1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nước Việt trồng người

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi caytrevietnam, 30/11/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Nước Việt trồng người

    Thấy mục lịch sử văn hoá này rất hay , có rất nhiều kiến thức, tư liệu hấp dẫn nên tôi cũng muốn cung cấp những dữ kiện mình thu thập được. Một là để bà con nếu chứ biết thì biết, nếu biết rồi thì biết thêm. Hai là có gì sai sot, mọi người cùng bàn bạc, thảo luận. Ba là, qua đó cũng coi như 1việc nhỏ góp thêm vào hoạt động "truyền bá kiến thức" cho mọi người (vì rất bức xúc khi thấy văn hoá dân tộc thì ko hiểu, lịch sử thì ko biết ...mà kỳ thi đại học vừa rồi là minh chứng rõ nhất).
    Đây là 1 bài viết tôi sưu tập, biên soạn từ nhiều tài liệu, cũng định gửi báo kiếm tý tiền để "trà thuốc, xăng xe" trong thời buổi đắt đỏ này, nhưng tiện đây gửi tặng bà con TRÁI TIM VIỆT NAM .
    Note: Cái này tôi giữ bản quyền đấy nhé, đừng bác nào lấy về ghi tên mình rồi gửi báo là tôi kiện đấy. Nếu có gửi thì phải ghi tên tôi, nhuận bút phải trả tui nhé he.. he...

    NGÀY XƯA NƯỚC VIỆT TRỒNG NGƯỜI
    Một quốc gia muốn phát triển thì phải có nhiều người tài đức, muốn có nhiều người tài đức thì phải có một nền giáo dục phát triển. Thời gian gần đây, nền giáo dục Việt Nam trở thành tiêu điểm trong sự quan tâm chú ý của dư luận xã hội; nhiều phương án cải cách giáo dục đã được đặt ra. Tuy nhiên hết ?o cải tiến? rồi lại ?o cải lùi? nhưng vẫn chưa giải quyết được những bức xúc, những đòi hỏi cấp bách của xã hội. Trong khi chờ đợi các nhà chiến lược tiếp tục tìm ra phương án khả thi để ?ocải...tiến bộ? hơn nền giáo dục nước nhà, chúng ta hãy cùng nhau mở những trang sử cũ xem cha ông ta xưa trồng người và dùng người như thế nào ? ?oÔn cố tri tân? từ đó rút ra được những điều có giá trị cho hiện tại và tương lai.
    · ?oTrường Đại học đầu tiên? của nước ta là Quốc Tử Giám, được thành lập năm Bính Thìn (1076) đời Lý Nhân Tông. Đây là nơi đào tạo nhiều người có học vị cao, là nơi tổ chức các buổi bình văn...thu hút đông đảo nho sĩ cả nước.
    · Tên gọi ?otrường đại học đầu tiên? qua các thời kỳ: Quốc Tử Giám (1076), Quốc Tử Viện (1236), Quốc Tử Giám (1243), Quốc Học Viện (1253), Quốc Tử Giám (1428), Nhà Thái Học hoặc Thái Học Đường (1483), Quốc Học (1803), Quốc Tử Giám (1821).
    · Quốc Tử Giám ban đầu là trường dạy học cho con vua và các hoàng thân, sau đó mở rộng ra cho con cháu quý tộc, quan lại. Từ năm 1252 những người học xuất sắc, con em thường dân ưu tú bắt đầu được chọn vào học ở đây.
    · Hệ thống nhân sự ở Quốc Tử Giám: Được thành lập năm 1076 nhưng sử sách không ghi chép nên không rõ quan đứng đầu Quốc Tử Giám là chức gì? Năm 1236 nhà Trần cho đổi tên thành Quốc Tử Viện và đặt chức Tư nghiệp đứng đầu. Từ thời Hậu Lê trở về sau, quan đứng đầu Quốc Tử Giám là chức Tế tửu (như Hiệu trưởng ngày nay), dưới có chức Tư nghiệp (như Hiệu phó); phụ trách giảng dạy và trông coi việc giáo dục trực tiếp gồm các chức Trực giảng, Trợ giáo, Bác sĩ, Giáo thụ. Thành viên khác có Giám thừa, Điển bộ, Điển tịch, Thư lại.
    · ?oSinh viên? của trường Quốc Tử Giám được gọi là giám sinh và được phân làm 3 hạng: Tôn sinh (con em trong hoàng tộc), Cống sinh (học trò do các địa phương hàng năm tuyển về kinh học), Ấm sinh (con cháu các quan). Giám sinh vào học được cấp học bổng hàng tháng gồm tiền, gạo và dầu thắp đèn.
    · Tài liệu và sách học thời xưa: Trẻ con 6 - 7 tuổi bắt đầu đi học có các sách Sơ học vấn tân, Ấu học ngũ ngôn thi, Tam tự kinh, Tứ tự kinh, Ngũ ngôn...Từ 10 tuổi trở lên học Tứ thư, Ngũ kinh, Chư tử cửu lưu ( 9 dòng tư tưởng thời cổ đại ở TQ: Nho gia, Pháp gia, Đạo gia..), Bắc sử (lịch sử TQ), Nam sử (lịch sử nước Nam)... Thời Lý, Trần học trò còn phải học kinh của Phật giáo, Đạo giáo. Ngoài ra còn có các sách rút tỉa ngắn gọn từ Tứ thư, Ngũ kinh giúp người học nắm vững kinh sách nhanh chóng, dễ hiểu hơn: Tứ thư quan hành, Ngũ kinh quan hành, Chư tử tập thành, Các tùng thư...Bên cạnh đó có các tài liệu là những sách do vua quan soạn ra để dạy con cháu mình như: Cơ cửu tập (của Trần Thái Tông), Thi huấn (của Trần Thánh Tông), Giáo huấn (Trần Nghệ Tông), Thuật cổ kỹ huấn (Đào Sư Tích), Gia huấn ca (Nguyễn Trãi), Huấn nữ ca (Lê Quý Đôn), Gia huấn hài (Bùi Dương Lịch), Huấn dụ thập điều (Minh Mạng)... và những tuyển tập các bài văn hay của những người đỗ đạt qua các kỳ thi: Hương thí văn tuyển, Quốc Tử Giám chương trình, Lược khoa tứ lục, Hương thi văn thức, Lịch khoa hội phú tuyển...
    · Ngạch Học quan được đặt ra lần đầu tiên dưới thời Trần Thuận Tông; năm 1396 vua cho bổ tại các Lộ các quan Đốc học, ở các châu phủ đặt chức giáo thụ và gọi chung là Học quan làm nhiệm vụ trông coi, khuyến khích việc học tại các địa phương.
    · Khoa thi đầu tiên được tổ chức vào năm Ất Mão (1075) đời Lý Nhân Tông, gọi là khoa Tam trường để tuyển chọn những người học rộng, thông hiểu kinh sử. Vì vậy khoa thi này còn được gọi là khoa Minh kinh bác học.
    · Khoa thi cuối cùng được tổ chức vào đời vua Khải Định: Năm 1918 tổ chức khoa thi Hương cuối cùng; năm 1919 khoa thi thi Hội cuối cùng đã đặt dấu chấm dứt việc học, việc thi theo lối khoa bảng ở nước ta.
    · Khoa thi Thư Toán đầu tiên được tổ chức vào năm Đinh Tỵ (1077) đời Lý Nhân Tông, chỉ 2 năm sau khoa thi Nho học đầu tiên. Sử chép: ?o...mở khoa thi Lại viên thi bằng phép viết chữ, phép tính và học hỏi về hình luật. Nhà nước có thi Thư Toán là bắt đầu từ đây?. Kể từ đó các triều đại đều tổ chức các khoa thi Thư Toán và đều gọi là thi Lại viên.
    ·
    · Mọi trao đổi, góp ý xin liên hệ : LÊ TOÀN THƯ
    ( letoanthu@hopthu.com)
  2. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Khoa thi Thư Toán nhiều người đỗ nhất là khoa thi năm Đinh Tỵ (1437) đời Lê Thái Tông, số người trúng tuyển đạt đến 690 người.
    · Khoa thi Thư Toán đông người tham dự nhất là khoa thi năm Bính Dần (1506) đời Lê Uy Mục. Cuốn Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn cho biết: ?o...thi khảo quân và dân bằng phép viết và phép tính ở sân điện Giảng Võ số người dự hơn 3 vạn, lấy 1519 người, phúc hạch 144 người, lấy 25 người trúng cách bổ vào hoa văn học sinh?. Hơn 3 vạn là con số không nhỏ, vậy mà chỉ có 25 người trúng cách cho thấy việc trúng tuyển không phải là chuyện dễ dàng.
    · Khoa thi có bảng Tam khôi trẻ nhất là khoa thi năm Đinh Mùi (1247) đời vua Trần Thái Tông: Trạng nguyên Nguyễn Hiền 13 tuổi, Bảng nhãn Lê Văn Hưu 18 tuổi, Thám hoa Đặng Ma La 14 tuổi.
    · Khoa thi có bảng Tam khôi già nhất là khoa thi năm Đinh Sửu (1637) đời vua Lê Thần Tông: Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính 50 tuổi, Bảng nhãn Nguyễn Nghi 61 tuổi, Thám hoa Nguyễn Thế Khanh 37 tuổi.
    · Khoa thi Tam giáo đầu tiên được tổ chức vào năm Ất Mão (1195) đời Lý Cao Tông để tuyển những người tinh thông, am hiểu đạo Nho, Phật, Lão. Người đỗ gọi là Tam giáo xuất thân.
    · Khoa thi Tam giáo cuối cùng được tổ chức vào năm Đinh Mùi (1247) đời vua Trần Thái Tông.
    · Năm Đinh Hợi (1347) vua Trần Dụ Tông cho mở khoa thi Đình lấy đỗ Tiến sĩ; năm Kỷ Mùi (1919) niên hiệu Khải Định thứ 4, khoa thi Tiến sĩ cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt Nam được tổ chức.
    · Năm Bính Tý (1396) vua Trần Thuận Tông đặt lệ thi Hương lần đầu ở các địa phương, lấy đỗ học vị Cử nhân. Năm sau tổ chức thi Hội ở kinh đô; thi Hội bắt đầu có từ đây.
    · Khoa thi đặc biệt nhất được mở năm Giáp Thìn (1664) đời vua Lê Huyền Tông (1663-1671) được gọi là khoa thi Khảo lại sinh đồ (sinh đồ là người đậu 3 trường trong thi Hương). Mục đích mở khoa thi này là do lúc đó dư luận cho rằng có nhiều người dốt vẫn đỗ. Triều đình cho thi khảo lại,ai trúng vẫn là sinh đồ, ai trượt phải học lại 3 năm, sau đó mới cho thi tiếp.
    · Để lấy thêm những người tài giỏi, bắt đầu từ năm Giáp Dần (1554) đời Lê Trung Tông rồi qua các đời Lê Anh Tông, Lê Thế Tông, Lê Kính Tông, Lê Thần Tông triều đình cho mở các kỳ thi Chế khoa, Sĩ vọng, Hoành tù để tuyển những người tài giỏi, văn hay, uyên bác và những người danh vọng trong hàng sĩ phu. Đây là những khoa thi đặc biệt để lấy những người tài bị bỏ sót, là cách tuyển chọn đặc biệt ngoài các khoa thi chính thức nên đề thi không thống nhất, cách thức, thời gian thi không ổn định. Những người trúng tuyển đều được bổ nhiệm làm quan ngay.
    · Khoa thi Đông các là khoa thi tuyển những người làm công việc chuyên biệt nhất: Được tổ chức lần đầu vào năm Kỷ Hợi (1659) đời Lê Thần Tông, sau đó còn tổ chức dưới đời Lê Hy Tông, Lê Dụ Tông. Những người đỗ đạt được bổ làm Đông các, Đông các đại học sĩ, Hiệu thư chuyên làm nhiệm vụ kiểm tra, xem xét lại, sửa chữa các bài chế, cáo, văn thư và phụ trách việc tuyển chọn nhân sự ở triều đình.
    · Dưới triều Nguyễn, ngoài thi Hương, thi Hội còn đột xuất tổ chức các khoa thi Hoành tù, Cát sĩ (tuyển chọn những người hay chữ), khoa Nhã sĩ (tuyển chọn những người phong nhã), khoa Uyên bác (tuyển chọn những người học rộng). Mục đích chọn lọc những người có khả năng mà chưa được dùng.
    · Triều Hồ là triều đại quy định nhiều vòng thi nhất: Những người đỗ trong kỳ thi Hương, năm sau phải vào bộ Lễ thi lại, có đỗ mới được tuyển; rồi năm sau nữa mới được thi Hội; qua được kỳ thi này lúc đó mới được gọi là Thái học sinh (Tiến sĩ).
    · Khoa thi lấy Tam khôi đầu tiên (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) được tổ chức năm Bính Ngọ (1246) đời Trần Thái Tông. Khoa thi năm Nhâm Thìn (1892) đời Thành Thái là khoa thi lấy Thám hoa cuối cùng (nhà Nguyễn không lấy Trạng nguyên nên học vị cao nhất là Bảng nhãn).
    · Kể từ khoa thi đầu tiên năm 1075 đến khoa thi cuối cùng năm 1919, lịch sử khoa bảng Việt Nam kéo dài 845 năm. Các triều đại phong kiến đã tổ chức được 183 khoa thi, lấy đỗ 2898 vị đại khoa.
    · Trải qua 183 khoa thi, chỉ có 76 khoa có đủ Tam khôi, trong đó có 40 khoa có đủ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa (riêng hai khoa năm 1256 và 1266 lấy Kinh Trạng nguyên, Trại Trạng nguyên); 4 khoa chỉ có Trạng nguyên và Thám hoa, không có Bảng nhãn; 3 khoa chỉ có Bảng nhãn, Thám hoa, không có Trạng nguyên ; 4 khoa chỉ có duy nhất Bảng nhãn; 25 khoa chỉ có Thám hoa, không có Trạng nguyên, Bảng nhãn. Tổng cộng có 46 Trạng nguyên, 47 Bảng nhãn và 72 Thám hoa; những người đỗ Nhị giáp là 597 người, Tam giáp là 1799 người...
    · Về thể thức thi Hương, thi Hội đều phải trải qua 4 kỳ: Kỳ 1 thi Kinh, nghĩa; kỳ 2 thi chiếu, chế, biểu; kỳ 3 thi thơ, phú; kỳ 4 thi văn sách.
    · Cách thức tổ chức thi: Những khoa thi ban đầu số thí dinh còn ít nên việc thi được tổ chức ngay tại Quốc Tử Giám. Về sau khi lượng sĩ tử đông thì tổ chức các trường thi. Trường làm bằng tre lợp tranh được chia làm 3 khu vực: Khu nội biên cho quan giám khảo ở, khu ngoại biên là nơi ở của quan giám thị và khu vực dành cho thí sinh. Cả trường thi chia làm 8 ô vuông lớn, có một đường chạy dọc, một đường chạy ngang chia 8 ô làm 4 phần bằng nhau gọi là đường thập đạo. Trung tâm đường thập đạo dựng một nhà gọi là nhà Thập đạo nơi hội đồng giám khảo ngồi quan sát trường thi. Trên đường thập đạo theo hàng ngang dựng các chòi để các quan giám thị giám sát thí sinh làm bài. Bên ngoài trường thi được rào kín 4 phía và để đảm bảo an toàn, triều đình còn cử lính và kỵ binh qua lại canh phòng. Riêng thi Đình được tổ chức ngay tại sân điện nơi vua ngự triều; vua là người trực tiếp ra đề thi và là người hỏi thi cuối cùng.
    · Cam kết đặc biệt nhất: Để bảo đảm sự chặt chẽ và chất lượng tuyển chọn nhân tài, năm 1462 vua Lê Thánh Tông định ra lệ ?o Bảo kết hương thí?. Đây là ?obản cam kết? bắt các xã phải chịu trách nhiệm về tư cách và đạo đức của các sĩ tử là con em trong xã mình.
    · Sĩ tử là tên gọi chung nhất qua các thời kỳ, dùng để chỉ người đi thi trong các khoa thi.
    · Lệ phí thi được quy định lần đầu tiên vào năm Canh Ngọ (1750) đời Lê Hiển Tông (1740-1786), sĩ tử phải nộp tiền mới được thi Hương, gọi là tiền thông kinh.
    · Điều thí sinh cần tránh nhất trong bài thi là phạm huý. Huý là kiêng, tránh; phạm huý là phạm vào tên cần phải tránh. Có 2 dạng: Kinh huý (huý nhẹ) gồm tên của bà vua, mẹ vua, tổ tiên lâu đời của nhà vua và Trọng huý (huý nặng) gồm tên vua, tên bố vua... Để sĩ tử khỏi phạm huý nên trước khi thi triều đình cho niêm yết bảng các chữ huý để họ học thuộc lòng. Nếu bài thi vẫn phạm huý thì sẽ bị đánh hỏng.
    · Biện pháp trừng phạt nghiêm khắc nhất: Đối với những hành vi vi phạm nghiêm trọng trong thi cử thì ngoài hình phạt chém và tù đày thì biện pháp nghiêm khắc nhất được áp dụng là ?o chung thân bất đắc ứng thí ?: thí sinh bị cấm thi suốt đời.
    · Công việc có trách nhiệm nhất là việc phân khảo, các quan chấm thi trong kỳ thi Hương có nhiệm vụ rà soát lại các bài thi bị đánh hỏng ở lượt chấm đầu tiên do các quan sơ khảo chấm. Mục đích để vớt những sĩ tử xứng đáng, tránh việc bỏ sót người tài.
    · Để đảm bảo chặt chẽ trong các kỳ thi Hương, thi Hội các triều đại khi tổ chức thi đều sử dụng 2 con dấu đặc biệt. Dấu Giáp phùng được quan trường thi đóng vào hai tờ một ở quyển thi của sĩ tử để đề phòng sự thay đổi, đánh tráo các tờ giấy thi. Dấu Nhật trung (Nhật trung là giữa ngày, tức 12 giờ trưa); trong kỳ thi Hương, thi Hội vào đúng 12 giờ (Chính Ngọ) quan trường cho đánh một hiệu lệnh bằng tiếng trống, thí sinh nộp bài để quan trường đóng dấu vào chỗ chữ viết sau cùng trong bài thi nhằm tránh việc thay đổi quyển thi. Sĩ tử nào quên đưa quyển thi để đóng dấu này thì bài thi sẽ bị loại, không chấm.
    · Đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) là đời có nhiều người đỗ đạt nhất. Trong 37 năm làm vua, ông đã cho mở 12 khoa thi Hội lấy được 501 người đỗ Tiến sĩ, trong đó có 9 người đỗ Trạng nguyên.
    · Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức) là bộ luật đầu tiên quy định việc xử lý vi phạm quy chế thi. Điều 99: ?o Các cử nhân vào thi Hội mà mượn người làm bài cho mình thì cả hai đều bị biếm 3 tư. Thi Hương thì biếm 2 tư. Ai giấu đem mang sách vở vào trường thi thì phạt 80 trượng?. Điều 101: ?oKhi thi Hương, thi Hội các quan có nhiệm vụ xét kẻ mang giấu sách vở mà không khám xét hoặc làm qua loa thì bị phạt 60 trượng. Biết mà cố ý dung túng thì cũng xử tội như thế?.
    · Khoa thi năm Bính Tuất (1826) vua Minh Mạng quy định điều lệ: Học trò thi Hương mang tài liệu vào nơi thi thì bị đóng gông 1 tháng, sau đó bị đánh 100 trượng và bị tước bỏ bằng cử nhân đã có. Đặng Tế Mỹ là người đầu tiên bị hình phạt này khi vi phạm quy chế trong khoa thi cùng năm 1826.
    · Vụ gian lận trường thi đầu tiên mà sử sách ghi lại là vào năm Quý Sửu (1673). Tại kỳ thi Hương, tham chính Vũ Vĩnh Hồi và tiến sĩ Vũ Bật Hài ?oăn tiền bạc, gửi gắm sĩ tử trong 4 kỳ thi? ; Phủ doãn Ngô Sách Dụ coi thi đã ngấm ngầm đem sách vở và văn cũ vào trường thi để cho người nhà viết thay quyển thi, trộn đưa vào lấy đỗ. Vụ việc bị phát giác, những người này đều bị tội đồ. Cũng trong khoa thi này tham chính Lê Chí Đạo làm sai lệch trong việc thi khảo các sĩ tử, đem các quyển thi mới trúng cách (mới đủ tiêu chuẩn xét đỗ) vào bảng thi đỗ, lại cho nhiều sĩ tử gà văn. Khi luận tội, Lê Chí Đạo bị bãi chức.
    · Năm Bính Tý (1696) Ngô Sách Tuân làm giám thí trường thi Thanh Hoa, tham tụng Lê Hy nhờ ?olưu ý? hộ bài thi của con mình. Sau đó Ngô Sách Tuân đưa riêng bài thi đó ra lấy trúng cách; Đề hiệu (phó chủ khảo) Ngô Hải biết nhưng không tố cáo. Khi bị phát giác, Ngô Sách Tuân bị khép tội giảo (thắt cổ), Ngô Hải vì không giữ phép nước bị bãi chức, các quan giám khảo, phúc khảo có liên quan đều bị đánh trượng. Đây là vụ án trường thi duy nhất mà người mắc tội chính phải chịu hình phạt tử hình.
    · Vụ gây rối trường thi lần đầu tiên xảy ra trong khoa thi Ất Dậu (1825), Nguyễn Thiên Điều thấy đầu bài khó, không làm được nên cầm đầu một tốp sĩ tử gây rối một khu vực thi làm cả trường thi náo động.Vụ việc được đưa ra xét xử, Nguyễn Thiên Điều bị tội xử giảo giam hậu, sau được giảm tội phải đi làm lính thú. Các quan coi trường thi tâu báo chậm vụ việc đều bị khiển trách; riêng các Đốc học, Giám thị sở tại và Tế tửu Quốc Tử Giám do không giáo dục học trò vào khuôn phép, làm thầy không nghiêm đều bị giáng chức, cách chức theo thứ bậc khác nhau.
    ·
  3. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Vụ thí sinh thi trượt được lấy đỗ xảy ra tại trường thi Nghệ An trong khoa thi Ất Dậu (1825). Các đốc học và một số quan phủ huyện ghi tên những thí sinh là người thân quen thi trượt nhưng vẫn đưa vào lấy đỗ 36 người. Vụ việc vỡ lở, hai viên quan được triều đình cử tới kiểm tra trường thi là Nguyễn Hữu Nghi và Hoàng Quýnh biết nhưng không tâu báo, Hữu Nghi bị giáng chức, Hoàng Quýnh bị cách chức và đi đày. Các quan coi thi cùng quan phủ huyện có liên quan đều bị cách chức hoặc chịu các hình phạt khác nhau. Những thí sinh hỏng thi được lấy đỗ đều bị đánh trượt.
    · Vụ sửa chữa bài thi đầu tiên: Trong khoa thi năm Tân Sửu (1841) đời Thiệu Trị, hai quan chấm sơ khảo là Cao Bá Quát và Phan Nhạ chữa bài thi các học trò của mình, lấy đỗ thêm 5 người. Bị phát giác, Cao Bá Quát và Phan Nhạ bị khép tội xử tử. Quan Chánh chủ khảo trường thi là Trương Tiến Sĩ và phó Chủ khảo Bùi Quỹ do không chú ý kiểm tra phát giác vụ việc nên bị cách chức; quan giám khảo Phan Văn Nhã và Trương Hải không làm tốt nhiệm vụ đều bị giáng chức.
    · Bia tiến sĩ đầu tiên được vua Lê Thánh Tông cho dựng trong sân Quốc Tử Giám vào năm 1484. Đây là bia đá khắc tên những người đỗ Tiến sĩ khoa thi Nhâm Tuất (1442); mục đích cổ vũ, khuyến khích việc học tập, tôn vinh những người đỗ đạt...Kể từ đó các đời vua sau đều cho dựng bia Tiến sĩ sau mỗi khoa thi.
    · Bia Tiến sĩ dựng năm 1484 cũng là văn bia nổi tiếng nhất có ảnh hưởng tới nhiều văn bia sau này như bia năm 1511, 1577... và cũng là văn bia có đoạn văn được trích dẫn nhiều nhất: ?o Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Bởi vậy, các đấng thánh đế minh vương, chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ có mối quan hệ thật là quan trọng đối với sự phát triển của đất nước...?
    · Thời gian tổ chức các kỳ thi: Thể lệ thi buổi đầu chưa ổn định nên khoảng cách giữa các khoa thi không thống nhất, thời Lý thường là 12 năm. Tới khoa thi Kỷ Hợi (1239) đời Trần Thái Tông lệ thi được định rõ 7 năm một kỳ. Đến năm 1435 Lê Thái Tông định lại 6 năm một kỳ. Nhưng đến năm 1466 Lê Thánh Tông cho đổi lại 3 năm một kỳ và lệ thi này ổn định từ đó đến cuối đời Nguyễn.
    · Khoảng thời gian dài nhất không lấy được người đỗ Trạng nguyên là đời vua Lê Hiển Tông. Tính từ năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) đến năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785) suốt 42 năm, trải qua 16 khoa thi không lấy được Trạng nguyên vì không có người xứng tầm với học vị đó.
    · Vinh dự cao nhất: Những tân khoa đỗ trong kỳ thi Đình sẽ được vua ban yến tiệc, cấp mũ áo, cân đai và ban ?o sắc tứ vinh quy ? cho rước về làng một cách vẻ vang. Tuỳ theo bậc đỗ mà quy định cách đón rước tân khoa Vinh quy. Về cơ bản: đỗ Trạng nguyên (đệ nhất giáp đệ nhất danh tiến sĩ cập đệ) cả nước đón rước, đi đến đâu nơi đó phải rước, cứ thế cho đến khi về tới quê hương. Đỗ Bảng nhãn, Thám hoa (đệ nhất giáp đệ nhị danh, đệ tam danh tiến sĩ cập đệ) cả tỉnh nơi cư trú đón rước. Đỗ Hoàng giáp (đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân) cả huyện nơi cư trú đón rước. Đỗ Tiến sĩ (đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân) cả tổng nơi cư trú đón rước.
    · Ông vua đầu tiên đặt ra lệ Vinh Quy là Lê Thánh Tông (1460-1497) và quan Trạng đầu tiên được hưởng vinh dự này là Phạm Đôn Lễ, đỗ khoa Tân Sửu năm Hồng Đức thứ 12 (1481).
    · Lệ xướng danh được quy định lần đầu tiên vào năm Bính Tuất (1466) đời Lê Thánh Tông. Xướng danh là đọc tên những người đỗ đạt để cho tất cả đều biết; mục đích nhằm tôn vinh và khuyến khích các sĩ tử.
    · Trạng nguyên là học vị cao quý nhất phong cho người đỗ đầu trong Tam khôi bậc nhất giáp của kỳ thi Thái học sinh đời Trần và các đời sau trong kỳ thi Đình.
    · Có hai học vị Trạng nguyên: Nhằm mục đích khuyến khích việc học ở những vùng xa kinh đô, nơi có nhiều khó khăn, trong khoa thi năm Bính Thìn (1256) Trần Thái Tông cho lấy Kinh Trạng nguyên và Trại Trạng nguyên. Kinh Trạng nguyên là học vị phong cho những người ở kinh đô và khu vực phía Bắc đỗ đầu trong kỳ thi Đình năm 1256. Trại Trạng nguyên là học vị cho người ở các vùng từ Thanh Hoá trở vào Nam đỗ đầu trong kỳ thi Đình năm 1256.
    · Bậc khai khoa của lịch sử khoa bảng Nho học nước ta là Lê Văn Thịnh, người làng Đông Cứu, huyện Yên Định, lộ Bắc Giang (nay thuộc Bắc Ninh). Đỗ đầu khoa thi năm Ất Mão (1075) đời Lý Nhân Tông, sau này ông làm quan đến Thị lang bộ Binh, rồi giữ chức Thái sư trong suốt 12 năm liền.
    · Trạng nguyên đầu tiên: Nguyễn Quan Quang, người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, Kinh Bắc (nay thuộc Tiên Sơn, Bắc Ninh). Ông đỗ khoa thi năm Bính Ngọ (`1246) đời Trần Thái Tông, sau làm quan tới chức Bộc xạ, hàm Đại tư không.
    · Trạng nguyên cuối cùng: Trịnh Tuệ (Huệ), người xã Bất Quần, huyện Quảng Xương, trấn Thanh Hoa (nay thuộc Thanh Hoá). Đỗ khoa thi năm Bính Thìn (1763) đời Lê Ý Tông. Ông cũng là Trạng nguyên lạ nhất khi đỗ đầu kỳ thi Đình tổ chức tại phủ chúa Trịnh chứ không phải tại điện vua Lê như thông lệ. Sau làm quan ở các chức Thượng thư bộ Hình, Thừa chỉ, Tế tửu Quốc Tử Giám.
    · Kinh Trạng nguyên đầu tiên: Trần Quốc Lặc quê ở Thanh Lâm, châu Thượng Hồng (nay thuộc Nam Sách, Hải Dương), đỗ khoa thi năm Bính Thìn (1256) đời Trần Thái Tông. Sau làm quan đến chức Thượng thư.
    · Trại Trạng nguyên đầu tiên: Trương Xán quê Hoành Bồ, Quảng Trạch, châu Bố Chính (này thuộc Quảng Bình), đỗ năm 1256 khoa thi Bính Thìn đời Trần Thái Tông. Sau làm quan đến chức Thị lang.
    · Kinh Trạng nguyên cuối cùng: Trần Cố, người huyện Thanh Miện, châu Hạ Hồng (nay thuộc Hải Dương). Đỗ khoa thi năm Bính Dần (1266) đời Trần Thánh Tông; nổi tiếng thanh liêm, làm quan đến Đông các đại học sĩ.
    · Trại Trạng nguyên cuối cùng: Bạch Liêu, người huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay thuộc Nghệ An) đỗ khoa thi năm Bính Dần (1266) đời Trần Thánh Tông. Ông không ra làm quan mà về làm môn khách trong phủ Thái sư Trần Quang Khải.
    · Trạng nguyên trẻ nhất là Nguyễn Hiền, người xã Dương A, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường sau đổi là trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc Nam Ninh, Nam Định). Đỗ trạng khoa thi Đinh Mùi (1247) đời Trần Thái Tông, khi đó ông mới 13 tuổi. Sau này làn quan đến chức Thượng thư bộ Công.
    · Trạng nguyên già nhất, có 3 người:
    - Vũ Tuấn Chiêu, người làng Nhật Thiên, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc Hà Nội), đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi (1475) đời Lê Thánh Tông, khi đó ông 50 tuổi. Sau làm quan tới chức Lại bộ Tả thị lang.
    - Nguyễn Đức Lượng, đỗ Trạng khi 50 tuổi trong khoa thi năm Giáp Tuất (1514) đời Lê Tương Dực. Ông người xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Tây), sau làm quan Thượng thư.
    - Nguyễn Xuân Chính, đỗ khi 50 tuổi trong khoa thi năm Đinh Sửu (1637) đời Lê Thần Tông. Quê ông ở làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (này là Tiên Sơn, Bắc Ninh). Làm tới chức Tả thị lang bộ Lại, tham gia trận mạc nhiều lần, được phong làm Thượng thư, tước Hầu.
    · Bảng nhãn đầu tiên là Phạm Văn Tuấn, đỗ khoa thi năm Bính Ngọ (1246) đời Trần Thái Tông.
    · Bảng nhãn cuối cùng là Vũ Duy Thanh, người phủ Yên Khánh (nay thuộc Ninh Bình), đỗ khoa thi năm Tân Hợi (1851) đời vua Tự Đức.
    · Bảng nhãn trẻ nhất: Lê Văn Hưu, người huyện Thiệu Sơn, Thanh Hoá. Đỗ khoa thi năm Đinh Mùi (1247) đời Trần Thái Tông; khi đó ông mới 18 tuổi.
    · Bảng nhãn già nhất: Nguyễn Nghi, đỗ khoa thi năm Đinh Sửu (1637) đời Lê Thần Tông lúc 61 tuổi.
    · Thám hoa đầu tiên: Vương Hữu Phùng, đỗ khoa thi năm Bính Ngọ (1246) đời Trần Thái Tông.
    · Thám hoa cuối cùng là Vũ Phạm Hàm, đỗ khoa thi năm Nhâm Thìn (1892) đời vua Thành Thái.
    · Thám hoa trẻ nhất: Đặng Ma La đỗ khi mới 14 tuổi trong khoa thi năm Đinh Mùi (1247) đời Trần Thái Tông.
    · Thám hoa già nhất: Giang Văn Minh, đỗ khoa thi năm Mậu Thìn (1628) thời Lê Thần Tông, khi đó ông 56 tuổi.
    · Trạng nguyên duy nhất đi tu là Lý Đạo Tái. Ông quê ở làng Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Bắc Giang (nay thuộc Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Tuất (1274) đời Trần Thánh Tông. Làm quan một thời gian ngắn rồi xin từ chức và đi tu với pháp hiệu Huyền Quang rồi trở thành Thiền sư đệ tam tổ - vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
    · Trạng nguyên có xuất thân đặc biệt nhất: Lê Ích Mộc người huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, thừa tuyên Hải Dương (nay thuộc Thuỷ Nguyên, Hải Phòng), đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tuất (1502) đời Lê Hiến Tông. Ông vốn là một đạo sĩ nên khi đỗ vua ban cho danh là ?oTuyên Chế Từ?, ông kính cẩn lạy tạ, hai tay bưng đỉnh hương cháy rừng rực, xém dộp da tay nhưng không hề có cảm giác nóng bỏng.
    ·
  4. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Trạng nguyên có phương pháp học lạ nhất: Phạm Quang Tiến, người Lương Xá, huyện Lương Tài, xứ Kinh Bắc (nay thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh) đỗ Trạng khoa Ất Sửu (1565) đời Mạc Hậu Hợp. Tương truyền từ năm 2 tuổi đã được mẹ dạy học, mẹ viết ra một dòng chữ cho ông đọc xong rồi đốt luôn, sau bắt đọc lại. Hai ngày sau hỏi lại ông đọc vẫn không nhầm lẫn. Đến khi đi học, đọc mỗi trang sách một lần rồi đốt đi, người khác bảo đọc lại, ông đọc không sai một chữ.
    Nữ Tiến sĩ duy nhất trong lịch sử khoa cử Nho học là Nguyễn Thị Duệ (còn có tên khác là Nguyễn Thị Du), bà quê xã Kiệt Đặc, phủ Nam Sách (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương), từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, ham học. Nhà Mạc khi thua trận rút lên Cao Bằng vẫn tổ chức các khoa thi; trong khoa thi Bính Thìn (1616) đời Mạc Kính Cung bà giả trai, lấy tên là Nguyễn Ngọc Toàn dự thi và đỗ Tiến sĩ khi mới hơn 20 tuổi. Khi biết việc, vua Mạc rất mến tài vời vào cung phong làm phi và đặt tên là Sao Sa. Khi Mạc bị diệt hẳn, vua Lê mời bà giữ chức Nghi ái quan để dạy các cung nữ và thường hỏi về chính sự, lại giao khảo hạch các bài thi Hội, Đình. Năm 70 tuổi bà xin nghỉ hưu và mất ở quê nhà ở tuổi ngoài 80.
    · Người cao tuổi nhất đỗ Tiến sĩ là Quách Đồng Dần đỗ khoa thi năm Giáp Tuất (1634) đời vua Lê Thần Tông, khi đó ông đã 68 tuổi.
    · Sĩ tử cao tuổi nhất trong lịch sử là cụ Vũ Đình Thự, người Đông Quan, Thái Bình. Dự thi khoa Canh Tý (1900) đời Thành Thái khi đã 84 tuổi; mặc dù không đỗ nhưng cụ là tấm gương sáng của ý chí, tinh thần hiếu học, tiếp thu tri thức bất kể tuổi tác.
    · Sĩ tử cao tuổi nhất đỗ đạt là cụ Đoàn Tử Quang, sinh năm 1819, quê làng Phụng Công, huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh). Tham gia khoa thi năm Canh Tý (1900) đời Thành Thái, đỗ thứ 29 trong tổng số 30 cử nhân được chọn, khi đó cụ 81 tuổi (khoa này Phan Bội Châu đỗ đầu). Sau đó được bổ làm Huấn đạo Hương Sơn, nổi tiếng liêm chính, lúc về hưu đã trên trăm tuổi; cụ mất năm 1925 thọ 106 tuổi.
    · Những ông Trạng ?ođem chuông đi đánh xứ người? làm vẻ vang đất nước, khiến ?othiên triều? phải kính phục phong làm ?oLưỡng quốc Trạng nguyên?, gồm có:
    - Mạc Đĩnh Chi, người xã Lũng Động, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, lộ Hải Đông (nay thuộc Hải Dương), đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) đời Trần Anh Tông.
    - Nguyễn Trực, người xã Bối Khê, huyện Ứng Thiên, phủ Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Tây). Đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tuất (1442) đời Lê Thái Tông và là trạng nguyên đầu tiên của nhà Hậu Lê.
    - Nguyễn Đăng Đạo, người làng Hoài Bão, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Tiên Du, Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên khoa Quý Hợi (1683) đời Lê Hy Tông.
    ·Bài ca dao thú vị nhất:
    Ai ơi chớ lấy học trò
    Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm
    Dài lưng đã có võng đào
    Tốn vải đã có áo trào vua ban
    ·Giai thoại hay nhất: Vào một đêm Trung thu, vua Lê Thánh Tông cùng các vị trong hội Tao Đàn mở cuộc thi thơ. Thấy các quan chăm chú làm bài, người lính hầu trẻ tuổi cũng mạn phép xin làm thơ dự thi dâng lên vua. Tuy chỉ là bài thơ của một người lính, viết trên giấy xấu nhưng vua Thánh Tông rất trân trọng đọc kỹ từng câu rồi nói: ?oMới hay đất nước thái bình, việc học được trú trọng nên đến anh lính hầu cũng làm được thơ hay?. Khen ngợi bài thơ hay và tác giả chỉ là người lính mà vẫn chăm chỉ học hành, nhà vua ban ít tiền và cho về quê khuyến khích học tập thêm. Người lính đó là Nguyễn Toàn An, người Đường An (Hải Dương) đến khoa thi năm Tân Sửu (1481) đã đỗ Thám hoa. Vậy là đất nước có thêm một nhân tài và người phát hiện là một vị vua anh minh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
    ~ BIỆT DANH MỘT SỐ ÔNG TRẠNG:
    · Trạng Lợn : Nguyễn Nghiêu Tư, người xã Phú Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448) đời Lê Nhân Tông. Tục truyền ông sinh vào tháng Hợi (tức tháng 10 ÂL) nên bố đặt cho tên tục là Lợn, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, chăm học... Đêm hôm trước ngày thi Đình vua Lê Nhân Tông mơ thấy lợn đỗ Trạng, khi yết bảng thấy tên ông đỗ đầu, vua hỏi thì biết ông sinh tháng Hợi (Lợn). Do vậy dân gian có câu: Long đầu lợn Nguyễn Nghiêu Tư và gọi ông là Trạng Lợn.
    · Trạng Lường: Lương Thế Vinh, người làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam (nay thuộc Nam Định) từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng, rất giỏi tính toán. Ông đỗ Trạng nguyên khoa thi Quý Mùi (1463) đời Lê Thánh Tông, là tác giả của cuốn ?oĐại thành toán pháp?. Có nhiều giai thoại lưu truyền về tài tính toán của ông nên dân gian gọi ông là Trạng Lường (Trạng đo lường).
    · Trạng Chiếu: Phạm Đôn Lễ, người huyện Ngự Thiên, phủ Tân Hưng, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hưng Hà, Thái Bình), đỗ Trạng nguyên khoa thi năm Tân Sửu (1481) đời Lê Thánh Tông. Năm 1484, khi đi sứ sang nhà Minh qua vùng Quế Lâm (Quảng Tây) ông chuyên chú khảo sát nghề dệt chiếu ở đây; khi về nước đã truyền lại cho dân quê mình. Ông được coi là tổ nghề dệt chiếu, dân gian thường gọi là Trạng Chiếu.
    · Trạng Hổ: Nghiêm Hoãn vốn tên là Viên, người huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Bắc Ninh); đỗ Trạng nguyên khoa Bính Thìn (1496) đời Lê Thánh Tông. Trước ngày thi Đình, vua nằm mộng thấy hổ ăn đầu người nên cho gọi tất cả những người đậu vào thề trước điện; khi thấy ông tướng mạo dữ tợn, râu tóc mặt mũi giống hổ nên vua truyền đổi tên là Hoãn và gả công chúa cho.
    · Trạng Ăn: Lê Nại người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay thuộc Hải Dương), đỗ Trạng nguyên khoa thi năm Ất Sửu (1505) đời Lê Uy Mục, nổi tiếng là người ăn khoẻ. Khi làm rể quan Thượng thư Vũ Quỳnh, suốt ngày ông chỉ đóng cửa ở nhà, không chú ý học. Khi biết con rể vì đói không học được nên Vũ Quỳnh cho ăn 1 một đấu năm lẻ thì Lê Nại học đến canh ba, ăn 1 đấu 8 lẻ thì học đến canh tư, ăn tới 2 đấu thì học suốt đêm không nghỉ. Năm 27 tuổi đỗ trạng, từ đó mọi người gọi ông là Trạng Ăn.
    · Trạng Me: Nguyễn Giản Thanh, người xã Hương Mặc, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Kinh Bắc (nay thuộc Tiên Sơn, Bắc Ninh). Đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1508) đời Lê Uy Mục, làm quan đến Hàn lâm thi thư kiêm Đại học sĩ, thượng thư Bộ lễ, Hàn lâm thị độc, tước Trung phủ bá. Do làng ông có tên Nôm là làng Me nên dân gian gọi ông là Trạng Me.
    · Trạng Trình: Nguyễn Bỉnh Khiêm, người làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng), thông minh từ nhỏ. Đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi (1535) đời Mạc Thái Tông; là người rất giỏi lý số, làm nhiều câu sấm ngữ... Ông làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các đại học sĩ, rồi Thượng thư bộ Lại, tước Trình tuyên hầu; sau khi mất được phong là Trình Quốc công, vì thế người đời gọi ông là Trạng Trình.
    · Trạng Bịu: Nguyễn Đăng Đạo, người xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là Tiên Du, Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên khoa Quý Hợi (1683) đời Lê Hy Tông; làm quan đến chức Binh bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, tước Thọ lâm bá, sau giữ chức Tham tụng (Tể tướng). Khi mất vua Lê viết: ?oĐỗ Tiến sĩ, làm đến Thượng thư trong thiên hạ có nhiều. Nhưng đậu Trạng nguyên, làm đến Tể tướng thì hiếm có?. Do làng Hoài Bão quê ông còn có tên Nôm là làng Bịu nên người ta gọi ông là Trạng Bịu.
    · Ngoài ra một số người tuy không đỗ Trạng nhưng nổi tiếng về tài năng, trí tuệ nên nhân dân vẫn ?ophong? là Trạng như: Trạng Quét Lê Quát, Trạng Chằm Vũ Quỳnh, Trạng Ngọt Hứa Tam Tỉnh, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Trạng Ăn Lê Như Hổ, Trạng Ăn Lê Nho Khoa, Trạng Cờ Vũ Huyến, Trạng Toán Vũ Hữu, Trạng Chạy Vũ Cương Trực, Trạng Vật Vũ Phong, Trạng Quỳnh Nguyễn Quỳnh...
    · Chế độ lương bổng lần đầu tiên được quy định vào năm Bính Thân (1236) đời Trần Thái Tông: ?ođịnh lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong ngoài và các quan ở cung điện, lăng miếu; chia tiền thuế, ban cấp theo thứ bậc? (Đại Việt sử ký toàn thư).
    · Phép khảo khóa (hay khảo công) được tiến hành lần đầu tiên vào năm Tân Mão (1051) đời Lý Thái Tông. Phép khảo khoá quan lại là hoạt động của Nhà nước được thực hiện định kỳ 3 năm một lần nhằm khảo xét hành trạng, những công việc làm được hay không làm được của các quan lại để phân thành 3 hạng: tốt, thường và xấu. Căn cứ vào các hạng được phân loại, triều đình sẽ xét việc thăng chức, giáng chức với họ; hoặc thuyên chuyển đi nơi khác hay cho làm công việc khác thích hợp hơn. Hoạt động này giúp nhận rõ ưu nhược điểm, mặt mạnh yếu của các quan lại để chấn chỉnh, bố trí từng người những nhiệm vụ phù hợp, khích lệ sự cố gắng phấn đấu, răn đe, phát giác các hành vi xấu...
    · Chế độ hồi tỵ được áp dụng lần đầu tiên vào năm Bính Ngọ (1486) đời Lê Thánh Tông. Theo nghĩa tiếng Hán thì ?ohồi tỵ? là ?o tránh đi? hoặc ?o lánh đi?; đây là khái niệm chỉ chế độ làm việc và xây dựng bộ máy chính quyền. Theo đó những người có quan hệ cha con, anh em, thầy trò, bạn bè...không được cùng làm quan hay làm việc một chỗ; hoặc quan lại không được làm việc tại bản quán, quê vợ... Nếu ai gặp một trong những trường hợp nêu trên thì phải tâu lên để xin luôn chuyển, phân công đi làm ở nơi khác. Mục đích nhằm tránh việc những người có quan hệ thân thiết, gần gũi thường nể nang nhau, làm việc không khách quan khi gặp người thân quen; tránh việc bao che cho nhau gây tiêu cực, làm bộ máy chính quyền hoạt động kém hiệu qủa.
    · Chế độ trí sĩ (hưu trí) cho quan lại được quy định lần đầu tiên dưới thời Lê Thánh Tông, với độ tuổi 65. Từ đời Lê Trung Hưng trở về sau nâng lên 70 tuổi; thực tế nếu ai muốn xin nghỉ sớm phải làm tờ tâu lên vua hoặc làm tờ khai với phủ Chúa để được xem xét, chuẩn y.
    Một vài điều cóp nhặt trong sử sách chắc chắn chưa nói lên được hết những điều thú vị, những nét đặc sắc trong việc học, việc thi; trong đào tạo và sử dụng nhân tài của cha ông ta ngày trước. Rất mong các bạn đọc có thêm những khám phá, đóng góp tiếp vào việc tìm hiểu sự nghiệp trồng người và dùng người của nước Việt thời xưa, âu cũng là cách chúng ta ?o mua vui cũng được một vài trống canh? với nhau.
    Cám ơn các bạn, xin thứ lỗi nếu bài viết bị đứt đoạn , tôi phải cắt làm nhiều phần thì website này mới cho gửi vì số lượng chữ nhiều quá quy định.
    Mọi thư từ, góp ý, bổ sung, động viên...hay hỗ trợ tài chính xin liên hệ:
    LÊ TOÀN THƯ (letoanthu@hopthu.com)
  5. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Bài này hay lắm. Tuy nhiên nói về trồng người tôi muốn nói thêm đôi điều.
    "Bác" nhà ta vì muốn trong sáng hóa tiếng Việt nên dịch cụm từ "bách niên thụ nhân" của Quản Trọng (nước Tề thời chiến quốc) thành "trăm năm trồng người". Chữ Nhân của Quản Trọng hoàn toàn khác với chữ "người" thành ra cái hay cái đẹp của chữ Nhân ấy bị rụng rơi hết sau khi chuyển thành người.
    Chữ Nhân này chiết tự là "hai người" . Nó mang nghĩa là "quan hệ" giữa hai hoặc nhiều hoặc 1 nhóm người, thành ra nó gồm : nhân ái, nhân đạo, nhân từ, nhân chính....
    Cho nên không chỉ trong các trường tiểu học, phổ thông nên treo khẩu hiệu "trăm năm trồng nhân" mà có thể treo bất cứ nơi nào như trường Đại Học, Quốc Hội và cả Hội Người Cao Tuổi... vì cái chữ Nhân ấy cần trồng trọt, tu dưỡng đến bạc đầu cơ...
  6. lyngocly

    lyngocly Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    0
    Vâng, đồng ý với Ledung18.
    Bài khảo luận về Nước Việt trồng người của Bác Cây Tre Việt Nam thật hay. Cám ơn Cây Tre Việt Nam.
    Nhận xét của Ledung18 cũng thật hay. "Nhân" tự nó không có ý nghĩa nếu không nằm trong quan hệ. Cám ơn Ledung18.
    Hôm nay tôi may quá, đọc được nhiều điều hay.
  7. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0

    Thưa với bác là không phải vì mục đích trong sáng hóa TV, mà là giúp người dân, đa số là thiếu chữ nghĩa hiểu một cách dễ dàng hơn.Đọc các bài viết của người dành cho đồng bào của mình thì thấy rõ tinh thần này.
  8. FJX

    FJX Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    5.880
    Đã được thích:
    0
    Theo em nên chiết ra thành chữ Nhân Nhị chứ không phải Nhị Nhân anh ạ.
    Nói về trồng người, em thấy chương trình học bỏ bớt 1 nửa đi là xong. Vậy là thay vì vào lớp 7 em lại được học nghề, đến năm 18 tuổi là 1 chuyên gia, chẹp chẹpjk
    Lại nói về giáo dục, em mạn phép trích dẫn lời 2 thầy giáo nói như sau:
    Ở Nhật Bản:
    Đất nước chúng ta rất nghèo, không có tài nguyên, thiên nhiên không ưu đãi, dân chúng ta đông, đất chúng ta hẹp, các con phải cố gắng học tập để xây dựng đất nước.
    Ở Việt Nam:
    Đất nước chúng ta có 4000 năm văn hiến, tinh thần chiến đầu ngoan cường, từng thắng đế quốc Mỹ hùng mạnh.... Đất nước chúng ta thật giàu đẹp, có rừng vàng biển bạc, có... có... có...

Chia sẻ trang này