thể có người đứng nhìn những tháp Chàm đổ nát trơ gan cùng tuế nguyệt mà cảm khái, không khỏi cảm thấy cha ông ta ngày xưa đã có phần "quá đáng" (!?). Một trong những người tỏ lòng luyến tiếc với quá khứ "tiêu biểu" nhất có lẽ là nhà thơ Chế Lan Viên. Trong tập thơ Điêu tàn nổi tiếng với sắc màu đầy vẻ huyền bí, hư ảo của mình, ông đã bộc lộ một tâm trạng nhớ thương, đồng cảm với nỗi đau mất nước của một trong những dân tộc đã có thời mạnh mẽ, lẫy lừng vào bậc nhất Đông Nam Á: dân tộc Chăm-pa.
    Vâng, tất cả những điều đó dường như rất đáng để chúng ta mủi lòng. Nhưng..., hãy thử nhìn nhận vấn đề dưới một khía cạnh khác xem sao. Thực ra, việc Chiêm Thành bị tiêu diệt không hẳn chỉ do "dã tâm" của dân tộc Việt. Bản thân họ đã phải trả giá cho những sai lầm của chính họ. Ngay từ thời nước ta còn đang trong vòng nô lệ của giặc Hán, Chiêm Thành đã không ít lần "thừa nước đục thả câu", sang quấy nhiễu, cướp bóc nước ta, thậm chí đã có lần táo gan "đề nghị" phía TQ cho nước ta trở thành một vùng nội thuộc của Chiêm Thành để ...dễ "quản lý" ! Cho đến khi nước ta giành được độc lập thì Chiêm Thành vẫn không để yên, thường sang quấy nhiễu biên giới VN luôn. Hầu hết những cuộc chinh phạt Chiêm Thành của các triều đại VN đều bắt nguồn từ những vụ xâm phạm, cướp bóc biên giới của phía Chiêm Thành. Có một điều rất lạ là đã bao lần quân Chiêm bị quân ta đánh cho đại bại, nhiều lần bị đánh đến tận kinh đô, không ít lần vua bị giết, bị bắt sống. Ấy thế nhưng họ vẫn không "tỉnh ngộ", vẫn không chịu "thần phục" để đến nỗi rước lấy cái hoạ mất nước (thậm chí đến thời chúa Nguyễn, lãnh thổ chỉ còn một tẹo, vậy mà vua Chiêm vẫn còn đem quân quấy nhiễu Phú Yên (!), để rước lấy nhục vào thân và phải dâng gần hết đất, dẫn đến việc kết thúc sự tồn tại của nhà nước Chiêm Thành). Sử xưa có chép, người Chiêm Thành vốn tính tình hung dữ, ngang tàng... phải chăng đó là nguyên do cho sự tàn lụi của họ?!
    Về Chân Lạp, dù có cấu kết với Chiêm Thành nhưng thực ra "ân oán" với nước Đại Việt có thể nói là chưa nhiều. Tuy nhiên, do thời thế mà miền đồng bằng trù phú phía Nam đã trở thành một phần của lãnh thổ VN. Phải chăng, đó là một hình thức đền bù của trời đất, muốn dành cho cho VN mảnh đất giàu có ấy để thay thế cho miền Lưỡng Quảng rộng lớn đã bị mất về tay TQ (?!).
    Dẫu sao đi nữa thì lãnh thổ của VN, cùng với các nước xung quanh, ngày nay cũng đã định hình (và được quốc tế thừa nhận!), và trong tương lai cũng khó có thể biến cải gì lớn. Nhắc lại chuyện xưa chỉ như để hồi tưởng lại một thời quá khứ hào hùng của dân tộc, cái thuở ngàn năm "đem gươm đi mở cõi" ấy.
    ---------------------------------------------------
    Dưới đây là bản đồ về quá trình mở mang bờ cõi của lãnh thổ VN, để các bác có một cái nhìn "trực quan" hơn về sự hình thành và phát triển của lãnh thổ VN qua các thời kỳ.
    ---------------------------------------------------
    Còn dưới đây là một số trích đoạn trong tập thơ "Điêu tàn" của Chế Lan Viên, để chúng ta có thể "cảm nhận" được phần nào tâm trạng của nhà thơ, luyến tiếc và cảm thán cho số phận của đất nước Chiêm Thành một thuở huy hoàng nay chỉ còn là dĩ vãng.
    Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng
    Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
    Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
    Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành
    Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi
    Những đền xưa đổ nát dưới thời gian
    Những sông vắng lê mình trong bóng tối
    Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than
    Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
    Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
    Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
    Lừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy
    Đây chiến địa đôi bên giao trận
    Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vang
    Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hận
    Xương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn
    (Trên đường về)
    Vẻ rực rỡ đã tàn bao năm trước
    Bao năm sau còn dội tiếng kêu thương
    Đây muôn vật chìm sâu trong yên lặng
    Mà lòng ta thổn thức mãi không thôi
    Hay người khóc vì tháp Chàm quạnh vắng
    Hay khóc vì xuân đến gạch Chàm rơi ?
    Ai tưởng đến tháp Chàm kia trơ trọi
    Tháng ngày luôn rộng cửa đợi ma Hời
    Ai nhìn đến làn thương rêu lở lói
    Trên thịt hồng nứt nẻ gạch Chàm tươi
    (Thu về)
    Cả dĩ vãng là chuỗi mồ vô tận
    Cả tương lai là chuỗi huyệt chưa thành
    Cũng đương chôn lặng lẽ những ngày xanh
    (Những nấm mồ)
    ---------------------------------------------------
  2. cdtphuc

    cdtphuc Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/10/2001
    Bài viết:
    726
    Đã được thích:
    0
    Xin đề cử bài của bác Trinity ở topic "Hồ Quý Ly và Nhà Nước Đại Ngu!" của bạn Inbloom
    http://www.ttvnonline.com/forum/topic.asp?TOPIC_ID=99618
    Thanh thủ điện tiền thiên thụ quế
    Quảng Hàn cung lý nhất chi mai
    Đôi câu đối tuyệt hay này, tương truyền là cuộc xướng tác bất ngờ giữa vua Trần Minh Tông và chàng trai trẻ Hồ Quý Ly, năm ấy còn là một chức quan nhỏ vô danh. Cành mai trong cung Quảng để đem đối lại ngàn cây quế, với Quý Ly không phải ai khác ngoài ái nữ của vua, công chúa Huy Ninh. Mối tình vô vọng, vì luật nội hôn Trần triều cấm ngặt con gái tôn thất thành thân với ngoại tộc. Sao đổi ngôi, đò sang sông, sự đời biến thái không ngừng, hoa muộn cuối cùng cũng kết nhụy khi mái đầu sắp bạc.
    Đường sự nghiệp của họ Hồ không quá gian truân như đường tình duyên, nhưng cả hai đều có kết cục buồn. Cành mai nhỏ sớm tàn để lại cho Quý Ly đứa con trai Hồ Hán Thương. Những biện pháp cải cách đảo lộn nhân tâm góp phần đưa Quý Ly lên ngôi cao nhưng chúng cũng góp phần làm ông mất nước. Ông kết thúc cuộc đời trong vai trò một người lính thú già miền viễn biên Trung Quốc, song có sách chép: ông và Hồ Hán Thương bị Minh Thành Tổ ra lệnh hành hình ngay trong tháng 10 năm 1407. Đoạn kết như thế có khi lại hay hơn.
    Có nhiều nhân vật lịch sử không dễ dàng bình công tội, họ như những khối đa giác góc cạnh mà sự đánh giá còn tùy thuộc vào phía nhìn của người đời. Hậu thế sẽ còn dai dẳng tranh luận về Hồ Quý Ly: đại gian thần hại nước hay bậc thức giả thời loạn không chịu câu thúc trong vòng ngu trung để giúp đời, thực tâm chấn hưng xã tắc hay không từ thủ đoạn nào để ngoi lên đỉnh quyền lực...
    Điều tai hại là những cải cách của họ Hồ có thể được đời sau diễn giải và hiểu theo nhiều nghĩa. Không sai, nếu bảo chúng thực chất có lợi cho một đất nước đang kiệt quệ cả vật chất lẫn niềm tin. Nhưng không phải không có lý nếu nói đó là phương thức để thâu tóm quyền lực cá nhân và triệt hạ đối thủ. Những biện pháp được tính toán khôn khéo để một mũi tên đi trúng nhiều đích.
    Lấy ví dụ về chính sách hạn điền (ban hành năm 1397) và liền sau đó là giải phóng gia nô. Một mặt, nó là cú đánh chí mạng vào thế lực và ảnh hưởng lâu đời của quý tộc họ Trần - lực lượng có quyền lợi gắn bó trực tiếp với sự tồn vong của vương triều. Ruộng đất bao la của tôn thất nay được khoanh lại ở con số 10 mẫu tối đa, trừ Đại vương và Trưởng Công chúa. Ruộng thừa biến thành ruộng công. Số gia nô nhiều không đếm xuể trước kia giờ phải giới hạn tùy theo phẩm trật. Việc này càng có ý nghĩa trong hoàn cảnh một phần đáng kể sức mạnh quân sự quý tộc họ Trần là các đội gia binh tuyển từ gia nô trong nhà. Mặt khác, số ruộng công chẩn cấp cho dân nghèo có giá trị như một phương thuốc hạ hỏa đúng lúc, khi cùng đinh lang thang, nạn dân lưu tán và nô lệ bỏ trốn tụ tập làm loạn trong xã hội đã vượt quá mức báo động. Cuộc khởi nghĩa của nhà sư Phạm Sư Ôn là sự bùng phát mạnh mẽ nhất. Trước khi bị dập tắt năm 1390, đạo quân ô hợp của vị ??oyêu tăng??? Sư Ôn từng chiếm cứ Thăng Long tới 3 ngày.
    Chính sách tiền giấy cũng có thể coi là một ví dụ minh họa cho tính hai mặt của cải cách. Khi cuộc chiến dai dẳng với Chiêm Thành kết thúc bằng cái chết bất ngờ của Chiêm vương Chế Bồng Nga năm 1390, nước Đại Việt đã loạng choạng như người lâm bạo bệnh. Hùng khí quân dân từ thuở đánh Nguyên đã suy sụp từ sau trận thua Chiêm đau đớn tại thành Đồ Bàn (1377), ngốn phần lớn 12 vạn binh tướng, vua Duệ Tôn tử trận. Mất mùa, nội loạn, giặc Chiêm liên tục cướp phá, sự phình to và kê biên nhập nhằng của ruộng đất tôn thất khiến kho đụn ************ng cạn kiệt. Sự ra đời của thuế thân thời kỳ này (đánh thuế 3 quan tiền mỗi suất đinh bất kể sống chết) là một sự bất đắc dĩ tuyệt vọng. Ban hành và cưỡng bức dùng tiền giấy trong những năm phục hồi sau chiến tranh, vì thế có thể xem là một giải pháp mang tính tình thế ngắn hạn hơn là một cải cách có ý nghĩa lâu dài của Hồ Quý Ly. Cùng một lúc, nó giải quyết nạn khan hiếm tiền tệ và đồng thời thu hút tài nguyên về quốc khố (thông qua việc cưỡng bức đổi tiền: một quan tiền đồng ăn một quan hai tiền giấy). Trớ trêu là do biện pháp thi hành cứng nhắc của chính quyền, chất lượng giấy của tiền, sự mai một niềm tin vào triều đình, nạn làm tiền giả hoành hành và tập quán tiêu tiền đồng bao đời của dân đã chất thêm vào ??otội trạng??? của Quý Ly nhiều lời ta oán. Một giải pháp thông minh nhưng không hợp thời.
    Bi kịch của Hồ Quý Ly là dạng bi kịch của nhà kỹ trị. Ông quá chú tâm mục đích mà thiếu đi sự ôn-nhu rất cần thiết trong thực hiện. Trước một đất nước tan hoang như con bệnh nặng, ông mạnh tay dùng phương thuốc đắng. Bạo y trị bạo bệnh! Nhưng kỷ cương khắc nghiệt của Nho giáo đâu dễ ngày một ngày hai đem áp dụng với đám dân đã quen với sự khoan thai của nhà Phật. Những lợi ích cải cách, nếu có, không át nổi nhân tâm xao động vì Quý Ly bức hại vua tôi nhà Trần. Lòng người chưa nguôi lưu luyến những võ công hiển hách của vương triều này. Bài học dân vận xương máu từ các triều đại trước đã không được Quý Ly vận dụng triệt để.
    Chỉ tiếc một điều là thời gian! Năm xưa Trần Thủ Độ dấy nghiệp nhà Trần, đánh Đoàn Thương, Nguyễn Nộn, chôn sống một mẻ 370 tôn thất nhà Lý, giết vua Huệ Tông,... bắt họ Lý trong nước đổi hết ra họ Nguyễn để lòng dân tuyệt đường thương nhớ vua cũ, so về mức độ tàn ác và gây thất nhân tâm thì chưa chắc Quý Ly đã sánh bằng. Nhưng Trần triều có tới hơn 30 năm để củng cố sức mạnh và thu phục lòng dân - một thứ vốn dĩ rất tương đối - trước khi Mông Cổ kéo sang. Hồ Quý Ly sau khi chính thức dứt nghiệp nhà Trần suy vi thì chỉ còn 7 năm trước khi chống Minh, một khoảng thời gian đủ dài để xây thành trì mộ quân lương nhưng quá ngắn ngủi để đoàn kết nhân tâm. Rốt cục, vận đúng vào câu nói của Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng: ??oTôi không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo!???.
    ----------------------------
    - Như nhiều anh hùng nước Nam khác, Quý Ly có họ xa bên phương Bắc. Ông tổ của Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người tỉnh Chiết Giang, sang đất Việt làm Thái thú Diễn Châu thời Trung Quốc có loạn Ngũ Quý (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu) đầu thế kỷ thứ 10. Họ Hồ bám rễ sinh sôi ở đất Diễn Châu (nay là Nghệ An) đến đời cháu thứ 12 của Hưng Dật là Hồ Liêm thì dời ra Thanh Hóa. Liêm làm con nuôi của quan tuyên úy Lê Huấn nên cải họ Lê. Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Huấn, là con quan Kinh lược sứ Lê Quốc Kỳ, sau này lên ngôi mới lấy lại họ cũ.
    - Quốc hiệu Đại Ngu gây nhiều thắc mắc và dị ứng cũng liên quan đến gốc gác của họ Hồ. Tương truyền, Ngu Yên có con là Vĩ Mãn được Chu Vũ Vương nhà Chu phong ở đất Trần, thường gọi là Hồ Công. Sau Mãn lấy luôn làm họ, đổi thành Hồ Công Mãn. Quý Ly cho mình thuộc dòng dõi Hồ Công Mãn, nên đặt quốc hiệu Đại Ngu, hàm ý mình là con cháu dòng Ngu Thuấn.

    ---------------------------------------------------

    Quand je la regarde, moi l'homme loup au coeur d'acier
    Devant son corps de femme, je suis un géant de papier

    Được cdtphuc sửa chữa / chuyển vào 18:59 ngày 10/07/2002
  3. mystery_aries

    mystery_aries Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0
    Mạng mấy hôm nay bị làm sao ý nhỉ ? Vào chỉ toàn thấy bài cũ mà vẫn đề ngày hôm nay ?
    Thôi thông báo nè : Tổng biên tập NguCong và Yasunari uuuuuuuuuuuiiiiiiiiiiiiii ! Chị đã làm xong 2 topic của mình rồi ! Còn cái nào chưa ai làm thì bảo nhé , ngồi không chán wá rùi .
    mystery_aries
  4. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Bài nhỏ nhoi cái húng cái hành là anh quote lại của một cậu bên Vasc Orien trong loạt bài về HN chứ có phải của anh đâu Ya?
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  5. mystery_aries

    mystery_aries Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0
    Đây là bài "Châu Âu thời Trung Cổ" sau khi biên tập dưới dạng file đính kèm . Mong các bác đọc và cho ý kiến -
    Trungco.doc
    mystery_aries
  6. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    Công thức vàng của sự thịnh vượng (tổng hợp từ nhiều bài nên có hơi lủng củng)

    Giàu hay không có lẽ 1 phần là do chính sách của chính quốc với nước di cư , thuộc địa . Chính sách thuộc địa của Anh là đào tạo người để làm công cho mình , dùng nhân công rẻ để mở rộng sản xuất . Bởi vậy các nước thuộc địa của Anh như Ấn , Mã lai , Hồng Kông , Sing ... nhà nước Anh khuyến khích giáo dục ,dân chúng đều nói được tiếng Anh , Anh cũng mở nhiều nhà máy để sản xuất tại thuộc địa . Trong khi ấy chính sách của Pháp là đi vơ vét tài nguyên . Với chính sách như vậy thì dân càng ngu càng tốt . Cho nên trừ vài nước châu Phi mỗi bộ lạc 1 thứ tiếng nên phải dùng tiếng Pháp để làm tiếng chung , còn lại thì các thuộc địa khác của Pháp , đại bộ phận dân chúng không biết tiếng Pháp . Khác với Anh , Pháp chỉ xây dựng vài nhà máy để phục vụ các ông chủ thực dân tại thuộc địa thôi chứ không phải với mục tiêu sản xuất . Vì vậy , ở các thuộc địa của Pháp , dân trí thường thấp , phần lớn là nông dân , ít nhà máy có tầm cỡ lớn . Phải chăng đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch giữa thuộc địa của Anh và Pháp .
    Một lý do quan trọng là tôn giáo. Người Anh di cư chủ yếu theo đạo Tin lành. Đạo Tin lành khuyến khích tinh thần kinh doanh, ý thức tiết kiệm, làm giàu, và không quy định những lễ nghi phiền phức với con chiên và giáo sỹ (ví dụ mục sư có thể lấy vợ) phù hợp cho sự phát triển của CNTB.
    Người Tây Ban Nha đa phần là các tín đồ Thiên chúa giáo cuồng nhiệt, nếu không muốn nói là cuồng tín. (Nhớ lại các toà án dị giáo ở nước Tây Ban Nha thiên chúa giáo). Chế độ phong kiến ở Tây Ban Nha cũng có hơi hướng của phương Đông. Hơn nữa vào thời điểm thế kỷ 17-18, trong khi Anh đã tiến hành thành công công nghiệp hoá và có sự ra đời của tầng lớp trung lưu, tư sản có kiến thức kỹ thuật và tinh thần kinh doanh thì Tây-Bồ vẫn là các quốc gia phong kiến lạc hậu, tầng lớp tư sản- trung lưu hầu như không phát triển. Do vậy, nếu như người Anh đến các thuộc địa mang theo công nghệ, kỹ thuật, ý chí làm giàu thì người Tây Ban Nha chủ yếu là vơ vét của cải để mang về chính quốc.
    Một lý do khác là ở Mỹ, Canađa, người da đỏ đã hầu như bị diệt chủng vì vậy các nước này sẽ chỉ là một nước Anh khác, với các thể chế (luật lệ, tổ chức chính quyền, quy tắc ứng xử....) sẵn có từ chính quốc được du nhập có điều kiện hoạt động tốt trong khi ở Trung và Nam Mỹ, tỷ lệ dân cư bản địa cao hơn nhiều trong khi cũng không có được một sự hoà nhập thực sự giữa thực dân và dân bản địa. Do đó, sự phát triển xã hội nói chung cũng khó khăn hơn nhiều.
    Đó là các lý do lịch sử. Nhưng nói gì thì nói, thì ngày nay các nước nói tiếng Anh cũng có điều kiện phát triển tương đối thuận lợi hơn các nước không nói tiếng Anh. Chẳng hạn, sở dĩ Ấn Độ nổi bật lên trong ngành công nghiệp phần mềm cũng một phần quan trọng nhờ người Ấn ĐỘ thành thạo tiếng Anh.
    Yếu tố xã hội vào thời điểm xâm chiếm cũng là một nguyên nhân . Thực ra nó là một phần của Văn hoá .
    Phần nhiều các vùng đất người Anh xâm chiếm còn ở chế độ cộng sản nguyên thuỷ hoặc vừa thoát khỏi chế độ chiếm hữu nô lệ . Trong khi Pháp đánh vào những nước đã có một xã hội phong kiến lâu đời hoặc đang manh nha kinh tế tư sản . Vì thế văn hoá , trí tuệ đã đạt một mức nào đấy , đã cắm rễ , ngoài cách làm cho nó ngu , cho nó quên mình đi thì không còn cách nào khác . Các dân tộc ở Bắc Mỹ và Nam Thái BÌnh Dương không có cái gì để quên thì cần gì làm cho quên ? Cho các dân tộc ấy học hành để thành người Anh thì càng hay .
    NÕu xếp Văn hoá sau VTĐL và hoàn cảnh LS là nhầm . Hai yếu tố trên chỉ là tạm thời , có tính chất sách lược . Còn cái lâu dài , cái chiến lược , cái quyết định sự phụ thuộc , sự bị đồng hoá , sự mất tự do vĩnh viễn hay tạm thời của thuộc địa vào chính quốc là Văn hoá . Văn hoá là trí tuệ của dân tộc . Dân tộc nào có Văn hoá lâu đời thì mới có cái sức mạnh căn bản để tự do . Có Văn hoá thì mới có nhận thức về mình , về tổ tiên mình . Mà tự do là sự nhận thức được mình và thế giới khách quan .
    Trung Hoa bị xâu xé , Ấn Độ bị độ hộ , Việt Nam bị gông cùm gần thế kỷ , nhưng tất yếu là những nước này phải độc lập vì có VH , có bản sắc riêng không thể đồng hoá được . Còn những dân tộc BM và Nam TBD kia , họ bị xoá sổ bởi Văn hoá yếu .
    Như nước Mỹ , các bác thấy thực ra nó không có nền Văn hoá của riêng nó . Nõ có lịch sử 200 năm và một nền Văn hoá không có lịch sử . Thử hỏi nền Văn hoá Mỹ có những thời kỳ nào , những di tích hiện vật và phi hiện vât nào ? Vì thế mà nói Văn hoá Mỹ không có lịch sử . Họ có thể có một nền Văn minh rực rỡ nhưng Văn hoá của họ mù mịt .
    Một dân tộc không có một nền Văn hoá có bề dầy sẽ rất nguy hiểm .
    Dân tộc chúng ta có mấy nghìn năm lịch sử rồi . Về Văn hoá , chúng ta tự hào mình có một nền Văn hoá đầy bản sắc và sức sống . Nói sức sống vì sau bao nhiêu chiến tranh và bom đạn , chúng ta vẫn giữ được rất nhiều di vật vật thể và phi vật thể
    Mấy nước có vài trăm năm văn hoá như Mỹ , Úc ... họ lại có cái hay là sẵn sàng chấp nhận , hoà nhập với các nền văn hoá khác , đó chính là nền tảng vững chắc cho công cuộc toàn cầu hoá hiện nay . Còn mấy nước mà tự nhận có văn hóa lâu đời như Tàu , VN hay Taliban thì lại sinh ra tính tự kiêu , cực đoan , coi mình là nhất . Thêm nữa , chỉ có mỗi chúng ta là tự cho mình có 4000 năm văn hoá thôi , còn dưới mắt những người nước ngoài mà tôi từng gặp ( đủ cả Âu , Á , Phi , Mỹ la tinh ) thì văn hóa VN chỉ là một bản sao không hoàn hảo của văn hoá TQ .
    Về thời cuộc, người Á Đông thường nhìn theo thuyết Thiên , Địa, Nhân là 3 yếu tố chi phối sự hưng vong của một quốc gia .
    Thiên ở đây có lẽ ta hiểu như là Thời Cơ, Thời Điểm, Thời Đại, Qui Luật Xã Hội v.v...
    Địa thì là các yếu tố về Vị trí địa lý, Lịch Sử, Văn Hoá , nói chung là tất cả những gì thuộc về vật chất và tinh thần của một dân tộc.
    Nhân thì dĩ nhiên là yếu tố con người , nói đúng hơn là Trí Tuệ, nghị lực của con người ...
    Những nước giàu ( như nhóm G7) chẳng hạn đều là những nước da trắng ( kể cả Nhật Bản ) hoặc ít ra là không phải da sậm .? Vậy thì dù muốn hay không ta cũng phải công nhận một yếu tố mà lập luận phát xít, phân biệt chủng tộc nêu ra : dó là giống dân da trắng thông minh hơn !!! Nói ra điều này thật rất đau lòng và phạm huý , nhưng khó có thể bác bỏ được.
    Tất cả những phát minh khoa học, những sáng kiếnv.v... - Yếu tố quan trọng của sự giầu mạnh ... đều thuộc về nhũng người có mầu da sáng hơn .
    Sau nữa là môi trường địa lý và hoàn cảnh lịch sử . Những người châu Âu khi sang Mỹ thời thế kỷ 16, 17, găp một môi trường địa lý rất thuận lợi, một lục địa rộng mênh mông, giàu tài nguyên khoáng sản, lại găp thời đại lịch sử hết sức thuận lợi là thời kỳ mới phát triển của phương thức sản xuất TBCN , mới bắt đầu cơ giới hoá và công nghiệp hoá nên có điều kiệ phát triển rất nhanh vựt cả những người tổ tiên họ ở châu Âu - dù những người châu Âu cũng đã rất văn minh và phát triển hơn so với thế giới .
    Vậy là yếu tố Con Người, yếu tố Thời Đại và yếu tố Địa Lý rất quan trọng .
    (xin lỗi các bác vì bài viết dài quá nên em phải cắt làm 2 phần, không thì không gửi được)

    A lovely thing to see:
    through the paper window's hole
    the Galaxy

    Be sparkling...Be yourself
    Được Desert Rose sửa chữa / chuyển vào 18:59 ngày 19/07/2002
  7. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    Còn Văn Hoá thì sao ?
    Trong một môi trường Văn Hoá đa dạng , " Hợp Chủng " như Mỹ , đã đành là những nguời có nguồn gốc Anglo - Xacson vẫn là những người giầu có nhất, và có nhiều thành tựu nhất , nhưng tất cả các giống dân khác , bất kể mầu da văn hoá , cũng đều khá hơn so với chính đồng chủng , dồng văn của họ ở cố quốc - Vậy là yếu tố Văn Hoá không quan trọng . Môi trường sống mới là quan trọng .
    Picaso, Vangogh, Chagal khi ở Tây Ban Nha, Hà Lan hay Nga đều không nổi tiếng , nhưng đến khi lập nghiệp ở Pháp thì họ đều trở thành các bậc Maître Thế Giới cũng là một chứng minh cho sự quan trọng của môi trường sống quan trọng thế nào .
    Một người hay một dân tộc , cho dù có đổi tôn giáo cũng không thẻ giầu lên được , trái lại dù giữ nguyên văn hoá và tôn giáo của tổ tiên, nhưng di cư khỏi mảnh đất quê hương cằn cỗi như những người nông dân Bắc Bộ khi vào Nam Bộ lập nghiệp lại trở nên giầu có hơn - Vậy là lại một chứng minh về tầm quan trọng của môi trường địa lý.
    Tóm lại theo tớ, chìa khoá của sự giầu có, trước hết nằm trong bộ óc của con người . Yếu tố Nhân .
    Người nào hay dân tộc thông minh, năng động , sáng tạo, cần cù, dũng cảm hơn thì người đó hay dân tộc đó giàu mạnh hơn và ngược lại .
    Sau đó là Thời Thế hay Thiên Thời .
    Dù một dân tộc thông minh, sáng tạo, có nghị lực mà chưa gặp hoặc không gặp thời cũng khoá phát triển lên được. Châu Âu thời Trung Cổ là một ví dụ điển hình .
    Sau đó là Yếu tố Địa Lợi . Người châu Âu sang lập nghiệp tại châu Mỹ như Rồng xuống Biển, như Cọp vào Rừng , họ có đất " dụng võ " để thể hiện sự thông minh, nhiều sáng kiến, tinh thần khoa học thực dụng của họ , nên họ phát triển rất nhanh . Giá thử vùng đất ấy cho mấy ông da đen đến lập nghiệp thì dến bây giờ chắc vẫn còn là nơi khỉ ho cò gáy chứ làm gì có các super town và một xã hội siêu phát triển như hiện nay . Những người Hoa hay những người Ấn, khi sang Mỹ , họ vẫn giữ nguyên tôn giáo, văn hoá của họ , nhưng tại sao họ lại trở nên giàu có hơn tại chính quốc ?
    Nói tóm lại yếu tố Văn Hoá có tác dụng bảo tồn chứ không có tác dụng phát triển .
    Không có một nến văn hoá nào là mang những yếu tố kìm hãm hay thúc đẩy sự phát triển .
    Tất cả là tuỳ t huộc vào Con Người , Thời Thế và Môi Trường Sống
    Không nên hiểu nhầm nghĩa Văn hoá với Văn minh rồi . Hai khái niệm này hay nhập nhằng nên thường mọi người hay nhầm .
    Định nghĩa Văn minh là thế này : Văn minh là một lát cắt của Văn hoá .
    Như nước Mỹ , các sản phẩm Điện ảnh của họ chẳng hạn , là các sản phẩm Văn hoá , đúng thế , nhưng cả cái lát cắt Văn hoá hiện đại của Mỹ gồm cả Nghệ thuật và tập quán v.v... chỉ là những phần của một nền Văn minh . Chứ nước Mỹ không có Văn hoá của mình .
    KHông có Văn hoá nên họ mới rất dễ dàng bị đồng hoá . Nói hoà nhập chính là một dạng của sự dồng hoá . Cái gì cũng có hai mặt của nó . Nền Văn hoá lâu đời không dễ dàng bị đồng hoá nhưng cũng rất khó chấp nhận cái hay của một nền Văn hoá khác mình . Các dân tộc không có bản sắc dễ dàng chấp nhận nhũng gì không phải là họ , bởi vì bản sắc của họ yếu , họ không là gì cả , không là mình , nhưng cũng sẵn sàng là tất cả những gì có ích cho cuộc sống của họ .
    Mà có nên gọi họ là dân tộc không ? Dân Úc không phải là dân tộc . Dân Mỹ không phải là dân tộc . Họ là nhũng quốc gia , thậm chí cường quốc , nhưng dân tộc thì không .
    Nói về thế hệ trẻ con: chúng không bảo thủ như mình nên dễ dàng chấp nhận cái mới hơn , vì thế dễ tạp ra cái mới hơn . Nói ở cấp độ vĩ mô thì các quốc gia như Úc ... cũng giống như thế . Cái giống giữa họ và lũ trẻ kia là : nền tảng Văn hoá yếu . Nó có hai hệ quả : rất dễ đánh mất mình nhưng cũng rất dễ tạo ra cái mới .

    Nhưng trong những quan điểm trên cũng tồn tịa những mâu thuẫn. Đầu tiên nói rằng Trí tuệ và nghị lực của con nguời mới là quan trọng , và người da trắng thông minh hơn vàng .
    Sau đó lại nói môi trường mới là quan trọng . Nếu lấy dẫn chứng nguời Mỹ và người Anh , các hoạ sĩ , làm ta nhớ đến câu chuyện quýt trồng ở nước Tề khác với quýt trồng ở nước Sở . Chẳng lẽ con nguời cũng như những quả quýt kia , thực ra trí tuệ không hơn kém nhau mà chỉ phụ thuộc vào địa lý . Như thế là mâu thuẫn với luận điểm trên rồi .
    Nếu hỏi : " Thế sao vào thời ấy những dân tộc Á Phi lại yếu đuối đến độ để bị xâm lược đô hộ , chẳng phải vì ngu dốt hơn ư ? Câu trả lời là không . Chẳng hạn ở Châu Á : TRung Hoa và Việt Nam dính phải chế độ phong kiến . Về mặt xã hội và kinh tế , việc bế quan toả cảng dẫn đến bóp ngẹt sự phát triển kinh tế - như các bác biết , ngoại thương vô cùng quan trọng với một nền kinh tế và trao đổi hàng hoá là thiết yếu cho sự phát triển KT , Nho giáo làn cho ý thức cá nhân chùn đụt . Về mặt khoa học , khoa học kỹ thuật không phát triển vì nguyên nhân sâu xa là ý thức hướng về xã hội và tự nhiên của người phương Đông , người phương Đông chủ trương hoà hợp với tự nhiên chứ không cải tạo , thống trị tự nhiên .
    Nguyên nhân của hành động bế quan toả cảng : Các Hoàng Đế muốn quyền lực của mình là tuyệt đối - đây la yếu tố khách quan .
    Ý thức cá nhân kém vì Nho Giáo chủ trương con người hoà vào cái Ta chung , phục vụ nhà vua . Con người vì thế trở nên thụ động , chỉ nghe lệnh trên mà không vận dụng sự sáng tạo của mình .
    Nguyên nhân của khoa học kém phát triển là ý thức dung hoà với tự nhiên . NGuyên nhân của ý thức này là ảnh hưởng Nho giáo , Lão giáo .
    Lấy ví dụ như hai đứa bé con thông minh như nhau sinh ra trong hai gia đình có sự giáo dục khác nhau : một gia đình dạy con : " ham học là tốt " , gia đình kia thì bảo : " học làm cái gi` , lo mà tập cơ bắp làm ruộng , rồi tao lấy cho con vợ béo tốt " . Thế thì lớn lên , hai đứa bé ấy sẽ thế nào dù thông minh như nhau ? Đành rằng môi trường là quan trọng , nhưng chính cái ý thức thấm sâu trong chúng đã làm nên số phận chúng .
    Về việc người Anh dùng cái đầu mình để làm giàu . đồng ý . Nhưng bảo là họ chỉ " thêm thắt vào sự giàu có của họ " thì cã lÏ lµ không phải . Thêm thắt ? Nghĩa là dù thiếu nguồn lợi từ thuộc địa thì họ cũng chẳng hề hấn gì vì nguồn thu từ bóc lột thuộc địa không mấy đáng kể so với tổng thu nhập của họ ? Nếu đúng thế thì việc quái gì Pháp phải giãy nảy lên khi mất cái vùng Đông Dương nhỏ bằng lỗ mũi ? Việc quái gì Anh phải ra sức giữ những thuộc địa của mình ? Và nữa , việc quái gì mà vào những thế kỷ 16 , 17 , Anh và Pháp tranh nhau kịch liệt mảnh đất Bắc Mỹ ?
    Nếu không phải , mà ý nói rằng từ " thêm thắt " này có nghĩa là sự giàu có vốn là cái gốc của họ , từ đó họ phát triển bằng cách chiếm thuộc địa và nhân sự giàu có ấy lên nhiều lần , nghĩa là nguồn thu từ thuộc địa lớn hơn tổng thu nhập Mẫu quốc làm ra , thì tớ lại có thể nhấn mạnh lại : Sự giàu có hiện nay của họ phần lớn là nhờ bóc lột .
    (đây là bài viết tạm, nếu các bác duyệt thì để em viết thêm phần mở đầu và phần kết)
    Được Desert Rose sửa chữa / chuyển vào 19:04 ngày 19/07/2002
  8. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Bạn Desert Rose viết bài này à? Mà bạn mới có 17 tuổi?
    Thế thì tớ phục bạn thật đấy!!!
  9. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    Đây là bài tổng hợp từ topic " Công thức vàng của sự thịnh vượng" với các ý kiến của yuyu, Yasunari...không phải của Desert viết.
  10. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    Bài này cũng hay lắm, nhưng tiếc là không phải do Hector viết
    Hà Nội - Phố
    (trích)
    Phan Vũ
    Gửi những người Hà Nội đi xa ...
    Chương một
    1.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em mùi hoàng lan
    Còn em hoa sữa.
    Tiếng giày gọi đường khuya
    Thang gác cọt kẹt thời gian
    Thân gỗ ...
    Ta còn em màu xanh thật đêm
    Ngôi sao lẻ
    Xào xạc chùm cây gió
    Chiếc lá lạc vào căn xép nhỏ
    Lá thư quên địa chỉ.
    Quay về ...
    2.
    Ta còn em một gốc cây
    Một cột đèn
    Ai đó chờ ai ?
    Tóc cắt ngang
    Xõa xõa bờ vai ...
    Ta còn em ngã ba nào ?
    Chiếc khăn quàng tím đỏ,
    Khuôn mặt chưa quen
    Bỗng xôn xao nỗi khổ !
    Góc phố ấy mở đầu
    Trang tình sử ! ...
    3.
    Ta còn em con đường vắng
    Rì rào cơn lốc nhỏ
    Gót chân ai qua mùa lá đổ ?
    Nhà thờ Cửa Bắc,
    Chiều tan lễ,
    Chuông nguyện còn mãi ngân nga ...
    Chương hai
    6.
    Ta còn em khúc tự tình ca
    Đôi chim khuyên gọi nhau
    Trong bụi cỏ
    Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá,
    Tiếng ve ra rả mùa hè ...
    Còn em đường cũ Cổ Ngư
    La đà,
    Cành phượng vĩ.
    Hoàng hôn xa đến tự bao giờ,
    Nắng chiều phai trên sóng Tây Hồ.
    Những bước chân tìm nhau
    Rất vội,
    Tiếng thì thầm sớm hôm buổi tối,
    Cuộc tình hờ
    Bỗng chốc
    Nghiêm trang ...
    Chương ba
    9.
    Ta còn em đường lượn mái cong
    Ngôi chùa cũ,
    Tháng năm buồn lệch xô ngói âm dương
    Ai đó ngồi bên gốc đại,
    Chợt quên ai kia
    Đứng đợi bên đường.
    Chương bốn
    10.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em đám mây in bóng rồng bay
    Cổng đền Quan Thánh
    Cờ đuôi nheo ngũ sắc
    Còn em dãy bia đá
    Nhân hình hội tụ
    Rêu phong gìn giữ nét tài hoa ...
    (...)
    Ta còn em tiếng trống tan trường
    Áo thanh thiên điệp màu liễu rủ.
    Đôi guốc cao mài mòn đại lộ,
    Một ngả nào lưu dấu gót tài hoa.
    Còn em mãi mãi dáng kiêu sa
    Lặng lẽ theo em về phố ...
    11.
    Ta còn em những ánh sao sa,
    Tia hồi quang
    Chớp chớp trên đường
    Toa xe điện cuối ngày,
    Áo bành tô cũ nát ...
    Lanh canh ! Lanh canh !
    Tiếng hàng ngày hay hồi âm
    Thuở chiềng khua ? ...
    Ta còn em ngọn đèn khuya
    Vùng sáng nhỏ
    Bà quán mải mê câu chuyện
    Nàng Kiều
    Rượu làng Vân lung linh men ngọt
    Mắt cô nàng lúng liếng, đong đưa
    Những chàng trai say suốt mùa ...
    Chương năm
    13.
    Ta còn em cánh cửa sắt
    Lâu ngày không mở.
    Nhà ai ?
    Qua đó.
    Bâng khuâng nhớ tuổi học trò
    Còn em giàn thiên lý chết khô,
    Cỏ mọc hoang trong vườn nắng,
    Còn em tiếng ghi-ta
    Bập bùng
    Tự sự
    Châm lửa điếu thuốc cuối cùng
    Xập xòa
    Kỷ niệm.
    Đêm Kinh Kỳ thuở ấy,
    Xanh lơ ...
    17.
    Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
    Nhuộm đỏ
    Cô gái gặp nắng hanh.
    Chợt hồng đôi má
    Cơn mưa nào đi nhanh qua phố
    Một chút xanh hơn
    Trời Hà nội hôm qua ...
    Ta còn em cô hàng hoa
    Gánh mùa thu
    Qua cổng chợ
    Những chùm hoa tím
    Ngát
    Mùa thu ...
    Chương sáu
    18.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em một màu xanh thời gian
    Chợt nhòe,
    Chợt hiện
    Chợt lung linh ngọn nến,
    Chợt mong manh
    Một dáng
    Một hình
    20.
    Ta còn em một phút mê cuồng
    Người nghệ sĩ lang thang hè phố
    Bơ vơ
    Không nhớ nổi con đường.
    Ngay trước cổng nhà mẹ cha
    Còn em một bóng chiều sa
    Những câu thơ, những bức tranh
    Đời đời
    Lỡ dở ...
    Chương bảy
    21.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em những giọt sương
    Nhòa nhòa bóng điện
    Mặt nước Hồ Gươm
    Một đêm trở lạnh.
    Cánh nhạn chao nghiêng
    Chiều cuối,
    Giã từ...
    23.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em cánh tay trần
    Mở cửa
    Mùa Xuân trong khung :
    Giò phong lan
    Điệp vàng rực rỡ
    Từng cây khô óng ả sợi tơ hồng
    Đường phố dài
    Chi chít chồi sinh
    Màu ước vọng in hình
    Xanh nõn lá ...
    Ta còn em,
    Hà Nội - phố, em ơi !
    Ta còn em,
    Em ơi ! Hà Nội, phố ...
    Tháng Chạp, 1972
    PHAN VŨ
    Đôi lời về bài thơ "Hà Nội - phố"
    1. Bài thơ của Phan Vũ viết vào tháng Chạp năm 1972, khi cuộc chiến tranh Mỹ-Việt đang trong giai đoạn cuối, khi sự khốc liệt và chịu đựng trên khắp xứ sở như đã đến mức tột cùng. Hủy diệt có thể dẫn đến sớm kết thúc cuộc chiến. Bài học về hai thành phố Nhật bản vẫn còn. Có lẽ trong quyết định rải thảm Hà Nội bằng pháo đài bay B52 có mối liên hệ này.
    Hà Nội - thành phố nhỏ, nghèo, lặng lẽ, ít màu sắc rực rỡ. Cái sắc màu chính khi đó là màu xanh xám. Màu xanh của rêu tường, màu xanh của áo phòng không.
    Viết gửi những người đi xa khi thành phố quê hương đang bị tàn phá khốc liệt, bài thơ của Phan Vũ không có tiếng bom rơi, không có nhà đổ, không có người chết. Chỉ có lời bình thản của những ngày bình an. Giữa sự sống và cái chết, bình thản là một chọn lựa.
    2. Tuy phân ra nhiều chương, nhưng bài thơ như không có sự khác biệt giữa các chương. Tất cả là cảm xúc của tác giả về phố và người Hà Nội. Ba chữ "Ta còn em" được lặp nhiều lần, mở đầu cho nhiều khổ thơ. Đại từ "em" phải chăng có thể hiểu là phố Hà Nội, là người con gái nào đó ẩn hiện suốt bài thơ ? Tác giả, người ở lại trong thành phố bom rơi, như đã hóa thân. Ta còn em ... vì không muốn mất và không mất.
    Bài thơ nhiều hình ảnh, từng chữ, từng câu được chắt lọc kỹ lưỡng. Nhưng có lẽ điều làm bài thơ thật hay là những câu chữ chắt lọc rất đẹp ấy được viết thật giản dị. Giản dị như nói, như những lời người thân nhắn gửi. Và vì thế mà gửi gắm được tới người đọc, tới người đi xa.
    3. Thơ có nhạc và nhạc có thơ. Hay vì bản nhạc đã thấm vào lòng mà đọc bài thơ luôn thấy ngân nga tiếng hát. Hay vì bài thơ ngọt ngào mà khi đọc lòng thường cất tiếng hát theo.
    4. "Hà Nội - phố" có nhiều câu chữ, nhiều hình ảnh "đắt", gợi cảm xúc, gợi nhớ về những gì thật riêng của thành phố, những gì thật riêng của mỗi người. Đó là những lời tần ngần về "ngôi sao lẻ", "chiếc lá lạc", "mối tình hờ", "giàn thiên lý chết khô", "giọt sương nhòa nhòa bóng điện", tóc "xõa xõa bờ vai"...
    Một chút nao nao, một chút bâng khuâng, một chút lung linh.
    Về những căn nhà cũ của ba mươi sáu phố phường. Ở Hà Nội, chỉ những nhà đã xây cất từ thời Pháp mới có thang gác bằng gỗ, cũ lắm rồi
    Thang gác cọt kẹt thời gian
    Thân gỗ ...
    Về Hồ Tây mênh mông mà đứng đâu cũng thấy chiều tan trên mặt nước
    Nắng chiều phai trên sóng Tây Hồ.
    Những bước chân tìm nhau
    Rất vội
    Về những mái chùa xưa xiêu xiêu cùng năm tháng
    Tháng năm buồn lệch xô ngói âm dương
    Ai đó ngồi bên gốc đại
    Về tiếng chuông chiều nhà thờ quen thuộc
    Chiều tan lễ,
    Chuông nguyện còn mãi ngân nga ...
    Về một cuộc sống còn nhiều vất vả, một thuở xa xưa đã hào hoa
    Toa xe điện cuối ngày,
    Áo bành tô cũ nát
    Lanh canh ! lanh canh !
    Về say đắm quên cả đất trời
    Người nghệ sĩ lang thang hè phố
    Bơ vơ
    Không nhớ nổi con đường.
    Ngay trước cổng nhà mẹ cha
    Và khắc khoải của sự sáng tạo vốn không có bến bờ
    Những câu thơ, những bức tranh
    Đời đời
    Lỡ dở ...
    5. Bài thơ thấp thoáng nét kiêu sa của người con gái
    Rì rào cơn lốc nhỏ
    Gót chân ai qua mùa lá đổ ?
    để rồi mọi gã trai Hà Nội si tình
    Lặng lẽ theo em về phố ...
    Nhưng nhiều hơn vẫn là những con người của cuộc sống hàng ngày bình dị, là "bà quán" "mê câu chuyện nàng Kiều", là "cô nàng" mắt "lúng liếng, đong đưa", là "những chàng trai say suốt mùa" ...
    6. "Hà Nội - phố" có nhiều câu thơ lạ và đẹp. Lạ nhưng không cố tình làm lạ, và vì thế mà đẹp hơn.
    Khuôn mặt chưa quen
    Bỗng xôn xao nỗi khổ !
    Người ta thường chỉ nói "xôn xao nỗi nhớ". Nhưng nhớ đã thành khổ là nhớ lắm. Thấy khổ vì người lạ thì chắc đã thầm mong nhiều. Khổ nhưng mong nên mới xôn xao.
    Ta còn em tiếng trống tan trường
    Áo thanh thiên điệp màu liễu rủ.
    Đôi guốc cao mài mòn đại lộ
    Guốc gỗ mài mòn được đại lộ bao giờ ? Thuở ấy con gái Hà Nội hay đi guốc. Đôi guốc được tác giả hai lần nói đến trong bài thơ
    Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá
    Bỏ quên guốc bên ghế đá thì phải say sưa lắm, cũng say như "áo qua cầu gió bay".
    Ta còn em cô hàng hoa
    Gánh mùa thu
    Qua cổng chợ

Chia sẻ trang này