1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nội gia - Ngoại gia, càng bàn càng loạn ?

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi thieulam_vietnam, 04/07/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fade_away

    fade_away Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/01/2005
    Bài viết:
    1.025
    Đã được thích:
    0
    Nếu muốn bàn mà không loạn thì nên biết khái niệm nộigia ngoại gia xuất phát từ đâu: đó là từ 1 nhà tư tưởng kiêm nhà văn kiêm sử gia Hoàng Tông Hi sống vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh trong bản văn "Vương Chinh Nam mộ chí minh" (tức là bài văn khắc trên bia mộ) năm 1669 có nói:" nội gia tức là dĩ tĩnh chế động, địch nhân phạm đến tất xuất thủ ứng phó, có khác với Thiếu Lâm, được coi là ngoại gia.Nội gia khởi từ Trương Tam Phong là đạo sĩ phái Võ Đang đời Tống, Huy Tông gọi đến không đến, mơ được thần dậy quyền, sáng dậy đánh chết hơn trăm tên giặc."
    Đó là trên web, nhớ ngày xưa đọc quyển "Võ thuật thần kỳ" cũng nói về nội gia quyền như vậy.
    Tóm lại có thể hiểu ban đầu nội gia để chỉ Võ Đang, Ngoại gia chỉ Thiếu Lâm; sau khi đã truyền đi trong dân thì đã được thêm bớt thay đổi về ngữ nghĩa.
  2. fade_away

    fade_away Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/01/2005
    Bài viết:
    1.025
    Đã được thích:
    0
    Nếu bác muốn nghiên cứu về Thiếu Lâm xin báo cáo với bác là đến thời cận đại, tức là thời Tưởng ấy thì các tăng chùa Thiếu Lâm đã lập một đội...súng trường để bảo vệ chùa do đích thân sư trưởng chỉ huy, sau quân phiệt Phùng Hữu Tam cậy sức mạnh của Mauser và súng trường 1874 đã cả phá TL và ...đốt luôn. Đây là những sự kiện đã được chính chùa Thiếu Lâm Tung Sơn ghi nhận, nếu không tin có thể gửi email hỏi đương kim trụ trì, thấy bảo đại sư rất chăm vào website chùa TL đọc tin đấy ạ.
  3. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Đồng ý với bác!!! Nhưng bổ sung thêm nữa là quan niệm Nội gia - Ngoại gia là quan niệm của người tập các môn được gọi là Nội gia và trên cơ sở lý luận của mình để gọi một môn nào đó là Ngoại gia. Chưa có môn nào tự nhận mình là Ngoại gia cả.
    Tham khảo ở đây đi nhể.
    http://www.hn-ams.org/forum/archive/index.php/t-22748.html
    http://diendan.maihoatrang.com/viewtopic.php?t=22405&postdays=0&postorder=asc&start=15&sid=5d62d379d340114365f245a51bdc94be
    Ở VN có hai môn phái có chữ NỘI (không biết có môn nào khác nữa không).
    - Thiếu lâm NỘI quyền Tây Sơn Nhạn.
    - Thiếu Lâm NỘI gia (VS Trần Tiến).
    Nói chung là lằng nhằng lắm.
  4. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Ở HN còn có Vĩnh Xuân Nội gia quyền của nhóm võ sư Nguyễn Ngọc Nội.
  5. fade_away

    fade_away Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/01/2005
    Bài viết:
    1.025
    Đã được thích:
    0
    Bác nói đúng, rõ ràng khởi điểm của 2 khái niệm này là từ một ông nho sĩ, còn bên được gọi là ngoại gia có khi lúc đầu còn không biết mình là ngoại gia, vì các võ sư ngày xưa thường lo luyện quyền cước binh khí, ai rỗi đâu mà đi đọc sách xem bia. nhiều võ sư còn không biết chữ.
    Còn về sau khi biết ra thì danh từ này đã lan rộng nên, lại đoán thôi, các cụ cho nó thêm dăm bảy nghĩa vào cho nó giảm bớt phần phân biệt môn phái.
    Lại đoán, như vậy môn nội gia quyền ra đời là sau TL nhưng có điểm mạnh là nhiều người biết chữ nên sách vở nhiều, cơ sở lý luận vững nên phát triển nhanh, và các môn như Hình ý, Bát quái, Thái cực đều dựa vào đây để phát triển, dần dần các nhánh này khoẻ quá đè luôn cái gốc nên bây giờ nói đến nội gia chỉ thường nhớ đến các phái này
  6. fade_away

    fade_away Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/01/2005
    Bài viết:
    1.025
    Đã được thích:
    0
    Em đoán chữ nội trong 2 phái trên là có nghĩa chỉ về sự mật truyền khi mới khởi phái, còn tên thứ ba lại nhấn mạnh về khía cạnh nội công của dòng này.
  7. vo_tinh_langtu

    vo_tinh_langtu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    42
    Đã được thích:
    0
    theo trhoi bac thieulam_viet nam nói đúng
    không có gì bổ sung nũa
  8. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    NAM PHÁI NỘI GIA ​
    GS Vũ Đức N.D.  
    Vào thời thượng cổ tại Trung Hoa võ thuật được bắt nguồn từ các môn võ sơ khai như: Giốc Để (đấu vật cổ truyền), Thủ Bác (Đánh Tay Đá Chân), Đạo Dẫn (Hô Hấp Dưỡng Sinh) và Kiếm Thuật (Đánh Kiếm). Về sau, vì muốn trao dồi kỹ thuật chiến đấu, và sức khỏe thâ tâm, bốn môn võ cổ điển này đã được người ta phát huy và phối hợp lại thành hệ thống võ thuật Trung Hoa, gồm có hai ngành chính yếu: Quyền Thuật và Binh Khí. Ngày xưa, võ thuật Trung Hoa được mệnh danh là "Kỷ Kích" hay "Quốc Kỷ". Vào thời cận đại, người ta gọi là "Wu Shu" tại lục địa Trung Hoa, và "Kung Fu" tại các nước khác trên thế giới. Tại Trung Hoa, vì ảnh hưởng với các yếu tố: Hoàn cảnh địa lý, triết lý tôn giáo, và kỹ thuật thực hành, võ thuật Trung Hoa đã phát sinh ra hàng trăm võ phái lớn nhỏ khác nhau, qua các thời đại. Từ thời thượng cổ đến đầu triều Minh (1368), nguồn gốc lịch sử của các võ phái rất là mơ hồ, không có tài liệu dẫn chứng. Hầu hết, chỉ dựa vào các truyền thuyết không được rõ ràng. Kể từ triều đại nhà Minh (1368 ?"1660) về sau, xuất xứ và cách truyền dạy của các võ phái, tương đối được rõ ràng, xuyên qua các tài liệu sách sử. Hoàn cảnh địa lý đã đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống con người và võ thuật. Cho nên, trên đại thể, hầu hết, giới võ lâm Trung Hoa đã đồng thuận dùng sông Dương Tử (Trường Giang), làm giới tuyến cho địa phận Nam Bắc, nơi khai sinh các võ phái. Do đó, võ thuật Trung Hoa được chia thah hai phái căn bản: Nam và Bắc phái. Vì vậy người ta thường nói "Nam Quyền, Bắc Cước". Nam phái được đại diện bởi ba võ phái: Võ Đang Thái Cực Quyền, Bát Quái Quyền, và Hình Ý Quyền.Bắc phái gồm có rất nhiều võ phái khác nhau. Xuất xứ từ miền bắc, các võ phái nổi danh Thiếu Lâm, Trường Quyền, Đoàn Đả, và Địa Đàn. Ngoài ra, vì ảnh hưởng tríết lý tôn giáo và nguồn gốc khai sáng, danh từ "nội gia" và "ngoại gia" còn được dùng thêm cho Nam Phái và Bắc phái. Tức là hai nguồn võ thuật: nội phát và ngoại nhập. Nội Gia (hay Nam phái) Vì ba võ phái Võ Đang Thái Cực Quyền, Bát Quái Quyền, và Hình Ý Quyền đều được ảnh hưởng bởi triết lý đạo dẫn của Lão Trang, và Kinh Dịch cũng như nguồn gốc khai sáng tại nội địa Trung Hoa. Kỹ thuật thực hành của Nội Gia có những đặc tính như: nhu nhuyễn, chậm chạp, vòng cầu, nội lực, tĩnh chế động, tư thế ngắn hẹp. Ngoại gia (hay Bắc Phái) Hầu hết các võ phái ngoại gia đều được ảnh hưởng bởi các triết lý tôn giáo cũng như nguồn gốc khai sáng do từ nước ngoài du nhập vào Trung Hoa: Thiếu Lâm từ Phật Giáo đến Ấn Độ, Đàn Thoái từ Hồi Giáo ở Tây Tạng. Kỹ thuật thực hành của ngoại gia có những đặc tính như cương mãnh, nhanh nhẹn, đường thẳng, ngoại lực, năng động, tư thế dài rộng. Sau đây là nguồn gốc lược sử của một số võ phái nổi tiếng đại diện cho hai nhóm Nam Phái (Nội Gia) và Bắc Phái (Ngoại Gia): NAM PHÁI (NỘI GIA) 1. VÕ ĐANG PHÁI (THÁI CỰC QUYỀN) Võ Đang Phái tọa lạc tại núi Võ Đang Sơn thuộc Tiêu Anh phủ, nằm giữa hai phần đất Giang Tây và Hà Nam. Sáng tổ là Trương Quân Bảo, đạo hiệu là Trương Tam Phong sống vào cuối đời nhà Nguyên (Mông Cổ) và đầu đời nhà Minh, tổ tiên gốc ở Long Hổ Sơn, tỉnh Giang Tây. Thuở nhỏ, ông theo học đạo Nho và đạo Lão. Vào triều Nguyên, vua Huệ Tôn (Thuận Đế), niên hiệu Nguyên Thống (năm 1333) ông thi đỗ Mậu Tài (Tú Tài ngày nay) và làm quan Lịnh ở Trung Sơn và Bắc Lăng. Về sau ông dứt bỏ đường công danh để chu du thiên hạ. Ông đã từng theo học võ và Phật tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự khoảng 10 năm. Vì nhận thấy võ thuật Thiếu Lâm Tự thuộc về cương quyền ngoại tráng, cho nên khi thành đạo sĩ tu luyện tại núi Võ Đang, ông đã khai sáng Võ Đang quyền pháp, với đặc tính nhu nhuyễn trong kỹ thuật, phối hợp với nội lực tĩnh luyện. Cũng như triết lý Lão Trang và Dịch Kinh được áp dụng dẫn đạo thực hành. Môn quyền ổi danh nhất của Võ Đang phái là "Thái Cực Quyền" được Trương Tam Phong sáng chế vào thế kỷ 14. Theo sách "Thái Cực Quyền Luận" của Vương Tông Nhạc có ghi: "Những điều bàn luận trong sách này đều căn cứ vào tài liệu truyền dạy của Trương Tam Phong tiên sinh, để giúp hào kiệt trong thiên hạ, tăng thêm tuổi thọ, sống lâu, chớ không nghĩ đến chuyện dùng Thái Cực Quyền để làm phương tiện chiến đấu với kẻ địch". Theo mục "Phương Kỷ Truyện" trong Minh sử có chép" "Trương Toàn Nhất có tên thật là Trương Quân Bảo, đạo hiệu là Trương Tam Phong dung mạo khôi ngô, thân giống rùa, lưng giống hạc, tai to, mắt tròn, râu cứng như kích. Dù trời nóng hay lạnh, Trương Tam Phong thường mặc một bộ quần áo, đầu đội nón, mỗi ngày ăn hơn một đấu gạo, và đi hơn trăm dặm đường. Ông cùng học trò đi chơi núi Võ Đang, vì thích phong cảnh nơi đây, ông đã lập ra lều cỏ trên núi Võ Đang để tu luyện. Vua Minh Thái Tổ nghe tiếng vào năm Hồng Vũ thứ 14 tức năm 1382, có sai sứ đến tìm ông nhưng không gặp". Theo Hoàng Tông Hy, một học giả đời Thanh cho rằng Trương Tam Phong sống vào đời Bắc Tông (950 ?" 1275). Còn có thuyết cho rằng Trương Tam Phong sinh ngày 9 tháng 4 năm 1247, triều Nguyên, sống đến triều Minh, thọ trên 200 tuổi. Theo Quốc Kỷ Luận Lược của Từ Triết Đông, những thuyết này không đáng tin cậy. Về nguồn gốc môn Thái Cực Quyền có tất cả là 4 truyền thuyết: 1. Trương Tam Phong là sáng tổ (vào cuối đời Nguyên đầu đời Minh); 2. Vào đời Đường (618 ?" 907) Thái Cực Quyền được phát triển bởi bốn nhà: Hứa Tuyên Bình, người phủ Vi Châu, Giang Nam, Du Lưu Châu, người phủ Ninh Quốc, Giang Nam, Trình Linh Tiển, tự Nguyên Điều, người phủ Vi Châu, Giang Nam và Ân Lợi Hanh. 3. Vào cuối đời Minh 91618 ?" 1644) Trần Vương Tinh, người thuộc Trần Gia tại làng Trần Gia. 4. Vào triều Thanh vua Càn Long 91736 ?" 1797), Vương Tông Nhạc, người tỉnh Thiểm Tây trong lúc đi ngang qua làng Trần Gia Cấu, tỉnh HỒ Nam trông thấy dân làng đang tập luyện môn nhuyển quyền Thái Cực Trần Gia. Hôm sau, ông đến tiếp xúc và được dân làng nể phục, sau những lần thử đấu với các võ sư Trần Gia. Vương Tông Nhạc đã nhận lưu lại dạy Thái Cực Quyền cho dân làng Trần Gia. Từ đó, Trần Gia Thái Cực Quyền có ha hệ phái đứng đầu bởi: Trần Hữu Bổn (Tân phái), Trần Trường Hưng (cựu phái) và Trần Thanh Bình (Tiểu gia). Về sau Dương Phúc Khôi, tự Lộ Thiền theo học với Trần Trường Hưng, rồi cải biến thành Dương Gia Thái Cực Quyền. Dương Phúc Khôi (Lộ Thiền) có ba người học trò là anh em họ Vũ: Vũ Trừng Thanh, Võ Hà Thanh (tự là Võ Nhượng) và Võ Như Thanh. Võ Hà Thanh (tự Võ Nhượng) đến làng Trần Gia Cấu (Hồ Nam) học thêm với Trần Thanh Bình (Tiểu gia phái) rồi cải biến thành "Vũ Gia Thái Cực Quyền".
    (phần tiếp theo nói về Bát quái chưởng)
  9. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    2. BÁT QUÁI QUYỀN (hay BÁI QUÁT CHƯỞNG) Bát Quái là một trong ba phái thuộc Nội Gia Nam Phái, danh từ Bát Quái được rút ra từ Dịch Kinh, tạm hiểu là sự biến động truyền điệu trong tám phương hướng. Vì vậy kỹ thuật chính yếu của Bát Quái Quyền (Chưởng) chuyền dùng bọ pháp và chưởng pháp làm trung tâm vận chuyển, biến hóa không ngừng trong vị thế bốn phương tám hướng. Nguồn gốc Bát Quái Quyền (Chưởng) vẫn chưa được xác định. Câu hỏi vẫn còn đặt ra. Do ai, từ đâu, và lúc nào phát sinh ra nó? Theo sách "Lam Triều Ngoại sử" có ghi: "Vào năm 1798, triều Thanh vua Gia Khánh năm thứ hai ở huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông, miền Hoa Bắc, Vương Trường có truyền dạy quyền pháp cho Phùng Khắc Thiện. Đến mùa xuân Canh Ngọ (năm Gia Khánh thứ 15), Ngưu Lương Thần theo học quyền pháp này với Phùng Khắc Thiện và nhận thấy quyền pháp có tám phương bọ nên gọi là Bát Quái. Từ đó, môn Bát Quái được lưu truyền cho đến nay đã hơn trăm năm." Đến đời vua Thanh Quang Tự thứ sáu (1881), môn Bát Quái Quyền phát triển cực thịnh khắp Trung Hoa, nhất là ở Bắc Kinh, có nhiều vị tiền bối về Bát Quái Quyền như các ông: Đổng Hải Xuyên (1798 ?" 1879), người tỉnh Hồ Bắc học được môn Bát Quái từ một đạo sĩ ở miền núi. Đổng Hải Xuyên rất giỏi và nổi tiếng nhất ở Bắc Kinh, được xem như một Chưởng Môn về Bát Quái, có nhiều học trò nổi tiếng như Vi Phước, Trịnh Đình Hoa, Tống Vĩnh Tường, Mã Duy Kỳ, Ngụy Cát, Lý Văn Bảo, Đoàn Phúc, Lý Tồn Nghĩa. Về sau, Đổng Hải Xuyên kết bạn với danh thủ Quách Vân Thâm về Hình Ý Quyền, sau trận thử thách ngang tài. Từ đó, hai người kết hợp hai môn cùng dạy cho các học trò. Trong số các học trò của Đổng Hải Xuyên có Trịnh Đình Hoa rất giỏi, nổi tiếng ở Hoa Bắc. Trịnh Đình Hoa có học trò giỏi nhất là Tôn Lộc Đường. Về kỹ thuật Bát Quái, theo sách "Bát Quái Quyền Học" của Tôn Lộc Đường có ghi: "Trong Du Thân Bát Quái Liên hoàn chưởng có chưa mười tám đường La Hán Quyền, gồm bảy mươi hai tuyệt thoái, 72 ám cước, đến như các môn điểm huyệt, kiếm thuật, và các môn võ khí cũng chứa trong Bát Quái Quyền. Do đó, về hình thức môn Bát Quái rất giuống như các quyền thuật ngoại gia Bắc Phái, nhưng đặc điểm chuyên dùng bộ pháp tròn Hoán Hành, và thay đổi tay Hoán Chưởng làm chính tông, được gọi là "Du Thân Bát Quái" gồm có ba loại: thượng bàn, trung bàn, và hạ bàn. Các thế thượng bàn đã thấp, trung bàn và hạ bàn còn thấp hơn. Trong lúc xoay chuyển bộ pháp dùng rất hẹp và nhanh nhẹn, với dụng ý né tránh thế công của địch, để phản kích vào mặt sau lưng của địch. Trong lúc đối địch, thân và ý phải chuyển động nhưng khí phải trầm. Các động tác về tay gồm có thập chưởng, đơn hoán chưởng, dùng để biến chuyển phối hợp với bốn bộ pháp linh động. Trong thập chưởng, đơn hoán chưởng và song hoán chưởng làm gốc, còn lại là tám chưởng chủ yếu. Bốn bộ pháp gồm có: Khởi, Lạc, Khấu và Bài. Nhằm rèn luyện cho thân thủ được nhanh nhẹn, kỹ thuật của Bát Quái gồm có bốn đặc điểm như sau: Nhất Tẩu (chạy, bước lẹ), Nhị thị (trông, nhìn thấy rõ ràng), Tam Tọa (xuống bộ, ngồi thấp), và Tứ Phiên (nhà lộn, thoát ra khỏi). 3. HÌNH Ý QUYỀN Theo truyền thuyết, Nhạc Phi Vũ (Vũ Mục 1103 ?" 1142) Trung Liệt Tướng Quân vào đời vua Tống Cao Tông là sáng tổ của môn Hình Ý Quyền. Nhưng về kỹ thuật, người thừa kế và địa phương truyền bá môn này như thế nào? Không ai biết đến, vì không có tài liệu lưu truyền. Mãi về sau, đến giữa thời của cuối đời Minh và đầu đời Thanh (1637 ?" 1662), Cơ Tế Khả, tự là Long Phong, người ở Bồ Châu, tỉnh Sơn Tây rất giỏi quyền thuật và thương pháp. Một hôm, Cơ Long Phong đến học đạo tại núi Chung Nam Sơn, và được một lão dị nhân truyền dạy môn Hình Ý Quyền và trao cho quyển "Ngũ Quyền Kinh" của Nhạc Vũ Mục với nỗi dung ghi chép các phép Ngũ hành và các hình vẽ liên hoàn quyền của Thập Nhị Thú Hình Đồ như Long, Hổ, Ưng, Hùng (Gấu), Xà, Cáp (bồ câu), Yến, Kê, Diều (tên một loại chim), Mã, Hầu, Qui. Tất cả đều dựa vào hình thể động tác mà rút ra cái ý nghĩa. Đó cũng là chủ yếu của môn Hình Ý Quyền. Từ đó, Cơ Long Phong kiên tâm nghiên cứu luyện tập mà đại ngộ và phát huy môn này đến chỗ cực thịnh. Cơ Long Phong có nhai người học trò rất giỏi là Tào Kế Vũ, người Sơn Tây làm quan Thiểm Tây tỉnh Viên Tổng Trấn vào thời vua Thanh Khang Hy (1662 ?" 1722) và mã Học Lễ, người ở Lạc Dương, Hà Nam. Vào niên hiệu Hàm Phong (1811), hai anh em Đới Long Bang và Đới lăng Bang theo học với Tào Kế Vũ và rất nổi tiếng về Hình Ý Quyền tại Sơn Tây. Về sau, Lý Năng Nhiên có tên là Lạc Năng hay Phi Vũ, người ở Thâm Châu, tỉnh Trực Lệ, vốn thích quyền thuật, thường đi buôn ở Thái Cốc, nghe danh tiếng Đới Long Bang giỏi về Hình Ý Quyền đến xin theo thụ huấn được chín năm. Sau khi về quê, Lý Năng Nhiên thâu nhận học trò và rất nổi tiếng ở Hà Bắc. Học trò rất giỏi của Lý Năng Nhiên gồm có Quách Vân Thâm, người Thâm Châu (Quách Vân Thâm kết bạn với Đổng Hải Xuyên, một danh thủ Bát Quái Quyền, do đó mà hai môn Hình Ý và Bát Quái được dạy chung cho các học trò của hai phái), Lưu Kỳ Lan, người Thâm Châu, Trương Thủ Đức, người Kỳ Châu, Tống Thế Vinh, người Uyển Bình, Xa Nghị Trai, người Thái Cốc, Bạch Tây Viên, người Đại Hưng, Lưu Hiếu Lan, người Hà Giang, và Thọ Nhiễu Trai, người Tân An. Quách vân Thâm có một số học trò rất giỏi như Hứa Chiêm Ngao, Tiền Quản Lương, Lý Tồng Nghĩa, Lý Khuê Nguyên, Trương Chiếm Khôi, ... Còn Mã học Lễ khi về đến Hà Nam thâu nhận rất đông học trò. Trong os học trò giỏi nhất như mã Tầm Nguyên, người Hà Nam và Trương Chí Thanh, người Nam Dương. Về sau, Trương Chí Thanh truyền dạy cho Lý Chính, người Lỗ Sơn. Lý Chính truyền lại cho Turơng Tu, người Lỗ Sơn. Trương Tu dạy lại cho Gia Trang Đỗ, rồi Gia Trang Đỗ dạy lại cho An Đại Khánh, người Trường An. An Đại Khánh dạy lại cho Bảo Hiến Đình. Đó là chi phái Hình ý Quyền ở Hà Nam một thời danh tiếng. Môn Hình Ý Quyền rất là đơn giản, ít biến hóa, người tập chuyên tâm dễ thuần thục. Cả ba môn Thái Cực, Bát Quái, và Hình Ý thuộc Nội Gia Quyền đều có liên quan mật thiết lẫn nhau.
    (Phần sau: Bắc phái Ngoại gia)
  10. thieulam_vietnam

    thieulam_vietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/08/2005
    Bài viết:
    2.121
    Đã được thích:
    1
    Thế cái phần sau nó đâu rồi hả Thieulambacphai ?

Chia sẻ trang này