1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nữ Chúa Hồ Ba Bể - của Hoàng Ly

Chủ đề trong 'Cao Bằng - Bắc Kạn' bởi babelake, 24/10/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    Daọ này bận, ko online nhiều nên ko có thời gian để vào ttvnol
  2. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    Chương 3
    Nghe chuyện xưa, nữ chúa rơi châu

    Xế chiều, tuần phủ Trần Hùng dẫn đoàn quân dưới quyền mình tới Tổng Hoá. Sau một lúc nghỉ ngơi, ông ta đem theo mấy tuỳ tùng thân tín lên ngựa đi dò xét tình hình. Lát sau, mặt trời ngả sát rặng núi Tây, cả bọn tới một cây cầu sắt sơn hắc ín bắc qua suối.
    Quản Đô gò cương bảo chủ:
    - Đây có đường tắt đi hồ Ba Bể!
    Trần Hùng dừng ngựa trên cầu, đưa mắt nhìn quanh, chợt bộ mặt quắc thước tối sầm lại, hiện rõ vẻ thê lương.
    Quản Đô nhìn chủ, khẽ hỏi:
    - Quan lớn có điều nghĩ ngợi?
    Họ Trần khẽ thở dài, chép miệng:
    - Xưa, khi ta còn lưu lạc giang hồ, một hôm qua đây, đã chứng kiến một cảnh thảm thương. Ngót 20 năm rồi, hình ảnh thê thảm đó vẫn còn in rõ trong trí ta, nay thấy cảnh cũ, lại chạnh lòng nhớ chuyện xưa ?
    Quản Đô cùng bọn tòng nhân biết ông ta có điều buồn trong lòng, nên tất cả đều gò cương yên lặng, chợt Trần Hùng thở phào, bảo:
    - Ta đi ngả này!
    Cả bọn rẽ vào rừng, theo đường mòn đi miết.
    Lát sau, mặt trời gác núi, sương bắt đầu dâng, mấy thầy trò tới một cánh rừng đẹp, có con đường mòn chạy vắt qua.
    Bỗng nghe tiếng vó ngựa lóc cóc, cả bọn dạt vội sau bụi cây, trông về hướng Bắc, thấy ba thớt ngựa phóng tới. Trong ánh hoàng hôn rừng, đó là ba người đàn bà đều mặc quần áo khách đen, đeo võ khí, cỡi ba con ngựa khoẻ. Cả ba đều mặt mày dữ tợn, nhưng nhất là mụ đi đầu, thân hình mập mạp như cối xay, mắt ốc nhồi, sườn đeo hai khẩu pạc hoọc lớn, sau hông giắt một cây đao, nhác trông thấy con nít phải khóc thét!
    Tới gần ngã tư, bỗng mụ đàn bà vụt giơ tay, cả ba cũng dạt ngược sau thân cây, mụ khách hét the thé:
    - Tỉu nà! Lũ mi là ai? Phải tụi giặc Ba Bể ra đòi tiền mãi lộ?
    Tiếng mụ như sấm. Quản Đô thì thào:
    - Có lẽ tụi giặc cái hồ Ba Bể?
    Tuần phủ Trần Hùng giơ tay làm hiệu, đoạn ứng tiếng đáp:
    - Bọn tôi là lái buôn, đem hàng hoá đi hồ Ba Bể để bán! Mấy bà đi đâu đó?
    Mụ mập cười ré:
    - A! Có hàng tốt bán cho mụ một ít! Có bán đầu lâu không?
    Viên quan đáp:
    - Muốn mua đầu lâu, phải hỏi mấy ông giặc hồ Ba Bể! Bọn tôi chỉ bán ?
    - Nếu đúng lái buôn, mau đi ra, còn núp làm gì?
    Bỗng có tiếng Quảng Tây quát gai trầm phía sau, mấy thầy trò dòm lại, đã thấy hai mụ mập đứng lù lù sau lưng, chĩa súng, nhe răng cười.
    Trần Hùng ra hiệu cho cả bọn rời chỗ nấp.
    Mụ mập dữ nhất tiến lại, dòm họ chòng chọc, cười bảo:
    - Không phải lái buôn! Coi giống như quan Nam đầu tỉnh Cao Bằng?
    Mụ tuy ở bên Tàu, nhưng hay sang chơi bên Nam, không giấu được mụ. Tuần phủ Trần Hùng nhìn đăm đăm, bỗng nhận ra vẻ quen quen như đã gặp ở đâu, ông ta vụt hỏi:
    - Còn bà ? Mười tám năm xưa, hình như bà có đi vùng này thì phải?
    Mụ mập cười lớn:
    - Ha ha! Quan Nam sao biết? Phải rồi! Hôm đó loạn rừng, thú dữ ra như rươi!
    Viên tuần phủ Trần Hùng mừng rỡ, kêu lên:
    - Đúng rồi! Chiều hôm đó, trời bỗng nổi phong ba, loạn rừng, thú dữ kéo ra từng đàn, có bầy đười ươi quái từ vùng hồ Ba Bể chạy ra đường Tổng Hoá - Chợ Rã đuổi bắt người đàn bà tuyệt sắc có đứa con thơ ?
    Như được khơi dậy kỷ niệm xưa, mụ mập dữ tợn vùng cười the thé:
    - Ôi chao! Quan Nam Cao Bằng nói đúng! Bữa đó có con đười ươi chúa biết nói tiếng người, đuổi bắt người đàn bà mặc áo trắng. Súng bắn không chết đó, mụ đi tới, chém búa như sấm sét cũng chẳng ăn thua, lại bị nó lật đổ xe, mấy lần ném xuống suối, ném vào bờ bụi suýt dập xương. Ôi chao! Mười tám năm rồi, mụ còn nhớ nguyên cảnh đó!
    Viên quan họ Trần lại kêu:
    - Vậy bà la Mẫu Dạ Xoa bữa đó đi với ông Trại Hứa Chử? Ôi! Mười tám năm rồi, trông bà vẫn không thay đổi bao nhiêu!
    Nghe kể, mụ mập lộ vẻ vui thích, cười khanh khách:
    - À à! Tụi lục lâm có gọi mụ là ?omẹ con Dạ Xoa?, nó đặt là ?oPạc Họoc phu nhân?, còn lão Trại Hứa Chử là chồng mụ, nó gọi là ?oThần pháo tiên sinh?, vì lão bắn ?opháo? giỏi dữ a! Cách mấy cây số có thể rót trúng con chim sẻ. Hé hé! Mà sao ông quan Nam lại biết?
    Chép miệng, họ Trần đáp:
    - Hôm đó mỗ đây cũng có mặt trong cỗ xe ?oBa Đen?! Mỗ đã dùng hết cách, không cứu nổi, lại bị nó quăng xuống gầm cầu suýt mất mạng!
    Mụ mập có hiệu Mẫu Dạ Xoa giục lại gần hỏi:
    - Giờ ông quan Nam đi đâu mà lại giả dạng lái buôn? Phải đi dò tụi giặc?
    Biết mụ xấu người dữ tướng mà tâm địa không xấu, họ Trần chẳng giấu, đáp:
    - Mỗ cùng giám binh Cao Bằng Bắc Cạn đem binh tới tiễu trừ giặc hồ Ba Bể, nhân dịp cứu đứa con trai bị chúng bắt! Còn bà?
    Mẫu Dạ Xoa đấm gió trợn mắt mắng:
    - Tỉu nà! Tụi chó đú đó cũng bắt mất chồng, con mụ đi vãn cảnh hồ Ba Bể! Hầy à! Mụ đi tìm gặp nó! Hình như chúng là mấy con giặc cái? Tỉu nà! Chúng ỷ đông, bắt cả ông Trại Hứa Chử và con gái yêu của mụ!
    Đã được biết qua bản lãnh hai vợ chồng tướng phỉ Quảng Tây, họ Trần bảo:
    - Vậy ta đồng cảnh ngộ! Nay mỗ đi thám sát, xem xét tình hình giặc, bà có vui lòng cùng đi, tới đó, ta tuỳ cơ ứng biến?
    Mẫu Dạ Xoa gật:
    - Mụ vừa tới Cao Bằng, được tin dữ, lại thấy lính nhà nước kéo đi, chỉ sợ làm vỡ chuyện, mụ phải đi lối tắt định tới thăm dò sào huyệt giặc, tìm cách cứu chồng con. Quan Nam có võ, ta cùng đi, hay dữ à! Còn lính đâu?
    - Các cơ đội tiến chiếm các điểm chiến lược quanh vùng, đợi lệnh!
    - Vậy là hay! Nào! Ta đi! Hai mụ này cũng là Dạ Xoa em mục trong bọn ?oQuảng Tây Tam Mẫu?, ba con mẹ đất Quảng Tây à!
    Mụ trỏ hai mụ kia, giới thiệu xong, cả hai đám nhập một, mải miết theo lối mòn xuyên sơn, nhắm hồ Ba Bể, đi như gió cuốn.
    Đến khi mặt trời vừa lặn, cả bọn đã tới vùng hồ nước kỳ quan.
    Quản Đô đi trước dẫn đường, giơ tay ra hiệu dừng lại.
    Ánh trăng thượng tuần treo lơ lửng trên núi như lười hái tử thần, chảy xuống sơn lâm một thứ ánh sáng vàng lờ như sữa, vì miệt sơn cước đêm mùa hạ cũng có sương lạnh khí đá như thu đông.
    Ngay bên đường có một tấm biển đen chữ trắng, phía sau tấm biển có cắm một cây giáo nhọn, treo một chuỗi đầu lâu, râu tóc xoã sợi, coi phát gớm.
    - Chuỗi đầu kia là những kẻ không chịu mua đầu! Đây còn cách hồ năm bảy trăm thước!
    Mẫu Dạ Xoa nói nhỏ:
    - Biển cắm kia, chắc có đứa núp quanh đây! Phải tìm nó!
    Bà ta lừ mắt một cái, hai mụ Dạ Xoa em phóng người đi hai ngả lẹ như hai con chim cú bay đêm. Viên quan Nam cùng mọi người tiến vào chỗ khuất. Chừng mười lăm phút, bỗng thấy hai mụ Dạ Xoa từ trên cây buông mình xuống, bảo:
    - Không có tên nào! Cả khu cửa rừng vắng ngắt!
    Quản Đô bàn:
    - Có lẽ ban đêm chúng bỏ về sào huyệt hết?
    Viên quan Nam trầm ngâm:
    - Chúng chiếm lĩnh hồ Ba Bể bắt người, tất phải biết lính nhà nước tới, chắc phải để kẻ thám sát! Giờ phải lần tới sào huyệt của chúng, nhưng chỉ đi ít cho đỡ lộ. Có gì sẽ bắn hiệu báo tin liên lạc!
    - Phải đó! Nên bỏ ngựa, dùng phép dạ hành là hơn! Còn bao nhiêu hãy nấp kín đợi, nhưng nấp gần hồ tiện hơn!
    Cả bọn lại tiến vào, ít phút sau hồ Ba Bể đã hiện ra.
    Cả bọn đến khu núi rậm giấu ngựa, đoạn viên quan Nam, quản Đô, ba mụ Dạ Xoa nương bóng cây, bóng núi đồi, sương mờ lướt về hướng Tây hồ.
  3. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    Trong năm người, chỉ có quản Đô kém thuật dạ hành chút, nhưng y làm hướng đạp nên mọi người phải đi chậm lại đợi y.
    Nhưng đường xuyên lâm cứ tới con suối lại mất, cả bọn phải vừa đi vừa phỏng đoán, tìm tòi.
    Rừng núi trùng trùng hoang vắng, trăng lạnh, sương mờ, cảnh vật huyền bí thê lương.
    Viên tuần phủ họ Trần chợt để ý cả ba mụ Mẫu Dạ Xoa cứ thỉnh thoảng lại cúi nhìn xuống đất hoặc vọt lên ghềnh núi, lại gần thân cây, chăm chú xem xét. Ông ta lấy làm lạ vội quay hỏi:
    - Bà tìm chi đó?
    Nhất Dạ Xoa đáp:
    - Hầy à! Mụ tìm sào huyệt tụi giặc cái!
    Nhưng đi quanh quẩn mãi bỗng đường tiều lại đứt, cả bọn đành men dọc suối kiếm lối đi. Bất thần Nhất Dạ Xoa bật kêu nhỏ:
    - Hầy à! Thấy sào huyệt nó rồi! Tỉu nà! Vỏ quýt dày, móng tay nhọn, mày bắt cha con ông Hứa Chử mày giấu sao nổi?
    Họ Trần ngạc nhiên hỏi. Nhất Dạ Xoa trỏ sang bên suối, bảo:
    - Sào huyệt kia! Thấy chứ?
    Hai thầy trò cùng chú mục dòm, chợt nghiêng đầu, thấy nhiều đốm trắng cát bờ biển lấp lánh dạ quang, chạy thẳng tắp vào tít chân núi xa.
    - À! Mỗ hiểu rồi! Mẹo lông ngỗng Mỵ Châu công chúa trỏ đường cho Trọng Thuỷ đuổi theo tới tận vùng Mộ Dạ!
    - Quan Nam thông minh dữ à! Đấy là cái mẹo hay nhất của bọn giang hồ lục lâm, đi đâu cũng tìm thấy!
    Mẫu Dạ Xoa vọt qua suối, dẫn cả bọn theo các đốm lấp lánh, đi miết thì ra đó một loại cát tẩm ngân nhũ, dạ quang, luôn luôn họ Woòng mang trong người, khi cần, sẽ rắc trên đường đi. Hồi sáng, cha con họ Woòng bị điệu đi, đã bí mật mở túi cho cát rơi theo vó ngựa, làm dấu cho người nhà biết đường.
    Băng rừng, vượt núi, chỉ ít phút sau, bỗng tới một cửa cốc thâm u, có một bóng đồn canh bên ghềnh.
    Mẫu Dạ Xoa thì thào:
    - Để mụ tới quét dọn cái đồn kia cho!
    Viên quan Nam nói nhỏ:
    - Coi chừng kế không thành!
    - Hầy à! Cái vụ đó, mụ làm như cơm bữa!
    Một cái lắc mình, thân hình mập mạp của Nhất Dạ Xoa đã vọt đi êm như một cái bóng mất dạng gần cửa cốc.
    Phút sau, Mẫu Dạ Xoa đã đứng bên này ghềnh đá, dòm sang đồn bên kia, cách đó hai thước hẻm.
    Đồn canh bằng đá, nhỏ hơn một cái điểm canh dưới xuôi. Trong đồn nhựa trám cháy vật vờ, chỉ có một bóng cao lênh khên đứng bên khung cửa, nhìn ra hẻm.
    - Nó núp quanh đồn để một đứa làm mồi nhử! Tỉu nà! Định lừa cả mẹ già mi!
    Mẫu Dạ Xoa đảo vòng quanh đồn canh.
    Viên quan Nm đứng xa đợi chỉ độ mười phút, đã thấy mụ trùm thổ phỉ vọt ra.
    - Hầy à! Có bảy thằng, sáu thằng núp quanh đồn, một thằng tựa cửa! Mụ cho nó làm bù nhìn coi dưa rồi! Đi thôi!
    Năm người tiến vào cốc. Lối đá quanh co, gập ghềnh, cát sáng dẫn cả bọn đi qua hai đợt núi, cốc nữa, bỗng trước mặt hiện ra một vùng đồi thung lũng trập trùng, hiểm trở, trại quân, nhà cửa san sát như bát úp khắp nơi, ánh lửa lập loè trong đêm trăng sương, mới nhìn, không khác một vùng sơn động bản dân trù mật, nhưng đây nhà cửa dựng cả trên sườn núi đá.
    - Sào huyệt giặc Ba Bể đây rồi!
    Vùng núi im lặng lâu lâu mới thấy vài bóng giặc đi tuần phòng chập chờn như bóng ma, vài tiếng kẻng cầm canh vang trong trăng sương.
    Dấu cát sáng rải rác ven chân núi xa tít phía tây trại giặc thưa dần, tới lưng chừng một rặng núi hiểm nằm lọt giữa khu nhà cửa, dấu cát bỗng mất hẳn, ngay chỗ có hai con đường lên núi, xuống thung.
    - Tỉu nà! Mất dấu! Hai cha con lão râu xồm này xài phí dữ, rắc bừa bãi hết cát nửa chừng!
    - Không sao! Ta cứ đảo một vòng thế nào cũng tìm thấy! Coi chừng cạm bẫy!
    Viên quan Nam cùng Mẫu Dạ Xoa nhìn lên núi không thấy nhà cửa bèn theo đường xuống núi. Quanh quẩn qua nhiều khu trại vẫn chẳng thấy trại giam đâu.
    Cả bọn đang đứng trên lối đá lưng chừng núi, bỗng nghe tiếng chân người, trên đá dăm, cả bọn vội nấp kín sau ghềnh.
    Một toán bảy, tám tên dẫn một người mặc xường xám đi tới.
    Ánh nhựa trám vật vờ, vừa thấy mặt người kia, Mẫu Dạ Xoa mừng rỡ, thì thào:
    - Hầy à! Hứa Chử! Hứa Chử nhà mụ!
    Viên tuần phủ Cao Bằng núp sau ghềnh bụi nhìn ra, mặt thoáng tia vui buồn lẫn lộn, thì thào:
    - Đúng Thần pháo tiên sinh rồi! Mười tám năm qua, coi vẫn không thay đổi bao nhiêu, nhưng... cơn ác mộng năm xưa, chiều giông tố loạn rừng vẫn còn đầy dấu tích tang thương!
    Mẫu Dạ Xoa khô giọng:
    - Đập chết mấy thằng giặc rừng kai, cứu Hứa Chử nhà mụ!
    Viên quan Nam giơ tay cản:
    - Khoan! Chưa cần vội! Ta thử xem nó dẫn đi đâu! Lạ thật! Coi vẻ chúng lễ phép khác thường, xếnh xáng lại không bị trói!
    Bọn giặc đi ngang qua, ánh đuốc soi rõ, quả nhiên Hứa Chử không bị trói xiềng chi cả, tay lại cầm ống thuốc lá bào vừa đi vừa hút phì phèo.
    - Tỉu nà! Lão Hứa Chử nhà mụ hay dữ à! Bị giặc bắt còn hút thuốc như đi chơi mát.
    Viên quan Nam ra hiệu đi theo quanh co vượt qua hai đợt núi đồi, xa hẳn khu dinh trại, bọn dẫn Hứa Chử ra sau trại về hướng Tây Bắc.
    Bỗng tới một con thác ba đầu tít trên ngọn núi đổ xuống như ba giải lụa bạch vắt chếch gặp nhau lưng chừng núi và đổ xuống một vụng nước đầy mỏm ghềnh thạch bàn dị hình, phát ra một thứ âm như tiếng kèn trống, ngang vụng là một con suối sâu rộng, có một cái cầu mây dập dềnh bắc qua suối, trong thật hùng vĩ, nên thơ, bí hiểm.
    Hai bên bờ suối thác, cây cỏ thưa thớt, dưới trăng, coi càng giống bức tranh thủy mạc vẽ nét đan thanh!
    Leo ra giữa cầu mây, Hứa Chử họ Woòng chợt quay bảo viên bộ tướng sau lưng:
    - Hầy à! Nữ chúa các chú chọn khu thác ba đầu này coi đẹp dữ à? Hỏi tao chuyện gì lại dẫn tận đây? Sắp tới chưa?
    Gã kia lắc đầu:
    - Nữ chúa bảo sao làm vậy? Không ai biết việc gì? Bọn tôi chỉ được lệnh đem ông thổ phỉ râu xồm tới, không biết chuyện gì khác!
    Vượt qua cầu mây, bọn giặc dẫn lão tướng thổ phỉ Quảng Tây men vòng qua núi thác ba đầu, sang bên kia hẻm, bỗng dưới trăng, hiện ra một vùng sơn kỳ thuỷ tú, đồi núi trập trùng, suối khe róc rách, nhà cửa nằm san sát sườn đồi, bốn bề đầy hoa thơm cỏ lạ.
    Bọn kia dẫn lão tướng phỉ Quảng Tây tới một tòa dinh sảnh đồ sộ lưng chừng núi. Dinh chiếm một khoảng bằng phẳng, giữa cây cao bóng mát, chung quanh đầy khe nước róc rách, quanh dinh đều có điếu kiều cong vút liên lạc với các toà ngang dãy dọc, trông như dinh Chúa Mèo Woòng Chí Sình Hoàng Su Phì.
    Chừng đã có lệnh trước, chẳng thấy một bóng quân canh nào xuất hiện. Mãi tới khi cả bọn lên tới cổng dinh mới nghe có tiếng tù và linh dương nổi lên âm u, lập tức trong dinh có tiếng khánh khua một tràng lanh lảnh.
    Trên vọng lâu, có tiếng đàn bà nói vọng xuống:
    - Chú Khiên La! Lệnh Chúa truyền đưa Woòng sếnh sáng vào khách sảnh!
    Viên tướng Mán ra hiệu, cả bọn băng qua điếu kiều, vào tận thềm dinh.
    Đã thấy hàng chục gái hầu xiêm y rực rỡ ra mời vào phòng khách an toạ. Woòng vuốt râu cười bảo:
    - Hầy à! Cô chúa giặc tiếp ngộ lịch sự dữ à!
    Gái hầu đem trà nước ra mời lão khách Woòng cùng bọn Khiên La.
    Được vài tuần, bỗng có một nàng trạc 17, 18 tuổi vẻ trưởng tỳ tướng ra bảo:
    - Soái nương truyền Khiên La cứ về trại, để Woòng sếnh sáng lại! Soái dặn: Đêm nay có người đột nhập trại trung, không trại nào được ngăn trở, cứ để vào! Sáng mai có lính Nhà nước tiễu phạt hồ Ba Bể, mọi sự sẽ có chúa Hai, chúa Ba định đoạt, ba quân phải sẵn sàng!
    Khiên La lĩnh lệnh, chào họ Woòng, lui ra.
    Lão khách Quảng Tây nghĩ thầm:
    - Bọn nào đột nhập sào huyệt giặc? Hay mụ Dạ Xoa? Ôi chao! Ả chúa này lợi hại dữ! Nói như ma xó!
    Đang nghĩ vẩn vơ, bỗng trưởng tỳ tướng lại ra, kính cẩn bảo:
    - Soái nương tôi mời sếnh sáng quá bộ vào trong kia! Sếnh sáng theo tôi!
  4. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    Lão khách đứng lên, theo nàng ta đi qua mấy dãy hành lang, tới một căn phòng mỹ lệ, đèn nến lung linh.
    Màn che trướng rủ toàn bằng thổ cẩm quý, vách, ghế căng bọc da hổ báo, trên vách treo đầy tranh ảnh, các thứ khí giới xưa nay, giữa phòng có một chùm đèn ***g toả sáng xanh dịu.
    Nàng trưởng tỳ tướng mời lão tướng họ Woòng ngồi xuống một cái ghế rộng bọc da báo, đoạn đưa tay quay nhẹ chùm đèn, ánh sáng đổi nhiều màu, huyền ảo lung linh. Nàng này bước sang phòng bên, chỉ một phút, đã có bốn nàng nữa bưng trà rượu, hoa quả ra.
    Một nàng cầm hai con dao lá lan hất tung lên một trái cây, và cứ thế múa tít hai lưỡi dao lan loang loáng dưới đèn.
    Lão tướng lạc thảo tò mò ngồi dòm thấy trái cây cứ quay tít thò lò trên cao, vỏ rớt lả tả, chỉ nháy mắt đã thấy nàng kẹp trái cây đã gọt vỏ nhẵn thín giữa hai dao lá lan đặt xuống dĩa.
    Họ Woòng cúi dòm sàn, chẳng thấy mảng vỏ nào, chừng ngó hai tay nàng ta, thấy rõ, mới hay nàng vừa tung gọt vừa đỡ lấy vỏ, ?ongọt? như làm xiếc.
    Một nàng khác cũng cầm dao hất tung trái cây lên, nhưng nàng này lại chỉ dùng một lưỡi dao múa gọt xoèn xoẹt, thoắt đã đầy một dĩa.
    Lão Woòng bất giác buột miệng kêu:
    - Hầy à! Mấy cô gọt cái kiểu này còn hay hơn gái Hồng Kông gọt lê táo tại xóm Thạch Sùng gấp trăm lần! Ý à! Cái vùng hồ Ba Bể bên Nam lắm nhân tài dữ a!
    Nàng trưởng tỳ tướng cắt trái cây rót rượu mời lão Woòng:
    - Rước sếnh sáng dùng chút rượu khai vị cho ấm bụng, soái nương chúng tôi cũng sắp về!
    Lão tướng thổ phỉ không làm khách, vuốt râu, cầm ly rượu uống liền, nhắm trái cây. Mấy nàng thi nhau rót rượu, dâng trái.
    Bỗng một hồi khánh gióng, nàng trưởng tỳ tướng chạy vào, thoắt đi ra, lễ phép bảo:
    - Soái nương đã về!
    Họ Woòng nhìn vào, thấy rèm hoa lay động, một bóng mắc ?ophá? lãnh, áo đen viền chần kim tuyến thuỷ ba, uyển chuyển bước ra, trên vai còn khoác áo choàng đỏ chót, lót đen, đẹp lộng lẫy huyền bí oai nghiêm dưới ánh đèn ***g nhiều màu: Nữ chúa hồ Ba Bể!
    - Chào Tiên sinh Thần pháo!
    Lão tướng phỉ đứng lên thủ lễ. Nàng chúa hồn giơ tay ra hiệu cho khách ngồi xuống, và nàng cũng ngồi xuống chiếc ghế đối diện.
    Họ Woòng vốn tay ngang dọc làm nghề lạc thảo đã lâu, tính ngược ngạo đã quen, không biết sợ là gì, giờ lại thấy nàng chúa hồ, tự nhiên lão sinh lòng nể vì, vuốt râu bảo:
    - Cô chúa hồ Ba Bể đối với ngộ hậu dữ à! Ngộ không phải Thần Pháo, ngộ là Tắc Lềnh!
    Nàng nữ chúa cười bảo:
    - Tiên sinh là Thần Pháo, bà Mẫu Dạ Xoa cũng đã tới đây!
    Lão tướng thổ phỉ giật mình, cố giữ vẻ điềm nhiên, hỏi:
    - Hầy à! Mẫu Dạ Xoa cũng tới đây? Đó là chị dâu ngộ, vợ ông anh Thần Pháo, cô soái gặp bà chị ngộ?
    Nàng chúa hồ cười đáp:
    - Mẫu Dạ Xoa tới đây nhưng chưa ra mặt, nhưng sớm muộn sếnh sáng sẽ gặp! Tôi mời sếnh sáng đến tư dinh đầy hảo ý, mong Tiên sinh chớ ngại! Tôi muốn nói chuyện với Thần pháo tiên sinh Trại Hứa Chử!
    Họ Woòng nhìn nàng, trên khuôn mặt đẹp tuyệt trần, chỉ lộ rõ sắc nghiêm nghị, phảng phất nét khắc khoải thầm kín, tuyệt không hiện vẻ chi xảo trá, họ Woòng gãi râu hỏi:
    - Chuyện gì?
    Nàng chúa hồ tự tay rót rượu cho Woòng, chờ Woòng uống xong nàng rót nữa, ngồi trầm ngâm mươi lăm khắc, chợt đứng lên, quay bảo gái hầu, tỳ tướng:
    - Các em ra ngoài, nếu thấy khách lạ tới, hãy mời ngồi chơi chờ ta!
    Dứt lời, nàng vẫy lão tướng phỉ, dẫn vào một căn buồng trong có ngọn đèn ***g xanh dịu. Nàng thắp lên một cây sáp lớn, đưa Woòng lại bên vách, trỏ vào một bức tranh hỏi:
    - Sếnh sáng có biết cảnh gì đây không?
    Woòng chăm chú nhìn, thấy đó là một bức tranh vẽ cảnh hồ nước mênh mông, có hai bóng cỡi ngựa bị một bầy đười ươi vây bắt, cây cối ngả nghiêng, rõ cảnh phong ba!
    Woòng lẩm bẩm:
    - Hầy à! Trông giống hồ Ba Bể dữ à! Hình như đười ươi bắt đàn bà!
    Nàng chúa hồ gật đầu, lại dẫn lão bước sang bên, trỏ một bức tranh khác to hơn vẽ cảnh một cỗ xe song mã đang chạy, giữa vùng sơn lâm u ám phong ba, bốn bề đầy thú dữ, phía sau xe có một cỗ xe khác đuổi theo, trên xe lố nhố đười ươi.
    Nàng lại trỏ sang cạnh, cũng cảnh tương tự, nhưng có thêm một cỗ xe đi ngược, tới giữa cầu, gặp xe đười ươi trên cỗ xe đi ngược lại có hai bóng mặc quần áo Tàu đứng nóc xe bắn, chém đười ươi.
    Vừa nhìn bức tranh này, lão tướng phỉ Quảng Tây vùng kêu lớn:
    - Hầy à! Lạ dữ chưa? Sao bức tranh này lại giống cái cảnh ngộ đã gặp mười tám năm xưa dữ à? Cỗ xe đười ươi đuổi theo xe hành khách, cỗ xe ngược đường có hai cái bóng đánh nhau với đười ươi, coi đúng cảnh vợ chồng Thần Pháo, Dạ Xoa, nhưng ai vẽ đẹp mà chưa được đúng!
    Mắt vụt sáng, nàng chúa hồ hỏi dồn:
    - Sao sếnh sáng biết rõ... sai chỗ nào?
    Gãi râu, Woòng đáp:
    - Con đười ươi chúa nó đứng trên mui, lão xà ích ngồi đánh xe, trong cỗ xe trước có một ông già Thổ xách cái ô và có người đàn bà áo trắng bồng con ngồi trong đó! Con đười ươi chúa biết nói tiếng người, nó đuổi theo thiếu phụ từ trong vùng hồ Ba Bể. Nó đòi lấy bà ta làm vợ! Tỉu nà! Con đười ươi giữ ống cũng biết mê gái đẹp!
    Chụp lấy vai Woòng, nàng chúa hồ run giọng:
    - Sếnh sáng biết rõ, đây chính vẽ cảnh mười tám năm xưa đó! Sếnh sáng thấy người đàn bà? Sếnh sáng đứng trên xe?
    Dĩ vãng hiện về, lão họ Woòng buột miệng, vò râu:
    - Tỉu nà! Con đười ươi quái! Lúc đó vợ chồng ngộ đứng trên mui xe mà! Hầy! Tội nghiệp bà ta phải trao đứa con cho ông già Thổ, nhảy xuống nộp mình cho con quái!
    Chợt nàng chúa hồ dẫn họ Woòng lại cuối phòng, trỏ vào một bức tranh lớn khác, hỏi:
    - Sếnh sáng biết cảnh này không?
    Woòng chăm chú nhìn.
    Đó là một bức tranh vẽ cảnh hoàng hôn sơn lâm, một bầy chó sói lố nhố tha một người đàn bà và một đứa con nít chạy vào rừng. Cạnh bức này, còn bức khác vẽ một bà già khăn đỏ phi ngựa vào giữa đàn sói, cứu được người đàn bà chạy đi.
    Cảnh bên là bà khăn đỏ đặt nạn nhân vào hốc, cảnh nữa vẽ bà ta phi vào đàn sói, cứu được đứa nhỏ, chạy về hốc, chỉ thấy hốc trống trơn, rải rác mấy cái xác đười ươi, chó sói! Cảnh cuối là bà khăn đỏ bồng đứa con nhỏ đi giữa rừng hoang trăng lạnh sương mờ về miền xa xôi. Bên cạnh đó là bức hình một cô gái bịt khăn đỏ phi ngựa chồm lên một mỏm ghềnh dài, đưa mắt nhìn tứ phía, vẻ mặt u uẩn buồn mang mang như muốn tìm một hình bóng chi giữa cõi đời mịt mùng mà không thấy!
    Cũng như những bức tranh vẽ cảnh nạn đười ươi, những bức tranh vẽ nạn chó sói này được vẽ thứ tự từng cảnh như trên màn ảnh, đặc biệt là nét vẽ rất đẹp, hết sức linh động, trông thấy phảng phất như thật, phải là kẻ có tài mới vẽ được!
    - Sếnh sáng có biết những cảnh này không?
    Lão tướng phỉ họ Woòng gãi râu:
    - Hầy à! Vẽ coi đẹp dữ! Nhưng ngộ không biết mấy cái cảnh này! Ngộ có biết mấy cái cảnh khác không vẽ trong tranh này.
    Nàng chúa hồ hỏi:
    - Cảnh nào? Sếnh sáng...
    - Cũng cảnh chó sói đười ươi! Trời còn mưa nhỏ, xe ngựa đổ gãy lung tung, người đàn bà bị con đười ươi chúa lôi lên cầu, sắp ?olàm dữ? thì đàn chó sói, chó núi trong rừng đổ ra, ào ào kéo lên vây kín mấy con đười ươi, người đàn bà! Đười ươi chỉ có chín mười con mà chó sói đông như rươi. Đười ươi tài giỏi hơn, cuộc ác chiến diễn ra trong nháy mắt, cuối cùng...
    - Đàn chó sói bắt được người đàn bà đem đi?
    - Không phải! Hầy à! Chó đông như rươi, đười ươi lại giỏi, súng bắn không chết, nó xé xác chó như xé con ngoé, cuối cùng con đười ươi chúa bồng người đàn bà quý phái chạy vào rừng sâu, hướng hồ Ba Bể mất hút!
    Vừa nghe tới đó, nàng chúa hồ nắm vội lấy vai họ Woòng, nóng nảy hỏi:
    - Sao? Sếnh sáng bảo con đười ươi chúa bắt cóc người đàn bà đem di?
    Gật đầu Woòng đáp:
    - Chính thế!
    - Sao sếnh sáng biết rõ khi đã bị nó ném xuống vực bên đường?
    Nhe răng cười, Woòng gật:
    - Hầy à! Nó ném ngộ và mụ lỗ phồ xuống vực, nhưng lại ném đúng mớ dây leo chằng chịt trên suối, nên hai đứa lại mò được lên, đuổi theo xe, tới cây cầu sắt thì gặp. Lại đánh nhau một trận, lại bị nó ném xuống suối đi chầu Hà Bá! Ngộ ngóc đầu lên, thấy rõ mà!
    Trầm mặc suy tư, nàng chúa hồ dịu dàng hỏi:
    - Nếu đười ươi chúa bắt, sao lại còn người đàn bà và đứa nhỏ bị đàn sói kia tha vào rừng?
    Woòng gãi râu:
    - Hầy! Cái đó ngộ không biết, ngộ chỉ biết lúc lũ quái vật giành nhau những mồi ngon, con đười ươi chiếm được, chạy mất!
    Chợt lão chú mục dòm dãy tranh vẽ sặc sỡ, hỏi:
    - Tranh này ai vẽ đúng màu sắc! Mà ai vẽ?
    - Vẽ đúng màu! Và chính tôi vẽ bộ đười ươi, còn bộ chó sói, sư mầu vẽ, nhưng cũng vẽ đúng màu!
    Woòng gật đầu:
    - Vậy cô soái không thấy bà bị đười ươi bắt mặc áo trắng, còn bà bị sói tha mặc áo xanh? Không lẽ bà ta lúc đó còn thay áo?
    Nàng bật giọng:
    - À, nếu vậy là có hai người bị nạn cùng đứa nhỏ? Nhưng đứa nhỏ đã trao cho ông già Thổ, sao lại bị tha với người áo xanh?
    - À, đoạn đó tụi ngộ đang nằm ở dưới suối, đau gần chết, dậy không nổi!
    Im mươi khắc, chợt nàng chúa hồ gọi tỳ nữ đem bàn ghế, trà rượu vào, bảo khách:
    - Xin sếnh sáng kể lại cho nghe chuyện năm xưa về buổi loạn rừng!
    Tò mò, Woòng hỏi:
    - Cô chúa có họ với nạn nhân?
    Viên tướng phỉ Quảng Tây ngồi nhìn nàng chúa hồ, dưới ánh đèn sáp, trên khuôn mặt đẹp lúc này hiện rõ nét u uẩn mênh mang như tích ẩn cả nỗi hờn đau trên trần thế.
    Bỗng một vài nét thoáng qua trong trí nhớ, họ Woòng vụt nghĩ thầm:
    - Hầy à! Ta tối dạ dữ! Bộ mặt cô chúa hồ này có nhiều nét phảng phất giống mặt người đàn bà áo trắng năm xưa gặp nạn trên đường Tổng Hóa - Chợ Rã? Họ hàng? Không phải! Hầy! Chắc cô chúa này là đứa nhỏ năm xưa con bà gặp nạn! Phải rồi!
    Họ Woòng nhìn thoi lửa sáp nhớ lại dĩ vãng. Thời gian mười tám năm dài dặc tưởng phai chìm trong lớp cát bụi thời gian, bỗng từ từ hiện lên trong trí nhớ lão tướng lạc thảo, như những hình bóng trên màn ảnh rõ dần rõ dần...
    Tự nhiên lão Woòng thấy lòng cuộn lên một nỗi đắng cay kỳ lạ, cái cay đắng xót xa của một kẻ ngang tàng quen sống với súng gươm bất chấp cả pháp luật Tây Tàu, nhưng lại không chịu được cảnh kẻ cô thế yếu bị kẻ bạo lực hiếp. Và lần đó lão phải bó tay, thấy mình bất lực, nhìn người bị nạn nhỡn tiền, cứu không nổi. Trong cảnh im lặng bao trùm căn buồng kín đầy tranh vẽ tang thương, giọng lão tướng thổ phỉ nổi lên chìm chìm, cao dần, nghe bỗng trở nên xa xăm như tiếng dĩ vãng bên tai nàng...
    - Lâu rồi! Mới hơn mười tám năm qua, nhưng tưởng chừng đã lâu hàng mấy chục năm rồi... Vì ngày đó, cái đầu hắn chưa bị thời gian nhuộm bạc, bộ râu xồm chưa lốm đốm hoa râm... Hầy à! Vợ chồng hắn đang hồi sung sức, ngang dọc tung hoành bên đất Quảng Tây, nhà nước Tàu phải nể mặt, còn nhà nước Nam không hề sinh sự vì vợ chồng hắn ưa du ngoạn bên Nam, không hề ăn cướp.
  5. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    Hắn là Woòng Tắc Mềnh có hiệu Thần Pháo Tiên sinh Trại Hứa Chử vì bắn ?opháo? giỏi không cần làm con toán lôi thôi và có bộ râu xồm Hứa Chử. Vợ hắn là Pạc hoọc phu nhân Mẫu Dạ Xoa vì mụ bắn ?oPạc hoọc? giỏi nhất Quảng Tây và cái mặt còn là mặt mẹ con Dạ Xoa, nhưng cái bụng lại tốt lắm!
    Ngày ấy, hai vợ chồng hắn sang Nam du ngoạn, đi xem cảnh hồ Ba Bể. Một buổi chiều, hai vợ chồng đáp xe song mã chở hàng từ chợ Rã về Cao Bằng, giữa đường, bỗng trời nổi phong ba, khắp vùng hồ Ba Bể chợt xảy ra trận loạn rừng, ác thú chạy tứ tung, kéo cả ra đường cái.
    Vợ chồng hắn ngồi trên mui xe ngựa ngắm cảnh phong ba ầm ầm, dậy khắp vùng sơn lâm Phi Mã. Giữa đường chợ Rã - Tổng Hoá, đến gần một cây cầu sắt bỗng trong gió, vợ chồng hắn nghe vẳng có nhiều tiếng tru hú kêu la vang động, hai người dòm lên, thấy cỗ xe ngựa chạy như bay.
    Lúc đó, trời đất tối sầm vì phong vũ, nhưng vẫn rõ mọi vật, cỗ xe ngựa cứ chạy bon bon. Nhìn cỗ xe sau, ai nấy kinh ngạc sợ khi thấy một bầy đười ươi to lớn đứng ngồi lố nhố trên mui, dưới xe.
    Con đười ươi chúa đang dậm chân hét giục xà ích phóng xe đuổi dữ, còn cỗ xe trước, đầy hành khách nam nữ giơ tay, kêu la ầm ĩ hét ?ođười ươi quái bắt người?!...
    Rồi cuộc đấu ác liệt diễn ra giữa đám đười ươi, lão Thổ và vợ chồng hắn! Bọn đười ươi thắng thê! Người đàn bà áo trắng buộc phải gạt nước mắt trao đứa con cho lão Thổ, nhờ nuôi dưỡng rồi nộp mình cho đười ươi chúa. Vợ chồng hắn dùng khí giới, quyền cước ra sức đánh nhau với đười ươi chúa nhưng đều vô ích, cả hai bị con quái tóm quăng xuống vực như ném hai con ngoé.
    Nhưng may gặp dây leo đỡ, cả hai người thoát chết, bèn mò lên đường tìm võ khí, quyết hạ con quái cứu người lâm nạn. Lúc đó chỉ thấy xe bị lật chỏng chơ, hành khách chạy đâu hết, vợ chồng hắn bèn cắm đầu chạy ngược về hướng chợ Rã...
    - Có thể là sau khi nhận đứa nhỏ, ông già Thổ kia chạy vào rừng, tình cờ lại gặp em gái bà áo trắng kia, trao đứa nhỏ rồi lộn ra đường cái. Và khi bầy chó sói đuổi theo đười ươi đã bắt gặp hai dì cháu và chúng bắt tha đi!
    Woòng vò râu kêu:
    - Hầy à! Chắc vậy đó! Cứ xem hai người màu áo khác nhau, đủ biết người bị sói tha với với đứa nhỏ là cô em còn cô chị bị đười ươi chúa bắt đi!
    Nàng chúa hồ đứng nhìn dãy cảnh trên vách, mặt hoa hiện rõ vẻ thê lương vô cùng.
    Lão tướng phỉ Quảng Tây đứng lên, bước lại gần nàng ta, đưa mắt nhìn. Dưới ánh đèn sáp lung linh, lão thấy đôi mắt phượng của nàng rơi châu âm thầm tầm tã.
    Non phút sau, không ngoảnh lại, nàng hỏi lão Woòng:
    - Nếu vậy người chị bị đười ươi chúa bắt, người em bị sói bắt, con quái đười ươi biết nói tiếng người, súng bắn không chết... là giống chi? Có thể là quái vật thành tinh được không? Còn ông già Thổ làm sao gặp được ông? Còn người xà ích chắc cũng biết nhiều chuyện chiều hôm đó?
    Lão Woòng không đáp, hỏi lại:
    - Cô chúa à? Ngộ coi cô chúa không vui khi nghe chuyện loạn rừng năm xưa. Cô chúa đừng giận, phải cô chúa là con gái bà áo trắng bị quái vật đười ươi Phi Mã Ác bắt đem đi?
    Nàng chúa hồ quay mặt lại, má đào loang đầy nước mắt, nàng không lau, không đáp câu lão hỏi, lại cất giọng chìm chìm như nói để mình nghe.
    - Cô em bị chó sói bắt đem di... Sao người con trai tuần phủ Cao Bằng lại có khuôn mặt hao hao giống tôi? Sếnh sáng có nhận thấy điều đó không?
    Woòng gật lia:
    - Hầy à! Chính ngộ hồi nãy cũng có để ý điều đó! Mà không riêng ngộ, cả tụi đều thấy thế!
    Nàng chúa hồ vụt sáng hẳn mắt, cao giọng:
    - Sếnh sáng có nghĩ cô em người đàn bà thoát nạn dữ hiện nay còn sống? Tôi thấy vợ viên tuần phủ Cao Bằng có gương mặt quen quen!
    Họ Woòng chưa kịp đáp, bỗng có nàng trưởng tỳ tướng tiến vào, đứng giữa khung cửa thông, kính cẩn nói vọng:
    - Bẩm soái nương, Nùng Kham đi đường 36 đã về, muốn vào trình!
    Nàng chúa hồ khoát tay:
    - Dẫn y vào đây!
    - Dạ!
    Trưởng tỳ tướng lui ra, thoắt đã dẫn vào một người to lơ?nàng, trán to, mặt mày dữ tợn, gan lỳ. Vừa thấy nữ chúa hồ, y vội cúi rạp đầu chào kính cẩn. Không đợi y nói, nàng hỏi luôn:
    - Họ đâu? Nùng Kham!
    Người Mán có tên là Nùng Kham đáp:
    - Bẩm soái nương họ còn đợi ngoài kia!
    - Dẫn vào đây! Chú không làm họ sợ đấy chứ?
    Y nhe răng cười khô:
    - Dạ... bị đem về núi họ đều sợ nhưng tôi có bảo cho họ yên lòng!
    Y quay ra, giây phút dẫn vào một bọn đàn ông khoảng vài chục người, kẻ mặc quần áo chàm, kẻ mặc quần áo đen, nâu, tất cả đều trạc bốn mươi tuổi trở lên. Ai nấy đều lộ vẻ sợ sệt, có lẽ đều biết đã bị điệu vào ?ohang cọp?!
    Tự động cả đám đông đều chắp tay chào kính cẩn, nhiều kẻ khúm núm coi rất bi hài!
    Họ Woòng chưa hiểu quân hồ Ba Bể bắt đám người này về làm gì, đã thấy nàng nữ chúa hồ dịu dàng nhìn họ, hỏi:
    - Phải các chú đều làm nghề xà ích chạy xe ngựa đường Cao Bằng, Bắc Cạn, chợ Rã, hồ Ba Bể không?
    Cả đám gật đầu dạ lia. Nàng lại hỏi:
    - Ngót hai mười năm rồi?
    Cả đám lại gật. Nàng nữ chúa hỏi:
    - Ta có chút việc muốn hỏi, vậy chú nào đã bị cảnh loạn rừng giữa đường, cách nay khoảng mười tám năm?
    Hơn chục người nhao nhao lên tiếng. Nàng lại hỏi:
    - Ai bị trên đường Tổng Hoá - Chợ Rã?
    Sáu bảy người gật đầu, nàng vẫy Nùng Kham lại bảo dẫn bọn kia ra ngoài đợi, đoạn ra hiệu bảo mấy người này lại bên vách trỏ lên những bức tranh trầm lời:
    - Mấy chú nhìn xem, có thấy gì lạ không?
    Bọn xà ích cùng dòm tranh, khen đẹp, bỗng một kẻ kêu lớn:
    - Ôi chao! Sao cái cảnh này giống hệt cái cảnh con đã thấy hôm loạn rừng năm xưa!
    Lại một kẻ nữa kêu:
    - Ô! Đười ươi đuổi người! Ơ! Cái anh đánh xe ngồi dưới chân đười ươi giống quá! Giống anh ?oHai chai bố?!
    Nàng nữ chúa sáng hẳn mắt, gọi hai người đó lại gần. Đó là hai kẻ trạc năm, sáu chục tuổi, nhưng coi còn khoẻ. Một người già hơn chút mặt nặng hơi men, hai con mắt còn đỏ.
    Lão tướng phỉ nhìn hai người kia chợt nheo mắt, gãi râu, lẩm bẩm:
    - Hầy! Coi mặt hai chú quen dữ à!
    Nàng nữ chúa trỏ tranh hỏi:
    - Hai chú đã thấy cảnh kia?
    Hai người gật. Nàng ta lại sai dẫn hết mấy kẻ kia ra, chỉ giữa lại hai người hỏi:
    - Hai chú tên chi?
    Gã mắt đỏ như mắt sáo mẹ cất giọng nhè nhè:
    - Bẩm bà chúa, con là ?oHai chai bố?, còn anh này là ?oBa Đen?! Bẩm, chúng con đã thấy cảnh đười ươi bắt người! Bẩm, nó túm tóc con bắt cầm cương... giờ nhớ lại còn ghê!
    Nàng chúa hồ sai đem rượu, mồi nhắm cho hai chú xà ích dùng, và bảo:
    - Hai chú này, hãy kể lại chuyện loạn rừng năm xưa! Sẽ có thưởng!
    ?oHai chai bố? thấy rượu thèm rỏ dãi, vớ lấy uống như trâu, Ba Đen cũng làm một ly đầy.
    Rượu vào lời ra, ?oHai chai bố? cao hứng quên cả sợ, cầm cả bầu rượu bước lại gần vách trỏ bức tranh nói lè nhè:
    - Cái tranh này vẽ đẹp ghê! Nhưng còn chưa đúng cảnh thực! Cái thằng xà ích này là ?oHai chai bố?. Trong cảnh thực, con đười ươi chúa nó đứng sừng sững ngay sau lưng xà ích! Ối! Nó to như người, nó mình đồng da sắt, nói đủ tiếng Kinh, tiếng Thổ, giọng nó như sấm, nghe muốn vỡ màng tang! Bẩm... ?oHai chai bố? là con đây!
  6. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    - Tôi! - Nàng chúa hồ nhắc y.
    - Dạ... Tôi! Tôi xuôi Tổng Hoá, gặp chú Ba Đen đang chạy như ma đuổi về hướng chợ Rã, tiếng gọi inh ỏi, tôi đang say rượu nghe báo có đười ươi, lại tưởng họ giễu mình giống con đười ươi nên cứ phóng bừa, bị con quái nó túm được, bắt lộn xe lại đuổi Ba Đen!
    Ba Đen tiếp:
    - Dạ lúc đó trong xe con... à tôi... Có bà áo trắng đẹp như tiên bồng một cô nhỏ chạy ngựa trong vùng hồ Ba Bể ra, ngựa ngã chết, bà ngất, được ông cụ Thổ đỡ lên xe, chạy đi. Con đười ươi chúa xông ra đuổi theo, đòi bắt. Ông lão Thổ và mấy người lính dõng bắn liền mấy phát, nó không chết!
    Nàng chúa hồ gọi tỳ nữ đem rượu ra nữa. Hai người xà ích vừa uống vừa kể lại chuyện mười tám năm xưa loạn rừng hồ Ba Bể, bầy đười ươi đuổi bắt người đàn bà áo trắng bồng con. Từng chi tiết, hai người xà ích già nhớ đâu kể đấy. Đến chồ con đười ươi chúa nổi hung lật xe, ?oHai chai bố? bị ném vào bụi chết ngất, riêng Ba Đen được chứng kiến đoạn sau, y kể tiếp từ lúc chui vào bụi rậm bên đường, đến chồ thấy ông già Thổ chạy ra, đười ươi chúa vồ bà áo trắng, ép làm vợ trên cầu sắt, hai vợ chồng tướng thổ phỉ Tàu hiện ra bắn nó. Đến đoạn đười ươi ném hết mấy người xuống suối, ác chiến với chúa sói, cắp bà áo trắng chạy vào rừng v.v... Nhất nhất không thiếu đoạn nào!
    Kể xong, Ba Đen nốc luôn một ly rượu đầy, chợt để ý dòm lão họ Woòng ngồi gần đấy, vùng kêu:
    - Ô! Tôi nhớ ra rồi! Ông cụ râu xồm này giống mặt ông tướng phỉ có bà vợ to lớn hôm đó! Giống như đúc! Ô, cả hai rất giỏi, mà con đười ươi chúa còn giỏi hơn nên hai người bị nó quăng xuống suối!
    Họ Woòng gãi râu, trỏ Ba Đen, ?oHai chai bố? nói vang vang:
    - Tao nhớ ra rồi! Hai chú mày là hai chú xà ích hôm đó! Trông chỉ già đi ít thôi!
    ?oHai chai bố?, Ba Đen cũng bật reo:
    - Hứa Chử! Ông cụ Hứa Chử!
    Họ Woòng đứng dậy vỗ đốp vai hai chú xà ích. Cả ba trông lại: nàng nữ chúa hồ Ba Bể nước mắt đã chảy ròng ròng từ lúc nào!
    Cả ba cùng im lặng nhìn nhau không ai nói tiếng nào.
    Vẫn đứng nhìn tranh, nàng chúa hồ hỏi:
    - Ba Đen! Chú ngồi đánh xe nghe bà áo trắng nói gì với ông già Thổ?
    Lão xà ích gãi cằm, vẻ bâng khuâng:
    - Dạ tôi ngồi đằng trước, lúc đó tâm thần hoảng hốt, gió thổi ào ào, nghe tiếng được tiếng không, nhưng lúc bị nó quăng dây móc xe dừng lại, tôi nghe bà ta nghẹn ngào bảo ?o... Thân tôi dẫu thác cũng chẳng quản chi... Chỉ mong con thơ thoát tay quái vật... Một giọt máu này xin cụ cứu cho... Mai sau còn có ngày rửa nhục...!? Ông già Thổ mấy lần khuyên giải, cố chống con quái vật, nhưng nó như ma quỷ, súng bắng không chết. Ông già phải ôm cô nhỏ nhảy xuống chạy vào rừng!
    Nàng chúa hồ run giọng:
    - Sau chú nấp trong bụi, lại thấy ông già vọt mình chạy ra đường cái?
    Ba Đen gật. Nàng trầm mặt:
    - Nếu vậy khi chạy vào rừng, ông già đó đã gặp người em bà áo trắng, trao đứa nhỏ, rồi lại chạy ra định cứu bà, nhưng vẫn bị thua, và khi bầy sói đuổi đười ươi, đã bắt gặp hai dì cháu núp trong rừng nên bắt tha đi!
    Họ Woòng gật lia. Nàng chúa hồ lên tiếng gọi:
    - Khiên Mây đâu? Đem đồ vẽ vào!
    Nàng trưởng tỳ tướng cùng hai nàng nữa mang giá vẽ, thuốc vẽ, bút lông... vào.
    Nàng chúa hồ pha thuốc, vén tay áo cầm bút vẽ lia trên mặt lụa căng. Tay bút như rồng bay phượng múa. Chỉ lát sau nàng đã vẽ xong năm, bảy bức, diễn tả lại đúng như lời Hứa Chử Woòng Tắc Mềnh, xà ích Ba Đen, ?oHai chai bố? đã kể. Nước mắt nàng nhỏ xuống sơn màu như mưa. Chỉ nhìn qua nét vẽ cũng hiểu nàng đã hoà cả tâm hồn vào tay bút.
    Lão Woòng Tắc Mềnh bất giác vò râu khen:
    - Hầy à! Cô soái hồ Ba Bể có hoa tay dữ, vẽ như cảnh thực! Hà! Ngộ còn nhớ chú ?oHai chai bố? ngồi dưới chân con đười ươi chúa, mắt trợn ngược, mặt xanh như tàu lá chuối coi giống hệt bức tranh này!
    Nàng nữ chúa lau nước mắt, gọi bọn nữ tỳ tướng Khiên Mây vào treo tranh lên, đoạn quay bảo Mây đi mời ?ocậu họ Trần tới?.
    Nừ tỳ tướng Khiên Mây vừa ra tới khung cửa thông phòng khách bỗng giật nảy mình thấy một pho tượng mập như chum vại đứng lù lù ngay bên pho tượng ?ocô Then? bằng gỗ mun đặt gần cửa ra ngoài.
    - Quái! Tượng mụ béo bằng đồng hun này ai mới đặt đây? Vừa rồi đâu có?
    Khiên Mây lẩm bẩm bước lại gần. Tượng mụ béo buông thõng tay, hai con mắt ốc nhồi trợn ngược nhìn... không khí!
    Sinh nghi, Mây trố mắt dòm. Đúng tượng đồng hun, Mây kêu:
    - Ôi chao! Ai đúc khéo dữ! Coi hệt mụ quỷ Dạ Xoa dưới âm ty!
    Dứt lời, vì bận việc Mây đi thẳng ra cửa ngoài. Nhưng tới cửa Mây ngoái dòm lại, đúng lúc pho tượng mụ béo quay người, thò một tay như chực túm gáy nàng ta.
    Giật thót mình Mây bật kêu:
    - Tượng thịt!
    Tượng mụ béo lại đứng đờ, nhưng vừa nghe Mây kêu, tượng vùng trợn mắt mắng:
    - Tỉu nà, con ranh con hỗn! Sao dám gọi bà nội mi là tượng thịt?
    Khiên Mây hỏi lớn:
    - Mụ béo vào đây làm chi?
    Nhe răng cười, mụ đáp:
    - Tao đi xem nó đem lão Hứa Chử đến đây làm gì?
    Mây thở phào, đổi sắc mặt, lễ phép:
    - Vậy mời bà ngồi chơi đợi soái nương!
    Thì ra mụ béo này không ai khác chính là mụ ?oMẫu Dạ Xoa Pạc hoọc phu nhân?. Nguyên nãy vẫn cùng thầy trò viên tuần phủ Cao Bằng nấp phía ngoài nghe ngóng, thấy bọn quân Ba Bể dẫn Hứa Chử Woòng vào rồi trở ra, lát sau lại tên khác dẫn một lũ xà ích vào, ai nấy đều lạ, muốn vào coi xem hung cát thế nào, nhưng tỳ nữ lố nhố ra vào nên chưa tiện. Chợt thấy chúng tản đâu hết, Mẫu Dạ Xoa liền vọt luôn vào khách sảnh. Nào ngờ vừa đến bên pho tượng, bỗng thấy Khiên Mây xồng xộc đi ra. Túng thế, mụ Dạ Xoa bèn đứng sững giả vờ làm pho tượng, vì mụ cũng đen như đồng hun!
    Giờ thì lộ, nghe Mây mời, Dạ Xoa trợn mắt, nhe răng cười rè:
    - Mời ngồi chơi? Tỉu nà, lịch sự dữ! Cô em chọc tao hả?
    - Thưa, soái nương có dặn hồi nãy!
    - Hầy! Soái nhà côn em biết có khách?
    - Dạ biết chứ! Chính soái ra lệnh, nên không ai ngăn chặn bà!
    - Lão Hứa Chử đâu? - Dạ Xoa nheo mắt hất hàm hỏi.
    - Dạ, đang ở trong phòng soái nương!
    Dạ Xoa trợn mắt hét như sấm lệnh:
    - Tỉu nà, tao đập mụ trước, vặt râu lão chó đú sau!
    Khiên Mây kinh ngạc kêu:
    - Kìa bà mập! Sao bà làm dữ...
    - Đem lão râu xồm vào phòng riêng làm gì? Tao đập chủ tớ mày, vặt râu lão xồm!
    Lời dứt, mụ vọt tới vung trảo móc họng Khiên Mây. Nàng tỳ tướng vội nhảy sang bên tránh. Nhanh như chớp, mụ xoay luôn người thò tay kia vồ. Bịch! Cả bàn tay hộ pháp vồ trúng một bàn tay nhỏ nhắn, Mẫu Dạ Xoa thích chí cười ré lên:
    - Nhãi con! Tao vặn họng mày! Muốn sống mau dẫn tao vào gặp con chủ mày!
    Bỗng nghe tiếng quát líu lô ?omụ béo vào đây làm gì?, Mẫu Dạ Xoa trợn mắt ốc nhồi dòm kỹ, mới hay không phải túm được Khiên Mây, mà là một nàng mặc áo chàm, tua ngũ sắc, bịt khăn đỏ, chân quấn xà cạp đỏ, mặt đẹp tuyệt, hai mắt hơi xếch long lanh sáng quắc rất oai vệ. Nàng này chính là nàng chúa Hai, Mẫu Dạ Xoa vung mạnh tay, định vật nàng chúa Hai xuống nhưng nàng này bản lãnh cao cường, vụt xoay người dùng một thế võ đặc biệt quẳng mụ đến ?ohuỵch? xuống sàn. Dạ Xoa chồm dậy ôm lấy nàng nhưng lại bị quật ?orầm? xuống lần nữa.
    Ngay lúc đó, nàng chúa Ba cũng vừa xịch tới, bỗng từ ngoài có hai bóng to lớn phục phịch nhảy vọt vào, vung chuỳ, búa tấn công cả hai nàng chúa hồ. Cả ba mụ Dạ Xoa toàn tay giỏi, ngờ đâu hai nàng lại giỏi hơn, chỉ qua lại vài đường đã đá tung hai mụ lộn ra thềm ngoài. Mẫu Dạ Xoa hét ?okhông xong rồi?, mụ rút cây nhuyễn sách phủ ra chém lia lịa, định mở đường thoát ra thềm, nhưng vẫn bị vây chặt không qua nổi. Hai mụ kia lại nhảy vào đánh loạn.
    Lúc đó viên tuần phủ cùng quản Đô nấp ngoài, thấy ba mụ Dạ Xoa bị vây, vùng bảo:
    - Ôi chao! Mẫu Dạ Xoa nóng nảy để lộ tung tích rồi! Chú đợi đây, ta vào giải cứu!
    Dứt lời, viên tuần phủ quẳng người vèo vào thềm như con chim cắt. Cách mười tám năm, tài nghệ ông ta giờ đã vượt cao hơn mấy bậc, vừa hạ chân đã xông vào đánh hai nàng chúa hồ.
    - Lão là ai?
    - Rút thôi, mấy bà Dạ Xoa!
    Liền mấy đường quyền cước tung ra, cả bọn nhảy vọt ra ngoài. Hai nàng chúa hồ chực đuổi theo bỗng nghe một hồi khánh gióng lên, lập tức dừng lại, tiến thẳng vào khu phòng riêng của nàng chúa Cả. Nàng chúa Hai nói luôn:
    - Bọn gian tế dám vào tận soái sinh do thám, sao đại tỷ không cho bắt?
    Nàng chúa Cả ra hiệu cho hai cô em vào buồng trong, nói chuyện dặn dò chi. Ít phút sau, cả ba cùng ra, nàng chúa Cả bảo lão Woòng:
    - Pạc hoọc phu nhân vừa cùng một người tính vào sảnh, hình như là ông tuần phủ Cao Bằng. Rất tiếc họ bỏ đi rồi! Cám ơn chuyện sếnh sáng và hai chú xà ích đã kể, giờ sếnh sáng có thể cùng Cẩm Tiên rời trại nhưng mai có lẽ tôi còn muốn nói chuyện nữa, vậy hãy xin về nghỉ cho mạnh, mai sẽ gặp lại!
    Lão Woòng nghe tin vợ vào trại có vẻ áy náy:
    - Hầy! Mẫu Dạ Xoa tính nóng như lửa, sợ mụ nổi hung làm chết oan nhiều người!
    - Sếnh sáng chớ ngại! Tôi đã cho lệnh để họ vào ra tự do! Giờ chắc đang đi tìm nhà giam, nhưng... không gặp đâu! Sếnh sáng cứ yên lòng về ngủ!
    Woòng chào, theo mấy nàng quân hầu ra khỏi soái dinh, đầu óc chập chờn nhiều ý nghĩ, chẳng còn dám quyết việc hung hay cát trước thái độ khó hiểu của nàng nữ chúa hồ Ba Bể nữa!
  7. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    Chương 4
    Máu đào tuôn chảy về tim...

    Trong khi Woòng Tắc Mềnh được Khiên La dẫn tới tư dinh chúa hồ, tại nhà giam bọn Trần Dũng, Cẩm Tiên vẫn ngồi thao thức, lo ngại chẳng hiểu chúng dẫn lão tướng phỉ đi đâu?
    Lát sau bỗng lại thấy Khiên La đưa một nàng tỳ tướng tới. Nàng này chính là Khiên Mây, em La.
    Mây vào phòng giam, lễ phép bảo chàng trai:
    - Xin mời công tử theo tôi!
    Ngạc nhiên Dũng hỏi:
    - Có chuyện chi?
    Mây lập lại lời mời, Dũng đứng dậy đi theo Khiên Mây ra khỏi nhà giam. Mây đưa Dũng xuống một con đường ngầm, quanh co đi mãi. Lát sau Dũng thấy đứng trước một vùng sơn kỳ thuỷ tú, gần một khu dinh sàn nguy nga. Mây đưa chàng vào, qua mấy dãy hành lang, nhiều căn phòng rộng tới một căn xinh lịch ảo huyền.
    Cau mày, Dũng hỏi:
    - Đây là đâu?
    - Đây là nơi công tử được đãi vào bậc khách quý! Mời công tử vào!
    Mây nép sang bên. Dũng vén soạt rèm bước luôn vào, vẻ bực bội.
    Bỗng chàng đứng phắt lại vì trước mặt là một nữ lang đang ngồi trầm ngâm trên một cái ghế bọc da cọp. Một trang tuyệt sắc giai nhân. Chính nàng chúa Cả mà Dũng đã gặp.
    Nàng chỉ chiếc ghế trước mặt bảo Trần Dũng, vẻ từ tốn:
    - Mời chú em ngồi!
    Chàng trai trẻ tuổi hơi cau mày, phần lấy làm lạ trước thái độ nàng nữ chúa, phần khó chịu vì lời xưng hô kẻ cả của nàng ta, nhưng cũng chậm rãi ngồi xuống, đưa mắt ngó thẳng đối phương, vẻ chờ đợi. Nàng chúa Cả cũng lặng yên nhìn Dũng, giây lâu chợt thở ra nhè nhẹ.
    - Ta muốn mời người trẻ tuổi một vài chén rượu, nhân tiện có việc muốn nói!
    Nàng gõ vào chiếc khánh vàng đặt bên cạnh ba tiếng, phút chốc đã thấy Khiên Mây bưng vào một mâm rượu thịt nghi ngút khói và thơm lừng, toàn những món đặc sản của dân sơn cước vùng hồ Ba Bể. Nàng chúa Cả tự tay rót rượu mời Dũng.
    - Nào, chú em hãy cùng ta cạn chén mừng cuộc gặp gỡ ?otiên binh hậu lễ? này.
    Nàng nâng chén rượu lên môi nhìn Trần Dũng đăm đăm, ánh mắt tràn đầy vẻ bao dung, khó hiểu. Người con trai viên tuần phủ không khỏi cảm thấy lúng túng trước tình thế lạ lùng: hai kẻ đối địch nhau giờ bất ngờ lại ngồi cùng nhau đối ẩm!
    - Xin mời!
    Nàng chúa Cả ngửa cổ uống cạn một hơi. Dũng miễn cưỡng làm theo, xong chàng nói luôn:
    - Có chuyện chi cứ nói!
    - Lát nữa sẽ nói chuyện, giờ chú em hãy dùng thử mấy món lạ miệng do đầu bếp của ta làm!
    Rất tự nhiên, nàng tiếp luôn thức ăn cho Dũng. Mới đầu chàng trai chỉ ăn chiếu lệ, sau qua vài chén rượu, thấy ngon miệng chàng cũng ăn uống thoải mái, thầm khen tài nấu nướng của tay hỏa đầu quân thuộc hạ nàng nữ chúa hồ Ba Bể. Rượu được vài tuần, chợt nàng chúa Cả trở nên trầm mặc, gương mặt đẹp tuyệt trần bỗng như có một làn sương mù ảm đạm bao phủ, đôi mắt phượng dõi nhìn xa xăm u uẩn... Hồi lâu, nàng khẽ buông một tiếng thở dài như muốn hút cả tâm tư sầu bi, ai oán.
    - Này chú em, ta mạn phép hỏi một điều, mong chú khá cho ta rõ!
    Giọng nàng chìm hẳn, run run khiến Dũng ngỡ ngàng. Chàng trai Kinh buông đũa ngó sững. Lúc này mặt hoa càng hiện rõ vẻ thê lương như tích chứa cả niềm đau nhân thế! Dũng khẽ gật, ôn tồn đáp:
    - Có điều gì xin cứ hỏi!
    - Chẳng hay... Chẳng hay lệnh đường... thân mẫu chú em nhũ danh là gì? Chú em có thể cho ta biết không? Ta... Ta có điều thắc mắc!
    Dũng ngẩn người trước câu hỏi của nàng chúa hồ, giây lâu chàng muốn nói nhưng lòng đầy phân vân, nghi hoặc về ý định của nàng.
    - Gia mẫu họ Hoàng tên Kiều Liên. Chúa hồ muốn biết chắc có ý dụng gì chăng?
    Vừa nghe Dũng dứt lời, nàng chúa Cả bỗng xúc động lạ thường, thảng thốt khẽ bật kêu:
    - Hoàng Kiều Liên! Họ Hoàng lại lót chữ Kiều... Sao lại trùng hợp đến thế? Phải chăng điều ta suy đoán... không sai?...
    Nàng lẩm bẩm như nói với chính mình, thần sắc càng lúc càng biến đổi. Bỗng nàng nhìn thẳng vào mắt chàng trai Kinh, nghiêm giọng hỏi:
    - Chú em có hiểu biết nhiều về thân thế, họ hàng bên ngoại chứ? Cụ thể là thân mẫu... chú có chị em, anh em ruột thịt ra sao?
    Dũng nhíu mày vừa khó chịu vừa ngạc nhiên trước sự truy vấn khó hiểu của nàng. Tuy nhiên, chàng vẫn điềm tĩnh:
    - Biết chư! Ông bà ngoại ta đã khuất núi từ lâu. Gia mẫu không có em trai, chỉ có một người chị gái!
    - Người chị ấy tên gì? Giờ ở đâu?
    Nghe nàng hỏi dồn, gương mặt chàng trai vụt tối hẳn lại. Lát sau chàng mới bùi ngùi:
    - Nghe nói dì ấy... đã thất lạc từ lâu!
    - Từ bao giờ? Tại đâu?
    Người con trai viênt tuần phủ Cao Bằng chợt thở phào một hơi buồn buồn:
    - Không rõ! Chỉ nghe gia mẫu nhắc sơ qua là dì ấy thất lạc cùng với người con từ lâu lắm... Lúc đó ta chưa sinh ra đời! Dì ấy tên Kiều Lan, Hoàng Kiều Lan!
    Rắc! Dũng vừa dứt lời, chiếc tay ghế nàng chúa hồ ngồi đã gãy sụm. Nàng nấc lên ?otrời ơi? cực kỳ thống thếit rồi dáng liễu từ từ gục xuống, hai bàn tay bưng kín mặt hoa, đôi vai rung động thổn thức theo từng tiếng nức nở nghẹn ngào...
  8. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    Dũng ngồi im. Chàng trai càng lúc càng rối trí trước thái độ, hành động của người thủ lĩnh lục lâm vùng hồ Ba Bể. Hồi lâu, chừng đã vơi bớt phần nào mối xúc động ghê gớm từ cõi sâu u uất của tâm hồn, nàng chầm chậm ngẩng lên. Dưới ánh sáp lung linh, khuôn diện nàng lúc này đầm đìa nước mắt, đẹp não nùng như đóa hoa phù dung trong mưa... muốn tê dại lòng người!
    Nàng lấy khăn lau nước mắt. Ngay khi đó nữ tỳ tướng Khiên Mây vén rèm bước vào cung kính thưa:
    - Bẩm chúa Cả, khách mời ở sơn trấn Cao Bằng đã tới!
    Nàng chúa hồ vụt sáng mắt, truyền:
    - Hãy mời bà vào đây ngay!
    Khiên Mây lui ra, chừng hơn phút sau đã nghe tiếng đàn bà thánh thót ngoài cửa phòng:
    - Cái ngươi đưa ta đi đâu? Chúa hồ của các ngươi đâu? Các người bắt giam con ta nơi nào?
    Vừa nghe giọng nói, Trần Dũng giật mình biến sắc, đứng bật dậy sửng sốt kêu:
    - Mẹ ơi!
    Thiếu phụ được nàng tỳ tướng đưa vào chính là mẹ Dũng, vợ viên tuần phủ Cao Bằng Trần Hùng. Nhận ra con, bà xúc động ôm chầm lấy chàng trai mừng mừng tủi tủi:
    - Con ơi! Mẹ lo quá... chỉ sợ con mẹ...
    Dũng đỡ mẹ ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn tiệc, nghiêm mặt nhìn nàng chúa hồ hỏi:
    - Chúa hồ sai thuộc hạ bắt cóc mẹ con ta đến đây có ý dụng gì?
    Nàng chúa Cả khoát tay, gượng mỉm cười trấn an người con trai viên tuần phủ:
    - Chú em hãy yên tâm! Ta có việc riêng muốn hỏi thăm lệnh đường nên mạn phép ?omời? người đến đây, hoàn toàn không có ý xấu! Thưa... bà...
    Ánh mắt nàng dừng lại trên khuôn mặt người đàn bà. Lúc này bà ta cũng đang tròn mắt ngó nàng sững sờ như bị thôi miên. Rồi, bỗng nhiên cả hai người đều rùng mình chừng cùng nhận thấy người đối diện có quá nhiều nét giống mình từ dung mạo đến vóc dáng!
    - Trời! Có lẽ nào... Không! Không phải! Chị ta đã... mất tích từ... buổi chiều hôm đó... buổi chiều khủng khiếp... Không! Trời ơi!
    Người vợ viên tuần phủ vụt ôm mặt nói nhảm như người mê sảng, vẻ bị kích động đến tột độ. Dũng lay gọi một hồi bà ta mới bớt kinh mang, tuy giọt châu vẫn lả tả tuôn rơi nhạt nhoà má phấn.
    - Phu nhân! Xin bà bình tĩnh.
    Nàng chúa hồ rót một chén trà đưa mời, vành môi son cắn chặt cố nén nỗi xúc động mãnh liệt trong lòng. Bà ta run run đỡ lấy uống cạn, hỏi nàng:
    - Cô chúa hồ... Sao cô lại giống người chị tôi đến thế? Giống như hai giọt nước! Chẳng lẽ...
    Thiếu phụ chưa nói hết câu, nàng chúa hồ lặng lẽ rút trong mình ra một chiếc túi gấm nhỏ màu xanh trông đã ngả màu. Nàng mở miệng túi dốc ra một vật bằng kim loại vàng lấp lánh.
    - Thưa, bà đã bao giờ trông thấy vật này?
    Nàng chúa hồ xoè bàn tay cạnh thỏi sáp. Đó là một tấm ?olắc? vàng xinh xắn, nhỏ cỡ đeo vừa cổ tay con nít, trên mặt có khắc chữ nhỏ li ti. Thiếu phụ ghé sát dòm. Kiểu dáng tấm lắc cùng hàng chữ hiện rõ dưới ánh sáng toả hắt:
    ?oVõ Kiều Loan, sinh ngày... tháng... năm... mẹ Hoàng Kiều Lan?
    Thiếu phụ thảng thốt kêu lên:
    - Tấm ?olắc? của cháu tôi! Nó thất lạc đã mười tám năm rồi... Sao cô chúa hồ lại có tấm ?olắc? này?
    Bà ta chụp tấm lắc xăm soi ngắm nhìn mê mải, nét bi thương càng hiện rõ trên khuôn mặt người mệnh phụ tuyệt sắc. Nàng chúa hồ cảm nghe trái tim muốn ngừng đập trong ***g ngực, đầu óc choáng váng. Nàng hít mạnh một hơi dài, cố lấy giọng tự nhiên hỏi:
    - Thưa, cháu của bà thất lạc trong trường hợp nào, tại đâu? Bà... xin vui lòng cho biết?
    Người vợ viên tuần phủ gạt lệ trừng trừng vào khoảng không, hồi lâu khẽ nói, giọng chùng xuống, ai oán như tiếng gió chiều thu lá rụng:
    - Chuyện cũ nhắc lại thêm đau lòng... Mười tám năm... Chiều đó, hai chị em tôi cùng mấy người gia nhân đi ngoạn cảnh hồ, bỗng cuồng phong nổi dậy, loạn rừng ác thú ra đầy đàn. Một đàn đười ươi do một con chúa đàn cầm đầu đuổi bắt chúng tôi, gia nhân bị tàn sát hết... Con đười ươi chúa quái đản khủng khiếp, súng bắn không chết! Chị tôi bồng đứa con thơ chạy ra đường cái, nhờ xe ngựa chạy trốn nhưng vẫn không thoát, dầu đã được mấy người thương tình hết lòng cứu giúp... Một người nghĩa hiệp đem đười ươi cháu tôi chạy vào rừng, gặp tôi, giao cháu bé cho tôi rồi chạy ra đường quyết tử chiến với con quái vật nhưng rồi cũng đành bất lực bó tay trước sức mạnh phi phàm của nó... Hai dì cháu tôi núp trong rừng bị một bầy sói hung tợn tha đi. May lại được bà cụ Mán giỏi võ xông vào cứu. Bà cụ giấu tôi trong một hốc núi rồi chạy đi cứu đứa bé nhưng... trong khi cụ ấy đi thì tôi bị đười ươi phát hiện, kịp lúc người đàn ông nghĩa hiệp trở lại. Vì không có đười ươi chúa ở đó nên ông ấy cứu được tôi... Vì sợ bầy đười ươi kéo tới, chúng tôi tạm lánh đi nơi khác, đến khi quay lại chỗ cũ thì...không thấy ?" bà vụt thở dài ?" Có lẽ... cháu tôi đã... Từ đó tôi mất hai người thân yêu trên đời!...
    Thiếu phụ kể dứt, nàng chúa hồ không còn dằn lòng hơn được nữa, ôm choàng lấy bà ta nức nở:
    - Dì ơi! Cháu đây! Đứa bé bất hạnh mười tám năm xưa... chính là cháu đây! Sư mẫu cháu đã cứu cháu thoát nanh vuốt loài sài lang hung tợn rồi trở lại hốc núi tìm dì, nhưng... dì đã đi khỏi, người... đành mang cháu đi dạy dỗ hết lòng, mong có ngày cháu tìm được cội nguồn thân thế! Dì ơi!
    Người vợ viên tuần phủ bàng hoàng lặng người đi trước lòi xác nhận của nàng dù trước đó bà ta đã thầm nghi hoặc khi thấy người nữ thủ lĩnh hồ Ba Bể giống hệt chị mình.
    - Trời ơi! Cháu... Kiều Loan cháu tôi! Dì Kiều Liên đây! Ôi! Thật trời cao có mắt! Mười tám năm qua, dì... cứ đinh ninh cháu... Thật không ngờ ngày nay lại được trùng phùng!
    Hai mái đầu áp vào nhau cùng khóc vùi, mừng mừng tủi tủi. Trần Dũng chứng kiến cảnh mẹ với nàng chúa hồ - hai người ruột thịt hội ngộ, lòng cũng không kém xúc động. Chàng trai vỡ lẽ ra rõ ràng nàng nữ chúa đã có ý ngờ mình là họ hàng ruột thịt từ đầu nên đối xử một cách đặc biệt bao dung dẫu hai bên ở hoàn cảnh đối địch nhau! Càng ngắm Dũng càng thấy nàng giống mẫu thân mình, tuy vẻ đẹp của người thủ lĩnh hồ Ba Bể có phần sắc sảo hơn chút!
    Rất lâu, hai người phụ nữ mới ngẩng lên. Người vợ viên tuần phủ quay sang con trai gạt nước mắt, bảo:
    - Dũng con! Mau nhận chị! Đây là chị Kiều Loan, con dì Kiều Lan - chị ruột mẹ! Chị con thất lạc từ buổi chiều loạn rừng mười tám năm trước, nhờ trời nay mới gặp lại nhau!
    Dũng lúng túng cúi đầu chào. Nàng chúa hồ Võ Kiều Loan cảm động nắm tay chàng mỉm cười qua làn lệ rưng rưng:
    - Chị có điều gì sai sót với em, mong em miễn thứ cho!
    Chị đã nghĩ từ đầu vào lúc mới gặp em về mối liên hệ huyết thống giữa chúng ta nhưng... còn phải chờ kết quả tìm hiểu nhiều manh mối! Giờ thì mọi sự đã rõ. Trời xanh còn tựa kẻ bất hạnh nên run rủi cho gái này tìm lại được người thân! Dì ơi, sư mẫu cháu có ghi lại sự việc xảy ra mười tám năm xưa. Gần đây cháu có bổ túc thêm khá đầy đủ. Giờ xin mời dì cùng em Dũng sang phòng tranh xem!
    Chợt nàng quay về phía cửa sổ cao giọng:
    - Vị khách nãy giờ ẩn ngoài đó, nếu muốn xem tranh xin mời đi cùng!
  9. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    Bà Kiều Liên cùng con trai ngơ ngác nhìn ra. Ngoài khung cửa sổ, cảnh vật bàng bạc sương đêm, xa xa vài tiếng chim khảm khắc vọng lại nghe mơ hồ, bâng khuâng... Bỗng có tiếng tằng hắng rồi một giọng đàn ông vang lên trầm trầm:
    - Giỏi lắm! Kiều Loan con! Tài nghệ con quả đã đến mức phi thường, đang cơn xúc động vẫn kiểm soát được chung quanh!
    Theo tiếng nói, một bóng người quăng vèo vào hạ chân xuống giữa phòng êm như chiếc lá rơi. Hai mẹ con Dũng cùng buột miệng kêu lên mừng rỡ:
    - Ồ! Cha!
    - Ông!
    Người vừa xuất hiện chính là viên tuần phủ Cao Bằng Trần Hùng. Ông ta đưa mắt nhìn nàng chúa hồ, trên gương mặt phong trần hằn rõ những nét thương cảm, giây lát mới thở phào chậm rãi nói:
    - Kiều Loan con! Ta vừa chứng kiến tất cả. Ta cũng đã xem những bức tranh mà sư mẫu con với con vẽ lại thảm cảnh năm xưa! Ta chính là kẻ mang lốt ông già Thổ tình cờ gặp mẹ con trên đường lánh nạn và vì... tài hèn sức mọn nên không cứu nổi người tiết phụ khỏi tay quái vật bạo hành!
    Giọng viên tuần phủ dần rung chìm đứt quãng, môi mím chặt, khoé mắt con người từng vào sinh ra tử một thời long lanh muốn ứa lệ. Cuộc trùng phùng với đứa bé của mười tám năm xưa khơi dậy nỗi đau xót ghê gớm hằng đeo đẳng trĩu nặng tâm hồn ông ta.
    - Con ơi... bao năm qua ta vẫn có ý tìm kiếm tông tích con cũng như mẹ con dù nhiều lúc đã... tuyệt vọng... Cũng may trời cao có mắt, nay còn được gặp con!
    - Thì ra... dượng chính là ông cụ Thổ tốt bụng năm xưa?
    Võ Kiều Loan gạt nước mắt hỏi, bà Kiều Liên xen vào bảo nàng:
    - Đúng vậy đó cháu! Hôm đó khi tình cờ gặp mẹ cháu rồi gặp dì lâm nạn, dượng cháu đang mang lốt hoá trang ông già Thổ. Dượng cháu đã cố sức xả thân vì nghĩa nhưng không địch nổi con quái vật đười ươi khủng khiếp mình đồng da sắt, súng bắn không chết! Sau... cảm nghĩa trượng phu dì gá nghĩa cùng dượng cháu.
    Kiều Loan nghe dứt từ từ sụp xuống chân viên tuần phủ:
    - Cháu xin dượng nhận cho một lạy này!
    Viên tuần phủ họ Trần lật đật tránh sang một bên đỡ nàng dậy.
    - Đừng cháu! Ta là thân nam tử cứu không nổi người cô thế, thực đáng hổ thẹn, sao dám nhận lễ của cháu! Huống chi chúng ta còn chung gia tộc!
    Cả bà Kiều Liên, Trần Dũng đều hết lời khuyên cản. Kiều Loan muốn mời họ sang phòng bên, xem tranh nhưng ông Trần Hùng ý không muốn vợ thấy lại những hình ảnh đó, sợ bà thêm đau lòng. Ông đưa tay chỉ Dũng bảo:
    - Con là nam nhi, tinh thần vững mạnh có thể qua xem!
    Dũng vâng lời theo gái hầu đi ra. Chàng trai nãy giờ nghe chuyện, lòng sôi sục nhiệt huyết muốn biết tường tận diễn biến dẫn đến tai hoạ năm xưa và con quái vật đười ươi chúa đo!
    Còn lại ba người, Võ Kiều Loan truyền pha tra ngồi hàn huyên việc nhà. Qua lời kể của bà Kiều Liên, Võ Kiều Loan được biết cha nàng tên Võ Long, xưa kia vốn tay vũ dũng thích ngang dọc giang hồ lại kiêm thông văn học thạo cả bốn ngón phong lưu: cầm, kỳ, thi, hoạ. Mẹ nàng sinh trưởng trong một gia đình quyền quý ?" ông ngoại Kiều Loan trước là quan dưới miền xuôi sau bực giận triều đình lắm bọn tham quan ô lại nên cáo lão đem gia quyến lên mạn ngược sinh sống lấy cảnh lâm tuyền vui thú điền viên. ?oHoa khuê các, **** giang hồ gặp nhau?. Cuộc tình duyên của hai người đang độ tươi đẹp như núi rừng Việt Bắc thình lình kẻ thù cũ xuất hiện. Ông nhận lời thách đấu của y và lên ngựa ra đi một mình, mặc mẹ nàng, cùng gia đình hết lời khuyên ngăn. Mấy ngày sau, Võ Long trở về gục trên lưng ngựa, mình mang thương tích trầm trọng. Ông đã thắng kẻ tình địch, đánh hắn rơi xuống vực từ một triền núi trên ngọn Phi Mã Ác Sơn nhưng bản thân cũng bị mấy đòn thí mạng của hắn. Dù được danh y chữa trị hết lòng, vết thương vẫn không thuyên giảm nên chỉ ít ngày sau ông mất. Khi đó bà Kiều Lan mẹ nàng đang mai thai được sáu tháng. Cái chết của chồng khiến bà đau khổ ngã bệnh, suýt sẩy thai. Nó là vết thương không bao giờ lành trong lòng người cô phụ! Sau khi thân phụ mãn phần, bé Kiều Loan lên hai tuổi. Thấy chị hay sầu muộn, bà Kiều Liên khuyên chị nên đi du ngoạn cho khuây khoả. Hai chị em thường mang theo bé Kiều Loan, cùng gia nhân để đi tìm những danh lam thắng cảnh thưởng lãm. Và rồi một lần nữa tai hoạ lại giáng xuống gia đình vào buổi chiều loạn rừng oan nghiệt đó...!
    Nghe xong cội nguồn thân thế mình, Võ Kiều Loan càng thêm chua xót, tủi hờn. Số phận đã tàn bạo cướp đi hai đấng sinh thành nàng quá sớm. Sinh ra không được nhìn cha, lớn lên không biết mặt mẹ hiền. Giờ đây... thù nhà nặng trĩu đôi vai người thục nữ!
    - Cháu sẽ tìm ra quái vật đười ươi, tru diệt nó rửa hờn cho mẹ.
    Võ Kiều Loan nghiến răng nói như nhai từng tiếng, mắt phượng long lanh chờn vờn sát khí. Tuần phủ Trần Hùng kín đáo khẽ thở dài. Ông hiểu người con gái thủ lĩnh lục lâm vùng hồ Ba Bể sẵn sàng dành trọn cuộc đời để thực hiện lời thề của con nhà võ. Nhưng... kẻ thù của nàng là đười ươi chúa, một con đười ươi biết nói cả tiếng người, súng gươm không phạm nổi... Chính ông mười tám năm xưa từng chạm trán ?onó? suýt vong mạng cùng vợ chồng tướng lạc thảo Quảng Tây Woòng Tắc Mềnh - Mẫu Dạ Xoa!
    - Theo dượng, quái vật đười ươi là giống chi, phải ?onó? là người mang lốt thú? Cháu không tin ?onó? là giống quái vật thành tinh. Có thể ?onó? là một kẻ tà đạo giỏi võ, biết thuật dạy thú, mang lốt đười ươi... và mang cả giáp chống đạn bên trong?
    Ông Trần ra dáng trầm ngâm:
    - Dượng không dám khẳng định, tuy điều cháu nói chính dượng cũng từng nghĩ! Chỉ rõ nó cực kỳ lợi hại... quyền cước, súng trường trở thành vô dụng trước nó. Tài nghệ cháu giờ tới mức nào?
    - Cháu được sư mẫu truyền hết võ học của người, giờ có thể lấy đầu người ngoài mấy chục bộ.
    Nàng chúa hồ bình thản đáp vẻ tự tin. Dứt câu, nàng phất vụt tay áo. Một luồng sáng trắng nháng lên bay vút về phía cuối phòng, liếm xoẹt cắt ngang thân cây đuốc cắm trên vách rơi xuống đất tắt phụt, loáng cái nó đảo về nằm gọn trong tay nàng, hiện rõ hình một lưỡi liềm bán nguyệt bằng thép, trắng lạnh.
    Vợ chồng ông Trần thầm rung động kinh phục trước thủ pháp thần tốc của nàng. Nhất là viên tuần phủ, bằng vào kiến thức sau nhiều chục năm lăn lộn trong làng võ, ông hiểu Kiều Loan vừa vận dụng kình lực phô diễn kỹ thuật ?ocách không phi liềm?, một công phu đặc dị chỉ những cao thủ thượng thừa mới luyện nổi.
    - Tuyệt kỹ! Hảo công phu!
    Võ Kiều Loan không để ý lời khen ngợi, tiếp luôn:
    - Cháu còn một môn công khác, hy vọng sẽ hạ được ?onó?, dẫu cho quái vật có mình đồng da sắt! Thôi, dì dượng yên tâm, chuyện đó cháu đủ sức giải quyết! Giờ hãy tính việc trước mắt. Có phải sáng mai, lúc bốn giờ, đại quân của dượng sẽ khởi động?
    Nàng đưa mắt nhìn ông Trần, hỏi. Ông ta không khỏi bối rối trước ánh mắt cô chúa hồ Ba Bể. Nghịch cảnh oái ăm đã đặt hai người vào vị trí đối địch nhau, liệu xử lý cách nào đây? Kiều Loan là thủ lĩnh lục lâm hồ Ba Bể, còn ông kẻ từng dọc ngang vùng vẫy thời trai trẻ, sau đường đời đưa đẩy lại ra làm quan triều đình, dẫu chẳng quá luỵ mình vì bả vinh hoa phú quý nhưng... trách nhiệm ông vẫn là giữ yên vùng trấn nhậm! Tuy nhiên, viên tuần phủ vẫn gật đầu xác nhận.
    - Tin tức của cháu chính xác đấy! Từ nãy giờ dượng đang nghĩ cách hoá giải tình thế hiện nay nhưng... chưa biết tính sao! Có lẽ đã đến lúc dượng rút lui khỏi chốn quan trường đầy phức tạp!
    Võ Kiều Loan tỏ vẻ thông cảm nỗi khổ tâm của ông Trần, hơi mỉm cười nhẹ nhàng bảo:
    - Dượng đừng lo, cháu đã nghĩ đến trường hợp này từ lúc hay tin bọn giám binh Bắc Cạn, Cao Bằng mở cuộc hành quân! Để tránh tình huống phức tạp khó xử cho dượng, cháu đề nghị như vầy...
    Nàng thấp giọng vừa đủ cho ông Trần nghe. Giây lát, viên tuần phủ tươi hẳn nét mặt đứng lên, buông gọn:
    - Giờ đây dượng đi tìm mấy bà Dạ Xoa tới đây, họ đang ẩn ngoài kia! Cháu nên báo cho cha con ông tướng thổ phỉ Quảng Tây ngay thì hơn!
    Ông Trần vọt đi liền. Võ Kiều Loan truyền gái hầu mời riêng cha con tướng lạc thảo Woòng Tắc Mềnh, Woòng Cẩm Tiên đến. Chừng mười lăm phút sau tất cả đều có mặt đầy đủ. Nàng chúa hồ lên tiếng xin lỗi về chuyện xảy ra. Mẫu Dạ Xoa lúc đầu còn hầm hầm giận dữ vì vụ chồng con mụ bị bắt giam, nhưng được ông Trần cùng họ Woòng hết lời khuyên giải, thấy con gái vẫn khoẻ mạnh, lại biết Kiều Loan là con bà áo trắng bị nạn đười ươi năm xưa, mụ mới dịu cơn tam bành thịnh nộ. Nàng chúa hồ cũng kể vắn tắt kế hoạch bàn với ông Trần Hùng về việc đối phó với đạo quan binh. Theo đó, tạm thời trong ít ngày, quân hồ Ba Bể sẽ rút hết vào vùng bí mật, bỏ khu trại ngoài trống không chờ... quan binh đến! Ông Trần sẽ cứu được Dũng, còn bọn đội Đầu Lâu cùng bọn thuộc hạ sẽ được giam riêng... chờ quan binh cứu!
    Nghe dứt, lão tướng lạc thảo Quảng Tây vò râu khen:
    - Hầy à! Kế sách cô chúa đưa ra hay dữ a! Vừa giúp quan Nam tránh khỏi thế kẹt vừa giữ lại chút thể diện cho mấy ông giám binh để họ... hiên ngang kéo quân về! Hay dữ a!
    Võ Kiều Loan quay sang bà dì đang ngồi cạnh Woòng Cẩm Tiên:
    - Cháu sẽ cho người thân tín đưa dì về tư dinh ngoài Cao Bằng! Phần Cẩm Tiên, em sẽ đi cùng lệnh đường lệnh mẫu! Thôi, giờ xin mời mọi người sang phòng bên để gái này dâng chén rượu tạ lỗi cùng chư vị!
    Nàng đứng lên đưa cả bọn sang gian khách sảnh. Từ lúc nào, một bàn tiệc thịnh soạn đã dọn sẵn chờ mọi người...
  10. babelake

    babelake Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2006
    Bài viết:
    422
    Đã được thích:
    0
    Chương 5
    Con trai chúa tể mười vạn núi

    Sông Gầm...
    Một chiều cuối hạ sắp sang thu, trời bắt đầu nổi gió vàng hiu hắt. Mặt trời đang từ từ ngả về phía núi Tây, sương rừng dâng lên. Dòng sông thao thiết chảy, sóng vỗ bờ róc rách, lác đác vài thân cây, vài khóm hoa dại bập bềnh trôi về phía hạ lưu.
    Bến đò rừng chiều nay vắng khách qua sông. Trong cái quán cạnh đó, anh lái đò ngồi hút thuốc tán gẫu chuyện mưa nắng với chị chủ quán. Chị này còn khá trẻ, chừng ngoài ba mươi, dáng đẫy đà, trông cũng duyên dáng khoẻ mạnh. Chốc chốc chị ta lại phá lên cười, hai con mắt lá dăm nheo tít, bộ ngực nở nang rung lên sau lớp áo bó căng. Anh lái đò chừng khoái chí được dịp khoe cái ?oduyên ăn nói? của mình, miệng nói huyên thuyên không ngớt.
    - Thôi, liệu mà về với bu nó! Chiều rồi đây cũng dọn dẹp nghỉ!
    Chị ta mỉm cười, chậm chạp đứng dậy. Anh chàng rít vội một hơi thuốc lào, cười hềnh hệch vẻ tiếc rẻ:
    - Hãy gượm đã nào! Chẳng mấy khi chúng mình rảnh rỗi mà hàn huyên tâm sự như hôm nay!
    - Hứ! Thôi chả nói chuyện với nhà anh nữa! Gớm, tâm với sự...! Liệu mà giữ mồm giữ miệng, ba hoa cho lắm có ngày bu nó xé xác ra ấy! Đừng quên rằng đây cũng là hoa có chủ nhé!
    Chị chủ quán ngúng nguẩy bỏ đi vào trong sau khi nguýt anh lái đò một cái thật dài. Anh ta xách điếu cày lên, khệnh khạng bước ra, vừa đi vừa ngâm ?ocó chồng thì mặc có chồng...?
    Bỗng có tiếng vó câu lóc cóc nổi lên. Anh lái đò hơi nghểnh cổ dòm. Từ xa hai bóng người ngựa thả kiệu băm thong dong phi tới, phút chốc đã dừng trước quán. Đó là hai thiếu nữ, mặc y phục theo lối con gái tân thời thành thị đi du ngoạn. Cô áo trắng cỡi ngựa bạch, cô áo xanh cỡi ngựa hồng, bên yên ngựa đều có giắt súng săn, dao rừng. Cả hai cùng tuyệt đẹp. Nhất là cô áo trắng, mắt phụng hơi xếch, mày ngày dài quá mắt không vẽ, mi cong, mũi dọc dừa, môi cung san hô đỏ như son, ngoài vẻ nhan sắc tuyệt trần còn phảng phất nét uy nghi, cao quý. Nhác trông, anh lái đò thầm đoán hai cô chừng con nhà danh giá miền xuôi lên rừng săn bắn giải trí. Anh ta đon đả mời:
    - Bẩm, rước hai tiểu thư vào quán uống nước ạ!
    Hai cô gái đưa mắt nhìn nhau. Cô áo trắng cất giọng thánh thót hỏi:
    - Giờ còn đò sang ngang không chú?
    Anh lái chỉ tay ra bến, nhanh nhẩu:
    - Dạ còn! Bẩm, chính tôi đưa khách qua sông đây! Hai tiểu thư đi đường xa chắc mệt, xin mời vào nghỉ một lát xuống đò sau!
    Miệng nói tay anh ta nắm lấy dây cương ngựa vẻ ân cần săn đón hết sức. Cô áo trắng quay sang cô áo xanh khẽ gật đầu ra hiệu, nhảy xuống.
    Hai thiếu nữ chọn một bàn cạnh cửa sổ trông ra đường. Chị chủ quán suốt buổi ế hàng đang tính dẹp nghỉ, thấy hai cô khách sang trọng ghé vào, tất tả chạy ra săn đón:
    - Bẩm, hai tiểu thư dùng chi? Quán nhà em có cơm, rượu luôn cả mấy thứ thịt rừng nữa ạ!
    Chị ta kể một loạt. Hai cô ******* mấy món ăn với cơm. Chỉ lát sau tất cả được dọn lên bốc khói thơm lừng. Cô áo trắng cầm đũa bảo cô áo xanh:
    - Ăn đi, Mây! Từ đây đến chỗ có bản làng nghỉ đêm cũng còn xa lắm, hãy ăn no lấy sức!
    - Bẩm chúa Cả...
    Cô áo xanh vừa cất lời, cô áo trắng liền hắng giọng, sửa:
    - Gọi bằng chị!
    - Dạ tại em... quen miệng! Chị tha lỗi!
    - Từ nay em nên ý tứ hơn! Việc giữ kín hành tung lai lịch chúng ta rất cần thiết trong lúc này!
    Thiếu nữ áo trắng chìm lời nhắc bạn đồng hành. Nàng chính là thủ lĩnh hồ Ba Bể Võ Kiều Loan cùng nữ tỳ tướng thân tín Khiên Mây cải trang. Từ sau khi biết rõ cội nguồn thân thế đau thương của mình, nàng thăm mộ phụ thân xong, xếp mọi việc giao quyền cho hai nàng chúa Hai chúa Ba tạm thời chỉ huy thuộc hạ, lên đường truy tìm tông tích quái vật đười ươi chúa. Không muốn thù riêng lụy đến người khác, Kiều Loan cương quyết ra đi một mình, dẫu hai cô em kết nghĩa cũng như bọn ông Trần Dũng, vợ chồng lão tướng lạc thảo Woòng Tắc Mềnh một lòng đòi theo. Mọi người khẩn khoản quá nàng mới đồng ý cho Khiên Mây theo hầu. Hai thầy trò bí mật lên đường tránh gây kinh động ba quân tướng sĩ, Kiều Loan và nàng tỳ tướng mặc y phục màu giống như hai bà Kiều Lan, Kiều Liên trong buổi chiều gặp nạn dữ!
    Hai nàng vừa ăn vừa chuyện trò nho nhỏ. Tít góc trong, anh lái với chị bán quán cũng ngồi tán gẫu tiếp, thỉnh thoảng lại liếc trộm về phía hai cô khách. Anh lái hạ thấp giọng thì thào:
    - Này, đằng ấy xem hai cô này mặt đẹp như tiên, trông ra dáng con nhà giàu có... Sao bạo gan thế nhỉ? Dám cỡi ngựa đi săn trên rừng... Chà, thân gái dặm trường, gặp... chuyện bất trắc như chơi!
    - Gớm! Nhà anh khéo lo, người ta dám xông pha còn ngại gì mấy chuyện vớ vẩn! Cứ trông súng săn, dao rừng thế kia ai cũng biết hai cô chẳng phải tay vừa! Đừng thấy đàn bà con gái mà vội xem thường, cứ như tớ đây, từ thuở bé đã ngược xuôi buôn bán tỉnh nọ, tỉnh kia, mấy năm nay lại mở quán bán hàng ở cái bến đò rừng khỉ ho cò gáy này, tiếp xúc với đủ hạng người mà đã có đứa nào ?onuốt? nổi!
    Chị ta ưỡn ngực về trước, mặt hất lên như thách thức một đối thủ... tưởng tượng nào đó. Anh lái đò vội nở nụ cười cầu tài, lảng sang chuyện khác.
    Lại có tiếng vó ngựa đổ tới lớn dần rồi dừng rập trước quán. Ai nấy ngoảnh trông ra, kỵ sĩ gò cương nhảy xuống, tiến vào. Khách là một chàng trai trẻ, trạc hơn hai mươi, mặc quần áo chàm Thổ, đầu chít khăn nhiễu Tam Giang hình chữ ?oNhân?, nét mặt đẹp rắn rỏi như đá tạc, hai con mắt xếch sáng như tia lửa điện, phát tia nhìn mười phần oai võ, lại thêm cặp súng lục đeo trễ bên sườn khiến kẻ táo tợn nhất nhác trông cũng phải chờn chợn nể vì. Khách lên tiếng hỏi, giọng Kinh sang sảng như chuông đồng hướng về chị bán hàng:
    - Còn chuyến đò ngang nào không, bà chủ?
    - Bẩm, còn! Mời... ?oquan lớn? xơi chén rượu đã. Bẩm hai tiểu thư chốc nữa cũng xuống đò tôi đấy!
    Anh lái xum xoe mời khách vào bàn. Chàng trai nhìn thoáng qua chỗ Võ Kiều Loan, Khiên Mây rồi thản nhiên ngồi xuống.
    Kiều Loan kín đáo quan sát, thấy người khách trẻ cả nhân dáng, cử chỉ thái độ đều biểu lộ một phong cách đặc biệt khác thường. Chàng ta yên lặng ngồi ?ođộc ẩm?, mắt dõi nhìn ra bến sông, vẻ hơi mơ màng không chú ý đến chung quanh, như không hề biết sự có mặt của... hai cô gái đẹp trong quán. Còn về bản lĩnh, bằng kinh nghiệm, dù chỉ mới gặp, nàng biết người áo chàm này là tay cao thủ thượng thừa trong làng võ - động tác, giọng nói và nhất là thần thái chàng trai chứng tỏ rất minh bạch, không thể lầm lẫn!
    - Thưa chị, em đoán ông khách áo chàm kia là một nhân vật phi thường trong giới võ lâm giang hồ!
    Như cùng ý nghĩ với Kiều Loan, Khiên Mây thì thầm nhận xét chàng khách lạ.
    - Đúng vậy! Một tay chọc trời khuấy nước đó! Cứ xem phong thái chàng ta cũng đủ biết!
    Chờ mấy người cơm nước xong, anh lái lên tiếng mời khách xuống thuyền. Kiều Loan, Khiên Mây dắt ngựa xuống trước, chàng áo chàm lững thững theo sau. Chiếc tam bản từ từ rời bến, quay mũi nhấp nhổm trườn sóng. Trời chiều lộng gió, mặt sông bốc hơi nước lành lạnh thoang thoảng mùi bùn.
    Khúc sông nơi đây khá rộng, tít bờ bên kia rặng núi in đậm vào nền trời, chạy vát chếch hướng đông nam. Ngay chân núi là một cánh rừng bạt ngàn tịch mịch.
    Ba người khách cùng thả tầm mắt ngắm cảnh sơn thuỷ bao la, lòng đuổi theo những ý nghĩ riêng tư, không ai bắt chuyện với ai.
    Cánh rừng phía trước mỗi lúc một gần. Thuyền sắp cặp bờ, còn cách chừng vài sải, bỗng ?ođoàng! đoàng!? liền mấy tiếng súng nổ vang, chát chúa. Chim rừng hốt hoảng đập cánh bay lên tứ tán. Từ sau những lùm cây vụt hiện ra một toán người ngựa lố nhố hơn chục tên. Mặt mũi tên nào nom cũng dữ tợn, súng cầm tay chĩa xuống thuyền. Một gã lực lưỡng nhất, mặt diều hâu, râu xồm chổi xể, có một vết thẹo dài vắt ngang trán, múa tít khẩu Pạc hoọc trong tay thúc ngựa tiến lên mấy bước, cất giọng ồm như lệnh vỡ xổ một tràng tiếng Quảng Đông:
    - Lầy Tài Wang đợi chú em đây! Biết điều giơ tay lên! Hà hà!
    Y cười lớn, tay vẫy luôn hai phát sát mạn thuyền. Đạn chíu nước văng tung toé cả lên người chàng áo chàm. Chàng ta từ lúc thấy bọn kia xuất hiện vẫn bình thản không lộ vẻ nao núng, đứng gác một chân lên mũi thuyền hất hàm hỏi:
    - Bọn mi thuộc cánh nào? Muốn gì?
    Gã cầm Pạc hoọc nhướng cao mày vẻ ngạc nhiên trước thái độ chàng trai rồi chừng tự ái, y lại cười thét:
    - Sao? Chú em không biết Lầy đại vương à? Ha Ha! Ông Lầy là tao đây! Tỉu nà!
    Khắp mấy cõi biên thuỳ còn đứa nào không biết oai danh tao!
    - Riêng ta chưa hề nghe tên mi!

Chia sẻ trang này