1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nội gia - Ngoại gia, càng bàn càng loạn ?

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi thieulam_vietnam, 04/07/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Ông anh làm sốt cả ruột.
    Bắc Phái Ngoại Gia
    Vũ Đức
    Trong quyền thuật, Bắc Phái hay Ngoại Gia bao gồm rất nhiều
    các môn võ khác nhau, được xuất xứ từ các địa phương Hoa
    Bắc. Cũng như, triết lý tôn giáo và nguồn gốc khai sáng được
    du nhập từ nước ngoài. Về kỹ thuật thực hành, Bắc Phái Ngoại
    Gia có những đặc tính căn bản như: cương mãnh, nhanh nhẹn,
    năng động, trực diện, đường thẳng, ngoại lực, tư thế dài
    rộng,?Căn cứ vào các môn võ nổi tiếng, người ta nhận thấy có
    3 loại tổng quát như: Trường Quyền, Đoản Đả, và Địa Đàng
    (theo sách "Quốc Kỷ Luận Lược" của Từ Triết Đông).
    Trong Trường Quyền, một số môn nổi tiếng như: Thái Tổ, Nhị
    Lang, Mê Tung, Bát Cực, Phiên Tử, Tra Quyền, Hồng Quyền,?
    đều có những điểm đại đồng và tiểu dị. Thí dụ như môn Phiên
    Tử sở trường về luyện tay, môn Phê Quải chuyên luyện về
    chưởng pháp, còn Tra Quyền chuyên luyện về bước di chuyển.
    Đó là nét độc đáo của mỗi môn. Ngoài ra, trong lúc tập
    luyện, hầu hết các môn trong Trường Quyền đều tập trung vào
    các điểm: tiến thoái nhanh lẹ, nhảy và tọa một cách nhẹ
    nhàng, khí trầm thế vững, biến hóa linh động, đường quyền
    dài rộng,?
    Về Đoản Đả, các môn nổi tiếng nhất là Miên Trường Đoản Đả,
    Lục Lộ Đoản Đả của Đàn Thoái Môn, Thiên Cang Thủ ở vùng
    Giang Nam, Đối Đả của phái Hồng Tháo,? đều áp dụng quyền
    pháp nghiêm ngặt, thủ pháp kín đáo.
    Còn Địa Đàng chuyên về nhào lộn, nổi tiếng nhất Lục Hợp Môn,
    Hầu Quyền, Túy Bát Tiên,?
    Về sau, cả ba môn Trường Quyền, Đoản Đả và Địa Đàng đều được
    một số các võ phái phối họp lại với nhau. Sau đây là nguồn
    gốc và lược sử một số các môn võ nổi tiếng đại diện cho Bắc
    Phái Ngoại Gia Quyền:
    1. Đàm Thoái và Đàn Thoái Quyền:
    Môn võ Đàm Thoái hay còn gọi là Đàn Thoái được du nhập vào
    Trung Hoa, từ những người theo đạo Hồi ở Tây Tạng, khoảng
    thế kỷ thứ mười bốn, rất thịnh hành ở tỉnh Sơn Đông, Hoa
    Bắc. Về kỹ thuật, môn này có hai nhánh. Những người theo học
    12 lộ quyền thường gọi là Đàm Thoái. Còn những người theo
    học 10 lộ quyền lại gọi là Đàn Thoái. Vào thời nhà Thanh,
    Hoắc Nguyên Giáp, người ở Hà Bắc, xuống phương nam sáng lập
    Tinh Võ Hội ở Thượng Hải, và phổ biến môn Đàm Thoái, rất
    đông người theo học. Về sau, Mã Vĩnh Trinh là người nổi
    tiếng giỏi nhất về môn Đàm Thoái ở Thượng Hải.
    2. Tra Quyền hay Xoa Quyền:
    Tra Quyền hay còn gọi là Xoa Quyền là một môn võ cổ của
    Trung Hoa, thuộc Bắc Phái, xuất xứ từ các tín đồ Hồi Giáo
    người Trung Hoa, thuộc các tỉnh Tân Cương, Thanh Hải, và Cam
    Túc, vào thế kỷ thứ 14. Môn này có cùng nguồn gốc với môn
    Đàm Thoái. Cả hai đều được thịnh hành vào thế kỷ thứ 17 tại
    Trung Hoa. Theo sách Kỷ Hiệu Tân Thư Quyền Kinh của Thích Kế
    Quang, nhà họ Ôn có 72 đường hành quyền, cùng một dụng ý như
    Tra Quyền.
    3. Nga Mi Võ Phái:
    Vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426 sau T.L) tại núi Nga Mi
    Sơn, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, võ phái Nga Mi được sáng lập, do
    nữ sáng tổ Chu Tú Anh, xuất thân từ dòng họ Chu gia giỏi võ,
    danh tiếng nhiều đời, tại tỉnh Sơn Đông, Hoa Bắc. Thuở nhỏ,
    vì cha mất sớm, hai anh em Chu Đức Kiệt và Chu Tú Anh được
    chú ruột, Chu Đức Võ Thượng Nhân, nuôi dưỡng và truyền dạy
    võ nghệ rất cẩn thận.
    4. Không Động Võ Phái:
    Võ Phái Không Động được xuất hiện tại núi Không Động, tỉnh
    Cam Túc, một nơi núi rừng âm u, lạnh lẽo, với một xuất xứ mù
    mờ, nguồn gốc sáng lập không được xác định. Cách thu nhận
    môn đồ rất khắt khe và hạn chế.
    5. Võ Phái Địa Đàng:
    Võ Phái Địa Đàng chuyện luyện về các kỹ thuật nhảy nhào, lăn
    lộn, té người xuống đất. Theo sách Quyền Kinh của Thích kế
    Quang, ***** của môn võ này là Thiên Trật Trường. Ơû miền
    Hoa Bắc, võ phái này áp dụng phối hợp với kỹ thuật Trường
    Quyền. Trái lại, ở vùng Giang Nam, kỹ thuật của Đoản Đả được
    phối hợp làm căn bản. Ngoài ra, môn võ Túy Bát Tiên rất được
    xem trọng trong võ phái Địa Đàng. Về sau, Trương Cảnh Phúc,
    tự là Giới Thần, rất nổi tiếng về Địa Đàng, ở Hà Bắc. Oâng
    đã từng xuống Hoa Nam, dạy môn Địa Đàng cho Trung Hoa Thể
    Dục Hội, tại Thương Hải.
  2. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    6. Côn Luân Võ Phái:
    Vào thời vua Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 ?" 1425
    T.L.) nhà vua xuất công khố trùng tu ngôi cổ tự Bích Vân,
    trên dãy núi Côn Luân Sơn, thuộc đất Lương Châu, huyện Tiêu
    Dương, tỉnh Thanh Hải, để cấp cho Chu Đức Võ Thượng Nhân trụ
    trì tu luyện, và sáng lập võ phái Côn Luân.
    Gần ngày tạ thế, Chu Đức Võ Thượng Nhân đã kế truyền chức
    Chưởng Môn phái Côn Luân cho Chu Đức Kiệt, một người cháu
    ruột, cũng là một cao đồ đắc ý nhất của ngài. Ngài còn lưu
    truyền lại bí kíp "Thái Dương Trường Kiếm Pháp", cùng với
    thanh bảo kiếm Thái Dương, do ngài dày công nghiên cứu chế
    tạo, cũng như, môn thuốc giang hồ "Tiêu Nhục Phấn" (còn gọi
    là Mãng Xà Diệp), cách chế tạo thuốc phấn này do sư phụ của
    ngài truyền lại.
    Trước kia, Chu Đức Võ Thượng Nhân được thụ giáo với sư phụ
    Huyền Vân Trưởng Lão, tại Bạch Vân Miếu, trên dãy núi Cửu
    Huyền Sơn, miền bắc quan ngoại, biên giới Mông Cổ. Nguyên sư
    phụ Huyền Vân Trưởng Lão, vào thuở thiếu thời, đã tình cờ
    khám phá ra lá cây "Tiêu Nhục Diệp" (hay Mãng Xà Diệp) qua
    sự chỉ điểm của người tiều phu Mông Cổ, cư ngụ bên chân núi
    Cửu Huyền Sơn. Loại lá "Tiêu Nhục Diệp" chỉ mọc trong rừng
    rậm, nơi có nhiều mnag xà lui tới, vì giống mãng xà có sẵn
    chất giải độc trong máu, nên khi ăn loại lá cây này, mãng xà
    không bị nguy hiểm, mà còn tiêu hóa được con thịt vừa mới
    nuốt vào trong bụng. Ngoài ra, bất cứ động vật nào nhiễm
    phải chất độc của lá "Tiêu Nhục Diệp", đều bị nguy hiểm đến
    tánh mạng, vì nhục thể sẽ bị tiêu hủy, từ từ tan ra thành
    nước. Trên đường giang hồ hành hiệp, mỗi khi muốn làm sạch,
    tiêu mất thi thể đối phương, người hiệp sĩ chỉ cần cho một
    lượng vừa phải của "Tiêu Nhục Phấn" vào vết thương trên tử
    thi. Sau vài phút đồng hồ, tử thi dần dần bị tan biến thành
    nước mà tiêu mất.
    7. Tung Sơn Thiếu Lâm Tự:
    Võ phái Tung Sơn Thiếu Lâm Tự do Đạt Ma ***** sáng lập, vào
    năm (520 ?" 529 sau T.L.), tại núi Tung Sơn, tỉnh Hồ Nam, là
    một danh môn chính phái, có nề nếp kỷ cương, trong suốt gần
    15 thế kỷ. Thiếu Lâm Tự đã được mọi người mến mộ, có thành
    tích lừng lẫy, danh trấn giang hồ, được giới võ lâm kính nể
    như một ngôi sao Bắc Đẩu, trên vòm trời võ lâm Trung Hoa.
    Kể từ đời nhà Đường, sau chiến công oanh liệt của 13 vị
    thiền sư Thiếu Lâm Tự, giúp vua Đường Thái Tông (năm 627 sau
    T.L.) dẹp được giặc Vương Thế Sung, từ đó, võ phái Thiếu Lâm
    vang danh khắp Trung nguyên.
    Trong suốt thời nhà Minh (1368 ?" 1644 T.L.), võ phái Thiếu
    Lâm Tự ở vào thời hưng thịnh, sách "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng
    Tông" được biên soạn phổ biến, do Trình Xung Đẩu, tự Tông
    Du, người ở Tân Đô, sau khi học võ thuần thục với hai vị
    thiền sư Thiếu Lâm là Hồng Kỷ và Hồng Chuyển, hai vị này đã
    nổi danh nhất về côn pháp, vào thời vua Minh Vạn Lịch (1573
    ?" 1616 sau T.L.). Đến đời vua Minh Sùng Trinh (1628), tướng
    Thẩm Thụy Trinh đã mời các nhà sư Thiếu Lâm Tự: Hồng Kỷ và
    Hồng Tín đến Thái Thượng dạy võ cho binh sĩ. Khi nhà Minh
    mất về Thanh triều (1644), các cựu thần văn võ và tôn thất
    nhà Minh, phần đông, trốn ẩn trong chùa Thiếu Lâm Tự, để ẩn
    dật và chuyên tâm gắng sức luyện võ, mưu tìm cơ hội khôi
    phục quốc gia.
    Sau cùng, Thiếu Lâm Tự đã ở vào thời cực thịnh, vang danh
    trong phong trào "Phản Thanh Phục Minh" của dân Hán, vào
    thời Mãn Thanh.
    Ngoài ra, Tung Sơn Thiếu Lâm Tự còn là một lò luyện võ sản
    xuất biết bao ngoại đồ cao đẳng, nhân tài võ dũng, giang hồ
    hiệp sĩ, giúp dân giúp nước, khắp nơi trên lãnh thổ Trung
    Hoa, trong những thế kỷ vừa qua. Cũng như, một số chi nhánh
    Thiếu Lâm Tự địa phương Nam Bắc đã được các cao đồ phát huy
    như Hồng Gia, Lưu Gia, Lý Gia, Thái Gia, và Mặc gia,? cũng
    như, rất nhiều võ phái lớn nhỏ được sáng lập tại các địa
    phương Trung Hoa, đáng kể đến như: Quảng Châu Thiếu Lâm Nam
    Phái, Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái, Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái
    (hay Sơn Đông),?
    8. Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái:
    Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái được đặt trụ sở tại chùa Tam
    Vân Tự, tọa lạc tại phía đông ngoại thành Quảng Châu, tỉnh
    Phúc Kiến. Ngôi vhùa này đã được xây cất vào thời vua Đường
    Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên (756 sau T.L.). Vào đời vua
    Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 sau T.L), vị trụ trì
    Ngũ Chấn Thiền Sư đến từ Thiếu Lâm Tự, phát động huấn võ cho
    các vị thiền sư trong chùa Tam Vân Tự. Ngũ Chấn Thìn Sư,
    dáng người cao lớn khỏe mạnh, là sư đệ của chiêu Đức Sư
    Trưởng, Tung Sơn Thiếu Lâm Tự lúc bấy giờ. Vào triều nhà
    Minh, những vị thiền sư tại Tam Vân Tự đã có lần vang danh
    trong cuộc chiến thắng bọn "Nụy Khấu" (cướp biển người Nhật)
    đến cướp phá dân lành, thuộc vùng ven biển, tỉnh Phúc Kiến.
    Đến đời Mãn Thanh, vì tham gia vào phong trào "Phản Thanh
    Phục Minh" ngôi chùa này đã bị chính quyền Mãn Thanh đốt
    phá, và các vị thiền sư đã phải bôn ba trốn tránh tại các
    tỉnh lân cận như Quảng Đông, Quảng Tây,?và âm thầm phát huy
    tinh thần võ dũng của Thiếu Lâm Nam Phái.
    9. Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái:
    Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái tu luyện tại chùa Long Sơn Tự, trên
    núi Bạch Hạc Sơn (hay Long Sơn), thuộc huyện Quan Đồ, phía
    Tây tỉnh Vân Nam. Võ phái này được sáng lập bởi Nhứt Khánh
    Thiền Sư, vào hàng sư đệ của Trí Dõng Thiền Sư (Trí Dõng là
    thầy dạy của Chiêu Đức và Ngũ Chấn Thiền Sư). Vì xuất xứ từ
    Thiếu Lâm Tự, cho nên, cách luyện tập của Bạch Hạc phái đã
    được Nhứt Khánh Thiền Sư áp dụng giống y như tại Tung Sơn
    Thiếu Lâm Tự. Nhứt Khánh Thiền Sư thọ được 91 tuổi. Đệ nhất
    cao đồ của ngài là Thượng Thái Lão Ni Sư Trưởng lên kế
    nghiệp, và chỉ truyền dạy 10 ni cô, đều rất giỏi võ nghệ.
    Vào đời vua Thanh Cao Tôn, niên hiệu Càn Long (1736 ?" 1796
    sau T.L.), Bạch Hạc Phái tại Long Sơn Tự được truyền đến Ngũ
    Mai Lão Ni Sư Trưởng, lúc bấy giờ, danh nghĩa Bạch Hạc Phái
    lẫy lừng trong chốn giang hồ hành hiệp.
    10. Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái (hay Thiếu Lâm Bắc Phái Sơn
    Đông):
    Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái, Sơn Đông, được đặt trụ sở tu
    luyện tại Chùa Bạch Vân Tự, trên núi Mã Dương Cương, thuộc
    dãy Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, miền Hoa Bắc. Nữ sáng tổ Âu
    Dương Bích Nữ trụ trì tu luyện, và khai sáng võ phái này,
    vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426 sau T.L.). Xuất thân từ
    một gia đình yêu chuộng võ thuật, cha của Âu Dương Bích Nữ
    là Âu Dương Tòng Thiện, một ngoại đồ cao đẳng của Tung Sơn
    Thiếu Lâm Tự, thuộc hàng sư huynh trên Chiêu Đức Thiền Sư,
    cả hai là bạn đồng môn, cùng thụ huấn với sư phụ Trí Dõng
    Thiền Sư.
    Nguyên tổ tiên dòng họ Âu Dương, trải qua nhiều đời, rất
    giàu có và ham chuộng văn học nghệ thuật. Vào đời vua Tống
    Nhân Tôn (1023 sau T.L.), Âu Dương Tu, tự là Vĩnh Thúc người
    ở đất Lư Lăng, thi đỗ tiến sĩ, và được giữ chức Thái Tử
    Thiếu Sư trong triều Tống Nhân Tôn. Về sau, ông xin từ quan,
    về quê làm trí sĩ, hiệu là Lục Nhất Cư Sĩ, biên soạn sách
    "Văn Trung Tập" được lưu truyền trong văn học sử Trung Hoa.
    Về sau, họ Âu Dương, qua nhiều đời tại Tô Châu, chuyên về
    việc kinh doanh, trở nên một họ giàu lớn, có nhiều ruộng
    đất, và nhiều cổ phần lớn trong các hiệp hội kinh doanh lớn.
    Đến đời Âu Dương Tòng Thiện, ngoài văn học còn ham chuộng võ
    nghệ, sẵn có sức khỏe và trí thông minh, từ thuở bé, cha mẹ
    đã mời danh sư về nhà truyền dạy võ cho ông. Đến năm 15
    tuổi, ông được phép theo học võ tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự,
    với sư phụ Trí Dõng Thiền Sư. Đến năm 21 tuổi, việc học tập
    thập bát ban võ nghệ đều tinh thông. Sau khi hạ san Thiếu
    Lâm Tự, Âu Dương Tòng Thiện giao dịch rất rộng rãi, thường
    kết giao với các hảo hán giang hồ, dị nhân quái khách, đạo
    sĩ thiền sư, và tao nhân mặc khách. Cho nên, tại Tô Châu, và
    khắp mọi nơi lân cận, họ Âu Dương đã vang danh, mọi người
    đều biết đến. Trong trang trại, lúc nào cũng tấpn ập bạn bè,
    hàng trăm thực khách từ bốn phương đến thăm viếng lưu ngụ.
    Vì vậy, khách giang hồ đã đặt tước hiệu cho Âu Dương Tòng
    Thiện là "Trai Mạnh Thường".
    Âu Dương Tòng Thiện có hai con trai là Tòng Cát, Tòng Đức,
    và một gái là Âu Dương Bích Nữ. Cả ba anh em họ Âu Dương đều
    ham chuộng võ nghệ, và được cha tập luyện ngay từ thuở nhỏ,
    theo phương pháp chính tông Thiếu Lâm Tự. Ngoàira, các tay
    hảo hán giang hồ qua lại Âu Dương Trang, còn mang ra những
    đòn hay thế lạ của các võ phái khác nhau, để chỉ dạy cho ba
    anh em Âu Dương. Khi đến tuổi 17, lần lượt, cả ba đều được
    đưa lên Thiếu Lâm Tự, theo học tập hai năm liền với sư phụ
    Chiêu Đức Sư Trưởng. Cả ba anh em Âu Dương đều tinh thông
    thập bát ban võ nghệ, và đặc biệt giỏi về tài cung tiển và
    kỵ mã. Riêng về Âu Dương Bích Nữ, nàng thường sử dụng Thiết
    phiến, một võ khí cá nhân đặc biệt, do Chiêu Đức Sư Trưởng
    chế ra. Đó là một cây quạt xếp bằng sắt, có 6 dóng đầu nhọn.
    Khi xếp chụm lại giống như cây giản vuông bằng sắt. Lúc
    thuận tiện, muốn lấy đầu đối thủ, bất ngờ xòe ra thành cây
    quạt, với 6 dóng đầu nhọn, cổ đối thủ sẽ bị tiện đứt như bị
    cưa cắt. Bích Nữ sử dụng món võ khí này rất tinh vi, cho
    nên, giới giang hồ gọi nàng là "Thiết Phiến Cô".
    Vào thời vua Minh Thành Tổ, năm Vĩnh Lạc thứ 10, với tư cách
    công dân trung nghĩa, gia đình Âu Dương Tòng Thiện đã lập
    được đại công, trong việc cứu mạng nhà vua thoát hiểm, và
    giúp vua phá vỡ cuộc âm mưu phản loạn của nhóm Thuận Vương,
    tránh được cuộc nội chiến tương tàn, khiến cho dân chúng lầm
    than, khốn khổ. Do đó, Âu Dương Tòng Thiện đã được vua Minh
    Thành Tổ sắc phong tước "Trung Dũng Hầu", và toàn gia đình
    họ Âu Dương được phép dùng chữ "Trung Dũng Tô Châu Đệ Nhất
    Gia".
    (Theo sách "Giang Hồ Kỳ Văn, 1930" của tác giả Tề Phong
    Quân)
  3. fade_away

    fade_away Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/01/2005
    Bài viết:
    1.025
    Đã được thích:
    0
    Em đọc truyện "Lam y nữ hiệp" ở nhạn môn quan thấy chả khác gì thông tin ở đây, mà sao các môn phái lớn toàn anh em bà con với nhau thế nhỉ, cũng lạ
  4. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Không phải là bài của tui đâu. Thấy anh tlvn sốt ruột quá tui post giùm TLBP thui.
  5. Vove

    Vove Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    1.048
    Đã được thích:
    0
    DDo^'' Tie^''u la^m ba(''c pha''i va` Cu Cu*o*`ng chu*~ vie^''t ta(''t "N.D." ma` o^ng gia''o su* Vu~ Ddu*''c A^u Vi~nh Hie^`n hay ke`m theo ba`i vie^''t co'' nghi~a la` gi` ???
    Y'' nghi~a sa^u xa la(''m a`, hehehee.
  6. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Đố anh vòvẽ (lâu quá không thấy anh lên đây tưởng...):
    1. "Đi công chứng" là gì?
    2. "Bãi tắm CCB" là gì?
    Giải đáp được 1 câu phong cho hàm Giáo sư nhân dân.
    Giải đáp được 2 câu phong cho hàm Giáo sư người dịch.
  7. lanpurge

    lanpurge Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/07/2005
    Bài viết:
    4.955
    Đã được thích:
    481
    đi công chứng là chết mày chưa
    bãi tắm CCB là ? ông cuong lhvt trả lời phát coi , khó wá
  8. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Câu đố của bác hơi bị khó. Chắc chẳng phải đơn giản là Người Dịch, hay Nhân Dân?
    Mà đã là có lý do sâu xa thì chỉ có chính tác giả hoặc ai từng được nghe nói đến mới biết.
    Khi đánh máy, tôi cũng hơi băn khoăn về cái chữ viết tắt ấy, nhưng tôn trọng nguyên bản nên cứ để đó.
    Bác giải thích dùm.

Chia sẻ trang này