1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nơi đề cử bài viết cho hợp tuyển của box Lịch Sử Văn Hoá.

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi NguCong, 03/07/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. annonymous

    annonymous Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2002
    Bài viết:
    2.070
    Đã được thích:
    0
    T/g: Koibeto81
    Topic: Bản sắc văn hoá, http://www.ttvnonline.com/forum/topic.asp?TOPIC_ID=105040
    Nhân tiện các bác bàn về Văn Hóa, mới viết được một bài mà thấy cũng có thể Bin vào đây được. Các bác đọc chơi.
    Nguồn gốc của quan niệm : Trọng Nam Khinh Nữ.​
    Không thể phủ nhận một sự thật hiển nhiên là VH Việt Nam chúng ta chịu ảnh hiểu rất nhiều của VH Trung Quốc, cũng phải thôi, phải còng lưng làm nô lệ cho người ngót ngét 1000 năm chứ ít gì. Một trong những thứ mà ta tiếp thu một cách tương đối thụ động, thực ra là bị cưỡng ép, từ văn hoá Trung Quốc là Quan niệm "Trọng Nam Khinh Nữ". Muốn biết nó là của ta hay là ta ?otiếp thu? của người, chỉ có cách tìm về cội nguồn của VH Trung Quốc và VH Việt Nam, xem chúng bắt nguồn từ đâu, ntn và có những đặc điểm nổi bật gì. Đây thực sự là một vấn đề rất to, cần nhiều thời gian và công sức tra cứu tìm hiểu nếu muốn viết về nó cho đầy đủ, cặn kẽ. Do đó, trong phạm vi nội dung chủ đề này, bài viết sau của tớ chỉ muốn đề cập đến một vài nét rất cơ bản, từ đó để hiểu xem thực ra quan niệm ?oTrọng Nam Khinh Nữ? là của ai, của Ta hay của Tàu. Bác nào muốn tìm hiểu rõ hơn, tốt nhất là sang bên Lịch Sử-Văn Hoá thỉnh các cao thủ bên đó
    Bản thân Văn Hoá, bao gồm hai loại hình chính là Văn Hoá Gốc Du Mục trọng động, mà đại diện là các nền VH Phương Tây và Văn Hoá Gốc Nông Nghiệp trọng tĩnh, có đại diện là các nền VH Phương Đông. Cách phân loại này hiện nay được giới nghiên cứu VH công nhận một cách phổ biến. Ta có thể thấy, bản thân hai loại hình này có tính cách bao trùm, dễ thấy không có một nền văn hoá nào đã/đang tồn tại trên TG nằm ngoài phạm vi hai loại hình cơ bản nêu trên. Cũng không nên cứng nhắc khi đánh giá các nền VH theo kiểu chỉ có thể hoặc là Gốc Du Mục hoặc là Gốc Nông Nghiệp, bởi nếu tinh ý, có thể thấy cách phân loại đó chỉ đề cập đến hai cái Gốc mà thôi.Trong thực tế, từ hai cái Gốc đó, cái cây VH phát triển lên với muôn vàn cành, lá muôn hình muôn vẻ phong phú không cùng.
    So sánh đặc trưng của hai loại hình này các nhà nghiên cứu đưa ra bảng so sánh như sau :
    Quay lại với VH Việt Nam và VH Trung Quốc.
    VH Việt Nam kể từ lúc ra đời, thời điểm hình thành dân tộc VN, vốn mang những đặc điểm của một nền văn hoá Nông Ngiệp điển hình. Hay có thể nói rằng, nền VH Việt Nam là một nền VH Nông Nghiệp Điển Hình.Theo đó ta có thể thấy, bản chất của nền VH Việt Nam vốn là Trọng Phụ Nữ?điều này được thể hiện rõ trong những câu ca dao, tục ngữ của dân tộc ta nói về người phụ nữ, vì như những câu : Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà; Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng? Còn nhiều và rất nhiều ví dụ sinh động như thế nữa. Như thế, vậy chúng ta đã tiếp thu quan niệm Trọng Nam Khinh Nữ từ một nền VH khác, đó là VH Trung Quốc vậy.
    Bàn một chút về VH Trung Quốc vì nếu không sẽ rất khó hiểu bởi thoạt nhìn thì xem ra Trung Quốc cũng có chung cái gốc VH Nông Ngiệp như Việt Nam ta. Thực ra thì không hoàn toàn như vậy. Sự thật phức tạp hơn và được các nhà văn hóa kiến giải như sau, tổ tiên người Trung Quốc, tức người Hán, vốn có nguồn gốc du mục, xuất phát từ vùng Trung Á. Do đó, nền VH Trung Quốc là một nền VH có tính nước đôi : theo lịch sử kể từ thời điểm hình thành, nó là VH Du Mục và về sau, trong quá trình phát triển đi lên nó lại có những đặc điểm của VH Nông Ngiệp. Tóm lại, có thể nói VH Trung Quốc là một thứ văn hoá nông nghiệp trọng động khác với Việt Nam ta VH Việt Nam là văn hóa nông nghiệp điển hình, nông nghiệp trọng tĩnh. Trình bày như thế để thấy rằng, người Trung Quốc quả có quan niệm Trọng Nam Khinh Nữ và do đó có thể kết luận, quan niệm Trọng Nam Khinh Nữ trong xã hội Việt Nam có nguồn gốc từ VH Trung Quốc.
    Chuyện nó là như thế đó các bác ạ !!!
  2. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    anhquan :
    ---------------------
    Về Phật Giáo :
    Phật giáo có tin thuyết kiếp số hay không?
    Phật giáo không tin thuyết định mệnh, nhưng chấp nhận thuyết nhân quả. Nhân quả có thể thay đổi. Nhân quá khứ cộng với nhân hiện tại, có thể thay đổi quả báo. Nhưng sách Phật nói : "Định nghiệp không thể chuyển, trọng nghiệp không thể cứu" nghĩa là làm sao ? Khi đức Phật nói định nghiệp không thể chuyển là nói những nghiệp ác cực nặng, gọi là 5 tội (ngũ nghịch) : giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp Tăng, làm Phật chảy máu. Ngoài ra, còn có những tội như hủy báng Tam Bảo, giết người cướp của, đốt nhà phá đê, cưỡng hiếp phụ nữ đều là tội ác cực kỳ nặng, không thể chuyển được. Bởi những hành vi đó không những cưỡng đoạt sinh mệnh người khác, mà còn ảnh hưởng xấu xa lâu dài tới nền trị an xã hội cho nên những tội ác như vậy, tắt phải chịu quả báo.
    Ngày xưa có câu ngạn ngữ "Muốn hiểu vì sao trên đời có giặc giã đao binh, chỉ cần nửa đêm nghe tiếng đồ tể giết các súc vật". Sát sinh quá nhiều không tránh khỏi dẫn tới chiến tranh, tàn sát lẫn nhau.
    Kiếp có nghĩa là thời gian hoặc thời hạn. Nhân ác tích lũy đến một trình độ nhất định, sẽ sinh ra tai nạn, hoặc với quy mô khu vực hoặc với quy mô toàn quốc hay thế giới, tùy theo số người tạo nghiệp nhiều hay ít và nghiệp nặng hay nhẹ. Đời này tạo nghiệp không hẳn là đời này chịu báo. Trong đời quá khứ, những người tạo ra những nghiệp nhân giống nhau thì ở đời sau trong hoàn cảnh giống nhau ở một thời điểm nhất định sẽ chịu quả báo giống nhau.
    "Số" không phải là một từ ngữ Phật giáo. Nhưng trong "Sở từ", Khuất Nguyên viết : "Số hữu sở bất đãi, thần hữu sở bất thông". Nghĩa là "số có khi không đuổi kịp, thần thánh có chỗ không thông suốt" (ý nói số có khi không đuổi kịp người, thần tuy gọi là linh thông nhưng vẫn có điều không biết).
    Từ "Số" mà Khuất Nguyên dùng là thuật số. Trong Kinh thư có câu "lịch số" của trời tại nơi thân nhà ngươi" (có thể hiểu cái gọi là số mệnh trời chính là do nhà ngươi chứ không phải do trời).
    Lại trong cuốn "Văn Tuyển" của Ứng Cư có câu "Sinh ra ở mùa xuân thì xanh tươi, sinh ra ở mùa thu thì vàng héo, đó là số tự nhiên, có gì mà ân hận".
    Các từ "Số" dùng trong các câu văn trên đều chỉ lẽ trời, vận mạng hay là vận khí. Đem từ số ghép với từ kiếp thành ra "số kiếp".
    Kiếp là từ Phật giáo xuất xứ chữ Phạn "Kampa" dịch âm thanh "Kiếp ba", nó chỉ một quá trình thời gian dài vô cùng, phân biệt thành kiếp đại, kiếp trung, kiếp tiểu. Độ dài một kiếp tiểu tính như sau : Theo đạo Phật, tuổi thọ của loài người dài nhất có thể đến 8 vạn 4 nghìn năm, ngắn nhất là 10 năm. Tính từ 84000 năm, cứ mỗi trăm năm (1 thế kỷ) giảm một tuổi cho đến khi còn 10 tuổi. Rồi lại từ 10 tuổi tính trở lên, cứ mỗi trăm năm thêm một tuổi thọ cho đến lúc đạt 8 vạn 4000 tuổi. Quá trình một lần giảm, một lần tăng như vậy là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp. Thế giới mà chúng sinh ở kinh qua 4 giai đoạn : Thành, Trụ, Hoại, Không. Thời gian một giai đoạn là một trung kiếp, bốn trung kiếp họp thành một đại kiếp. Căn cứ vào Kinh Phật có giai đoạn "trụ" mới có hoạt động của chúng sinh. Ở ba giai đoạn còn lại chúng sinh "di chuyển" ở các thế giới khác. Đối với chúng sinh chưa kịp di chuyển mà giai đoạn "hoại" bắt đầu, thì sẽ gặp các tai nạn như đại hỏa (lửa cháy lớn), lụt lớn (đại thủy), bão lớn (đại phong), gọi chung là "kiếp nạn" có thể thiêu hủy cả thế giới vật chất và cảnh giới thiền định nữa. Khi nói chúng sinh không thoát khỏi kiếp nạn là có nghĩa như vậy. Sau kiếp nạn mà nghiệp báo vẫn chưa hết, thì nghiệp thức của chúng sinh đó lại tiếp tục ở một thế giới khác để tiếp tục chịu thọ báo. Nếu nghiệp báo hết, thì không chờ có kiếp nạn xảy ra, chúng sinh có thể ở cõi Phật từ đó vượt khỏi ba cõi, không còn bị kiếp nạn nữa. Tất nhiên, nếu không tu hành Phật pháp thì khó lòng thoát khỏi kiếp nạn
    Quan điểm của Phật giáo đối với các vấn đề phong thủy, tướng mạng
    Các nguyên lý xem tướng, xem sao, địa lý phong thủy có từ rất sớm. Theo truyền thuyết của các nhà chiêm tinh học thì nguyên lý đó có từ thời thái cổ, đồng thời với sự hình thành của trời đất, vũ trụ. Quan điểm của Phật giáo là không khẳng định, không phủ định thuật xem số mạng và phong thủy. Những thuật ấy cũng có một số đạo lý nhưng không phải là đạo lý tuyệt đối, có thể tin nhưng không mê tín, cũng có thể không tin, mà không tin cũng không gây ra tai nạn lớn gì.
    Đức Phật Thích Ca cấm các đệ tử không được làm các thuật xem sao, xem địa lý, bói toán, nhưng cũng không phản đối sự tồn tại của các môn thuật đó.
    Thuật chiêm tinh nói về các mối liên hệ giữa sự vận hành của các thiên thể và vị trí trái đất chúng ta. Do có mối quan hệ đó nên có sự biến đổi về khí hậu và thời tiết, phối hợp vị trí địa lý hoàn cảnh cư trú của nhân vật, với ngày tháng năm sinh, rồi cộng trừ chia mà thành nguyên tắc mang lý tám chữ của thời điểm sinh. Tỉ dụ sinh năm ngưu vào mùa đông ở Phương Bắc thì vận mệnh sẽ không tốt, vì ngưu sinh vào mùa đông mà lại ở phương Bắc lấy cỏ đâu mà ăn ? Nếu sinh năm ngưu ở vào tiết xuân ở phương Nam, lại gần núi, gần sông thì chắc chắn là vận mệnh tốt.
    Thế nhưng theo quan điểm Phật giáo thì vấn đề họa, phú, may mắn hay bất hạnh đều do nghiệp nhân thiện ác tạo ra từ đời sống trước rồi đời này chịu quả báo. Lại cộng thêm sự nỗ lực hay chây lười trong đời sống hiện tại mà thay đổi hoặc ảnh hưởng đến vận mạng của đời này. Do nghiệp nhân khác nhau tạo nên trong đời trước mà tiếp nhận hoàn cảnh khác nhau trong đời này. Cái gọi là hoàn cảnh bao quát cả di truyền của cha mẹ, bối cảnh văn hóa, văn minh nuôi dưỡng và giáo dục anh em họ hàng, thầy dạy, bạn bè và đồng nghiệp, tất cả đều ảnh hưởng đến vận mạng của cả một cuộc đời. Dù cho nghiệp nhân tạo ra ở đời trước là xấu, dẫn tới hoàn cảnh hiện tại nhưng nếu có sự tu dưỡng về mặt nội tâm, chú ý luyện tập thân thể tốt, trau dồi thêm ý thức mở mang trí tuệ thì vận mạng cũng sẽ biến đổi theo chiều hướng tốt. Cho nên, xem tướng chỉ thuần túy dựa vào 8 chữ sinh ra để phán đoán vận mạng một con người, là không có gì chắc chắn cả, nhất là đối với người có dũng khí, có nỗ lực.
    Mạng lý và tướng lý nên tách đôi ra. Mạng lý chỉ có ý nghĩa đối với nghiệp nhân đời trước (tám chữ lúc sinh ra). Còn tướng lý có giá trị từ sau khi sinh ra, tiếp thu phần tướng di truyền của cha mẹ, bao gồm tướng mặt, tướng xương cốt, tướng của giọng nói, tướng tay v.v??? Mặt khác do sự rèn luyện hoặc buông thả do tình trạng sức khỏe kể cả tâm lý có bình thường ổn định hay không khiến cho thần tướng lúc sinh ra cùng với quá trình cuộc đời có sự thay đổi. Đó mới là sự tổng hòa của tướng lý. Vì vậy mạng lý không thể chuyển được, còn tướng lý có thể chuyển biến theo tùy thời, tùy tâm của mình. Do đó tướng không có định mệnh, tất nhiên là có thể tin và có thể không tin.
    ...
    Được Yasunari sửa chữa / chuyển vào 18:11 ngày 02/08/2002
  3. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    Còn địa lý phong thủy là dựa vào ảnh hưởng của vị trí các thiên thể và vị trí địa lý mà quyết định ảnh hưởng tốt hay xấu, lợi hay hại đối với con người. Đó là thuộc về tự nhiên và cũng có ý nghĩa thường thức. Thuận với tự nhiên là được thiên thời là có lợi, trái với tự nhiên là bất lợi. Đó là khoa học tự nhiên, là môn học mà triết gia gọi là hình nhi hạ.
    Hiện nay, người ta lại dùng các căn cứ khoa học từ trường, từ lực để giải thích các nguyên lý về địa lý và phong thủy. Điểm tập trung của từ lực, phương vị thuận của từ trường, có lợi đối với thân thể con người, cũng như đối với trạng thái tinh thần của con người. Ngược lại là không lợi.
    Trong phong thủy, thì phong là không khí, là hoạt lực đến không trung còn thủy là nước là hoạt lực từ dưới đất, cần thiết cho sự sinh trưởng của vạn vật. Có sự phối hợp của phong thủy, thêm vào là vị trí địa lý thuận lợi để hấp thụ đầy đủ ánh sáng mặt trời, phải chăng đó chính là ba yếu tố của sinh mạng là ánh sáng mặt trời, không khí và nước ?
    -------
    Vậy thì con vật nào đã bay theo những đoá hoa triêu nhan của tôi ? Không biết nữa ...
  4. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    Cuộc tranh luận giữa anhquan và VNHL về Phật Giáo :
    -------
    Vậy thì con vật nào đã bay theo những đoá hoa triêu nhan của tôi ? Không biết nữa ...
  5. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    Bác VNHL thân mến
    Theo tôi có một số lýdo dẫn đến chuyện tàn lụi của Phật giáo tại Ấn độ , nhưng lýdo chính thì có 2 lý do sau đây:
    1/ Sự mâu thuẫn về quyền lợi với đạo Bà La Môn:
    Khi đạo phật được phát sinh ra thì đạo Bà La môn đã tồn tại rất lâu ở Ấn đọ rồi. Khi Đức phật Như lai truyền bà phật pháp , bằng sự thông tuệ và bằng phật phấp vô biên ngài đã đưa đạo Phật lên vị trí quốc giáo , thay thế cho đạo Bà la môn trong nhiều thế kỷ . Đạo Bà la môn tại Ấn độ từ thủa tồn tại cho tới nay đều nằm trong tay giai cấp thống trị . Đạo phật ít nhiều ảnh hưởng tới quyền lợi của đạo Bà La môn và gây rất nhiều xung đột trong tôn giáo và chính trị . Bản thân vào thời gian lúc Đức Phật khi còn tại thế chuyện này cũng đã xảy ra. Sau khi đức phật nhập diệt đạo phật rất hưng thịnh tại Ấn độ và sau đó lan rọng ra rất nhiều nướctrên thế giới. Tăng, Ni trở nên đông đảo, trong đó có không ít kẻ cơ hội trà trộn vào đoàn thể Tăng già và gây nên những mối bất hòa, do đó, Phật giáo trở nên hỗn loạn, khó phân biệt chánh, tà. Ðây cũng là lúc mà các bộ phái phân hóa đến cực điểm và cũng chính tại thơì điểm này đạo Bà la môn dần dần lấy lại thanh thế bằng các thủ đoạn chính trị , chèn ép v..v.. Hơn nữa lợi thế của đạo bà la môn là đạo này nằm trong tay của giai cấp thống trị. Trong lúc đó thì đạo phật bị chia rẽ, và khi cần có những biện pháp thay đổi tích cực thì các tông phái lại không đoàn kết , bám theo những đường lối bảo thủ. Đạo phật sau 1500 tại Ấn đọ không còn các bậc minh sư chỉ đường dẫn lối nữa nền dần dần đi vào chỗ yếu thế và tàn lụi dần đi.
    2/ Đạo Hồi : đây là một trong những lý do chính. Đạo hồi phát triển trên quan điểm bạo lực và thuần tuý chính trị ( toàN là hội khủng bố thôi) trước sức ép tàn bạo của đạo Hồi và do không có những thay đổi thích ứng nên đạo phật bị mất cac vị trí trên nhiều quốc gia và nhất là tại Ấn độ. Năm 1203, Ấn Ðộ bị quân đội Hồi giáo xâm lăng. Nhằm thiết lập một đế quốc Hồi giáo trên lãnh thổ Ấn, quân đội Hồi giáo đã phá hủy toàn bộ cơ sở vật chất, tinh thần của Ấn Ðộ. Gánh chịu hậu quả nặng nề nhất là Phật giáo và Ấn Ðộ giáo. Quân xâm lăng Hồi giáo đã đối xử với Phật giáo rất khắc nghiệt. Họ đập phá chùa chiền, tu viện, bảo tháp, giết hại tu sĩ, đốt phá kinh điển... với ý đồ nhằm thủ tiêu Phật giáo nói riêng và tôn giáo ở bản địa nói chung. Ðây là trang sử đau thương nhất của Phật giáo, khiến cho Phật giáo gần như vắng bóng ngay trên quê hương của Ðức Phật hơn nửa thế kỷ. Chắc các bác còn nhớ vào hồi tháng 5 năm nay bọn Taliban phá huỷ những tượng phạt tại A phú hán chứ.
    Tuy nhiên, ý đồ tiêu diệt Phật giáo của họ không thể thực hiện được, bởi trước đó rất lâu, Phật giáo đã truyền bá ra những quốc gia xa xôi ngoài Ấn Ðộ, và rất hưng thịnh tại các nơi này.
    Về chuyện tại sao Đạo phật phát triển rực rỡ ở các quốc gia khác tôi xin nhường lời cho các cao thủ Cười hay mếu, VNHL và IHL nhé.

  6. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    VNHL
    ------------
    Bác Anhquân thân mến
    Thú thực với bác, tôi mít đặc về các vấn đề tôn giáo không dám nhận là cao thủ đâu. Hiểu biết của tôi về Phật học không vượt hơn những gì trong sách Lịch sử triết học mà tôi học ở Đại học. Kiến giải của bác về nguyên nhân suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ rất hay nhưng tôi vẫn còn một vài thắc mắc xin hỏi bác
    - Theo bác, lý do thứ nhất là đạo Bàlamôn (hay Hindu giáo) lấn át, thủ tiêu dần. Nhưng tại sao ở nhiều nước như Srilanka, Khmer, Thái Lan...cũng chịu ảnh hưởng rất mạnh của Hinđu giáo (chẳng hạn thể hiện ở Angkor Vat của Campuchia) nhưng rút cục, Phật giáo lại thắng thế ở các quốc gia này và trở thành quốc giáo.
    - Lý do thứ hai là sự tiêu diệt có hệ thống của đạo Hồi theo gót chân những kẻ xâm lược Mông Cổ- Thổ Nhĩ Kỳ (hình như vào thế kỷ 13-15 thì phải). Thế nhưng tại sao đạo Hồi cũng quyết tâm tiêu diệt đạo Hinđu như đối với đạo Phật nhưng vẫn không thể thành công. Phải chăng điều này chứng tỏ tới thời điểm đạo Hồi truyền vào Ấn Độ thì đạo Phật đã rất suy yếu, không có cơ sở để chống đối lại.
    Về sự hưng thịnh của đạo Phật ở các nước như Thái Lan, Lào, Campuchia, Srilanka hay Tây Tạng thì tôi không rõ lắm (có thể do trước đó, ảnh hưởng của Hindu giáo trước đó chưa mạnh và không được toàn dân theo chăng).
    Nhưng ở Trung Quốc và Việt Nam thì theo tôi có thể có một số lý do sau (tôi tương phản với Ấn Độ):
    - Ở Ấn Độ trước khi đạo Phật ra đời đã tồn tại tôn giáo Hinđu giáo. Tại Trung Quốc và VN, trước khi có đạo Phật (khoảng 100 TCN ở TQ và 100 SCN ở VN) chưa hề có tôn giáo mà chỉ có đôi chút tàn dư của tín ngưỡng thời bộ lạc, thị tộc như thờ cúng quỷ thần, cây cối, tổ tiên. Nho giáo hay Đạo giáo chắc chắn chưa thể gọi là tôn giáo. Vì vậy, đạo Phật đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của đông đảo nhân dân nên phát triển rất nhanh.
    - Ở Ấn Độ, đạo Phật ra đời trong một xã hội phân chia đẳng cấp ngặt nghèo. Một người Balamon nếu dẫm phải cái bóng của một người hạ đẳng sẽ phải tắm rửa chay tịnh nhiều ngày. Đạo Phật chủ trương xoá bỏ bất bình đẳng giữa người nên gặp phải sự chống đối kịch liệt của đẳng cấp thống trị. Ở TQ và VN, sự phân chia đẳng cấp không ngặt nghèo, các quan lại có thể xuất thân nghèo hèn -> tạo điều kiện để Phật giáo hưng thịnh
    - Đạo Phật ở Ấn Độ thiên về triết lý hơn là tôn giáo, với những tư tưởng triết học cao siêu, xa rời thực tế cuộc sống. Đạo Phật ở TQ và VN đã bản địa hoá, bình dân hoá, tôn giáo hoá rất nhiều. Chủ trương nhập thế, kết hợp với tín ngưỡng truyền thống và các triết thuyết đạo, nho (người ta gọi là Tam giáo đồng quy)... làm đạo Phật dễ đi vào quảng đại quần chúng hơn. Vì vậy, đọc Tây du ký chúng ta thấy ông Phật Như lai dự tiệc cùng Ngọc hoàng thượng đế và Thái thượng lão quân....
    Lời nông ý cạn, các bác góp ý giùm.
    À, bác Anh quân ơi, bác am hiểu về các tôn giáo, bác giải thích giùm tôi nhé.
    Theo tôi, cốt lõi của đạo Thiên chúa là chữ yêu thương- Nếu mọi người đều yêu nhau như yêu chúa thì thế giới sẽ bình yên. Căn bản của đạo Phật là chữ "thiện", chữ "tâm"- Nếu tu nhân tích đức thì ai cũng có thể lên Niết bàn, được giải thoát được các khổ luỵ trên đời. Bác nói, đạo Hồi xuất hiện trên cơ sở bạo lực và thuần tuý chính trị. Tôi cũng nghe nói như vậy vì hình như Mohamet không chỉ là một nhà truyền giáo mà còn là một vị vua từng chinh phục nhiều vùng đất để khuếch trương tôn giáo của mình. Nhưng rút cục lại thì đạo Hồi cũng phải có triết lý nào đó để nhân loại theo chứ. Bác có thể nói ngắn gọn giùm tôi triết lý căn bản của đạo Hồi không? Cảm ơn bác nhá.
  7. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    --------
    Bác VNHL thân mến
    Rất cảm động khi được Bác góp ý, tôi xin từ từ phân tích cùng Bác những luận điểm về Tôn giáo với Bác.
    Bác nói :
    Nhưng tại sao ở nhiều nước như Srilanka, Khmer, Thái Lan...cũng chịu ảnh hưởng rất mạnh của Hinđu giáo (chẳng hạn thể hiện ở Angkor Vat của Campuchia) nhưng rút cục, Phật giáo lại thắng thế ở các quốc gia này và trở thành quốc giáo.
    Theo tôi bất cứ một việc hay một hình thái xã hội nào đều có chu kỳ phát triển của mình : li-fe cycle : sinh ra , phát triển, chín muồi và tàn lụi để rồi lại sinh ra trong một nhịp sống mới ( đõ chính là sự luân hồi theo đạo phật đã nói) . Bản thân đạo Hindu tại Ấn độ đã phát triển rất rực rỡ trước khi phật đản và tàn lụi trong vòng 1500 năm sau để rồi lại phát triển rực rỡ với một động lực mới như hiện tại. Tại các nước như Campuchia đạo Hindu cũng đã có thời gian phát triển huy hoàng với các thánh tích Ăngco vát để lại cho hậu thế sau này của chúng ta và đã đi vào tàn lụi. Theo tôi đó là hình thái vĩ mô của câu trả lời này còn về tiểu tiết thì tại nhữngnước này đạo phật đã có được một sự bảo hộ từ khắpmọi phía và nhất là từ giai cấp thống trị là các phật tử mộ đạo ( như Lào và Thái Lan chẳng hạn), và như bác đã nói :đạo phật đã nhập thế, kết hợp với tín ngưỡng truyền thống và các triết thuyết đạo, nho (người ta gọi là Tam giáo đồng quy)... làm đạo Phật dễ đi vào quảng đại quần chúng hơn , chính vì vậy mà đạo phật trở thành quốc giáo tại những nước này.
    Quả thật cho tới đầu thế kỷ thứ 13 tại Ần độ thì đạo phật đã quá yếu so vơí đạo Hindu và hơn nữa khi đao Hội xâm lăng thì đạo phật đã phải chịu một tổn thất to lớn cả về người, và của, v...v. Mãi đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là hơn sáu trăm năm sau thảm kịch trên, có một Phật tử người Tích Lan (Sri Lanka), nhà nghiên cứu Phật học nổi tiếng Anagarika Dharmapàla, đã sang Ấn Ðộ khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo. Từ đó đến nay, Phật giáo được tái hồi sinh, các thánh tích đã và đang được trùng tu, nhiều trung tâm Phật giáo được xây dựng làm nơi đào tạo Phật học và sinh hoạt tín ngưỡng cho Phật tử tại Ấn Ðộ cũng như từ các nước khác đến tu học, chiêm bái.
    Bác VNHL thân mến
    Câu hỏi về đạo Hồi mà bác kiểm tra tôi quả thật là chưa trả lời bác ngay được, bác để tôi thư thư đọc sách mấy hôm sẽ tranh luận cùng bác nhé. Theo tôi được biết , nhà tiên tri Môhamét , người sáng lập ra đạo hồi quả thật làmột chính trị gia hơn là một nhà hiền triết. Ông ta , với cương ví giáo chủ đã dùng tôn giáo để khuất phục các quốc gia và dân tộc lân cận, xây dựng một đế quốc riêng cho mình. Theo đạo hôi thì tất cả các tôn giáo khác đều là tà đạo, họ phủ nhận tất cả các tôn giáo khác. Thật ra theo tôi đây là chủ trương chính trị của Môhamét trong thời điểm này để phục vụ mục đích cưỡng chế và thu phục các dân tộc và quốc gia khác về một mối. Đạo Hồi không cho phép sự hiện diện của bất cứ tôn giáo nào : đây là luận điểm mang tình huỷ diệt của đạo Hồi ( tôi nhắc lại vụ phá tượng Phật hè năm nay) . Theo đạo Hồi thì nếu anh giết người với mục đích để đạo Hồi được chấn hưng thì anh không có tội và đây là luận điểm đáng sợ nhất và là thứ vũ khí huỷ diệt đáng sợ mà các quốc gia đạo Hồi hay các tổ chức khủng bố đang sử dụng và nếu ai mà tử vì đạo thì hồn anh ta sẽlên thiên đàng ngay chứ không cần phải tu luyện hay tu nhân tích đức gì cả. Cả đời anh làm điều ác chắc cũng không sao.
    Thật ra đạo hôi được chia ra làm hai nhánh chính ( nếu tôi nhớ không lầm) một nhánh ôn hoà hơn ( tại Arap Xeut) và một nhánh quá khích.
    Giáo chủ của đạo Hồi theo tôi là một người hết sức cơ hội : ông ta bằng việc kết hôn với một bà quả phụ ( hơn ông ta cả chục tuổi) giầu có nhất Bát đa mà nắm được sức mạnh vềkinh tế + vị trí trong xã hội.Sau này ông ta dùng tôn giáo để phục vụ cho mục đích của mình . Mô hamét có rấtnhiều vợ và rất háo sắc ( trong trường hợp này thì ông ta là một ông vua chứ không phải là một vị thánh) . Điều đó giải thích tại sao tại các nước đạo Hồi đàn ông được phép lấy bốn vợ ( nhiều lúctôi cũngmuốn vào đạo Hồi vì chuyên này đấy ) và tại sao tại các nước đạo hồi thì phụ nữ bị khinh rẻ quá mức. Đàn ông đạo hồi nói chung đối xử với phụ nữ rất thô bạo và nhiều trường hợp không được văn hoá cho lắm ( nếu bạn nào đi Đubai hay Batđa rồi chắc sẽ thấy).
    Mấy lời thô thiển mong được các bác chỉ bảo thêm.
    Thân
    -------
    Vậy thì con vật nào đã bay theo những đoá hoa triêu nhan của tôi ? Không biết nữa ...
  8. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    Cuoihaymeu
    ---------------
    Hôm nay ta trở lại vấn đề tôn giáo nhá.
    Lần trước tôi có đọc bài của một bác , hình như là IHL hay Finlandian ( lâu không thấy 2 bác, 2 bác ẩn cư ở đâu thế) về Phật giáo, trong đó bác đặt ra một vấn đề hay, Phật giáo là một tôn giáo hay một triết học. Gần đây lại có một số vấn đề lý thú nữa quanh chuyện hưng vong của tôn giáo này trên TG cũng như vị trí và vai trò của nó tại VN (trong đó có một số ý kiến khác tôi, tôi sẽ xin giải trình luôn thể). Một cái nữa rất hay là câu chuyện Nhân - Quả, liên quan đến một trong những khái niệm trung tâm của Phật giáo là "NGHIỆP". Ba cái này tuy không mới, nhưng tôi nghĩ cũng không nên vì thế mà quên nó đi. Nhất là với một tôn giáo thế giới có tầm quan trọng như Phật tại VN ta.
    1) Tôi bắt đầu từ cái thứ nhất nhá. Phật giáo ( viết tắt = P hoặc PG) là một tôn giáo hay triết học? Nói một cách chuẩn nhất thì PG chứa đựng cả 3 cái sau : Tôn giáo, Triết học, hệ tư tưởng.
    Vậy thế nào là một tôn giáo, triết thuyết hay hệ tư tưởng.
    -Một cái được gọi là tôn giáo khi nó có: Giáo hội ( hay giáo đoàn, và tất nhiên là có giáo chủ và tín đồ ) , giáo lý, giáo luật , giáo phận( địa bàn phân bố), giáo lễ ( lễ nghi tôn giáo), giáo đường ( nơi thực hành các lễ nghi tôn giáo)...Đó là những cái dùng để phân biệt Tôn Giáo những hình thức Tín Ngưỡng khác. ( VD tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ thần mặt trời của cư dân trồng lúa nước ). Tuy rằng gốc tinh thần của cả Tôn Giáo và Tín Ngưỡng đều là Niềm Tin. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào lòng tin và sùng bái thần linh. ( Tuy nhiên không phải niềm tin mà chính "cái sinh ra niềm tin" mới là nguồn gốc của tôn giáo )
    Có nhiều tôn giáo chứa đựng những tư tưởng Triết học (thâm sâu). Tư tưởng triết học của Phật sâu sắc hơn nhiều so với đạo Ki tô và đạo Hồi ( 3 tôn giáo TG) Tuy Ki Tô không phải là một triết học nhưng sự xuất hiện của nó đã được coi là làm thay đổi tiến trình triết học châu Âu trung đại). Phật giáo là một trong số những tôn giáo vươn đến tầm triết học.
    Triết học là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất về thế giới và sự nhận thức thế giới, đưa ra những quan niệm chung nhất của con người về những vấn đề bản thể TG, nhân sinh và xã hội.
    Phật giáo được xếp vào một trong 9 hệ thống triết học Ấn Độ gồm : triết học Mimànsà; Vedànta ; Sàmkhya; Yoga; Nyànya; Lokàyata; Phật giáo; Jaina giáo. 3 hệ thống sau-trong đó có Phật- thuộc phái không chính thống ( tức là chống lại tư tưởng của triết học Veda vốn được coi là chính thống với 6 hệ thống đầu ).
    - Tư tưởng triết học PG thể hiện trên 2 phương diện Thế giới quan ( hay bản thể luận) và nhân sinh quan. ( rất- rất nhiều người nói về tư tưởng PG chỉ nói đến mặt nhân sinh mà quên đi cái căn bản nguyên thuỷ của PG nằm ở bản thể luận, dẫn đến việc PG bị nhìn nhận dưới góc độ tôn giáo nhiều hơn là triết học )
    + Về bản thể luận, PG lý giải sự tồn tại của tự nhiên hay bản chất của TG bằng thuyết Ngũ Uẩn - Lục Đại. Cho rằng TG và con nguwời được cấu tạo từ sự tổng hợp của các yếu tố vật chất ( sắc) và tinh thần ( Danh).
    Thuyết Ngũ uẩn cho rằng TG được cấu tạo từ 5 yếu tố gồm : Sắc, thụ ( cảm giác) tưởng ( ấn tượng hay biểu tượng- là một trong 3 phương pháp tư duy ở mức độ cảm tính của con người), hành ( tư duy nói chung, hoặc tư duy lý tính), thức ( ý thức)
    Thuyết Lục đại cho rằng có 6 yếu tố : Địa , thuỷ , hoả, phong, không ( các yếu tố v/chất) và Thức ( ý thức- y/tố tinh thần)
    ...
    Được Yasunari sửa chữa / chuyển vào 18:21 ngày 02/08/2002
  9. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    PG cho rằng tất cả mọi sự vật, hiện tượng xung quanh ta đều là ko có thật, chỉ là do ảo giác và là do một phương pháp nhận thức sai lầm của con người về TG được gọi bằng k/n Vô Minh mang lại. Bản chất sự tồn tại của TG là một dòng biến chuyển liên tục ko có nguyên nhân đầu tiên ( cái nguyên nhân đầu tiên này thường được các tôn giáo hay triết học được coi là duy tâm cụ thể hoá bằng hình ảnh Thượng Đế hay Chúa trời- nguyên nhân hay "cú hích" mở đầu cho sự tồn tại và vận động của TG) và không có KQ cuối cùng- gọi là Vô Thường ( Chính là chữ vô thường trong "Đoá hoa vô thường" của TCS đấy). Cái dòng ấy chảy theo chu trình Sinh-Trụ Dị- Diệt ( vòng LUÂN HỒI) hay còn gọi là Sinh -Lão -Bệnh - Tử theo quy luật NHÂN-QUẢ. Giữa Nhân -Quả có Duyên , tức là KQ của Nhân và nguyên nhân của Quả. Cứ thế vận chuyển liên tục ko ngừng.
    + Nhân sinh quan PG hướng tới mục đích cuối cùng là GIẢI THOÁT cho con người khỏi bể khổ. Chính cái nhân sinh quan này là gốc rễ cho tôn giáo nhà Phật và cũng là cái hấp dẫn được tín đồ chứ có lẽ ko phải cái tư tưởng thâm sâu về triết học của nó. Phật từng nói " nước biển chỉ có một vị là mặn, đạo P cũng chỉ có một vị là giải thoát." Tư tưởng nhân sinh căn bản của P nằm trong Tứ diệu đế . Trong đó cái thứ 1Khổ đế chỉ ra nỗi khổ của con người (8 cái khổ), thứ 2 là Nhân đế chỉ ra 12 nguyên nhân gây ra nỗi khổ , còn gọi là Thập nhị nhân duyên, thứ 3 là Diệt đế khẳng định có thể diệt khổ và cuối cùng là Đạo đế gồm Bát chính đạo- 8 con đường sáng diệt khổ. Tôi không ghi rõ nội dung của Bát khổ, thập nhị nhân duyên và Bát chính đạo nữa nhá vì dài lắm và KQ cũng chỉ có tác dụng minh hoạ chứ không ảnh hưởng đến nội dung chính của bài viết này.
    Còn một k/n quan trọng nữa đóng vị trí trung tâm trong PG là NGHIỆP ( KARMA - thực ra kn này là trong kinh Upanisad của triết học Veda ) , nhưng nó hơi phức tạp và để cặn kẽ thì dài hơi lắm. Nếu có bác nào thật quan tâm thì buổi sau chúng ta sẽ nhậu tiếp. Còn giờ tôi xin cóppy một đoạn viết có những liên tưởng thú vị về Nghiệp của một bạn (hoặc chị- nhưng cũng có thể là em, haha..) có tên là Thuý Minh tại diễn đàn vn2k các bác đọc chơi nhá :"
    1. ?oPhương Tây sẽ hiểu và giải thích như thế nào về chữ ?onghĩa? trong ?ohết tình còn nghĩa? và ?ooan? trong ?otình là dây oan??
    Chữ ?ooan? trong ?otình là dây oan? có lẽ từ ?ooan trái?, ?ooan nghiệt? mà ra. Mà ?ooan trái? hay ?ooan nghiệt?T chắc lại có liên quan đến the so called ?onghiệp chướng? (karma) theo triết lý nhà Phật. Thuyết Tập đế (chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ) cho rằng người ta khổ là do ái dục (lòng ham muốn), mà nguyên nhân sâu xa là do người ta không nhận thấy được thế giới biến hoá vô thường, bản chất thế giới là hư huyễn, không thực (cái triết lý Giả bảo rằng Chân, Chân bảo Giả này được đúc kết và minh hoạ rất hay trong Hồng Lâu Mộng). Yêu tức là ham muốn, yêu mà không được yêu hay yêu và được yêu nhưng lại không thể lấy được nhau đều là lòng ham muốn không được đáp ứng, và vì vậy mà người ta mắc vào karma hay oan trái. Yêu rồi tình phai nhạt thì cũng khổ, khổ là vì người ta không thấy được cái biến hoá vô thường của cuộc đời ( ha ha ha, chỗ này chị thấy Phật giáo to some extent cũng ?obiện chứng? ra trò: vạn vật biến đổi, vật chất luôn vận động, vv). Triết lý nhà Phật cũng cho rằng người ta có 3 kiếp sống, 3 kiếp này được liên hệ với nhau theo luật nhân quả (nghiệp báo, nghiệp chướng hay karma). Kiếp trước nợ tình ai thì kiếp này phải giả nợ tình (em Hải Vân đâu nhỉ, cái câu này là copycat của em đấy nhá . Lại nữa, cái triết lý này được minh hoạ qua mối oan tình (tiền kiếp) của Lâm Đại Ngọc ?" cây Cam Lộ và Giả Bảo Ngọc - Thần Anh?? trong Hồng Lâu Mộng). Thế nên cái chữ ?ooan? trong ?otình là dây oan? có lẽ phải được giảI thích trong cả hệ thống học thuyết của nhà Phật như vậy.
    PG tiếp thu nhiều tư tưởng của triết học Veda, tuy vậy lại phủ nhận cái căn bản nguyên thuỷ của Veda là Brahman, đấng khởi nguyên của TG, bằng chính quan niệm " Bản chất TG là một dòng biến chuyển liên tục ( tức Vô thường) không có nguyên nhân đầu tiên... " ( trong khi Veda khẳng định Brahman là nguyên nhân đầu tiên sinh ra TG), vì thế PG ở Ấn độ bị xếp vào hệ thống triết học không chính thống hay tà phái.
    Bằng sự thống nhất của cả hai mặt Tôn giáo và Triết học, PG chứa đựng trong nó những mầm mống một của một hệ tư tưởng mới trong XH Ấn độ 2500 năm cách ngày nay, đó là tư tưởng BÌNH ĐẲNG giữa các tầng lớp người trong một xã hội mà sự phân hoá giai cấp đã trở nên vô cùng sâu sắc . Tuy rằng sau này hệ thống quan điểm về TG tự nhiên và XH của PG đã không bắt rễ đuợc ngay tại quê hương mình, nhưng những tư tưởng và giáo lý của nó lại vượt qua dãy Hymalaya và truyền bá ảnh hưởng khắp vùng Đông và Nam Á, và trở thành 1 trong 3 tôn giáo lớn nhất TG, điều mà chính tôn giáo lớn nhất của Ấn độ là Hindu giáo cũng ko làm được
    -------
    Vậy thì con vật nào đã bay theo những đoá hoa triêu nhan của tôi ? Không biết nữa ...
  10. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    anhquan
    -------------
    Các Bác thân mến
    Hôm nay tôi xin phép nói nốt về cho các Bác nhé
    A/ Tứ diệu đế
    1)- Khổ đế (Dukkha): Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận điều ấy. Con người luôn có xu hướng vượt thoát khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc, nhưng vì không hiểu rõ bản chất của khổ đau nên không tìm được lối thoát thực sự; đôi khi ngược lại, càng tìm kiếm hạnh phúc càng vướng vào khổ đau.
    2)- Tập đế (Samudaya): Tập là tích tập, các phiền não tụ hội tạo thành năng lực đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức được bản chất của khổ một cách rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận khổ đau (Ðạo đế).
    3)- Diệt đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ và sự chấm dứt khổ đau; cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết bàn (Nirvana/Nibbàna).
    4)- Ðạo đế (Magga): Ðạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Như vậy, toàn bộ giáo lý mà Ðức Phật đã dạy đều là Ðạo đế, tổng quát và căn bản gồm có 37 pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo
    B/ Bát chánh đạo
    1)- Chánh tri kiến (Sammà ***thi): Trong Pàli ngữ, ***thi là biến từ của ***tha. ***tha, nếu là động từ sẽ mang nghĩa «thấy, trông thấy«; khi là danh từ lại có nghĩa: «người được giác ngộ đến mục tiêu cuối cùng«. Trong khi Sammà mang ý nghĩa: «chánh trực, chơn chánh«. Sammà ***thi do vậy có nguyên nghĩa là: sự thấy, hiểu biết chân chánh, chánh trực hay nhận thức đúng, rõ ràng như thật.
    2)- Chánh tư duy (Sammà samkappa): Chánh tư duy là chi phần thứ hai trong bát chánh đạo sau chánh tri kiến. Do sự hiểu biết, cái nhìn chân chánh mà sự suy niệm hay ý nghĩ đúng đắn phát sinh. Quá trình suy niệm liên tục sẽ hình thành các tư tưởng (thoughts). Chánh tư duy vì vậy là kết quả của quá trình trầm tư lâu dài, định hình các tư tưởng hay hệ tư tưởng chánh trực. Tương tự như chánh tri kiến, các tư duy được gọi là chân chánh khi chúng được tạo ra từ sự chuyên chú khảo sát về tứ đế, duyên khởi - vô ngã, 5 uẩn.
    3)- Chánh ngữ (Sammà vàcà): Do có hiểu biết và tư tưởng đúng đắn, lời nói và ngôn hạnh của hành giả cũng nhu hòa, chánh trực. Luận Thanh Tịnh Ðạo (Visudhi Magga) viết: «Khi hành giả thấy và tư duy như vậy (tức trên cơ sở 4 sự thật và duyên khởi - vô ngã), sự từ bỏ tà ngữ của vị ấy, một sự từ bỏ tương ưng với chánh kiến, từ bỏ ác ngữ nghiệp gọi là chánh ngữ
    4)- Chánh nghiệp (Samma kammanta): Nghiệp (Kamma) là hành vi có tác ý. Một hành động hay hành vi xuất phát từ nhận thức và tư duy chân chánh được gọi là chánh nghiệp. Ngược với chánh nghiệp là tà nghiệp. Sự từ bỏ các hành vi bất thiện thuộc tà nghiệp - như giết hại, chiếm đoạt tài sảãn của người khác (bao gồm cả hối lộ, nhận hối lộ, thâm lạm công quỹ...), tà hạnh trong các dục (như nam nữ quan hệ bất chính, tự thủ dục...) - là những hành vi chân chánh hay chánh nghiệp.
    5)- Chánh mạng (Sammà àjìva): Yếu tố hay chi phần thứ năm trong Bát thánh đạo là Chánh mạng. Trong tự điển Pàli, Ajìva có nghĩa là sự nuôi sống, sự sanh sống, hàm nghĩa các hoạt động lao động chân tay hay trí não để nuôi sống sinh mạng. Mọi hoạt động nghề nghiệp sinh nhai được hiểu là chân chánh khi chúng không được thực hiện bằng sự xảo trá, lừa lọc, làm hại đến bản thân, gia đình, xã hội và quốc gia (dù của người hay của mình) như buôn bán độc dược, heroin, vũ khí,...
    6)- Chánh tinh tấn (Sammà vàyàma): Tinh tấn (Vàyàma) là sự nỗ lực, siêng năng chuyên cần, cố gắng hết sức bằng tất cả nghị lực bản thân. Chánh tinh tấn là năng lực thúc đẩy tiến trình tu tập của một hành giả khi vị này quyết tâm cắt đứt mọi bất thiện pháp trong cuộc sống tự thân.
    7)- Chánh niệm (Sammà sati): Sati theo Pàli ngữ mang nghĩa: sự ghi nhớ, sự chú tâm, thường được dịch là Niệm. Chánh niệm là sự chú tâm quán tưởng 4 đề mục: thân thể, cảm thọ, tâm thức và các pháp.
    8)- Chánh định (Sammà samàdhi): Ðịnh (Samàdhi) là trạng thái tâm tập trung thuần nhất, an tịnh, không dao động. Chính là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm.
    ...

Chia sẻ trang này