1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nước Mỹ và Các Giá trị Mỹ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi NgoiSaoDen, 07/06/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Steve Jobs thì tài thật, cuộc đời nhiều thăng trầm, tài sản để lại cuối đời không nhiều.

    Bill Gates, tỷ phú, giàu nhất thế giới chứ gì? Nhưng Bill tài là tài của thằng mại bản, chứ trình gõ code của Bill không bằng thằng bé cấp 3.

    Bill vung tiền nuôi đám gõ code có tài, nhưng như thế cũng không đủ để thành công, mà là Bill mua sạch code của những thằng khác, mang về ghép thành Window, Office bán ở giá độc quyền. Cứ giở lai xăng MS ra nhin cho rõ thấy chi chít lai xăng đi mua.

    Phân biệt cho rõ như thế, chứ đừng nói kiểu họ làm giàu bằng sức lao động và sáng tạo của mình.

    Nói lại cho rõ, Mỹ ngày nay chả có thằng nào làm kỹ thuật đứng đầu cả. Toàn bộ là đi buôn. Mỹ tài nhất là nghề nuôi chó, chó Mỹ nuôi nhung nhúc khắp thế giới, chúng sủa như cái đoạn đậm đỏ bên trên. Nhưng thực tình Mỹ thích loại chó khôn biết ý chủ, chứ cái loại chó ngu sủa như thế, liếm láp chất thải như thế, Mỹ nó đá đuýt, nó thịt sạch. Cứ nhìn Trung Đông bây giờ là rõ, chưa rõ thì nhìn lại Diệm Thiệu đi.
  2. Le_Nam_Phong

    Le_Nam_Phong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2013
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Tư sản mại bản theo định nghĩa của Marx là cá nhân hoặc nhóm thương gia làm trung gian với các thế lực nước ngoài buôn bán tài nguyên, quyền lợi của nhân dân quốc gia để thủ lợi riêng. Tự họ không thể kinh doanh làm giàu theo phương cách tư bản. Họ cần dựa vào thế lực của đế quốc bên ngoài để làm giàu. Bạn nói Bill là thằng mại bản tôi ko hiểu bạn có hiểu mại bản là gì không nữa? Ông ta kinh doanh trong ngành công nghệ chẳng liên quan gì đến tài nguyên và quyền lợi đế quốc ở đây cả. Và quan trọng nhất một CEO không nhất thiết phải là một người giỏi về kỹ thuật (dù tôi nghĩ trình độ về máy tính của ông ta hơn tôi và bạn nhiều) cũng giống như một HLV xuất sắc không nhất thiết phải là 1cầu thủ siêu sao. Một kỹ thuật viên xuất sắc cũng có thể là một quản lý tồi, giống như nhà thơ Tố Hữu đi làm kinh tế vậy.
    Bạn nói Bill Gates là thắng mại bản, còn tôi thấy Bill đã lập ra quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates lớn nhất thế giới và đang đầu tư vào Việt Nam 33,6 triệu USD cho các dự án từ thiện. Link http://www.bmgf-mic.vn/BMGF/AboutUs.aspx
    Đây là box văn hóa, tôi đang bàn luận về vấn đề văn hóa không muốn dính líu đến các vấn đề chính trị. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến các giá trị Mỹ nhất là các giá trị văn hóa Mỹ, những nhân tố đem lại sự hùng mạnh cho đất nước này đáng để Việt Nam học hỏi. Tại sao đất nước ta lịch sử 4000 năm mà luôn luôn đói nghèo, khá lắm thì chỉ đủ ăn, trong khi họ chỉ lập quốc có 300 năm mà giàu nhất thế giới, GDP của họ bằng cả 3 nước đứng sau là Trung Quốc, Nhật và Đức cộng lại gần bằng cả EU, 100 người giàu nhất thếgiới bao giờ cũng có 50% người Mỹ, vậy không đáng để chúng ta học tập sao?
  3. Le_Nam_Phong

    Le_Nam_Phong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2013
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Mark Zuckerberg (sinh ngày 14/05/14) 1 lập trình viên máy tính (1 kỹ thuật viên như bạn nói) hiện có tài sản ~ 14 tỷ USD đứng thứ 14 trong danh sách những người giàu nhất thế giới.
    Barack Obama là 1 người có bố là người Kenya, mẹ là người Mỹ và sống ở Indonesia cho đến năm 20 tuổi mới trở về nước Mỹ và bây giờ ông ta là tổng thống Mỹ.
    Henry Ford là người sáng lập Công ty Ford Motor, là người đã phổ biến ô tô ở nước Mỹ giống như xe máy ở Việt Nam hiện tại, là 1 trong vài người được coi là giàu nhất trong lịch sử là người đã kêu gọi giảm giờ làm cho công nhân từ 9h/ngày xòn 8h/ngày và nâng lương cũng như các chính sách phúc lợi cho công nhân cũng là 1 trong những người đầu tiên không để lại thừa kế cho con cháu mà để lại cho quỹ từ thiện Ford.
    Vua dầu mỏ John Davison Rockefeller, xuất thân một người công nhân làm thuê đào khoai tây mà trở thành Người_giàu_nhất_trong_những_người_giàu_nhất với tài sản ~ 3 tỷ USD vào cái thời mà cả nước Mỹ số người có tiền triệu USD ~ 4-5 người. 40 năm cuối đời ông dùng hết tài sản của mình để làm từ thiện về giáo dục và sức khỏe cộng đồng.
    Vua thép Andrew Carnegie đầu tiên là công nhân, rồi thợ thông nhà xí và người đưa tin. Năm 2007 Forbes ước tính tổng tài sản của ông là 2,3 tỷ USD được coi là người giàu thứ 2 trong lịch sử thế giới.
    10 người giàu nhất trong lịch sử thế giới có 5 người mang quốc tịch Mỹ và đều đi lên từ 2 bàn tay trắng, 5 người còn lại đều là các nhà lãnh đạo như sa hoàng Nicolai II của Nga, hay hoàng đế Basil II của đế quốc Đông La Mã...
    1 đất nước mà con 1 người nhập cư từ Kenya có thể trở thành Tổng thống, 1 người dưới 30 tuổi có thể trở thành tỷ phú mà không phải do thừa kế, 1 người công nhân, 1 người thợ thông hố xí...có thể trở thành giàu nhất thế giới, đó không phải là các giá trị Mỹ đáng để ta học hỏi sao?
    Tôi đã từng là 1 Anti-Fan của nước Mỹ, khi Mỹ tấn công Iraq tôi cũng đã từng tham gia cùng hội sinh viên biểu tình trước ĐSQ Mỹ tại Hà Nội. Nhưng sau này khi trưởng thành hơn, đọc nhiều sách báo về nước Mỹ và các giá trị Mỹ tôi rất khâm phục dân tộc này và mong mọi người có dịp hãy thử tìm hiểu về đất nước này. Họ có rất nhiều các giá trị kinh điển đáng để ta học tập giống như sự khiêm tốn, tinh thần học hỏi không ngừng và ý chí kiên cường của Người Nhật hay tinh thần kỷ luật và tính tổ chức của người Đức...đã đem lại cho dân tộc họ sự phồn thịnh.
    Đối với cá nhân tôi điểm nổi bật trong văn hóa Mỹ đó là họ đã tạo ra 1 "Giấc mơ Mỹ" : "Giấc mơ Mỹ là giấc mơ của một vùng đất mà ở đó cuộc sống đáng tốt đẹp hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho mọi người. Ở đó mỗi người có cơ hội theo khả năng hoặc thành tựu của mình. Đấy là một giấc mơ khó khăn cho tầng lớp thượng lưu châu Âu diễn giải đầy đủ, và cũng thật khó khăn cho tất cả chính chúng ta những người càng ngày ngờ vực và không tin tưởng vào nó. Nó không phải là một giấc mơ về các loại xe hơi hay đơn thuần là tiền lương cao, nhưng là một giấc mơ về trật tự xã hội mà trong đó mọi đàn ông và đàn bà sẽ có thể đạt được tầm vóc đầy đủ cái khả năng bẩm sinh của mình, và được những người khác công nhận họ vì những gì của chính họ, không phân biệt môi trường hoàn cảnh sinh ra hay địa vị ngẫu nhiên của họ." Trích Epic of America của tác giả James Adams.
  4. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Lạy hồn!!! Mỹ mà khiêm tốn á? Em hiền rõ là chưa từng gặp thằng Mỹ nào rồi.
  5. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Tôi vẫn thấy quan tham, trộm cướp đi làm từ thiện. Đi đông là khác.

    Em nó bao giờ hết ngây thơ trong trắng nhể? Thời nay mà thế, ra đường thế nào cũng bị hiế p.
  6. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Em yiu anh Zúc bớt Zionist, anh tài năng vĩ đại chả kém gì Zion Anhxtanh!!!

    Lạy thánh mớ bái, em lạy 3 lạy!!! Em mơ ngày mai được như anh Zúc, ngày kia mơ hết, cái máng lợn sứt mẻ lại hiện ra lù lù trước mặt em.


    Facebook là gì? là Mạng xã hội. Nó được thiết kế để user nhanh chóng kết thành nhóm, thành hội có chung sở thích, chung ý kiến hay quan điểm...

    Cách thiết kế như vậy vô hình chung tạo điều kiện dễ dàng tìm thấy thứ mình thích, hội mình cần trên Facebook. Chẳng hạn, một người yêu hoa từ xa đến có thể dễ tìm cho mình loại hoa ưa thích. Cũng đúng như thế với 1 tay X nào đó.

    Điều đó dĩ nhiên cũng dễ để cho Big Brother Is Watching!

    Big Brother là tên một game show ăn khách ở Mỹ, nhưng bây giờ nó có nghĩa khác: Ông lớn đang bí mật theo dõi bạn! Chẳng hạn như bê bối NSA hay ở đây.

    [​IMG]


    Xin chào mừng đến FaceBook.com!

    Xuất xứ ban đầu, mạng xã hội Facebook là một phương thức để duy trì liên lạc giữa các sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng ở Mỹ. Tuy nhiên, ngay lập tức mạng xã hội này đã bị CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ lợi dụng để phục vụ các mục đích chính trị và quân sự của họ.

    Trước hết, CIA sử dụng Facebook để tuyển mộ nhân viên phục vụ cho một cơ quan có chức năng rất đặc biệt, có tên là “Cục an ninh quốc gia” hay An ninh nội địa NSA. Để xem thông tin quảng cáo tuyển người vào “làm việc” cho cơ quan này, những người quan tâm cần khai báo một số thông tin về cá nhân và đăng ký mật khẩu vào mạng Facebook. Còn nếu ai không đăng ký hồ sơ cá nhân trên Facebook, hoặc sợ bị các điệp viên của CIA theo dõi, thì có thể xem thông tin quảng cáo về công việc trên trang Web của tổ chức này trên mạng Internet.

    Hãy tưởng tượng dữ liệu máy tính theo dõi toàn bộ mạng xã hội của người ta: email, địa chỉ nhà ở, và các chi tiết nhạy cảm của tất cả các bạn bè của người ta, và do đó, theo dõi toàn bộ bạn bè của người ta trong một trang web liên kết với nhau. Nếu dịch vụ này cũng lưu trữ tất cả các sở thích cá nhân, tất cả mọi thứ từ sách tới phim ảnh và âm nhạc? Và nếu nó cũng phân loại quan điểm của người ta về chính trị, các hội hay câu lạc bộ người ta tham gia, công việc trước đây, học vấn, và ai là người đang được hẹn hò?

    Làm thế nào đó nếu những thông tin này có sẵn không chỉ để chính phủ Mỹ sử dụng hay thậm chí những dịch vụ xã hội, an ninh nào đó? Nghe rất đen tối nhưng hoàn toàn có thực. Không còn là chuyện của mấy thợ đào mỏ dữ liệu cá nhân như ChoicePoint hoặc Axciom nữa.

    Facebook được thành lập bởi 3 sinh viên của cái ổ ngầm CIA nổi danh Harvard University. Theo câu chuyện chính thức, để Facebook có thể hoạt động được thì cần có đầu tư. Giai đoạn đầu, cựu chủ tịch hãng Paypal là Peter Thiel, đầu tư cho Facebook khoảng 500.000 USD. Nhưng yên tâm, đứng sau Facebook là cả cái phố Uôn hùng mạnh.

    Peter Thiel là thành viên của tổ chức của một nhóm bảo thủ cực đoan mang tên “VanguardPAC”. Thiel cũng là một cựu bình luận của tờ Wall Street Journal, tốt nghiệp ĐH Stanford, nơi là cái tổ nghiên cứu máy tính của NSA và dự án kiểm soát trí não của CIA như MK Ultra. Hắn ta cũng công khai mình là tân diều hâu, theo chủ nghĩa toàn cầu hóa globalist và có cuốn sách 'The Diversity Myth' nhận được lời khen ngợi từ William Kristol, Christopher Cox, Edward Meese, và Linda Chavez (cả một ổ toàn Do Thái). Cá nhân Thiel từng hiến tặng $21.200 cho chiến dịch tranh cử của Arnold Schwarzenegger vào chức thống đốc.

    [​IMG]

    Giai đoạn tiếp theo, Facebook được hãng đầu tư mạo hiểm “Accel Partners” cấp vốn khoảng 12.7 triệu USD. Quản lý Facebook là James Breyer, chủ tịch Hiệp hội đầu tư mạo hiểm và là chủ tịch hãng “In-Q-Tel”, một hãng đầu tư mạo hiểm do CIA thành lập vào năm 1999. Một trong những lĩnh vực quan trọng của In-Q-Tel là công nghệ thu thập thông tin vì “lợi ích an ninh mạng” và mục tiêu xa hơn, tìm kiếm “tiểu sử các điệp viên”. In-Q-Tel đã làm những việc chính xác như Facebook đang làm vào lúc này. James Breyer còn tham gia ban điều hành một hãng chuyên về nghiên cứu khoa học có tên là “BBN Technologies”- một trong những tổ chức chịu trách nhiệm về việc xây dựng mạng thông tin toàn cầu Internet trong những bước sơ khai đầu tiên.

    Tiến sĩ Anita Jones, một trong những thành viên điều hành “In-Q-Tel” là giám đốc phụ trách các công trình nghiên cứu khoa học quân sự của Bộ Quốc phòng Mỹ. Anita Jones còn là cố vấn của bộ trưởng BQP Mỹ và chỉ đạo một tổ chức mang tên “Cục quản lý các công trình nghiên cứu khoa học quốc phòng có triển vọng”, viết tắt là DARPA (Defense Advanced Research Projects Agency), chuyên chịu trách nhiệm về các công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực công nghệ cao phục vụ các mục đích quân sự có ý nghĩa chiến lược quốc gia. Trong DARPA có một cơ quan đặc biệt, mang tên “Ban sở hữu thông tin”, liên quan mật thiết với Facebook.

    Sau khi tất cả, những cách gì là tốt hơn để do thám các nhà hoạt động sing viên tiềm năng và cấp tiến hơn một chương trình trông như có vẻ hoàn toàn vô hại? Facebook đã phân loại người sử dụng theo thang điểm từ “rất tự do” đến “rất bảo thủ” cho phép tạo ra hồ sơ cho chính phủ dễ dàng.

    Ngoài ra, họ có thể tìm kiếm bất cứ ai liệt kê những “từ khóa sai”, ví dụ như “vô chính phủ”, “phản đối” “New World Order” hoặc bất kỳ tội phạm suy nghĩ nào khác. Và với một nút bấm, họ có hình ảnh, địa chỉ của bạn, tên và tất cả thông tin của tất cả các bạn bè của bạn.

    Sau khi một nhà báo tiết lộ về hoạt động mờ ám của Ban sở hữu thông tin của DARPA, dư luận xã hội bắt đầu tỏ ra lo ngại về các hoạt động thu thập thông tin của ban này. Mục đích của Ban sở hữu thông tin là thu thập càng nhiều thông tin càng tốt về từng con người vào một đầu mối để chính phủ Mỹ nghiên cứu. Dữ liệu mà Ban sở hữu thông tin thu thập rất đa dạng, từ hoạt động trên mạng Internet, việc mua sắm hàng ngày thông qua các thẻ tín dụng, các lần mua vé máy bay, thuê xe ô tô, hồ sơ về sức khỏe, kết quả học tập trong các trường đại học, bằng lái xe, các dịch vụ công cộng, mức thuế thu nhập v.v. Nghĩa là bất kỳ thông tin nào liên quan đến từng con người.

    Con quỉ khoác bộ lông cừu Facebook đang dẫn đầu đội tiên phong của "người dùng thân thiện" Big Brother nhắm mục tiêu những thanh niên trẻ, đặc biệt trong giới đại học và trung học. Trong khi giả vờ là một dịch vụ vô hại và vui vẻ, Facebook đột nhập vào hồ sơ tâm lý, nơi những kẻ do thám muốn biết mọi chi tiết của cuộc sống con người ta và theo dõi vị trí của người ta mọi lúc mọi nơi. Thật không may, điều này là một phần của một kế hoạch lớn hơn giám sát học sinh. AOL, một công ty đã thừa nhận bàn giao email và nhật ký web cho FBI và NSA, đã công bố một chính sách bảo mật mới cho chương trình chát chít phổ biến AIM. Trong đó nói: "Bạn từ bỏ mọi quyền riêng tư". Liên đoàn Quyền tự do dân sự vì người tiêu dùng ngay lập tức cảnh báo rằng tất cả các cuộc trò chuyện của người ta có thể bị khai thác bởi AOL, trong đó sử dụng một con mắt khiểu giáo phái Khai sáng (Illuminati) như là logo. Nhưng có rất nhiều chương trình MTV để xem và rất nhiều bài hát Britney Spears để nhớ, có vẻ như chỉ ít người lắng nghe điều này.

    Chính vì việc thu thập thông tin mờ ám này của Ban sở hữu thông tin mà các thành viên thuộc tổ chức đấu tranh vì quyền dân sự Mỹ đã yêu cầu Quốc hội Mỹ điều tra về hoạt động của DARPA. Từ đó, Ban sở hữu thông tin đã không được Quốc hội Mỹ cấp kinh phí. Vì thế, CIA quay sang sử dụng Facebook như một chiếc mặt nạ mới nhằm che đậy mục đích và hoạt động của Ban sở hữu thông tin.

    Trong số các công nghệ mà Ban sở hữu thông tin sử dụng là phân tích thông tin từ các mạng xã hội và các cơ chế hình thành mô hình ứng xử. Để làm được việc đó cần phải thu thập một khối lượng thông tin khổng lồ và được xử lý theo đúng mục đích. Facebook là mạng xã hội có thể đáp ứng mọi yêu cầu để thực hiện đề án này. Trong hợp đồng sử dụng Facebook có ghi rõ: "Một khi đưa thông tin cá nhân của bất kỳ thành viên nào vào một bộ phận nào của trang web, thành viên đó có quyền sử dụng, sao chép, phổ biến thông tin do Facebook trả phí. Facebook có thể thu thập thông tin về các thành viên tham gia từ các nguồn khác, như các báo, blog, dịch vụ truyền thông tức thời, cũng như từ những thành viên khác sử dụng dịch vụ Facebook, để cung cấp cho các thành viên tham gia những thông tin bổ ích và có thể sử dụng vào mục đích cá nhân. Chấp nhận tham gia Facebook, cũng có nghĩa là các thành viên đã đồng ý để các dữ liệu về họ được truyền đi và được xử lý ở Mỹ".

    Rất ít người ý thức được sự nguy hiểm của thông báo liên kết của họ với thế giới trên Facebook.

    Facebook không có gì hơn là chương trình phản gián điệp COINTELPRO với cách trình bày bóng bẩy. Nó là một phần của một thể loại mới trong mạng lưới gián điệp được thiết kế cho cấu hình sinh viên cho giai đoạn tiếp theo của thiết quân luật. Tất nhiên với các mạng Echelon đã theo dõi tất cả các cuộc gọi điện thoại và email, những người vì công lý và sự thật như Edward Snowden sẽ thực sự chẳng còn chỗ nào để trốn. Vì vậy, khi ai đó sử dụng Facebook như một thứ có ích cho mình. Kẻ đó đã liệt kê bản thân như một kẻ "rất bảo thủ” trong thư viện Dan Quayle với một thiên hướng cho cuốn sách của Oliver North. Sau khi tất cả, có lẽ kẻ đó đã gõ một từ khóa đúng và vô hình chung CIA sẽ tuyển dụng kẻ đó như một điệp viên mới.

    Màn phát hành IPO Facebook là cả một vở xiếc khôi hài, gương mặt non choẹt và mới tinh Facebook được định giá tỷ tỷ đô la xếp trên toàn bộ những nhà mạng già đời nhất. Còn hơn cả “mặt tiền” tiến sĩ nguyên tử Oppenhaymer, bây giờ cũng cần đến cái MẶT TIỀN bóng bẩy, Mark Zuckerberg là kẻ phù hợp, trẻ trung, tân thời, nụ cười cởi mở thường trực, bằng Harvard, cùng chỗ với ông cao đẳng bổ túc Vinhempic, đại học tại chức Harvard xứ ta. Hắn ta rong chơi, tiếp thị, đánh bóng hình ảnh Facebook với cái túi tỷ phú đầy tiền mà chẳng cần phải biết viết bất cứ dòng codes chương trình nào, chẳng cần biết quản trị gì hết. Anh ấy trẻ trung, giàu có, thiên tài vĩ đại CEO Facebook đấy, các em các cháu ráng mà học tập.

    [​IMG]

    Nguồn: thu thập trên mạng;
  7. Le_Nam_Phong

    Le_Nam_Phong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2013
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    @Le Nam Phong: hơi đâu mà đi cải với mấy anh CAM. Cơm áo mà.
  9. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
  10. Le_Nam_Phong

    Le_Nam_Phong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2013
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Haizzzz, tranh luận với CAM thật mất thời gian. Giờ không tham gia tranh luận nữa mà viết về một vĩ nhân của Hợp Chủng Quốc, cha già của nước Mỹ: George Washington.
    George Washington (22 tháng 2, 1732 – 14 tháng 12, 1799) là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797). Phong cách lãnh đạo của ông đã có ảnh hưởng đến thể thức và lễ nghi cho chính quyền mà được sử dụng từ đó cho đến nay, thí dụ như dùng một hệ thống nội các và buổi đọc diễn văn nhậm chức. Với tư cách là tổng thống, ông đã xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ và giàu tài chính mà đã tránh khỏi chiến tranh, dập tắt nổi loạn và chiếm được sự đồng thuận của tất cả người Mỹ. Ông hiện nay được biết như vị cha già của nước Mỹ.
    Ông có một viễn tưỡng về một quốc gia hùng mạnh và vĩ đại, xây dựng trên những nền tảng của nền cộng hòa, sử dụng sức mạnh của liên bang. Ông tìm cách sử dụng chính phủ cộng hòa để cải thiện hạ tầng cơ sở, mở rộng lãnh thổ phía tây, lập ra một trường đại học quốc gia, khuyến khích thương mại, tìm nơi xây dựng lên một thành phố thủ đô (sau này gọi là Washington, D.C.), giảm thiểu những sự căng thẳng giữa các vùng và vinh danh tinh thần chủ nghĩa quốc gia. Ông nói "Cái tên người Mỹ" phải xóa bỏ bất cứ những liên hệ ràng buộc nào mang tính cách địa phương.[5] Khi mất, Washington được táng tụng như là "người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên trong lòng dân tộc của ông".[6] Những người theo chủ nghĩa liên bang đã coi ông như là biểu tượng của đảng nhưng những người theo chủ nghĩa Jefferson trong nhiều năm trời vẫn tiếp tục không tin vào ảnh hưởng của ông và cố tìm cách trì hoãn xây dựng tượng đài Washington. Với tư cách là nhà lãnh đạo cách mạng thành công đầu tiên chống lại một đế quốc thuộc địa trong lịch sử thế giới, Washington đã trở thành một hình tượng quốc tế đối với phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa quốc gia. Chủ nghĩa biểu tượng của ông đặc biệt gây âm vang tại Pháp và châu Mỹ Latin.[7] Các học giả lịch sử luôn xếp ông là một trong số hai hoặc ba vị tổng thống vĩ đại nhất.
    Cuộc đời lúc thiếu thời (1732–1753)[sửa]

    Là con đầu lòng của Augustine Washington (1694–1743) và người vợ thứ hai, Mary Ball Washington (1708–1789), George Washington sinh ra trong trang trại Pope's Creek gần nơi ngày nay là Colonial Beach trong Quận Westmoreland, Virginia. Theo lịch ****** (có hiệu lực vào lúc đó), Washington sinh ngày 11 tháng 1 năm 1731; theo lịch Gregory, sử dụng tại Anh và các thuộc địa thì ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732.[8][9][Ghi chú 1] Tổ tiên của Washington đến từ Sulgrave, Anh; ông cố của ông là John Washington di cư đến Virginia năm 1657. Có ý kiến cho rằng: George Washington và Nữ hoàng nước Anh Elizabeth II có chung tổ tiên.[10] [11] Cha của ông, Augustine là một nhà trồng thuốc lá có sở hữu người nô lệ. Cha ông sau này có thử thời vận với nghề khai quặng sắt.[12] Thời George còn trẻ, gia đình ông là những thành viên khá giả thuộc tầng lớp quí tộc nhỏ tại Virginia, ở vào cấp bậc trung lưu hơn là một trong những gia đình hàng đầu.[13]
    Sáu trong số các anh chi em của ông lớn lên đến tuổi trưởng thành trong đó có hai người anh cùng cha khác mẹ, Lawrence và Augustine, từ cuộc hôn nhân đầu tiên của cha ông và Jane Butler Washington. Bốn anh chị em ruột của ông là Samuel, Elizabeth (Betty), John Augustine và Charles. Ba anh chị em khác mất trước khi trưởng thành: em gái ruột, Mildred chết lúc một tuổi,[14] người anh trai khác mẹ mất khi còn sơ sinh[15] và người chị khác mẹ Jane chết lúc 12 khi George hai tuổi.[14] Cha của George qua đời khi ông 11 tuổi. Người anh khác mẹ của George là Lawrence sau đó trở thành người cha thay thế và cũng là mẫu người George noi gương. William Fairfax, cha vợ của Lawrence và là người anh em họ với địa chủ lớn nhất Virginia, Thomas Fairfax cũng có ảnh hưởng lớn đối với ông. Washington dành nhiều thời gian lúc còn bé ở nông trại Ferry trong Quận Stafford gần Fredericksburg. Lawrence Washington thừa hưởng gia sản khác của cha, đó là một đồn điền nằm trên bờ sông Potomac mà sau này ông đặt tên là Mount Vernon. George thừa hưởng nông trại Ferry ngay khi cha ông qua đời, và dần sau đó nhận thừa kế Mount Vernon sau khi Lawrence qua đời.[16]


    Lúc 16 tuổi, Washington vẽ họa đồ thị sát thực tế cánh đồng turnip của anh trai khác mẹ, Lawrence ở Mount Vernon.
    Cái chết của cha khiến cho ông mất cơ hội vượt Đại Tây Dương để nhận sự giáo dục tại Trường Appleby của Anh như những người anh trai của mình đã từng làm. Ông đi học tại Fredericksburg cho đến tuổi 15. Mong muốn gia nhập Hải quân Hoàng gia không thành hiện thực sau khi mẹ ông biết nó rất là khó khăn cho ông.[17] Nhờ mối liên hệ của Lawrence với gia đình quyền lực ở Fairfax nên vào năm 17 tuổi, George trở thành thanh tra quận Culpeper vào năm 1749. Đây là 1 công việc trả lương hậu đã giúp cho ông mua được đất đai trong thung lũng Shenandoah, đây cũng là lần đầu tiên trong số nhiều vụ mua đất đai của ông tại Tây Virginia. Cũng phải nói là nhờ đến sự có mặt của Lawrence trong Công ty Ohio, một công ty đầu tư đất đai được tài trợ bởi những nhà đầu tư tại Virginia và nhờ vào vị trí của Lawrence trong vai trò tư lệnh địa phương quân Virginia nên George được phó thống đốc mới của Virginia là Robert Dinwiddie chú ý đến. Washington khó mà bị lọt ra khỏi tầm mắt của người khác: cao 6 ft 2 inche (188 cm; ước tính về chiền cao của ông có thay đổi), ông cao hơn đa số người đương thời của ông.[18]
    Năm 1751, Washington cùng đi Barbados với Lawrence, người mắc phải bệnh lao, với hy vọng rằng khí hậu sẽ có lợi cho sức khỏe của Lawrence. Washington mắc phải bệnh đậu mùa trong chuyến đi này khiến cho khuôn mặt của ông có ít nhiều vết thẹo nhưng đã giúp cho ông miễn nhiễm với căn bệnh độc này về sau.[19] Sức khỏe của Lawrence không cải thiện: ông quay về Mount Vernon và mất ở đó năm 1752.[20] Vị trí lãnh đạo địa phương quân Virginia của Lawrence chia thành bốn chức vụ sau khi ông mất. Washington được Thống đốc Dinwiddie bổ nhiệm làm một trong bốn vị trí mới đó vào tháng 2 năm 1753 với cấp bậc thiếu tá trong địa phương quân Virginia.[21] Washington cũng gia nhập Hội Tam Điểm tại Fredericksburg vào lúc đó.[22]
    Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp (1754–1758)[sửa]

    Bài chi tiết: George Washington trong Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp


    Bản đồ năm 1754 của Washington biểu thị sông Ohio và khu vực xung quanh
    Năm 1753, người Pháp bắt đầu mở rộng tầm kiểm soát quân sự của họ vào "Xứ Ohio", một lãnh thổ cũng bị các thuộc địa của Anh là Virginia và Pennsylvania tuyên bố chủ quyền. Cuộc tranh chấp chủ quyền này đã dẫn đến một cuộc chiến tranh mà các thuộc địa gọi là Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp (French and Indian War) từ năm 1754–1762. Chiến tranh này đã góp phần khởi sự Chiến tranh 7 năm trên toàn cầu (1756–63). Washington ở tâm điểm của cuộc chiến này khi mới vừa bùng nổ. Công ty Ohio, một cỗ xe mà qua đó các nhà đầu tư người Anh có kế hoạch mở rộng vào lãnh thổ này, đang mở mang những khu định cư mới và xây dựng các trạm mậu dịch để buôn bán với người bản thổ Mỹ. Thống đốc Dinwiddie nhận lệnh từ chính phủ Anh cảnh cáo người Pháp về chủ quyền của Anh tại đó. Ông phái Thiếu tá Washington vào cuối năm 1753 giao một bức thư thông báo đến người Pháp về những tuyên bố chủ quyền của Anh và yêu cầu người Pháp rời bỏ lãnh thổ này.[23] Washington cũng đến gặp mặt Tanacharison (cũng còn được gọi là "Half-King") và các lãnh tụ khác của người bản thổ Iroquois đang liên minh với Virginia tại Logstown để nhận sự ủng hộ của họ trong trường hợp có xung đột với người Pháp; Washington và Tanacharison trở thành bạn bè và đồng minh. Washington giao lá thư cho tư lệnh địa phương Pháp nhưng ông này từ chối một cách lịch sự là không rời bỏ lãnh thổ này.[24]
    Thống đốc Dinwiddie phái Washington trở lại Xứ Ohio để bảo vệ một nhóm nhân viên của Công ty Ohio đang xây dựng một pháo đài tại nơi mà ngày nay là Pittsburgh, Pennsylvania. Nhưng trước khi ông đến nơi thì một lực lượng Pháp đã đuổi các nhân viên làm việc của công ty ra khỏi khu vực này và họ bắt đầu xây dựng Đồn Duquesne. Một nhóm nhỏ quân Pháp do Joseph Coulon de Jumonville chỉ huy bị Tanacharison và một ít chiến binh của mình phát hiện ở phía đông khu vực mà ngày nay là Uniontown, Pennsylvania. Cùng với các đồng minh người bản thổ Mingo, Washington và một số đơn vị địa phương quân của mình liền phục kích người Pháp. Những gì thật sự đã xảy ra trong lúc và sau trận đánh vẫn còn gây nhiều tranh cãi nhưng kết quả ngay sau đó là Jumonville bị trọng thương trong cuộc tấn công đầu tiên và rồi bị giết chết... chẳng biết có phải là bị Tanacharison lạnh lùng chém bằng một lưỡi rìu hay do bị một người nào đó đứng gần đó dùng súng bắn chết khi vị sĩ quan bị thương này ngồi bên cạnh Washington - cả hai nghi vấn này đều hoàn toàn không rõ ràng.[25][26] Người Pháp phản ứng trả đũa bằng một cuộc tấn công và bắt Washington tại Đồn Necessity vào tháng 7 năm 1754.[27] Tuy nhiên, Washington được phép quay trở về Virginia cùng với binh sĩ của mình. Sử gia Joseph Ellis kết luận rằng tình tiết trận đánh này đã chứng tỏ sự can đảm, thế chủ động, sự hăng say chiến đấu nhưng chưa có kinh nghiệm của Washington.[28] Những sự kiện này có những hậu quả quốc tế; người Pháp tố cáo Washington ám sát Jumonville vì họ cho rằng Jumonville đang thực hiện một sứ mệnh ngoại giao.[28] Cả Pháp và Anh sẵn sàng lâm chiến để tranh giành kiểm soát vùng này và họ đã đưa quân đến Bắc Mỹ năm 1755; chiến tranh được chính thức tuyên bố vào năm 1756.[29]
    Tai họa Braddock năm 1755[sửa]
    Năm 1755, Washington là phụ tá cao cấp người Mỹ của tướng Anh Edward Braddock trong một cuộc viễn chinh xấu số ở Monongahela. Đây là đoàn quân viễn chinh lớn nhất của Anh đến các thuộc địa Bắc Mỹ, và có ý định đánh đuổi người Pháp ra khỏi Xứ Ohio. Người Pháp cùng với các đồng minh người bản thổ Mỹ phục kích và Braddock bị tử thương trong trận Monongahela. Sau khi bị thiệt hại nặng nề về quân số, quân Anh rút chạy tán loạn; tuy nhiên, Washington cưỡi ngựa chạy quanh trận địa nhằm khích lệ và động viên tàn quân Anh và địa phương quân Virginia rút lui có tổ chức.[30]
    Tư lệnh Trung đoàn Virginia[sửa]


    Bức tranh vẽ năm 1772 của Peale mô tả Washington trong cấp bậc đại tá của Trung đoàn Virginia. Đây là chân dung xưa nhất của Washington mà người ta biết đến
    Thống đốc Dinwiddie thăng chức Washington năm 1755 lên cấp bậc "Đại tá Trung đoàn Virginia và Tổng tư lệnh tất cả các lực lượng được tuyển mộ để bảo vệ Thuộc địa của Nhà vua" và giao phó cho ông nhiệm vụ bảo vệ biên cương Virginia. Trung đoàn Virginia là đơn vị quân sự toàn thời gian đầu tiên của người Mỹ tại các thuộc địa (đối ngược lại là các đơn vị chính quy người Anh và các đơn vị địa phương quân người Mỹ bán thời gian). Washington được lệnh "hành động tự vệ hay phản công" bất cứ khi nào ông nghĩ là tốt nhất.[31] Trong lúc làm tư lệnh của một ngàn binh sĩ, Washington là một sĩ quan có kỉ luật, luôn chú trọng vào việc huấn luyện. Ông lãnh đạo các binh sĩ của mình trong những chiến dịch tàn bạo chống người bản thổ Mỹ tại miền Tây; trong 10 tháng, các đơn vị thuộc trung đoàn của ông đã đánh 20 trận, và mất khoảng 1/3 quân số. Những nỗ lực chiến tranh hăng say của Washington có ý nghĩa quan trọng rằng dân chúng ở biên cương của Virginia chịu đựng thiệt hại ít hơn so với các thuộc địa khác; Ellis kết luận rằng "đây là thành công không được nhắc đến duy nhất của ông" trong cuộc chiến.[32][33]
    Năm 1758, Washington tham gia vào cuộc viễn chinh Forbes nhằm chiếm Đồn Duquesne. Ông sượng sùng vì một vụ đánh nhầm khi đơn vị của ông và một đơn vị Anh tưởng lầm nhau là người Pháp và nổ súng. Kết quả có 14 người chết và 26 người bị thương trong vụ đó. Washington không tham dự vào bất cứ trận đánh lớn nào khác trong cuộc viễn chinh đó. Người Anh ghi được một chiến thắng chiến lược lớn bằng việc giành quyền kiểm soát Thung lũng Ohio khi người Pháp rút bỏ đồn. Theo sau cuộc viễn chinh, Washington từ chức khỏi Trung đoàn Virginia vào tháng 12 năm 1758. Ông không trở về đời sống quân nhân cho đến khi cuộc cách mạng bùng nổ vào năm 1775.[34]
    Những bài học đã nghiệm qua[sửa]
    Tuy Washington chưa bao giờ được vào biên chế lục quân Anh mà ông mong ước nhưng trong những năm tháng chiến tranh đó, người thanh niên này đã tích lũy những kỹ năng về lãnh đạo, chính trị và quân sự quí giá.[35] Ông luôn tiếp cận quan sát các chiến thuật quân sự của người Anh, nắm bắt và hiểu rõ các điểm yếu và điểm mạnh của người Anh. Điều này đã được chứng minh là vô giá trong suốt cuộc Cách mạng Mỹ sau này. Ông chứng tỏ là một người can đảm và kiên cường trong những tình huống cực kỳ khó khăn nhất trong đó có các vụ tai biến và tháo lui. Ông đã phát triển ra một phong cách chỉ huy: đem hết sức lực, khả năng chịu đựng và sự dũng cảm của mình vào trận chiến. Đối với các chiến sĩ của mình, ông xuất hiện như một vị chỉ huy tự nhiên và họ tuyệt đối tuân lệnh ông mà không thắc mắc điều gì.[36][37] Washington học cách tổ chức, huấn luyện và kỷ luật các đơn vị trung đoàn và đại đội của mình. Qua đọc sách, quan sát và các cuộc trò chuyện với những sĩ quan nghiệp vụ, ông học được những căn bản về chiến thuật chiến trường cũng như hiểu rõ các vấn đề tổ chức và tiếp vận.[38] Ông hiểu biết tổng thể về chiến lược, đặc biệt là việc tìm ra những địa điểm địa lý chiến lược.[39] Sử gia Ron Chernow có ý kiến rằng vì Washington chán nản khi thương nghị với các viên chức chính phủ trong suốt cuộc xung đột nên ông đã tán thành những lợi ích của một chính phủ quốc gia mạnh mẽ với một cơ quan hành chính mạnh mẽ để có thể đạt được kết quả;[40] các sử gia khác có chiều hướng gán ghép ông có thái độ này đối với chính phủ khi ông phục vụ Chiến tranh Cách mạng Mỹ sau này.[Ghi chú 2] Ông nảy sinh một ý tưởng rất tiêu cực về giá trị của địa phương quân. Coi họ có vẻ không đáng tin cậy, rất bất kỉ luật, và chỉ phục vụ rất ngắn hạn khi so sánh với quân chính quy.[41] Mặt khác, kinh nghiệm chỉ huy của ông có giới hạn nhiều nhất là 1 ngàn binh sĩ và chỉ ở những địa hình biên cương xa xôi khắc hẳn với những tình thế đô thị mà ông đối diện trong suốt cuộc cách mạng ở các thành phố Boston, New York, Trenton và Philadelphia.[42]
    Thời kỳ giữa các cuộc chiến tranh: ở Mount Vernon (1759–1774)[sửa]



    Một bức tranh được in lại mang hình ảnh Martha Washington, dựa theo bức họa năm 1757 của họa sĩ John Wollaston
    Ngày 6 tháng 1 năm 1759, Washington kết hôn với một quả phụ giàu có tên Martha Dandridge Custis. Các bức thư còn sót lại cho thấy rằng ông có thể đang yêu Sally Fairfax, vợ của một người bạn vào lúc đó.[43] Dù vậy, George và Martha rất xứng đôi vì Martha thông minh, duyên dáng, và có kinh nghiệm điều hành một đồn điền có nô lệ phục vụ.[44] Cả hai cùng nuôi hai đứa con của bà với người chồng quá cố là John Parke Custis và Martha Parke Custis, được gia đình gọi thân mật là "Jackie" và "Patsy". Sau đó gia đình Washington nuôi hai trong số các cháu của bà Washington là Eleanor Parke Custis và George Washington Parke Custis. George và Martha Washington không có con cái chung — căn bệnh đậu mùa của ông vào năm 1751 có thể đã khiến cho ông không thể có con. Vì kiêu hãnh nên Washington không thể nào thừa nhận rằng minh không thể có con nhưng lúc riêng tư ông cảm thấy chán nản vì không thể có con.[45] Cặp vợ chồng mới cưới dời về Mount Vernon gần Alexandria nơi ông sống cuộc đời của một người trồng trọt và một khuôn mặt chính trị.
    Cuộc hôn nhân của Washington với Martha đã làm gia tăng tài sản và địa vị xã hội của ông rất lớn lao. Ông trở thành một trong số những người giàu có nhất Virginia. Ông được một phần ba trong số 18.000 mẫu Anh (73 km²) điền sản của gia đình vợ ngay sau khi kết hôn, đáng giá khoảng $100.000 và quản lý phần điền sản còn lại cho con của Martha, những đứa con riêng của vợ mà ông chân thành chăm sóc.[46] Ông thường mua thêm đất và cũng được cấp phát đất ở vùng bây giờ là Tây Virginia như là tặng phẩm dành cho công lao phục vụ Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp. Vào năm 1775, Washington tăng gấp đôi diện tích của Mount Vernon lên 6.500 mẫu Anh (26 km2) và tăng số lao động nô lệ ở đó lên trên 100 người. Vì là một anh hùng quân sự được nể trọng và một chủ đất lớn nên ông có chức vị tại địa phương và được bầu vào nghị viện tỉnh Virginia bắt đầu vào năm 1758.[47]


    Washington mở rộng ngôi nhà tại Mount Vernon sau khi kết hôn
    Washington có lối sống quí tộc — săn cáo là một hoạt động nhàn rỗi ưa thích của ông.[48] Ông cũng thích đi khiêu vũ và họp hội, ngoài ra còn có đi xem kịch, đua, và đá gà. Washington cũng được biết có chơi bài, backgammon và bi da.[49] Giống như đa số các nhà trồng trọt, ông nhập cảng những đồ dùng xa xỉ và hàng hóa khác từ Anh và trả tiền cho hàng hóa bằng xuất cảng thuốc lá mà ông trồng. Chi tiêu quá độ và sự không lường trước về thị trường thuốc lá đồng nghĩa với việc nhiều nhà trồng trọt ở Virginia vào thời Washington mất tiền. (Chẳng hạn như Thomas Jefferson qua đời với nợ nần chồng chất.)
    Washington bắt đầu cứu mình khỏi nợ bằng cách kinh doanh đa dạng và chú ý hơn đến công việc làm của mình.[50] Năm 1766, ông thay đổi mùa vụ chính sinh lợi của Mount Vernon từ thuốc lá sang lúa mì. Lúa mì có thể bán được tại Mỹ, và làm nhiều thứ hoạt động kinh doanh khác trong đó có nhà máy làm bột mì, nuôi cá, nuôi ngựa, dệt vải. Patsy Custis (con gái riêng của vợ ông) mất năm 1773 vì động kinh giúp cho Washington trả hết nợ cho những chủ nợ người Anh vì phân nữa tài sản của Patsy được đưa sang cho ông.[51]
    Là người trồng trọt thành công, ông trở thành một lãnh đạo trong giới thượng lưu xã hội tại Virginia. Từ năm 1768 đến năm 1775, ông mời khoảng 2000 khách mời đến điền sản Mount Vernon của mình, đa số là những người được ông xem là "người có đẳng cấp". Đối với những người không có địa vị cao trong xã hội, lời khuyên của ông là "đối xử với họ lịch sự" nhưng "hãy giữ họ ở một tầm xa thích hợp vì khi họ càng quen biết mình thì đồng lúc bạn mất quyền lực đối với họ".[52] Năm 1769, ông trở nên tích cực hoạt động chính trị, đệ trình lên nghị viện Virginia đạo luật cấm nhập cảng hàng hóa từ Vương quốc Anh.[53]
    Năm 1754 Phó thống đốc Dinwiddie có hứa ban tặng đất đai cho các binh sĩ và sĩ quan tình nguyện phục vụ trong cuộc Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp.[54] Washington nhiều năm cố tìm cách nhận lấy số đất đai được hứa cấp cho ông và binh sĩ của ông. Cuối cùng thì Thống đốc Norborne Berkeley cũng thực hiện lời hứa từ năm 1769-1770.[54][55] Washington nhận được 23.200 mẫu Anh gần nơi mà dòng chảy của sông Kanawha đổ vào sông Ohio, hiện nay là Tây Virginia.[56]
    Cách mạng Mỹ (1775–1787)[sửa]

    Bài chi tiết: George Washington trong Cách mạng Mỹ
    Tuy ông bày tỏ sự chống đối Đạo luật Tem thuế 1765 (Stamp Act 1765), một đạo luật thuế áp đặt trực tiếp đầu tiên đối với các thuộc địa Bắc Mỹ nhưng ông đã không đóng một vai trò lãnh đạo trong cuộc phản kháng càng ngày gia tăng của các thuộc địa cho đến khi có các cuộc phản đối chống các đạo luật Townshend (được thông qua năm 1767) trở nên lan rộng. Tháng 5 năm 1769, Washington giới thiệu một đề nghị, được bạn của ông là George Mason thảo ra, kêu gọi thuộc địa Virginia tẩy chay hàng hóa của Anh cho đến khi nào các đạo luật này bị bãi bỏ.[57] Quốc hội Vương quốc Anh bãi bỏ các đạo luật Townshend năm 1770. Tuy nhiên, Washington xem việc thông qua Các đạo luật bất khoan dung (intolerable acts) năm 1774 như là "một sự xâm lấn quyền lợi và đặc quyền của chúng ta".[58] Tháng 7 năm 1774, ông chủ tọa phiên họp trong đó "các giải pháp Fairfax" được thông qua, kêu gọi triệu tập một Quốc hội Lục địa cùng với nhiều việc khác nữa. Vào tháng 8 năm đó, Washington tham dự Hội nghị đầu tiên của Virginia trong đó ông được bầu làm một đại biểu đại diện cho Virginia tại Đệ nhất Quốc hội Lục địa.[59]
    Tổng tư lệnh[sửa]


    Tranh vẽ Betsy Ross trình bày lá cờ mới của Mỹ với George Washington (Tranh vẽ của Edward Percy Moran. năm 1917)
    Sau các trận đánh tại Lexington và Concord gần thành phố Boston vào tháng 4 năm 1775, tất cả các thuộc địa đều tham chiến. Washington xuất hiện tại Đệ nhị Quốc hội Lục địa trong quân phục, chứng tỏ rằng ông đã sẵn sàng cho chiến tranh.[60] Washington có thanh thế, kinh nghiệm quân sự, sức thu hút, từng là một lãnh đạo quân sự và được người ta biết đến như là một người yêu nước cao độ. Là một thuộc địa lớn nhất trong số 13 thuộc địa và nằm ở miền Nam, Virginia đáng được công nhận. Tân Anh, nơi chiến tranh khởi sự, cảm thấy rằng họ cần có sự ủng hộ cần thiết của miền Nam. Washington bày tỏ rõ thái độ của mình là không muốn tìm cách làm tư lệnh, và ông có nói rằng ông không xứng với chức vụ đó nhưng chẳng có ai thật sự muốn tranh chức vụ này.[61] Quốc hội Lục địa thành lập Lục quân Lục địa vào ngày 14 tháng 6 năm 1775. Được John Adams của thuộc địa Massachusetts đề cử, Washington sau đó được bổ nhiệm làm thiếu tướng và tổng tư lệnh.[1]
    Washington có ba vai trò trong cuộc chiến tranh. Năm 1775-77, và lần nữa vào năm 1781 ông lãnh đạo binh sĩ của mình đánh nhau với các lực lượng chính của Anh. Tuy ông thua nhiều trận nhưng ông chưa bao giờ ra lệnh cho quân đội mình đầu hàng trong suốt cuộc chiến tranh. Ông tiếp tục chiến đấu không nao núng chống người Anh cho đến khi chiến tranh kết thúc. Phối hợp với Quốc hội Lục địa, ông hoạch định toàn bộ chiến lược chiến tranh.
    Thứ hai, ông đứng ra tổ chức và huấn luyện lục quân. Ông tuyển mộ quân chính quy và giao nhiệm vụ cho tướng von Steuben, một chuyên gia quân sự người Đức, huấn luyện họ. Ông không nhận trách nhiệm đối với nguồn tiếp liệu mà lúc nào cũng thiếu hụt nhưng ông luôn làm áp lực với Quốc hội và các tiểu bang cung cấp nhu yếu phẩm.[62] Washington có tiếng nói quan trọng trong việc chọn lựa các tướng lãnh tư lệnh và trong việc hoạch định chiến lược cơ bản của họ.[63] Những thành tựu của ông thì hỗn tạp vì một số người mà ông chọn lựa lại chưa bao giờ giỏi về thuật chỉ huy. Dần dần ông tìm được các sĩ quan có khả năng như tướng Nathaniel Greene, và tham mưu trưởng của ông là Alexander Hamilton. Các sĩ quan Mỹ không bao giờ đạt trình độ tương bằng với các đối thủ người Anh của họ trong chiến thuật và tác chiến. Dần dần họ thua phần lớn các trận đánh đã chọn địa điểm trước (pitched battles). Các thành công lớn tại Boston (1776), Saratoga (1777) và Yorktown (1781) xảy ra khi quân cách mạng gài bẫy dụ quân Anh ra xa khỏi căn cứ có nhiều quân số để dễ dàng tiêu diệt quân Anh hơn.
    Thứ ba và quan trọng nhất, Washington là hiện thân của cuộc kháng chiến vũ trang chống Vương miện - ông là người đại diện của cuộc Cách mạng. Tầm vóc to lớn và tài năng chính trị của ông đã khiến cho Quốc hội Lục địa, lục quân, người Pháp, địa phương quân và các tiểu bang đều hướng về một mục tiêu chung. Bằng việc tự nguyện từ chức và giải ngũ lục quân của mình sau khi chiến tranh kết thúc thắng lợi, ông vĩnh viễn thiết lập ra nguyên tắc dân sự là trên hết trong quân vụ. Và còn nữa, ông thường luôn lặp lại quan điểm rằng các binh sĩ nhà nghề có kỉ luật tốt thì luôn hơn hẳn gấp đôi những binh sĩ tự nguyện nhưng vô kỉ luật. Các binh sĩ nhà nghề như thế sẽ giúp người ta bỏ đi ý tưởng ngờ vực đối với một quân đội hiện dịch.[64]
    Chiến thắng tại Boston[sửa]
    Washington nhận lại chức vụ tư lệnh Lục quân Lục địa tại chiến trường Cambridge, Massachusetts vào tháng 7 năm 1775 trong lúc cuộc bao vây thành phố Boston đang tiếp diễn. Nhận thấy quân của mình thiếu hụt thuốc súng trầm trọng nên Washington yêu cầu xin thêm nguồn tiếp tế mới. Quân Mỹ đột kích những kho thuốc súng của Anh trong đó có một số kho nằm trong vùng Caribbe, và cũng họ tự tìm cách sản xuất ra một số. Quân Mỹ nhận nguồn tiếp tế gần như vừa đủ (khoảng 2,5 triệu cân Anh) vào cuối năm 1776, phần lớn là từ Pháp.[65] Washington tái tổ chức lục quân trong suốt cuộc bao vây kéo dài, và buộc quân Anh rút lui bằng pháo binh đặt trên điểm cao Dorchester Heights nhìn xuống thành phố. Quân Anh rút chạy khỏi Boston vào tháng 3 năm 1776 và Washington di chuyển quân đến Thành phố New York.
    Tuy rất kinh thường đa số những người yêu nước Mỹ nhưng báo chí Anh luôn ca ngợi phẩm chất và tính cách cá nhân của Washington trong vai trò một tư lệnh quân sự. Những bài báo này được xem là rất bạo vì Washington là tướng quân thù địch đang lãnh đạo một quân đội theo đuổi một mục tiêu mà nhiều người Anh tin rằng sẽ hũy hoại Đế quốc Anh.[66]
    Bại trận tại Thành phố New York và chiến thuật Fabius[sửa]
    Tháng 8 năm 1776, tướng Anh là William Howe mở một chiến dịch hải bộ lớn nhằm mục đích chiếm thành phố New York. Lục quân Lục địa dưới quyền của Washington giao chiến với kẻ thù lần đầu tiên trong vai trò là một lục quân của Hiệp chủng Quốc mới độc lập tại trận Long Island, trận đánh lớn nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh này. Người Mỹ ít quân số hơn nhiều so với lực lượng Anh. Nhiều binh sĩ Mỹ đào ngũ, và Washington bị đại bại. Dần sau đó, Washington bị buộc phải tháo lui qua sông East vào ban đêm. Ông làm vậy mà không có tổn thất về nhân mạng cũng như trang bị.[67] Washington rút lui về phía bắt khỏi thành phố để tránh bị bao vây, tạo cơ hội cho tướng Howe tấn công và chiếm đồn Washington vào ngày 16 tháng 1 với số tử thương cao cho Lục quân Lục điạ. Washington sau đó rút lui ngang New Jersey; tương lai của Lục quân Lục địa bị ngờ vực vì lệnh nhập ngũ hết hạn và một loạt những cuộc bại trận.[68] Vào đêm 25 tháng 12 năm 1776, Washington quay trở lại tấn công bất ngờ vào một tiền đồn của quân Hessian (quân đánh thuê người Đức trong thế kỷ 18) tại tây New Jersey. Ông dắt lục quân của mình vượt sông Delaware để bắt sống gần 1.000 binh sĩ Hessian tại Trenton, New Jersey. Sau chiến thắng của mình tại Trenton, Washington ghi thêm một chiến thắng khác chống quân chính qui Anh tại Princeton vào đầu tháng 1. Quân Anh rút lui trở về Thành phố New York và vùng phụ cận thành phố và họ chiếm giữ ở đó cho đến khi hiệp định hòa bình năm 1783. Các chiến thắng của Washington đã nhấn chìm chiến lược "củ cà-rốt và cây gậy" của người Anh - phô trương lực lượng mạnh rồi khuyến dụ với các ngôn từ rộng lượng. Người Mỹ quyết không thương thuyết điều gì cả ngoài độc lập.[69] Những chiến thắng này tự nó không đủ bảo đảm chiến thắng sau cùng của phe yêu nước tuy nhiên nhiều binh sĩ đã không tái đầu quân hoặc có nhiều người đào ngũ trong mùa đông ác nghiệt. Washington và Quốc hội tái tổ chức lục quân bằng việc gia tăng tưởng thưởng cho binh sĩ ở lại trong quân ngũ và cũng gia tăng hình phạt cho những ai đào ngũ. Việc này có hiệu quả làm tăng quân số cho các trận chiến sau cuối.[70]
    Các sử gia vẫn còn tranh luận rằng có phải chăng Washington thích chọn chiến lược Fabius[71] để gây hoang mang cho quân Anh bằng các cuộc tấn công nhanh và sắc bén rồi sau đó rút lui để lục quân to lớn hơn của Anh không thể bắt được ông hay ông thích chọn đánh những trận chiến lớn.[72] Trong khi tư lệnh miền Nam của ông là Greene sử dụng các chiến thuật Fabius vào những năm 1780-81 thì Washington chỉ dùng các chiến thuật này vào mùa thu năm 1776 đến mùa xuân năm 1777 sau khi để mất thành phố New York và nhìn thấy phần lớn lục quân của ông tan rã. Trận Trenton và Princeton là hai thí dụ về chiến thuật Fabius. Tuy nhiên vào mùa hè năm 1777, sau khi Washington đã tái lập sức mạnh và sự tự tin, ông ngưng dùng các trận đột kích và sẵn sàng các trận đối đầu có tầm cỡ lớn, thí dụ như các trận ở Brandywine, Germantown, Monmouth và Yorktown.[73]
    Các chiến dịch năm 1777[sửa]
    Cuối mùa hè năm 1777, lực lượng Anh dưới sự chỉ huy của John Burgoyne đưa một quân đoàn xâm nhập lớn từ Quebec xuống phía Nam với ý định cắt đứt vùng Tân Anh nổi loạn. Tướng Anh là Howe tại New York đưa quân đoàn của ông về hướng nam đến Philadelphia thay vì lên phía trên sông Hudson để họp mặt với quân của Burgoyne gần Albany. Đây là một lỗi lầm chiến lược lớn đối với quân Anh. Washington liền vội vã tiến về Philadelphia để giáp chiến Howe trong khi đó theo dõi sát hành động trên vùng thượng bang New York. Trong các trận đánh giáp mặt quá phức tạp cho các binh sĩ tương đối không kinh nghiệm, quân của Washington bị đánh bại. Trong trận Brandywine ngày 11 tháng 9 năm 1777, chiến thuật của Howe hơn hẳn Washington. Kết quả là Howe hành quân vào thủ đô Mỹ vào lúc đó là Philadelphia mà không gặp sự phản kháng nào ngày 26 tháng 9. Quân của Washington tấn công bất thành quân đồn trú của Anh tại Germantown đầu tháng 10. Trong lúc Burgoyne ở ngoài tầm giải cứu của Howe nên bị vây bủa và buộc phải ra lệnh toàn bộ quân đoàn của mình đầu hàng tại Saratoga, New York.[74] Đây là một điểm quay chính cả về mặt quân sự và ngoại giao. Pháp phản ứng việc Burgoyne bại trận bằng cách tham chiến, công khai liên minh với Mỹ và biến cuộc Chiến tranh Cách mạng thành một cuộc chiến tranh lớn có tầm cỡ thế giới. Việc Washington để mất Philadelphia đã khiến cho một số thành viên Quốc hội Mỹ thảo luận về việc tước quyền tư lệnh của Washington. Nỗ lực này bị thất bại sau khi những người ủng hộ Washington tề tựu ủng hộ đằng sau ông.[75]
    Valley Forge[sửa]
    Bài chi tiết: Valley Forge
    Lục quân gồm 11 ngàn binh sĩ của Washington[76] đến đóng quân mùa đông tại Valley Forge nằm ở phía bắc Philadelphia vào tháng 12 năm 1777. Trong khoảng thời gian 6 tháng, con số người chết trong trại lên đến hàng ngàn người (đa số do bệnh tật),[77] theo các ước tính của các sử gia thì con số người chết có từ 2000[77] đến 2500[78][79] thậm chí lên đến trên 3000 binh sĩ.[80] Tuy nhiên, đến mùa xuân, lục quân lộ diện từ Valley Forge trong đội hình tốt một phần nhờ vào một chương trình huấn luyện tầm cỡ do Baron von Steuben, một cựu chiến binh của bộ tổng tham mưu Phổ. Người Anh rút bỏ Philadelphia về New York năm 1778 bị Washington theo dõi. Washington liền tấn công họ tại Monmouth. Đây là một trận đánh không phân thắng bại và là một trong các trận đánh lớn nhất trong cuộc chiến tranh. Sau cùng, người Anh tiếp tục hướng về New York, và Washington di chuyển quân của mình ra khỏi New York.
    Chiến thắng tại Yorktown[sửa]
    Xem thêm: Cuộc vây hãm Yorktown
    Mùa hè năm 1779, theo chỉ thị của Washington, Tướng John Sullivan thực hiện một chiến dịch tiêu thổ tàn phá ít nhất 40 ngôi làng của người bản thổ Iroquois trong khắp vùng mà ngày nay là trung và thượng tiểu bang New York; người bản thổ ở trong vùng này là đồng minh của Anh. Họ thường đột kích các khu định cư Mỹ trong vùng biên cương.[81] Tháng 7 năm 1780, 5.000 binh sĩ thuộc cựu chiến binh Pháp, do Tướng Comte Donatien de Rochambeau chỉ huy, đến Newport, Rhode Island để trợ giúp nỗ lực chiến tranh của người Mỹ.[82] Nhờ sự trợ giúp tài chính có giá trị khoảng $20.000 bằng vàng của Pháp cho Lục quân Lục địa, Washington đã thực hiện cú đánh cuối cùng chống người Anh năm 1781 sau khi chiến thắng của người Pháp trong 1 trận hải chiến đã giúp cho các lực lượng Pháp và Mỹ bao vây một quân đoàn Anh tại Virginia. Sự kiện người Anh đầu hàng tại Yorktown vào ngày 17 tháng 10 năm 1781 đã đánh dấu sự chấm dứt chiến sự lớn tại lục địa Bắc Mỹ.[83]


    Tranh vẽ của John Trumbull miêu tả cảnh Washington từ chức tổng tư lệnh
    Giải giới[sửa]
    Washington không thể tin rằng sau trận Yorktown người Anh sẽ không tái mở các chiến dịch thù nghịch chống Lục quân Lục địa. Người Anh vẫn còn khoảng 26.000 quân đang chiếm đóng Thành phố New York, Charleston và Savannah cùng với một hạm đội hùng mạnh. Lục quân và hải quân Pháp đã rút đi, vì thế chỉ còn lại người Mỹ tự chống đỡ từ năm 1782-83. Ngân khố Mỹ trống trơn, các binh sĩ không được trả lương ngày càng ngang bướng, gần như đến lúc muốn nổi loạn hoặc có tiềm năng làm đảo chính. Washington giúp tránh bạo loạn trong hàng ngũ các sĩ quan của mình bằng việc can thiệp vào một sự kiện thường gọi là âm mưu Newburgh vào tháng 3 năm 1783. Kết cuộc là Quốc hội đưa ra lời hứa phát tiền thưởng trong 5 năm.[84]
    Theo Hiệp định Paris (ký vào tháng 9 năm đó), Vương quốc Anh công nhận nền độc lập của Hoa Kỳ. Washington giải tán lục quân của mình và vào ngày 2 tháng 11, ông đọc một bài diễn văn từ biệt hùng hồn trước binh sĩ.[85]
    Ngày 25 tháng 11, người Anh di tản khỏi Thành phố New York. Washington và thống đốc tiếp quản thành phố. Ngày 4 tháng 12, tại Quán rượu Fraunces, Washington chính thức từ biệt các sĩ quan của mình và vào ngày 23 tháng 12 năm 1783, ông từ chức tổng tư lệnh. Sử gia Gordon Wood kết luận rằng hành động vĩ đại nhất trong đời của Washington là việc ông từ chức tổng tư lệnh — một hành động đã làm cho quý tộc châu Âu phải bàng hoàng rúng động.[86] Vua George III đã gọi Washington "nhân vật vĩ đại nhất thời đại" vì hành động này.[87]
    Hội nghị Hiến pháp năm 1787[sửa]

    Cuộc sống hưu trí của Washington ở Mount Vernon chỉ tồn tại ngắn ngủi. Ông thực hiện một chuyến thám hiểm đến biên cương phía Tây vào năm 1784,[1] được thuyết phục tham gia Hội nghị Hiến pháp tại Philadelphia vào mùa hè năm 1787, và được bầu làm chủ tịch Hội nghị này. Ông tham dự ít vào các buổi tranh luận (tuy ông có bỏ phiếu chống hoặc thuận cho nhiều điều khoản khác nhau) nhưng uy tín cao của ông đã giúp ông duy trì quyền lực trong hội nghị và giữ chân các đại biểu tiếp tục làm việc của họ. Trong đầu các đại biểu là muốn lập ra chức tổng thống cho Washington, và họ sẽ cho phép ông định nghĩa chức vụ này một khi ông được bầu.[88] Sau hội nghị, sự ủng hộ của ông đã thuyết phục nhiều người bỏ phiếu thông qua hiến pháp; Hiến pháp mới được tất cả 13 tiểu bang thông qua.[89]
    Giai đoạn làm tổng thống (1789–1797)[sửa]

    Đại cử tri đoàn nhất trí bầu Washington làm vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ năm 1789,[Ghi chú 3] và lần nữa vào năm 1792; ông là tổng thống duy nhất nhận được 100 phần trăm phiếu đại cử tri.[Ghi chú 4] John Adams, người có số phiếu cao tiếp theo sau, được bầu làm Phó tổng thống. Tại buổi lễ nhậm chức, Washington tuyên thệ nhận chức Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 4 năm 1789 tại Đại sảnh Liên bang trong thành phố New York.
    Quốc hội Hoa Kỳ lần thứ nhất biểu quyết trả lương cho Washington $25.000 một năm - đây là một con số lớn vào năm 1789. Washington, đã giàu có vào lúc đó, từ chối nhận lương vì ông coi trọng hình tượng của mình như là một đầy tớ công bất vị kỷ. Tuy nhiên sau đó ông cũng chấp nhận tiền lương vì bị Quốc hội hối thúc để tránh tạo ra một tiền lệ rằng chức vụ tổng thống chỉ được nhìn nhận có giới hạn đến những cá nhân giàu có độc lập, có thể phục vụ mà không cần bất cứ tiền lương nào.[91] Vì nhận biết rằng mọi thứ mà ông làm sẽ tạo nên một tiền lệ sau này nên Washington cẩn thận tham dự buổi lễ nhậm chức một cách trịnh trọng. Ông muốn chắc rằng chức danh và lễ phục phải xứng hợp với nền cộng hòa và không bao giờ mang nét phong kiến châu Âu. Vào lúc cuối, ông thích chức danh "Ngài Tổng thống" hơn là những cái tên gọi uy nghiêm hơn.[92]
    Washington chứng tỏ là một người có tài lãnh đạo chính phủ. Là một đại diện xuất chúng, nhà phán đoán lỗi lạc và cá tính, Washington nói chuyện thường xuyên với các lãnh đạo các bộ và lắng nghe lời khuyên cáo của họ trước khi tạo quyết định tối hậu.[93] Khi xử lý công việc chính phủ hàng ngày, ông "rất có hệ thống, trật tự, nhiệt tâm, luôn xin ý kiến của người khác nhưng quả quyết..."[94]
    Washington miễn cưỡng phục vụ nhiệm kỳ thứ hai. Ông từ chối ra tranh cử nhiệm kỳ ba và đã tạo ra tiền lệ rằng tổng thống chỉ phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ.
    Các vấn đề đối nội[sửa]
    Washington không thuộc một đảng phái chính trị nào và hy vọng rằng các đảng chính trị sẽ không được thành lập vì sợ sự xung đột đảng phái sẽ làm tiêu tan chủ nghĩa cộng hòa.[95] Các cố vấn thân cận nhất của ông lập ra hai phe phái, khởi tạo ra khung sườn cho Hệ thống Đảng phái lần thứ nhất trong tương lai. Bộ trưởng Ngân khố Alexander Hamilton có các kế hoạch liều lĩnh nhằm thiết lập hệ thống tín dụng quốc gia và xây dựng một quốc gia mạnh về tài chính, và ông cũng đã lập ra cơ bản cho đảng Liên bang. Bộ trưởng Ngoại giao Thomas Jefferson, người sáng lập đảng Cộng hòa Jefferson, liên tiếp chống đối chương trình nghị sự của Hamilton nhưng nói chung Washington ưu ái Hamilton hơn là Jefferson. Kết quả, chương trình nghị sự của Hamilton trở thành có hiệu lực.[96]
    Đạo luật Dinh cư năm 1790, được Washington ký, cho phép Tổng thống Hoa Kỳ chọn lựa vị trí rõ rệt nào đó để làm nơi thường trực của chính phủ. Vị trí này phải nằm dọc theo sông Potomac. Đạo luật cho phép Tổng thống bổ nhiệm ba ủy viên tiến hành thị sát và tìm cách thu hồi vùng đất để làm thủ đô. Cá nhân Washington trông coi nỗ lực này trong suốt nhiệm kỳ tại chức của mình. Năm 1791, các ủy viên đặt tên cho thủ đô thường trực này là "Thành phố Washington trong Lãnh thổ Columbia" để vinh danh Washington. Năm 1800, Lãnh thổ Columbia trở thành Đặc khu Columbia khi chính phủ liên bang dời về nơi thích hợp theo các điều khoản của Đạo luật Dinh cư.[97]
    Năm 1791, Quốc hội áp đặt thuế môn bài lên các loại rượu khiến gây ra các cuộc phản đối nổ ra tại các khu vực biên cương, đặc biệt là tại tiểu bang Pennsylvania. Năm 1794, sau khi Washington ra lệnh những người biểu tình ra trình diện tại tòa án khu vực của Hoa Kỳ thì các cuộc phản đối trở nên bất chấp đối với chính phủ liên bang với qui mô lan rộng, được biết với tên gọi là Cuộc nổi loạn Whiskey. Lục quân liên bang quá nhỏ nhoi không thể dùng đến nên Washington áp dụng Đạo luật Quân sự 1792 để triệu hồi địa phương quân từ các tiểu bang Pennsylvania, Virginia và một số tiểu bang khác đến giúp. Các thống đốc phái binh sĩ đến. Washington tiếp nhận chức tư lệnh và đưa quân vào các khu vực nổi loạn. Những người nổi loạn tự giải tán và không có xung đột nào vì hành động mạnh bạo của Washington đã chứng minh rằng chính phủ mới có thể tự bảo vệ mình. Các sự kiện này đánh dấu lần đầu tiên dưới hiến pháp mới rằng chính phủ liên bang đã sử dụng lực lượng quân sự mạnh để thực thi quyền lực của mình đối với các tiểu bang và công dân.[98]
    Ngoại giao[sửa]
    Năm 1791, chẳng bao lâu sau khi Cách mạng Haiti bùng nổ, theo yêu cầu của người Pháp, chính phủ Washington đồng ý gởi tiền bạc, vũ khí và các đồ tiếp liệu khác đến thuộc địa Saint-Domingue (ngày nay là Haiti) thuộc Pháp để giúp những người thực dân đang hoang mang này. Sự trợ giúp này là một phần trong khoản trả nợ mà Hoa Kỳ thiếu trong Chiến tranh Cách mạng. Con số này dần dần lên đến khoảng $400.000.[99]
    Mùa xuân năm 1793, một cuộc chiến tranh lớn nổ ra giữa nước Anh bảo thủ cùng với đồng minh của họ chống nước Pháp cách mạng, mở đầu một thời đại chiến tranh lan rộng khắp châu Âu mãi cho đến năm 1815. Được sự chấp thuận của nội các, Washington tuyên bố nước Mỹ trung lập. Chính phủ cách mạng Pháp phái nhà ngoại giao Edmond-Charles Genêt (được biết đến là công dân Genêt) đến Mỹ. Genêt được chào đón nhiệt liệt tại Mỹ. Ông tuyên truyền cho phía Pháp trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và Anh. Với mục đích này, ông giúp đẩy mạnh phát triển một hệ thống gồm nhiều hội Dân chủ ở các thành phố lớn. Ông cấp phát thư ủy quyền tấn công của chính phủ Pháp cho các tàu Pháp được điều khiển bởi thủy thủ đoàn người Mỹ để họ có thể tấn công chiếm dụng các thương thuyền của Anh. Việc này làm cho Washington giận dữ, yêu cầu chính phủ Pháp triệu hồi Genêt về nước. Washington cũng lên án các hội dân chủ.[100]
    Hamilton và Washington thảo ra Hiệp định Jay để bình thường hóa quan hệ mậu dịch với Anh, yêu cầu họ rút khỏi các pháo đài ở phía Tây, giải quyết các món nợ tài chính còn sót lại từ thời cách mạng.[101] John Jay là người đứng ra thương thuyết và ký hiệp định này vào ngày 19 tháng 11 năm 1794. Phe phái của Jefferson ủng hộ Pháp và mạnh mẽ công kích hiệp định này. Sự ủng hộ mạnh mẽ của Washington đã vận động được ý dân và đã chứng tỏ có ý nghĩa định đoạt khi hiệp định này được thông qua tại Thượng viện với tỉ lệ 2/3 đa số phiếu cần thiết.[102] Người Anh đồng ý bỏ các pháo đài của họ quanh Ngũ Đại Hồ, sau đó biên giới Hoa Kỳ-Canada được tái điều chỉnh, vô số các món nợ trước cách mạng Mỹ được thanh toán, và người Anh mở cửa các thuộc địa Tây Ấn của mình để giao thương với Mỹ. Quan trọng nhất, hiệp định đã giúp tạm gác lại chiến tranh với Anh và thay vào đó là một thập niên giao thương thịnh vượng với Anh. Hiệp ước này làm người Pháo giận dữ và trở thành một vấn đề trung tâm trong nhiều cuộc tranh cãi chính trị.[103]
    Diễn văn từ biệt[sửa]


    Diễn văn từ biệt của Washington
    Bài diễn văn từ biệt của Washington (được công bố trong hình thức một lá thư gởi đến công chúng vào năm 1796) là một trong những lời tuyên bố có sức ảnh hưởng nhất về chủ nghĩa cộng hòa. Lá thư này phần lớn được Washington tự thảo ra cùng với sự giúp đỡ của Hamilton. Lá thư nhắn nhủ về nhu cầu và tầm quan trọng của sự thống nhất quốc gia, giá trị của Hiến pháp Hoa Kỳ và pháp quyền, những độc hại của các đảng phái chính trị và những đức tính đáng quí của một công dân cộng hòa. Ông gọi giá trị đạo đức là "một động cơ cần thiết của chính quyền nhân dân."[104]
    Bài diễn văn chính trị gởi công chúng của Washington cảnh báo chống lại sự ảnh hưởng của ngoại quốc trong các vấn đề đối nội và sự can thiệp của Mỹ trong các vấn đề của châu Âu. Ông cảnh báo chống lại chủ nghĩa đảng phái trong nền chính trị quốc nội và kêu gọi mọi người nên vượt ra ngoài đảng phái và phục vụ lợi ích chung. Ông cảnh báo chống lại "những liên minh thường trực với bất cứ phần nào trên thế giới ở ngoại quốc".[105] Ông nói rằng Hoa Kỳ phải tập trung chủ yếu vào những lợi ích của Mỹ. Ông khuyên Hoa Kỳ nên làm bạn và giao thương với tất cả các quốc gia nhưng cảnh báo chống lại sự can thiệp của Mỹ tại các cuộc chiến tranh tại châu Âu hay gia nhập vào các liên minh "vướng bận" dài hạn. Bài diễn văn nhanh chóng ấn định những giá trị Mỹ liên quan đến các vấn đề đối ngoại.[106]
    Về hưu (1797–1799)[sửa]



    Tranh vẽ George Washington
    của Gilbert Stuart năm 1797
    Sau khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống và về hưu vào tháng 3 năm 1797, Washington quay trở về Mount Vernon với cảm giác rất thoải mái. Ông dành ra nhiều thời gian cho nông trại và nhiều công việc thương mại khác trong đó có xưởng nấu rượu. Xưởng nấu rượu này cho ra lò một mẻ rượu đầu tiên vào tháng 2 năm 1797.[107] Theo Chernow (2010) giải thích, các hoạt động nông trại của ông thì sinh lợi rất tốt đẹp. Những vùng đất xa ở biên cương phía Tây sinh lợi rất ít vì chúng thường bị người bản thổ Mỹ tấn công và những người lập nghiệp sống ở đó không chịu trả tiền thuê đất cho ông. Tuy nhiên đa số người Mỹ mặc định rằng ông thật sự rất giàu có vì "vẻ hào quang thịnh vượng và hùng vĩ" nổi tiếng của nông trại Mount Vernon của ông.[108] Các sử gia ước tính tài sản của ông đáng giá khoảng 1 triệu đô la Mỹ của năm 1799, tương đương khoảng $18 triệu đô la của năm 2009.[109]
    Ngày 4 tháng 7 năm 1798, Washington được Tổng thống John Adams ủy nhiệm vào cấp bậc trung tướng và tổng tư lệnh tất cả các quân đoàn lục quân đã được hoặc sẽ được tuyển mộ để phục vụ một cuộc chiến tranh có thể xảy ra trong tương lai với Pháp. Ông phục vụ với tư cách là sĩ quan cao cấp của Lục quân Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ 13 tháng 7 năm 1798 và 14 tháng 12 năm 1799. Ông tham gia vào việc lập kế hoạch cho một lực lượng Lục quân Lâm thời để đối phó với bất cứ tình hình khẩn cấp nào có thể xảy ra nhưng ông không ra trận. Vi tư lệnh đứng thứ hai sau ông, Hamilton, là người trực tiếp lãnh đạo lục quân.[110]
    Qua đời[sửa]
    Thứ năm ngày 12 tháng 12 năm 1799, Washington dành vài tiếng đồng hồ trên lưng ngựa để kiểm tra nông trại của mình bị tuyết rơi, mưa đá và mưa băng - đến chiều tối hôm đó, ông ngồi ăn buổi tối mà không có thay quần áo ướt. Sáng thứ sáu, ông tỉnh giấc thấy đau cổ họng dữ dội (có lẽ viêm họng hay đau thanh quản cấp tính) và cảm thấy càng thêm khan cổ khi ngày trôi qua. Vào khoảng 3 giờ sáng thứ bảy, ông đánh thức vợ ông và nói rằng ông cảm thấy bệnh trong người. Bệnh tình ngày thêm trầm trọng cho đến khi ông mất tại nhà vào khoảng 10h tối thứ bảy ngày 14 tháng 12 năm 1799, thọ 67 tuổi. Lời cuối cùng của ông là "'Tis well" (tạm hiểu là tốt lắm, tôi chết đau đớn nhưng tôi không sợ).[111][112]
    Khắp thế giới, mọi người đều buồn bã vì cái chết của Washington. Napoleon ra lệnh 10 ngày tang lễ khắp nước Pháp; tại Hoa Kỳ, hàng ngàn người vận quần áo tang trong nhiều tháng.[113] Để bảo mật sự riêng tư của họ, Martha Washington đốt hết các thư từ của ông bà viết cho nhau sau khi ông mất. Chỉ còn lại ba lá thứ giữa hai người vẫn tồn tại đến ngày nay.


    Mộ của Washington ở Mount Vernon, Virginia
    Ngày 18 tháng 12 năm 1799, lễ tang được tổ chức tại Mount Vernon. Ông được chôn cất tại nơi đây.[114]
    Với sự ủng hộ của vợ ông, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nghị quyết chung nhằm xây một tượng đài bằng cẩm thạch trong Tòa Quốc hội Hoa Kỳ để cất giữ thân xác ông. Tháng 12 năm 1800, Hạ viện Hoa Kỳ đưa một đạo luật chi tiêu khoảng $200.000 để xây dựng lăng mộ hình kim tự tháp có đáy rộng 100 bộ vuông (30 mét vuông). Sự phản đối dự án này từ miền Nam đã đánh bại đạo luật vì người miền Nam cảm thấy để xác của ông tại Mount Vernon là tốt nhất (ông là người từ Virginia, một tiểu bang miền Nam vào thời đó).[115]
    Năm 1831, để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của ông, một ngôi mộ mới được xây cho ông. Năm đó, có một âm mưu đánh cắp xác của ông đã được thực hiện nhưng được chứng minh là không thành công.[116] Dù vậy, một ủy ban quốc hội chung (ủy ban của cả hai viện lập pháp) vào đầu năm 1832 đã bàn thảo đến việc dời thân thể của Washington ra khỏi Mount Vernon để đưa đến một hầm mộ trong Tòa nhà Quốc hội do Charles Bullfinch xây vào thập niên 1820. Lại thêm một lần nữa, sự chống đối từ miền Nam tỏ ra rất dữ dội, do sự hiềm khích ngày càng sâu rộng giữa miền Nam và miền Bắc. Dân biểu Wiley Thompson của tiểu bang Georgia phát biểu về nỗi lo sợ của người miền Nam khi ông nói:
    “ Đưa hài cốt Washington kính yêu của chúng tôi tách rời khỏi nơi có hài cốt thân nhân và tổ tiên của ông từ Mount Vernon và ra xa khỏi tiểu bang nhà của ông để đem đặt trong thủ đô này, và rồi nếu có xảy ra sự tan rả liên bang này, thì hãy xem lúc đó hài cốt của Washington sẽ nằm trên một bến bờ xa lạ so với đất quê hương của ông.[117] ”
    Điều này làm các cuộc bàn thảo về việc di dời hài cốt của ông chấm dứt, và ông được đưa vào ngôi mộ mới được xây dựng tại đó vào ngày 7 tháng 10 năm 1837 với sự chủ trì của John Struthers từ thành phố Philadelphia.[118] Sau buổi lễ, cửa hầm mộ bên trong được đóng lại và chìa khóa mở ngôi mộ được quăng xuống sông Potomac.[119]
    Di sản[sửa]

    Dân biểu Henry "Light-Horse Harry" Lee, một người bạn chiến đấu của ông thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ, nổi tiếng qua những lời lẽ ca ngợi Washington như sau:[120]
    Người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên nằm trong lòng dân tộc, ông là người có một không hai về đức tính khiêm nhường và trải qua những đoạn đời riêng tư. Lễ nghĩa, công bình, nhân đạo, ôn hòa, và thành thật; trước sau như một, trang nghiêm, và uy nghi; mẫu người của ông như đang soi sáng cho tất cả những người quanh ông cũng như những hiệu ứng của mẫu hình này vẫn đang trường tồn... Xuyên suốt chúng, cái xấu rúng động trước sự hiện diện của ông và cái đẹp luôn cảm thấy có bàn tay giúp đỡ của ông. Đức tính cá nhân thanh khiết của ông đã thắp sáng đức độ phục vụ công chúng của ông... Ông là một người đàn ông như thế, người đàn ông mà quốc gia chúng ta đang thương tiếc.
    William Safire, ed. Lend me your ears: great speeches in history (2004) p. 185


    Chân dung Washington năm 1751 của James Sharples được dùng trên con tem phát hành năm 1908,[121][122]
    Lời lẽ ca ngợi của Lee đã tạo ra chuẩn mực mà qua đó danh tiếng vượt bậc của Washington có ấn tượng sâu sắc trong ký ức của người Mỹ. Washington đã tạo ra nhiều tiền lệ cho chính phủ quốc gia, và đặc biệt là cho chức vụ tổng thống. Ông được gọi là "cha già dân tộc" bắt đầu kể từ năm 1778.[123][124][125] Sinh nhật của Washington (được chào mừng trong ngày Lễ Tổng thống), là một ngày nghỉ lễ liên bang tại Hoa Kỳ.[126]
    Trong năm chào mừng "Hoa Kỳ 200 năm", George Washington được vinh thăng lên cấp bậc Đại thống tướng theo nghị quyết chung của Quốc hội Hoa Kỳ (xin xem Công luật 94-479), được thông qua vào ngày 19 tháng 1 năm 1976, có hiệu lực vào ngày 4 tháng 7 năm 1976.[1] Hành động này đã nâng vị trí của Washington lên thành vị sĩ quan quân sự cao cấp nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
    Đời sống cá nhân[sửa]

    Cùng với gia đình thân thuộc của vợ ông, Martha, có nói ở trên, George Washington có quan hệ gần gũi với cháu trai và cũng là người thừa kế tên là Bushrod Washington, con trai của em trai John Augustine Washington của ông. Sau khi chú qua đời Bushrod trở thành một thẩm phán của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Tuy nhiên mối quan hệ của George Washington với mẹ là bà Mary Ball Washington rõ ràng là có gì đó khó khăn và căng thẳng.[141]
    Khi còn là một thanh niên, Washington có mái tóc đỏ.[142][143] Có một truyền thuyết dân gian cho rằng ông đội tóc giả như một kiểu thời trang vào thời đó. Sự thật Washington không có đội tóc giả; thay vào đó ông rắc phấn bột vào tóc của mình,[144][145] như được thấy trong một số bức họa trong đó có bức họa nổi tiếng nhưng dở dang của họa sĩ Gilbert Stuart.[146]
    Washington bị răng của mình hành hạ suốt cả cuộc đời. Ông mất chiếc răng trưởng thành đầu tiên khi ông 22 tuổi và chỉ còn lại 1 chiếc khi ông trở thành tổng thống.[147] John Adams tuyên bố rằng Washington mất răng vì ông dùng nó để cắn hạt Brasil nhưng các sử gia hiện đại cho rằng chính điôxít thủy ngân mà ông uống để trị bệnh như đậu mùa và sốt rét có lẽ đã góp phần vào việc làm rụng răng của ông. Ông được làm một vài bộ răng giả, bốn trong số đó do một nha sĩ có tên là John Greenwood.[147] Không như công chúng nghĩ, các bộ răng giả này không phải làm bằng gỗ. Bộ răng được làm cho ông khi ông trở thành tổng thống là làm bằng ngà voi và ngà hà mã, giữ chặt lại bằng niềng vàng.[148] Vấn đề của răng đã làm cho Washington thường hay đau răng nên ông phải dùng cồn thuốc phiện.[149] Nỗi đau đớn vì chứng đau răng có thể được bộc lộ rõ ràng trong nhiều bức hình được họa khi ông vẫn còn tại chức,[149] trong đó phải kể đến bức hình được sử dụng trên tờ giấy bạc $1 đô la Mỹ.[146][Ghi chú 5]
    Vấn đề người nô lệ[sửa]
    Sau cái chết của cha năm 1743, cậu bé George Washington 11 tuối thừa hưởng gia tài gồm 10 người nô lệ. Vào lúc ông kết hôn với Martha Custis năm 1759, cá nhân ông làm chủ ít nhất 36 nô lệ (vợ ông thừa hưởng và mang đến Mount Vernon một số nô lệ của chồng trước quá cố, ít nhất là 85 người). Ông dùng tài sản giàu có của vợ để mua thêm đất, tăng gấp ba lần diện tích đồn điền, và thêm nhiều nô lệ để canh tác đồn điền. Năm 1774, ông trả thuế đánh trên 135 nô lệ (không tính nô lệ của vợ ông được thừa hưởng từ người chồng đầu tiên quá cố của bà). Lần mua nô lệ cuối cùng của ông là vào năm 1772 dù sau này ông có nhận một số nô lệ để trừ nợ.[150] Washington cũng dùng những người da trắng di cư làm người giúp việc gia đính để trả nợ di dân; tháng 4 năm 1775, ông đã trả tiền thưởng để nhận lại hai người da trắng giúp việc nhà sau khi hai người này bỏ trốn.[151]
    Một sử gia tuyên bố rằng Washington ước mong những lợi ích vật chất từ việc làm chủ nô lệ và muốn cho gia đình vợ của ông có một tài sản kế thừa thịnh vượng.[152] Trước Cách mạng Mỹ, Washington không bài tỏ vấn đề đạo đức gì về chủ nghĩa nô lệ nhưng vào năm 1786, Washington viết cho Robert Morris như sau "Không ai mong muốn chân thành hơn tôi là thấy một kế hoạch được thông qua nhằm mục đích bãi bỏ chế độ nô lệ".[153] Năm 1778, ông viết thư cho người quản lý của ông ở đồn điền Mount Vernon rằng ông muốn "bỏ hết người da đen". Duy trì một dân số nô lệ lớn và ngày càng già tại Mount Vernon thì không có lợi ích kinh tế. Tuy nhiên Washington không thể bán những "nô lệ thừa kế" của vợ (dower slaves) một cách hợp pháp, và vì những nô lệ này đã liên-hôn với các nô lệ của chính ông nên ông cũng không thể bán nô lệ của mình với lý do nếu ông bán nô lệ của mình thì ông gián tiếp làm cho gia đình họ ly tán.[154]
    Lúc làm tổng thống, Washington đưa 7 nô lệ đến Thành phố New York năm 1789 để làm người giúp việc nhà đầu tiên cho tổng thống. Sau khi thủ đô quốc gia chuyển đến Philadelphia năm 1790, ông đưa 9 nô lệ đến làm việc trong dinh tổng thống. Lúc ông mất, có 317 nô lệ làm việc tại Mount Vernon trong số đó Washington làm chủ 123 người, 154 người là "nô lệ thừa kế" của vợ và 40 người được một người hàng xóm mướn.[155] Dorothy Twohig cho rằng Washington đã không lên tiếng công khai chống lại chủ nghĩa nô lệ vì ông không muốn tạo sự chia rẽ trong nước cộng hòa mới thành lập bằng một vấn đề rất nhạy cảm và gây chia rẽ lúc bấy giờ.[156]
    Tôn giáo[sửa]
    Washington là một thành viên của Nhà thờ Anh Giáo đã "thiết lập được địa vị" tại tiểu bang Virginia (điều đó có nghĩa là tiền thuế được dùng để trả cho các vị chức sắc giáo hội). Ông là một thành viên phục vụ trong ban điều hành Nhà thờ Christ tại Alexandria, Virginia và Nhà thờ Pohick gần nhà của ông trong đồn điền Mount Vernon cho đến khi chiến tranh bắt đầu; tuy nhiên giáo khu này là một đơn vị của chính quyền địa phương và giáo khu này phần lớn lo những công việc dân sự như đường sá và giảm nghèo.[157]
    Theo sử gia Paul F. Boller Jr., thực tế mà nói Washington là một người theo thuyết thần giáo tự nhiên, có niềm tin sâu rộng vào "Trời" hay cao hơn là "Ý Trời" được lấy ra từ một "Đấng Tối cao" kiểm soát các sự kiện của con người và như trong Thần học Calvin là bài học lịch sử theo sau một mô hình trật tự hơn chỉ là sự tình cờ.[158][159] Năm 1789, Washington tuyên bố rằng "Đấng sáng tạo Vũ trụ" đã tích cực can thiệp về phe Cách mạng Mỹ. Tuy nhiên, theo Boller, Washington chưa bao giờ tìm cách xác định quan điểm tôn giáo của chính mình hay diễn đạt lời cỗ vũ nào dành cho khía cạnh tốt đẹp của thánh kinh. Boller cho rằng "những lời bóng gió về tôn giáo của Washington hoàn toàn thiếu chiều sâu cảm xúc" [160] Về khía cạnh triết lý, ông say mê và chọn triếc lý Stoic của cổ La Mã. Triết lý này coi trọng đức hạnh và nhân bản và có thể sánh cao bằng thuyết thần giáo tự nhiên.[161]
    Trong một lá thư gởi George Mason năm 1785, Washington viết rằng ông không phải trong số những người bị cảnh báo bởi một đạo luật "bắt người ta phải trả tiền để ủng hộ tôn giáo mà họ theo" nhưng cảm thấy rằng "không khôn ngoan" để thông qua một đạo luật như thế, và mong muốn rằng nó đã chưa từng được đề nghị vì tin rằng nó sẽ làm náo động cuộc sống yên ổn của công chúng.[162]
    Washington thường tháp tùng vợ đến lễ nhà thờ; tuy nhiên, không có ghi chép nào nói về việc ông nhận lễ ban thánh thể. Ông thường hay rời lễ nhà thờ trước khi có lễ ban thánh thể — cùng với những người không nhận lễ ban thánh lễ khác. Đến khi bị một mục sư quở trách, ông thôi không tham dự các buổi lễ ban thánh lễ vào những ngày chủ nhật.[163] Khi làm tổng thống, ông khích lệ mọi người khi ông được người ta thấy tham gia thánh lễ tại vô số các nhà thờ trong đó có nhà thờ Presbyterian, Quaker và Công Giáo để chứng tỏ sự ủng hộ tổng thể của ông cho tôn giáo.[164] Washington nổi tiểng rộng lượng. Ông tham dự nhiều sự kiện từ thiện và tặng tiền cho các trường, các đại học và cho người nghèo. Là công dân hàng đầu của Philadelphia, Tổng thống Washington dẫn đầu trong công cuộc cung cấp từ thiện cho các quả phụ và trẻ mồ côi trong thành phố thủ đô bị dịch sốt vàng hoành hành vào năm 1793.[165]

Chia sẻ trang này