1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nơi đề cử bài viết cho hợp tuyển của box Lịch Sử Văn Hoá.

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi NguCong, 03/07/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    (tiếp)
    Hà Nội có nhiều làng trồng hoa, Nhật Tân, Nghi Tàm, Quảng Bá, Ngọc Hà ... những làng quanh Hồ Tây. Đàn bà, con gái nhà trồng hoa cũng thường là người gánh hoa vào phố bán. Gánh hàng hoa Hà Nội đã đi vào văn học mấy chục năm trước. Gánh gồng là việc nặng, nào có thơ gì. Nhưng "gánh mùa thu" vào phố thì thật là đẹp, thật trân trọng và biết ơn.
    Thơ ca hay nói đến Hà Nội với hoa lan, hoa sữa. Cây bàng lại thường đem cho tôi thật nhiều nỗi nhớ về tuổi thơ ở Hà Nội. Lũ trẻ con chúng tôi thường đi chọc hay ném những quả bàng chín vàng ăn ngọt lừ. Rồi hột bàng phơi khô đập lấy nhân ăn béo ngậy. Cây lá xứ mình xanh quanh năm, ít cây như cây bàng lá chuyển màu từ xanh sang đỏ, rồi rụng rồi chỉ còn những cành trơ trụi khẳng khiu run run trong gió bấc (mà tác giả bài hát "Hà Nội - phố" đã gọi là "cây bàng mồ côi mùa Đông")
    Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
    Nhuộm đỏ
    Đấy là khi mùa Đông đến. Rồi mùa Đông đi qua mùa Xuân tới, khi trời Hà Nội hơi mưa phùn, hơi se se lạnh, cây cối trổ lộc, sẽ thật ấm lòng nhìn thấy cành cành xanh nõn lá non
    Chi chít chồi sinh
    Màu ước vọng in hình
    Và mùa Xuân bỗng xôn xao khi qua đường chợt thoáng thấy tay trần con gái trong cửa sổ
    Ta còn em cánh tay trần
    Mở cửa
    Mùa Xuân trong khung
    7. "Từ thuở mang gươm đi mở cõi
    Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long" ...
    Tháng chạp năm 1972, sau hai năm đầu đại học ngành toán tôi đã trong quân đội và xa Hà Nội. Đêm đêm trong căn hầm bên bờ Thạch Hãn chúng tôi quây quanh chiếc đài bán dẫn nhỏ ngóng chờ giọng nói thân quen, "Đây là tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Biết Hà Nội bị B52 đe dọa. Rồi những ngày bỗng không bắt được tín hiệu gì, mở máy chỉ thấy u u. Nhìn về trời đêm phương Bắc xa xăm mà lòng thắt lại ...
    Hà Nội bé nhỏ đã qua gần một thế kỷ của những xung đột và chinh chiến, của những tàn phá và xây dựng, của những điều làm Hà Nội "đẹp và chưa đẹp". Trong những ngày khốc liệt ấy, cái "ta còn" trong bài thơ của Phan Vũ là tình yêu bình dị của cuộc sống Hà Nội. Mãi mãi vẫn còn !
    Hà Nội - phố, Em ơi !
    Tháng 12, 1996
    Tùng Nguyên
  2. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Em DeserRose tổng hợp lại mà đưọc như thế kia cũng là giỏi lắm rồi.
  3. NguCong

    NguCong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/02/2002
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    0
    Anh VNHL đấy à, anh hết sốc vụ Annonymous chưa đấy ?
    Em Desert Rose đã có ý kiến phản đối rồi đấy nhé .
    Anh .. từ từ thôi, box ta nay còn mỗi em ý hay vào thôi đấy
  4. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Chán thế. Khen mà cũng không được à. Mặt mình bị nhọ hay sao thế nhỉ?

    Bỗng nhớ cánh buồm xưa ấy
    Giờ đây cũng bỏ ta đi

  5. NguCong

    NguCong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/02/2002
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    0
    Tớ đề cử bài này của YuYu về hội hoạ Trung Hoa đời Tống :
    http://www.ttvnonline.com/forum/topic.asp?TOPIC_ID=105585&whichpage=2
    ----------Thời Đường hội hoạ đã rất phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ , nhất là về nghệ thuật vẽ nhân vật và chân dung truyền thần theo đúng nghĩa cao quí của nó chứ không phải hiểu truyền thần như là kiểu vẽ của những người không học vẽ ngày nay.
    Ngoài Diên Lập Bản ( ?-673) chuyên vẽ chân dung các Hoàng Đế, Hàn Cán ( 720 - 780 ) chuyên vẽ Ngựa và Kỵ Mã , có 2 hoạ sĩ nổi tiếng khác là Ngô Đạo Tử ( 700 - ?) vàTrương Huyên với 2 phong cách vẽ nhân vật trái ngược nhau :
    Ngô Đạo Tử với nét bút hừng hực, dữ dội , thần sầu quỉ khốc, ào ạt như mưa tuôn gió thổi và vẽ rất nhanh. Bức " Giang Lăng Tam bách Lý đồ " ông vẽ trên một bức tường của điện Đại Đồng trong vòng vỏn vẹn có 1 ngày. Trong khi cùng đề tài ấy ở bức tường bên kia Lý Tư Huấn phải thể hiện mất 3 tháng .
    Về bức " Địa ngục biến tướng đồ " , Đoàn Thành Thức bình luận rằng : " ...sức bút dữ tợn, biến dạng ghê gớm, nhìn xem bất giác tóc dựng ..." và có thơ khen rằng :
    " Thảm đạm thập đổ nội
    Ngô sinh tung cuồng tích
    Phong vân tương bức nhân
    Quỉ thần như thoát bích "
    ( Ảm đạm suốt 10 bức tường
    Ngô Sinh điên cuồng phóng bút
    Gió mây như hãm người
    Quỉ thần như bay ra khỏi vách )
    Người đương thời gọi ông là " Thánh Hoạ " và các nhà phê bình sau này cũng đánh giá ông là bậc " maitre " Hội Hoạ lớn nhất của các triều đại .
    Nhưng rất tiếc , tác phẩm của ông ngày nay hầu như thất lạc hết, chỉ còn những bức sao chép lại của người đời sau nên không được hoàn hảo lắm.
    Dưới đây là trích đoạn một bức vẽ thuỷ mặc trên giấy được cho là chép lại của Ngô Đạo Tử ? Hiện lưu giữ ở bảo tàng Nghệ thuật Osaka Nhật Bản :

    Đối lập với Ngô Đạo Tử là một ông " Thánh Hoạ " khác tên Trương Huyên ( thế kỷ VIII ) với bút pháp cực kỳ dịu dàng, chau chuốt, chuyên vẽ các tiểu thư, công tử , ngựa xe, màn trướng ,cung điện khuê các v.v...
    Tuy nhiên cũng như Ngô Đạo Tử, các kiệt tác của Trương Huyên cũng hầu hết thất lạc , chỉ còn các bản tranh sao chép lại của người đời sau , trong đó nổi tiếng nhất là bức Quắc quốc phu nhân đồ và Đảo Luyện đồ do vua Tống Huy Tôn Triệu Cật chép lại .
    Dưới đây là trích đoạn bức Quắc Quốc phu nhân đồ , hiện lưu giữ trong Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc :
    Còn đây là trích đoạn bức Đảo Luyện Đồ , hiện nằm ở bảo Tàng nghệ thuật Boston Hoa Kỳ :
    Tuy nhiên 2 bức hoạ nổi tiếng nhất đời Tống là bức " Giang Sơn Thiên Lý đồ " ( núi sông nghìn dặm )của Vương Hy Mạnh một hoạ sĩ cung đình dưới triều vua Tống Huy Tôn .
    Vương Hy Mạnh ( 1096 - 1120 ) được coi là một thần đồng , cả đời chỉ vẽ được bức tranh lụa lớn nhất trong lịch sử hội hoạ Trung Quốc ( bức này chỉ cao 50 cm nhưng dài tới gần 10m ) và chết ngay sau khi vẽ xong tranh lúc mới có 24 tuổi.
    Bức nổi tiếng thứ hai là " Thanh Minh Thượng Hà đồ " ( buổi sáng trên sông ) của Trương Trạch Đoan , vẽ tả thực toàn bộ Kinh Đô Khai Phong của Bắc Tống thời Tống Huy Tôn, bức này cũng khá lớn vì tuy cao có 25 cm nhưng dài tới 5,5 m .
    Cả hai bức này hiện đều lưu giữ tại Bảo tàng Cố Cung Bắc Kinh.
  6. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Ấy ấy ! bác Ngu Công chớ vội vàng thế ! Bài trên tớ chỉ coi như một trả lời ngắn cho câu hỏi nhỏ của bác ctphuc về Ngô Đạo Tử, hãy còn sơ sài lắm nếu muốn nói về Hội Hoạ cổ Trung Hoa .
    Tất nhiên rút kinh nghiệm lần trước , tớ cũng không dám hứa là sẽ viết một bài nghiêm chỉnh hơn về Hội Hoạ nói chung , hay Hội Hoạ Việt Nam, Trung Hoa nói riêng - Điều hình như có vẻ còn thiếu trên diễn đàn này - Mặc dù có cả một box về Mỹ Thuật ?
    Vả lại có lẽ không nên tham viết hay trích tràng giang đại hải dễ làm người đọc chán ? Có lẽ nên chịu khó viết bài luận mini bỏ túi kiểu mỳ ăn liền này dễ nhai hơn ?
    Vậy tớ sẽ cố gắng có lẽ đợi ...cảm hứng ! Hay hình như tớ phải có ai hỏi đến mới ...nổi máu viết thì phải ?
  7. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    Đây là bài của tớ :
    Sơ qua về Mỹ thuật thởi Lý :
    Cuối thế kỷ thứ 10 , nước ta thoát khỏi ách đô hộ phương Bắc . Trải qua hai triều Đinh , Lê thống nhất nước nhá và chống tái ngoại xâm , đến thời Lý , nghệ thuật phát triển thăng hoa với bản sắc riêng nhằm hoá giải những ảnh hưởng của Văn hoá Trung Hoa .
    Hai triều Đinh , Lê đã tạo dựng được một nhà nước có chủ quyền . Triều Lý nắm quyền có ý thức phục hưng Văn hoá dân tộc trên tinh thần có sự giao thoa với Văn hoá Chăm - Ấn đã tạo cơ sở cho nghệ thuật tạo hình phát triển . Thêm vào đó , việc Phật giáo trở thành quốc giáo , tăng lữ có vị trí tinh thần trọng yếu đạo Phật được phổ cập đã là nhân tố tác động vào hướng phát triển và phong cách nghệ thuật .
    Việc nước Đại Việt độc lập , tự chủ , đủ sức mạnh chống ngoại xâm , trải qua nhiều năm thái bình thịnh vượng cũng có tác động không nhỏ .
    Ý thức dân tộc định hình cho nghệ thuật . Phật giáo ảnh hưởng đến các công trình kiến trúc và đề tài các tác phẩm .
    Cuộc sống thái bình tự do , yên ấm ảnh hưởng đến con người . Tâm hồn người Việt trở nên thư thái , có thời gian để lãng mạn và chuyên tâm vào nghệ thuật . Nghệ thuật thời Lý thăng hoa . Tất cả là nhờ nền độc lập và sức mạnh của đất nước .
    Kiến trúc thời Lý phục vụ Phật giáo . Rất nhiều quốc tự được xây dựng . Phong cách thống soái là hoành tráng , đồ sộ . Chùa Một Cột ( chùa Diên Hựu ) được xây ở Thăng Long với quy mô lớn hơn ngôi chùa đã có trước đó ở Hoa Lư và với sự cách điệu tuyệt diệu . Chùa Báo Ân và tháp Báo Thiên cao khoảng 70 m . Chùa Phật Tích - Bắc Ninh , chùa Long Đọi - Nam Hà , chùa Bà Tấm - Hà Nội , chùa Quảng Giáo - Quảng Ninh đều là những chùa lớn .
    Kiến trúc chùa tháp thời Lý đều to lớn , cao . Các chùa thường nằm trên đỉnh núi cao .
    Cấu trúc và bố cục chùa tháp đơn giản , chỉ gồm một ngôi chùa chính và ngọn tháp lớn có đáy vuông . Điều này phản ánh tư tưởng giản dị , phóng khoáng của nguời thời Lý . Trang trí tháp chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Chăm , với các hình chim thần ( Garuđa ) , nữ thần đầu nguời mình chim ( có lẽ do việc bắt những tù binh Chăm sau cuộc nam chinh của Thánh Tông ) . Vì thế ấn tượng của ngôi chùa thời Lý rất độc đáo . Vừa tôn nghiêm , hùng vĩ . đường bệ bởi không gian và đường sống kiến trúc , vừa phóng khoáng lãng mạn bởi gần thiên nhiên , vừa sinh động , lý thú với các hình trang trí mang hơi hướng Chăm .
    Chùa thời Lý đến nay không còn nhiều . Nhưng ngay ở Hà Nội có một tác phẩm tuyệt đpẹ là chùa Một Cột . Ngôi chùa chỉ dùng một cột duy nhất làm trụ đỡ . KHối nhà đồ sộ phía trên và cây cột đá mảnh khảnh tưởng rất tương phản , nhưng lại kết hợp hài hoà thành một hình ảnh tượng trưng cho bông sen giữa hồ . Nó cho thấy đạo Phật đã phát triển mạnh trong triều đại này và có tác động rõ rệt lên kiến trúc .
    Có vẻ vô lý khi một nền kiến trúc hoành tráng quy mô lại có một ngôi chùa nhỏ làm đại diện . Người ta thường nghĩ rằng kích thước chùa từ thời Lý đến nay không thay đổi . Thực ra nó đã trải qua nhiều lần làm lại , mỗi lần kích thước đều được thu nhỏ . Lần xây dựng đầu , chùa có quy mô rất lớn . Một tài liệu cổ thời Lý miêu tả chùa nằm trên ao Linh Chiểu , có cầu bắc thông qua một gian điện thờ , quanh ao có hành lang , ngoài dãy hành lang có thêm ao Bích Trì , lại có hai dãy cầu thang bắc qua ao , mỗi đầu cầu có tháp lưu ly . Rõ ràng quanh chùa Một Cột là một khối kiến trúc đồ sộ .
    Học giả Nguyễn Đỗ Cung đã dẫn một tài liệu mới về kích thước chùa , có đoạn tả cây cột cao tới 40 thước .
    Điêu khắc thời Lý tinh vi và cân đối , mang cái trung dung tĩnh tại và cái " hư không " của Phật giáo . Vừa mới thoát khỏi nghìn năm nô lệ , được sống trong thái bình thịnh vượng , các nghệ sĩ có thể đắm mình trong tôn giáo và triết học , tỉ mỉ tạc những pho tượng thể hiện cái nhìn thoát tục .
    Bên cạnh đó , điêu khắc cũng chịu ảnh hưởgn Chăm . Những hình trang trí trên mặt đá của tháp Chương Sơn ( Nam Hà ) có bố cục , dáng điệu và hình thể gần với điêu khắc Chăm , nhưng cách biểu hiện khuôn mặt lai thuần Việt . Những khuôn mặt vũ nữ không tròn bầu , xa xăm và có phần vô cảm như những khuôn mặt Chăm , mà linh động và tươi trẻ .Pho tượng đời Lý nổi tiếng nhất là tượng A di đà ở chùa Phật Tích . Tượng cao 2m77 cả bệ , riêng tươgnj cao 1m87 ( bằng cái Linga của chị Toet ) , thể hiện Đức Phật đang ngồi thuyết Pháp trên toà sen . Toà sen cao và bệ tượng tạo thành một hình tháp nhiều tầng gây cảm giác như đang nâng bổng Đức Phật lên .
    Dáng ngồi của Phật thanh thoát , thư giãn . Đường cong chạy từ cổ dọc theo sống lưng cộng với khuôn mặt thoát tục gợi đến cái đẹp và sự dịu dàng phi giới tính . Toàn bức tượng cho ấn tượng về sự đốn ngộ cao siêu và tâm hồn tĩnh tại .
    Cũng rất thoát tục và lãng mạn , con rồng uốn lượn mềm mại và có một cái đầu mơ màng , những khúc uốn nhỏ dần về phía đuôi .
    Rồng thời Lý có bốn chân , loại lớn có vẩy . Nó rất khác con rồng thô to và mạnh thời Trần , cũng rất khác con rồng đường bệ của Trung Hoa . Thật thú vị khi con vật biểu tượng của Hoàng đế mà lại tỏ ra mơ mộng và đáng yêu như thế . Nó chứng tỏ cái chất vị tha Phật giáo và cái lãng mạn , cái Triết lý đã thấm sâu vào thời đại ấy , tù nhà vua đến thứ dân , nhà sư và nghệ sĩ . Một thời đại thật là đẹp !
    Mô típ rồng triều Lý đã xuất hiện trên nhiều loại trang trí bố cục hình tròn , hình cánh sen , hình lá đề , hình chữ nhật . Hầu như ở đâu , không gian nào , những con rồng luôn có tư thế và cấu trúc giống nhau . Nếu nhận xét một cách tương đối kỹ tính như PGS Nguyễn Du Chi , thì có thể chia rồng thời Lý làm hai loại cỏ ngẫng và cổ rụt .
    Phong cách thời Lý , về đề tài liên quan đến rồng và bố cục hình trang trí rồng , được các đời sau học theo và giữ gìn .
    Thời Lý không chỉ thành công trong độc lập tự chủ , chống ngoại xâm về quân sự , chính trị , mà còn rất thành công trong Văn hoá nghệ thuật . Mỹ thuật thời Lý được đặt lên hàng đầu so với các triều đại khác bởi tình độc đáo và tinh tế của nó , bởi cái hiền triết sâu lắng của nó . Có lẽ nguyên nhân sâu xa là ở cuộc sống thanh bình , một thời gian dài không có chiến tranh , đô hộ
    Được Yasunari sửa chữa / chuyển vào 17:15 ngày 26/07/2002
  8. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    Câu hỏi của Evil-Metal về Văn hoá Bắc Âu và câu trả lời rất uyên bác của Aura :
    - Evil-Metal :
    Bác nào ở châu Âu hay Bắc Âu có thể cho biết về chúa Odin với?
    Vahalla ở đâu? Chuyện chúa Odin đi qua chín thế giới?

    - Aura :
    Bác Evil_Metal nay đã chuyển sở thích từ Transylvania qua Valhalla rùi à? Thế là bác cùng sở thích với tui rùi. Làm quen cái bác nhỉ.
    Hôm nay tui có test, phải chạy đi liền bi giờ. Nên chỉ trả lời qua loa ngắn gọn thế này thôi, có gì ko phải bác đừng trách.
    Theo Thần thoại và Truyền thuyết Bắc Âu cổ ( Old Norse Mythology and Tales ), Odin là Đức Chúa Tối Cao. Người là vị quyền năng nhất, hùng mạnh nhất, và thông tuệ nhất ( ơ, chắc chỉ chịu đứng sau Thánh Mimir - The Wise thui ). Người cai quản Thiên Đình ( Asgard ) và Hạ giới ( Midgard ). Nơi Asgard, Odin ngồi trầm tư trên ngai vàng của mình, nhìn về Hạ giới, Quá Khứ và Tương lai, chiêm nghiệm về ngày tận thế ( Ragnarok ) khi bọn khổng lồ, kẻ thù muôn kiếp của các vị thần và loài người, tấn công vào Asgard, thiêu huỷ cung điện bằng vàng. Ragnarok là ngày tận thế, ngày mà Valhalla ( 1 hành lang - waiting Hall - trong vô số hành lang của Asgard, Valhalla là nơi những vị anh hùng - Hero - của loài người khi ngã gục giữa sa trường linh hồn họ sẽ được các thánh nữ Valkerie của Odin mang về đấy, chờ ngày quay lại nhân gian. ) bùng cháy trong lửa đỏ và cuối cùng sụp đổ.
    Có thể nói, Thần thoại và Truyền thuyết của những người phương Bắc ( Norsemen ) rất kì thú và quái dị ( the strange world of the Norsemen ). Ko có dân tộc nào hay nền văn minh nào, như Hy lạp, Lã Mã, Ai Cập có cái nhìn về sự luân hồi, về các vị thần giống như người Bắc Âu cổ. Đơn cử 1 ví dụ: Ragnarok - Ngày tận thế. Thần thoại Hy Lạp hay La Mã, các vị thần là tối thượng, là vô địch, là bất diệt, bất khả bại. Cái Thiện luôn chiến thắng Cái Ác ; thần thánh luôn thắng Ma Quỷ. Nhưng với khái niệm Ragnarok của mình, người Bắc Âu Cổ lại tin là đi đến cuối cùng, Cái Ác sẽ thắng. Khi Valhalla và Asgard nổi lửa, đó là lúc mà loài người hạ giới và các vị thần trên Thiên Đàng phải đối mặt với sự hủy diệt của mình ( the ultimate destruction ). Các vị thần, dẫn đầu là Odin kiêu hùng, sẽ sát cánh với những Hero loài người, chiến đấu cho 1 sự thất bại đã định trước. Dù biết thế, nhưng họ vẫn vui vẻ, vẩn ca hát và vui đùa tại Valhalla. Họ sẵn sàng chờ đón cái mà số phận định trước. Khái niệm về sự anh hùng của người Bắc Âu Cổ thú vị và độc đáo ở chỗ đó: biết là sẽ thua, sẽ chết nhưng vẫn chiến đấu, ko khuất phục.
    Thế thôi. Hôm khác có nhiều thời gian, ta bàn kĩ hơn. Xin chào.
  9. NguCong

    NguCong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/02/2002
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    0
    Đây là bài của bác Phó thường dân và CHM về "Pháp gia và Pháp luật hiện đại "
    http://www.ttvnonline.com/forum/topic.asp?TOPIC_ID=111063
    Phó thường dân:
    Hì .. Hì, chủ đề nêu ra lại không ăn khách rồi. Tôi tưởng các bác thích Đông chu, thì vào đây góp vui chứ. Vậy là tôi viết vài dòng ở đây để hỏi ý kiến các cao thủ đây.
    Người ta thích Đông Chu, hay Tam quốc, chắc vì nó có nhiều bài học "Đối Nhân Sử Thế",(Đây là suy diễn chủ quan của tôi thôi). Xem chuyện xưa để vận vào đời nay. Vì thế từ Marketing, đến chuyện đời thường, rồi đấu tranh vũ trang cách mạng đâu đâu người ta cũng mang Đông Du, Tam Quốc ra làm chứng.
    Nói rộng ra là "Ôn cổ tri tân". Thế nghĩa là thế nào ?
    Theo tôi hiểu thì đó là một phép xuy luận của người TQ. Nếu ở phương Tây, người ta lập luận bằng phương pháp suy diễn,biện chứng (một ví dụ là những tiênđề toán học), Thì người TQ lại dùng phép so sánh tương đồng. Có nghĩa là cứ có một hiện tượng, một khái niệm nào trong hiện tại, bằng trực giác chủ quan họ sẽ tìm ra một chuyện nào đó trong quá khứ (tức là lịch sử) ) tương đương để so sánh. Vì chuyện cũ họ đã biết kết quả, nên từ đó cũng có thể suy ra được chuyện hiện tại. Ôn cổ tri tân là thế. Cách suy luận này đã khiến người ta lý tưởng hoá quá khứ, coi qua khứ là cực kỳ hoàn hảo. Giải pháp cho đời nay, ta chỉ cần tìm trong đời xưa. Vì thế mới có những nhân vật « Ngồi trong lều tranh, đọc 1 cuốn sách (cổ) mà lại biết được mọi chuyện trong thiên hạ ». Gia Cát , Chu Du là nhưng nhân vật như vậy.
    Bây giờ ta thử tìm hiểu xem, trong cái sự tương đương đó đúng, sai như thế nào. Tôi sẽ lấy 2 ví dụ. Một về kỹ thuật, Một về nhân văn để xem xét.
    1. Về kỹ thuật : Ai cúng biết Người TQ phát minh ra thuốc súng, rồi cái phát minh này mới truyền vào phương Tây. Nhưng nếu ở TQ, người ta chỉ biết dùng nó làm mấy quả pháo đùng, pháo tép, cùng lắm là quả pháo lợn kêu « éc éc », vào ngày tết nguyên đán, thì người Phương Tây đã cải tiến nó, để dùng trong nhiều lĩnh vực từ kỹ thuật quân sự, đến xây dựng , v..v.. Như vậy đã có sự biến đổi về chất lượng nếu ta so sánh khái niệm này giữa TQ & Phương Tây.
    2. Về Nhân văn : Thời nay đâu đâu người ta cũng nói tới nhà nước Pháp Quyền, Ngay cả ở TQ nữa. Trong LS cổ đại TQ cũng có một học phái Pháp Gia. Vậy ta thử so sánh quan niệm Pháp của Pháp Gia và quan niệm Pháp luật hiện tại xem nó có tương đồng hay không.
    Đọc « Hàn Phi Tử », chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước cái nhìn khá đặc biệt của ông Trong khi Nho,Mặc luôn quảng cáo cho « Quả Dục », thì ông đã thấy Lợi là động lực để phát triển xã hội. Trong khi Nho giơ cái chữ « Thiên » ra, thì ông bảo « Trời Người chẳng có liên quan gì », trong khi Nho quảng cáo cho đạo đức, cho thánh hiền, thì ông bảo chí cần là thế lực, chứ không cần hiền. Ông cũng chủ trương Pháp luật phải nghiêm minh, từ trên xuống dưới. Đọc đến đây thì ta không thể không vỗ đùi đánh đét một cái mà than rằng « Chí lý .. Chí Lý? cái pháp luật nghiêm minh như ông nói có lẽ bây giờ ta vẫn chưa làm được Cổ nhân đúng là hơn ta ».
    Nhưng hãy đợi một lúc cho đầu ta bớt nóng, bớt cảm xúc. Ta thấy kèm với khái niệm Pháp ông còn có khái niệm THẾ nữa. Thế đây là thế lực, là sức mạnh. Và theo ông người ta sợ Pháp luật là vì thế lực. Như vậy ta có thể suy ra : vậy người có thế lực thì sẽ không tuân thủ Pháp. Như vậy Pháp là không bình đẳng. Rồi ông còn có một khái niệm khác nữa đó là THUẬT, hay là mánh khoé trong việc hành pháp. Nếu đã thế thì Pháp của ông không công khai. Một cái PHÁP không bình đẳng, không công khai, chỉ cậy vào sức mạnh thì ngày nay trong ngôn ngữ hiện đại ta gọi nó là gì. Nó chính là đọc tài chuyên chế chứ không có gì khác. Như vậy Pháp Gia không tương đương chút nào với nhận thức về pháp luật hiện đại vì nó dựa trên cơ sở : Công bằng, bình đẳng, công khai.
    Điều đó cũng được chứng minh bằng lịch sử. Nhà Tần, nhờ dùng Pháp gia mà thống nhất được TQ. Nhưng đó cũng là triều đại chuyên chế, hà khắc nhất trong LS TQ. Và chính ông Hàn Phi Tử, cũng bị bức chết ở trong ngục bởi Lý Tư một Pháp gia như ông. Và đương nhiên là ông không được đưa ra xử công khai trước công chúng. Một điều mà ông không đề cập tới.

    Được NguCong sửa chữa / chuyển vào 11:22 ngày 01/08/2002
  10. NguCong

    NguCong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/02/2002
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    0
    Bài trả lời của CHM
    Có tôi nâng chén với bác đây.
    (Đối nhân xử thế chứ không sử thế bác ạ ).
    Bác so sánh Pháp gia TQ cổ đại với Pháp luật theo quan điểm PT hiện đại như kiểu trên thì tôi e không ổn. Đấy là sự so sánh một cách giản đơn A với B theo một tiêu chí của một bên. Theo quan điểm của chúng ta hiện nay, với những điều kiện ngày của ngày hôm nay thì đương nhiên cái quan điểm của Pháp gia hơn hai nghìn năm trước thì làm sao bằng được với quan điểm PL đã qua hàng ngàn năm rèn rũa. Đánh giá vai trò của PL trong XH hôm nay là thế này, thì để công bằng, đánh giá Pháp gia là thế kia ta nên nhìn nhận vai trò của nó đối với XH thời ấy, chứ không phải với XH hôm nay. Hôm nay nó đã hoàn thành vai trò của mình và lui vào lịch sử rồi còn đâu.
    Sự thua kém của PG so với PL mà bác đã phê phán thực chất nằm trong sự thua kém của cả hai hình thái XH khác nhau, sự thua kém của hai thời đại khác nhau.
    Người ta đánh giá cao Pháp gia là đánh giá vai trò của nó đối với TQ cổ trung đại chứ không phải với TG ngày hôm nay. Đấy là một thành tựu LS đáng ghi nhận, một bước ngoặt lớn lao của LS TQ (có ảnh hưởng rất lớn tới VN). Lần đầu tiên PL không chỉ được coi là một công cụ, phương tiện mà đã được nâng lên thành một học thuyết chính trị, một đường lối trị nước. Nhiều tư tưởng của Pháp gia là rất tiến bộ. Trong TG cổ đại ở cả Đông lẫn Tây, nâng tư tưởng PL lên tầm tư tưởng chính trị vào thời điểm cách đây 2300 năm là một thành tựu có thể coi là rực rỡ, niềm tự hào của TQ với TG. Nhất là khi tư tưởng Pháp quyền (ở một trình độ cao hơn, tất nhiên) đang thịnh hành trong TG hiện đại.
    Thành tựu của PG thì nhiều. Một VD: Hãy tưởng tượng khi đặt bên cạnh những quan điểm "chính danh định phận" (phân chia XH thành những tầng lớp khác nhau), "lễ không xuống đến thứ dân, hình phạt không tới người quân tử" (quân tử: chỉ nam giới tầng lớp trên, có địa vị, học hành) của Nho gia thì Hàn chủ trương "Pháp luật không hùa theo kẻ sang, thi hành PL kẻ khôn cũng không từ, kẻ dũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu". Đấy là bước đầu tiên của xoá bỏ đẳng cấp, thiết lập sự công bằng trong XH, mọi người bình đẳng trước pháp luật. (tất nhiên không phải bình đẳng với Vua).
    Trích từ:
    --------------------------------------------------------------------------------
    Thế đây là thế lực, là sức mạnh. Và theo ông người ta sợ Pháp luật là vì thế lực. Như vậy ta có thể suy ra : vậy người có thế lực thì sẽ không tuân thủ Pháp. Như vậy Pháp là không bình đẳng. Rồi ông còn có một khái niệm khác nữa đó là THUẬT, hay là mánh khoé trong việc hành pháp. Nếu đã thế thì Pháp của ông không công khai. Một cái PHÁP không bình đẳng, không công khai, chỉ cậy vào sức mạnh thì ngày nay trong ngôn ngữ hiện đại ta gọi nó là gì.
    --------------------------------------------------------------------------------
    Bác hiểu về Thế và Thuật tôi sợ là hơi đơn giản. Pháp, Thế, Thuật là của đế vương. Chỉ có một người có thế lực không sợ Pháp chính là Vua. XH Quân chủ thì đương nhiên quyền lực Nhà Vua là nhất. PL thực chất là sự thể hiện ý chí của Nhà Vua. Cái bình đẳng ấy là dành cho quan lại, dân chúng để quan lại khỏi lừa dối vua, khỏi lộng quyền, thưởng phạt nghiêm minh không phân biệt đai thần hay thất phu để khuyến khích lập công, trừng phạt tội lỗi .v.v.
    Hàn Phi chủ trương củng cố cái Thế cái Thuật của Vua chứ không phải cái thế của bề tôi (bề tôi thế mạnh thì Vua được gì?). Hàn Phi viết :" Quyền thế là cái không thể cho mượn. Nếu Vua bỏ mất một thì bầy tôi sẽ biến nó thành trăm.Bày tôi nếu mượn được quyền thế của Vua thì sẽ có nhiều sức mạnh và bên trong cũng như bên ngoài đều phục vụ họ. Bên trong cũng như bên ngoài phục vụ họ thì nhà vua bị che lấp". PLPK là một bộ phận của thiết chế quân chủ PK, đương nhiên là công cụ chuyên chính của Nhà vua. Nó chỉ công bằng ở một mức độ nhất định, và tất nhiên không đặt ra vấn đề bình đẳng trước PL với Vua được. Công khai và bình đẳng ở cấp độ kẻ dưới với nhau mới là mục đích của Pháp gia bác ạ.
    Thuật không đơn thuần là mánh khoé mà hãy hiểu là phương pháp cai trị của kẻ làm Vua. Pháp - Thế -Thuật có nghĩa là kẻ cai trị phải đồng thời có công cụ (pháp luật), có vị thế đối với bề tôi và phải có phương pháp cai trị bề tôi hợp lý, không thể thiếu bất kỳ cái nào. (Đây là điểm khác của Hàn với Thương Ưởng vốn chủ trương trọng pháp luật, Thân Bất Hại chủ trương dùng thế.) LSVN đã từng chứng kiến một Hồ Quý Ly có Pháp nhưng không có Thế, LSTQ cũng có một Tần Thuỷ Hoàng có Pháp có Thế nhưng không có Thuật. Đều dẫn đến hậu quả thảm khốc.
    Pháp gia trọng hình của Tần là thứ PG cứng nhắc, thiếu Thuật. Về sau này nhiều triều đại TQ đã sử dụng tư tuởng PG một cách uyển chuyển và tài tình hơn. Tư tưởng "Ngoại Nho nội Pháp", ngoài lấy Nhân trị, Đức trị làm bình phong, trong dùng Pháp trị đã là rường cột tư tưởng chính trị TQ trong nhiều triều đại PK sau này.

    Được NguCong sửa chữa / chuyển vào 11:24 ngày 01/08/2002

Chia sẻ trang này