1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ồ?ạố?"ọáZọẵ?ố?? - C?Âu ?'ỏằ'i và c?Ăc Giai thoỏ?Ăi

Chủ đề trong 'Trung (China Club)' bởi vinhaihong, 06/02/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Ôi, chẳng biết mấy bài này mình hay vinhaihong đã post len chưa nữa.
    Lương Thế Vinh người làng Cao Lương huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định, đỗ Trạng Nguyên đời Lê năm 22 tuổi, làm quan tới chức Hàn Lâm Trực Học Sĩ. Không những giỏi thi phú, thông làu kinh sử, ông còn là 1 nhà khoa học đại tài, người soạn sách "Đại Thành Thập Toán", và giỏi tài giúp dân đo đạc ruộng đất chính xác, nên được gọi là Trạng Lường.
    Một lần vua Lê Thánh Tông đi thị sát dân tình vùng Sơn Nam. Trên đường về vua ghé lại làng Cao Lương thăm quan Trạng. Ông cùng các chức sắc trong làng đón vua và mời đến thăm chùa. Sư cụ đang tụng kinh thấy vua tới, lập cập thế nào làm rớt chiếc quạt xuống đất mà chưa dám lượm sợ thất lễ. Viên quan tuỳ tùng nhà vua nhặt chiếc quạt đưa cho sư cụ. Vua quan thấy vậy cùng cười. Khi trở ra, tiệc rượu đã bày sẵn, vua quan cùng ngồi vào mâm trên, Trạng và các chức sắc làng ngồi chiếu dưới. Rượu ngà ngà, vua hừng chí đọc câu đối bắt các quan đối lại. Câu đối ra như sau :
    _ "Đường thượng tụng kinh, sư sử sứ"
    nghĩa là: "đọc kinh trên bục, sư khiến sứ" (quan sứ của vua).
    Không viên quan nào đối được, bởi vì khó nhất là tìm 3 chữ đồng âm khác dấu ghép liền nhau cho có nghĩa để đối với câu "sư sử sứ" của nhà vua.
    Thấy Lương Thế Vinh ngồi im, Lê Thánh Tông đắc ý ra lệnh cho quan Trạng phải đối. LTV bèn quay lại bảo người hầu mời bà Trạng tới ngay. Khi vợ tới rồi, ông đứng dậy lảo đảo bảo vợ dìu đi và xin phép vua về vì đã quá chén sợ thất lễ. Thánh Tông cười nói :
    _ Ngươi không đối được nên tìm cách trốn ta đấy phải không?
    Quan Trạng thản nhiên đáp :
    _ Muôn tâu thánh thượng, thần đâu dám trái mệnh. Thần đã đối xong rồi!
    Vua ngạc nhiên hỏi :
    _ Ngươi không say chứ?
    _ Muôn tâu thánh thượng, quả là thần không dám nói dối.
    _ Vậy thì khanh hãy đọc trẫm nghe.
    LTV cao giọng :
    _ "Đình tiền tuý tửu, phụ phù phu".
    nghĩa là: "Trước đình say rượu, vợ dìu chồng".
    Thánh Tông cười vang khen ngợi :
    _ Quan Trạng đối rất chỉnh và sát ý. "Đường thượng" đối với "đình tiền" đã hay, "tụng kinh" với "tuý tửu" cũng chỉnh, mà "sư sử sứ" đối với "phụ phù phu" thì thật tuyệt vời, tưởng không còn vế đối nào hơn thế nữa!
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Đoàn Thị Điểm
    Trong làng văn thơ chữ nghĩa đối hoạ, không người nào không biết tới câu đối hiểm hóc tương truyền của bà Đoàn Thị Điểm đã khiến cho Trạng Quỳnh phải cả đời ấm ức khôn nguôi :
    _ "Da trắng vỗ bì bạch"
    Hàng trăm năm sau vẫn có những bậc tài tuấn hậu sinh vò đầu bứt tóc cố tìm cách chứng tỏ mình giỏi hơn Trạng Quỳnh. Tuy nhiên vẫn chưa ai xứng đáng là đối thủ của người nữ sĩ tài ba này.
    Đoàn Thị Điểm có biệt hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, là con của ông đồ Đoàn Doãn Nghi, quê làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Anh bà là Đoàn Doãn Luân cũng là người giỏi văn thơ. Chuyện kể rằng một bữa bà đang ngồi soi gương trang điểm, anh bà chọc rằng :
    _ "Đối kính hoạ mi, nhứt điểm phiên thành lưỡng điểm"
    nghĩa là "soi gương, kẻ mày, một chấm biến thành hai chấm", đồng thời Điểm cũng là tên bà, nên có thể hiểu "soi gương, kẻ mày, một cô Điểm biến thành hai cô Điểm". Thật là tài tình, câu thơ mô tả cảnh hiện tại bà Điểm đang kẻ lông mày vô cùng chính xác.
    Nhìn thấy ông anh đang đi ngoài sân cạnh cầu ao, trăng vàng soi bóng, bà ứng khẩu đáp liền :
    _ "Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân"
    nghĩa là "tới ao ngắm trăng, một vầng (trăng) chuyển ra hai vầng", mà cũng có thể hiểu là "tới ao ngắm trăng, một ông Luân chuyển ra hai ông Luân". Đối chan chát cả về ý lẫn từ, cả nghĩa đen lẫn bóng!
    Lúc mới lên 5 tuổi ĐTĐ đã nổi tiếng thần đồng. Một ngày ĐTĐ đang học Kinh Thi do ông Đồ Nghi dạy, ông đồ bèn ra câu đối thử tài con gái :
    _"Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi"
    nghĩa là "rắn trắng cản đường, ông Quý tuốt gươm mà chém" lấy tích trong Kinh Thi Hán Cao Tổ Lưu Quý (hay Lưu Bang) lúc hàn vi say rượu chém rắn giữa đường.
    Cô gái 5 tuổi không do dự, đọc câu đối ngay :
    _"Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết"
    nghĩa là "rồng vàng nâng thuyền, vua Vũ trông trời mà than" cũng lấy tích từ trong Kinh Thi ra. Ông đồ kinh ngạc trước tài năng sớm phát của con gái mình.
    Năm 16 tuổi tiếng tăm ĐTĐ vang dội tới tận kinh đô. Quan Thượng Thư Lê Anh Tuấn là thầy cũ của ông Đồ Nghi từ kinh thành tới quê ông thăm viếng cũng nhân để coi mặt và thử tài cô gái. Ở làng Giai Phạm, quan Thượng Thư được ông đồ đón tiếp trọng thể và cho con gái ra chào. Thấy cô gái đẹp, dung mạo đoan trang, ngôn từ dịu dàng, quan Thượng Thư rất hài lòng, bèn bảo đến trước mặt, đi bảy bước đọc 1 câu thơ độc hành. Điểm thong thả đi, chưa tới bước thứ bảy đã đọc ngay đôi câu thơ đối :
    _"Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu
    Trung tuỳ tả hữu cổ quan thần"
    nghĩa là "nói chuyện xưa nay chỉ có bạn tâm phúc, kẻ theo hầu trung thành hai bên (phải, trái) chỉ có bầy tôi lâu năm".
    Quan Thượng Thư nhổm người lên sửng sốt nói với ông đồ :
    _ Khá khen cho con gái ông, đẹp người đẹp nết lại thông tuệ hơn người! Lời nữ nhi mà mang vẻ trang trọng uy nghi, có khí phách bậc đại nhân. Ở Thăng Long tiếng đồn đã vang dội trong hàng nho sinh học giả, nay ta mới thấy quả là không sai, lời thiên hạ truyền đi thật là xác đáng!
    Quan Thượng Thư nhận ĐT Đ làm con nuôi, đưa về Thăng Long. Tiếng tăm người con gái nuôi của quan Thượng Thư càng lan rộng khắp kinh thành. Các công tử, văn nhân bị cuốn hút bởi sắc đẹp và tài năng của nàng, suốt ngày tìm tới dinh quan cầu thân. Những người hơi yếu văn dần dần bị loại hết. Chỉ còn 4 người nổi tiếng tục gọi là "Tràng An Tứ Hổ" (gồm các vị tài danh như Tiến Sĩ Nguyễn Công Thái, Tiến Sĩ Nhữ Đình Toàn, Hoàng Giáp Vũ Diệu...) ở lại thi tài.
    Cô Điểm sai người hầu mang ra 1 vế đối bảo rằng nếu có người đối được thì cô sẽ ra tiếp khách. Câu đối như sau :
    _"Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang"
    nghĩa là : "gió nhẹ trước sân làm lay động hàng cau", nhưng cũng có nghĩa là : "trước sân cô gái trẻ mời chàng rể mới".
    Câu đối hiểm ở chỗ thiếu nữ vừa có nghĩa là gió nhẹ, vừa có nghĩa là cô gái trẻ, tân lang vừa có nghĩa là cây cau, vừa có nghĩa là chàng rể mới.
    Tứ Hổ nghĩ mãi không ra, trời mát mà mồ hôi xuất đầm đìa, lén rủ nhau chuồn về hết. Danh tiếng nữ sĩ càng nức Thăng Long!
    Câu đối đó cho tới ngày nay chưa có người nào đối được!
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Đoàn Thị Điểm
    Trong làng văn thơ chữ nghĩa đối hoạ, không người nào không biết tới câu đối hiểm hóc tương truyền của bà Đoàn Thị Điểm đã khiến cho Trạng Quỳnh phải cả đời ấm ức khôn nguôi :
    _ "Da trắng vỗ bì bạch"
    Hàng trăm năm sau vẫn có những bậc tài tuấn hậu sinh vò đầu bứt tóc cố tìm cách chứng tỏ mình giỏi hơn Trạng Quỳnh. Tuy nhiên vẫn chưa ai xứng đáng là đối thủ của người nữ sĩ tài ba này.
    Đoàn Thị Điểm có biệt hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, là con của ông đồ Đoàn Doãn Nghi, quê làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Anh bà là Đoàn Doãn Luân cũng là người giỏi văn thơ. Chuyện kể rằng một bữa bà đang ngồi soi gương trang điểm, anh bà chọc rằng :
    _ "Đối kính hoạ mi, nhứt điểm phiên thành lưỡng điểm"
    nghĩa là "soi gương, kẻ mày, một chấm biến thành hai chấm", đồng thời Điểm cũng là tên bà, nên có thể hiểu "soi gương, kẻ mày, một cô Điểm biến thành hai cô Điểm". Thật là tài tình, câu thơ mô tả cảnh hiện tại bà Điểm đang kẻ lông mày vô cùng chính xác.
    Nhìn thấy ông anh đang đi ngoài sân cạnh cầu ao, trăng vàng soi bóng, bà ứng khẩu đáp liền :
    _ "Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân"
    nghĩa là "tới ao ngắm trăng, một vầng (trăng) chuyển ra hai vầng", mà cũng có thể hiểu là "tới ao ngắm trăng, một ông Luân chuyển ra hai ông Luân". Đối chan chát cả về ý lẫn từ, cả nghĩa đen lẫn bóng!
    Lúc mới lên 5 tuổi ĐTĐ đã nổi tiếng thần đồng. Một ngày ĐTĐ đang học Kinh Thi do ông Đồ Nghi dạy, ông đồ bèn ra câu đối thử tài con gái :
    _"Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi"
    nghĩa là "rắn trắng cản đường, ông Quý tuốt gươm mà chém" lấy tích trong Kinh Thi Hán Cao Tổ Lưu Quý (hay Lưu Bang) lúc hàn vi say rượu chém rắn giữa đường.
    Cô gái 5 tuổi không do dự, đọc câu đối ngay :
    _"Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết"
    nghĩa là "rồng vàng nâng thuyền, vua Vũ trông trời mà than" cũng lấy tích từ trong Kinh Thi ra. Ông đồ kinh ngạc trước tài năng sớm phát của con gái mình.
    Năm 16 tuổi tiếng tăm ĐTĐ vang dội tới tận kinh đô. Quan Thượng Thư Lê Anh Tuấn là thầy cũ của ông Đồ Nghi từ kinh thành tới quê ông thăm viếng cũng nhân để coi mặt và thử tài cô gái. Ở làng Giai Phạm, quan Thượng Thư được ông đồ đón tiếp trọng thể và cho con gái ra chào. Thấy cô gái đẹp, dung mạo đoan trang, ngôn từ dịu dàng, quan Thượng Thư rất hài lòng, bèn bảo đến trước mặt, đi bảy bước đọc 1 câu thơ độc hành. Điểm thong thả đi, chưa tới bước thứ bảy đã đọc ngay đôi câu thơ đối :
    _"Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu
    Trung tuỳ tả hữu cổ quan thần"
    nghĩa là "nói chuyện xưa nay chỉ có bạn tâm phúc, kẻ theo hầu trung thành hai bên (phải, trái) chỉ có bầy tôi lâu năm".
    Quan Thượng Thư nhổm người lên sửng sốt nói với ông đồ :
    _ Khá khen cho con gái ông, đẹp người đẹp nết lại thông tuệ hơn người! Lời nữ nhi mà mang vẻ trang trọng uy nghi, có khí phách bậc đại nhân. Ở Thăng Long tiếng đồn đã vang dội trong hàng nho sinh học giả, nay ta mới thấy quả là không sai, lời thiên hạ truyền đi thật là xác đáng!
    Quan Thượng Thư nhận ĐT Đ làm con nuôi, đưa về Thăng Long. Tiếng tăm người con gái nuôi của quan Thượng Thư càng lan rộng khắp kinh thành. Các công tử, văn nhân bị cuốn hút bởi sắc đẹp và tài năng của nàng, suốt ngày tìm tới dinh quan cầu thân. Những người hơi yếu văn dần dần bị loại hết. Chỉ còn 4 người nổi tiếng tục gọi là "Tràng An Tứ Hổ" (gồm các vị tài danh như Tiến Sĩ Nguyễn Công Thái, Tiến Sĩ Nhữ Đình Toàn, Hoàng Giáp Vũ Diệu...) ở lại thi tài.
    Cô Điểm sai người hầu mang ra 1 vế đối bảo rằng nếu có người đối được thì cô sẽ ra tiếp khách. Câu đối như sau :
    _"Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang"
    nghĩa là : "gió nhẹ trước sân làm lay động hàng cau", nhưng cũng có nghĩa là : "trước sân cô gái trẻ mời chàng rể mới".
    Câu đối hiểm ở chỗ thiếu nữ vừa có nghĩa là gió nhẹ, vừa có nghĩa là cô gái trẻ, tân lang vừa có nghĩa là cây cau, vừa có nghĩa là chàng rể mới.
    Tứ Hổ nghĩ mãi không ra, trời mát mà mồ hôi xuất đầm đìa, lén rủ nhau chuồn về hết. Danh tiếng nữ sĩ càng nức Thăng Long!
    Câu đối đó cho tới ngày nay chưa có người nào đối được!
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trạng Quỳnh
    Nguyễn Quỳnh là một nhân vật văn học vang danh Bắc Hà, mà nổi tiếng nhứt là lối chơi ngỗ ngược xỏ cả vua chúa và thánh thần. Quỳnh đỗ Cống Sinh (tương đương Cử nhân) nên được gọi là Cống Quỳnh. Chức danh Trạng là do dân gian xưng tụng mà có.
    Truyện dân gian hay tô vẽ thêm cho nhân vật Trạng Quỳnh thành huyền thoại với mối tình thơ văn đối đáp giữa Trạng Quỳnh và Đoàn Thị Điểm, mà kẻ bị đo ván luôn luôn là Trạng Quỳnh, do đó mà uy tín bà Điểm càng tăng cao. Truyện kể rằng ông đồ Nghi mở trường dạy học rất đông học trò bởi vì ông vừa dạy giỏi vừa có tư cách sáng ngời, mặt khác ông còn có con gái đẹp mà tài văn thơ lẫy lừng nức tiếng từ nhỏ. Để gây ấn tượng mạnh đối với thầy đồ và con gái, mỗi buổi bình văn của thầy đồ, Quỳnh khăn áo tề chỉnh tới dựa gốc bàng trước cổng chăm chú nghe. Thấy lạ, thầy đồ cho học trò gọi Quỳnh vào nhà hỏi họ tên và mục đích muốn làm gì. Quỳnh xưng tên và nói mình là nho sinh muốn theo học nhưng thiếu người tiến dẫn nên không dám đường đột. Ông đồ Nghi bảo :
    _ Anh là nho sinh có lòng hiếu học, nếu quyết muốn học thì ta ra câu đối này, đối được ta sẽ cho nhập học.
    Quỳnh xin vâng. Ông đồ đọc :
    _ "Thằng quỷ ôm cái đấu đứng cửa khôi nguyên".
    Trong tiếng Hán, chữ quỷ ghép với chữ đấu sẽ thành chữ khôi. Quỳnh suy nghĩ rất nhanh rồi đáp liền :
    _ "Con mộc tựa cây bàng dòm nhà bảng nhãn".
    Tiếng Hán chữ mộc chắp với chữ bàng thành chữ bảng. Thầy đồ khen ngợi Quỳnh nhận vào học. Một ngày từ phòng học Quỳnh nhìn qua cửa sổ sang phòng cô Điểm thấy Điểm vén rèm cửa sổ ngồi trước bàn, hai cửa sổ trông thẳng sang nhau. Quỳnh mở lời tán xin qua bên ấy chơi. Điểm đề nghị đọc 1 vế đối nếu đối được sẽ mở cửa mời qua, Quỳnh nhận lời. Điểm đọc :
    _ "Hai người ngồi hai bên cửa sổ song song"
    Chữ "song" tiếng Hán là 2, đồng âm với chữ "song" nghĩa là cửa sổ. Song song tiếng Hán có nghĩa là 2 cửa sổ lại đồng âm với "song song" là sóng đôi nhau.
    Quỳnh tịt mít nghĩ mãi không ra.
    Một buổi trời khuya Quỳnh trèo tường sau nhà thầy đồ định rình phòng cô Điểm, bị chó lao ra sủa. Quỳnh sợ quá leo lên cây cậy tránh. Điểm ra tựa cửa nhìn thấy Quỳnh trên cây, bụm miệng cười. Quỳnh bám mỏi tay, năn nỉ Điểm xua chó đi cho mình tuột xuống, Điểm lại đòi ra câu đối, đối được sẽ tha. Vế đối ra như sau :
    _"Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy, má đỏ hồng hồng".
    Cây cậy gần gống cây hồng, trái cậy cũng màu đỏ, chữ "hồng" tiếng Hán là màu đỏ.
    Quỳnh đối không được, bị ngồi trên cây tới gần sáng, Điểm mới ra xua chó cho xuống về nhà.
    Hôm khác Quỳnh đang ba hoa với bạn học về việc trêu chọc cô hàng mật trên phố Mía thì Điểm tới, Điểm đọc luôn vế đối :
    _"Lên phố MÍA gặp cô hàng MẬT, cầm tay KẸO lại hỏi thăm ĐƯỜNG".
    Một vế đối có đủ mía, mật, kẹo, đường toàn là của ngọt cả ! Quỳnh và cả đám nho sinh ngây mặt không đối được.
    Một lần giáp Tết, Quỳnh đi tới nhà thầy gặp trời mưa ướt lướt thướt. Điểm đang ngồi gói nem, mới mời Quỳnh ăn. Quỳnh đáp :
    _ Chả thích nem, chỉ thích giò thôi !
    Điểm biết Quỳnh trêu mình bèn bảo :
    _ Đối được thì sẽ cho giò.
    Rồi đọc :
    _ "Trời mưa đất THỊT trơn như MỠ, DÒ đến hàng NEM CHẢ muốn ăn !
    "Dò" đồng âm với "giò", "chả" là chẳng, lại có nghĩa là thức ăn từ thịt. Vế đối có cả "thịt, mỡ, giò, nem, chả" thì Trạng cũng đành phải thua !
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trạng Quỳnh
    Nguyễn Quỳnh là một nhân vật văn học vang danh Bắc Hà, mà nổi tiếng nhứt là lối chơi ngỗ ngược xỏ cả vua chúa và thánh thần. Quỳnh đỗ Cống Sinh (tương đương Cử nhân) nên được gọi là Cống Quỳnh. Chức danh Trạng là do dân gian xưng tụng mà có.
    Truyện dân gian hay tô vẽ thêm cho nhân vật Trạng Quỳnh thành huyền thoại với mối tình thơ văn đối đáp giữa Trạng Quỳnh và Đoàn Thị Điểm, mà kẻ bị đo ván luôn luôn là Trạng Quỳnh, do đó mà uy tín bà Điểm càng tăng cao. Truyện kể rằng ông đồ Nghi mở trường dạy học rất đông học trò bởi vì ông vừa dạy giỏi vừa có tư cách sáng ngời, mặt khác ông còn có con gái đẹp mà tài văn thơ lẫy lừng nức tiếng từ nhỏ. Để gây ấn tượng mạnh đối với thầy đồ và con gái, mỗi buổi bình văn của thầy đồ, Quỳnh khăn áo tề chỉnh tới dựa gốc bàng trước cổng chăm chú nghe. Thấy lạ, thầy đồ cho học trò gọi Quỳnh vào nhà hỏi họ tên và mục đích muốn làm gì. Quỳnh xưng tên và nói mình là nho sinh muốn theo học nhưng thiếu người tiến dẫn nên không dám đường đột. Ông đồ Nghi bảo :
    _ Anh là nho sinh có lòng hiếu học, nếu quyết muốn học thì ta ra câu đối này, đối được ta sẽ cho nhập học.
    Quỳnh xin vâng. Ông đồ đọc :
    _ "Thằng quỷ ôm cái đấu đứng cửa khôi nguyên".
    Trong tiếng Hán, chữ quỷ ghép với chữ đấu sẽ thành chữ khôi. Quỳnh suy nghĩ rất nhanh rồi đáp liền :
    _ "Con mộc tựa cây bàng dòm nhà bảng nhãn".
    Tiếng Hán chữ mộc chắp với chữ bàng thành chữ bảng. Thầy đồ khen ngợi Quỳnh nhận vào học. Một ngày từ phòng học Quỳnh nhìn qua cửa sổ sang phòng cô Điểm thấy Điểm vén rèm cửa sổ ngồi trước bàn, hai cửa sổ trông thẳng sang nhau. Quỳnh mở lời tán xin qua bên ấy chơi. Điểm đề nghị đọc 1 vế đối nếu đối được sẽ mở cửa mời qua, Quỳnh nhận lời. Điểm đọc :
    _ "Hai người ngồi hai bên cửa sổ song song"
    Chữ "song" tiếng Hán là 2, đồng âm với chữ "song" nghĩa là cửa sổ. Song song tiếng Hán có nghĩa là 2 cửa sổ lại đồng âm với "song song" là sóng đôi nhau.
    Quỳnh tịt mít nghĩ mãi không ra.
    Một buổi trời khuya Quỳnh trèo tường sau nhà thầy đồ định rình phòng cô Điểm, bị chó lao ra sủa. Quỳnh sợ quá leo lên cây cậy tránh. Điểm ra tựa cửa nhìn thấy Quỳnh trên cây, bụm miệng cười. Quỳnh bám mỏi tay, năn nỉ Điểm xua chó đi cho mình tuột xuống, Điểm lại đòi ra câu đối, đối được sẽ tha. Vế đối ra như sau :
    _"Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy, má đỏ hồng hồng".
    Cây cậy gần gống cây hồng, trái cậy cũng màu đỏ, chữ "hồng" tiếng Hán là màu đỏ.
    Quỳnh đối không được, bị ngồi trên cây tới gần sáng, Điểm mới ra xua chó cho xuống về nhà.
    Hôm khác Quỳnh đang ba hoa với bạn học về việc trêu chọc cô hàng mật trên phố Mía thì Điểm tới, Điểm đọc luôn vế đối :
    _"Lên phố MÍA gặp cô hàng MẬT, cầm tay KẸO lại hỏi thăm ĐƯỜNG".
    Một vế đối có đủ mía, mật, kẹo, đường toàn là của ngọt cả ! Quỳnh và cả đám nho sinh ngây mặt không đối được.
    Một lần giáp Tết, Quỳnh đi tới nhà thầy gặp trời mưa ướt lướt thướt. Điểm đang ngồi gói nem, mới mời Quỳnh ăn. Quỳnh đáp :
    _ Chả thích nem, chỉ thích giò thôi !
    Điểm biết Quỳnh trêu mình bèn bảo :
    _ Đối được thì sẽ cho giò.
    Rồi đọc :
    _ "Trời mưa đất THỊT trơn như MỠ, DÒ đến hàng NEM CHẢ muốn ăn !
    "Dò" đồng âm với "giò", "chả" là chẳng, lại có nghĩa là thức ăn từ thịt. Vế đối có cả "thịt, mỡ, giò, nem, chả" thì Trạng cũng đành phải thua !
  6. aqcharles

    aqcharles Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/07/2004
    Bài viết:
    2.668
    Đã được thích:
    1
    Tiếp chú Sơn cái món này. Mấy cái chú vừa post Anh cũng đọc ở đâu đó nhưng không nhớ. Chú còn món Việt thì cứ tiếp chiêu nhé. Cu Đức là hư lắm. Không tình tình tính tính nữa thì post bài đi chứ!! Sắp thi học kỳ chưa?
    Đây là đôi câu đối hôm trước có post nhưng không thấy ai tiếp chiêu. Đôi câu đối về Anh Tú tài sửa câu đối trêu tiến sỹ . Thôi để Vũ tôi công bố vậy. Âu cũng là 1 giai thoại thật tuyệt.
    Đôi câu đối mà Vị Tiến Sỹ hợm hĩnh đã treo trước cửa là :
    ^>士?子>士O^子s?>士>
    ?夫人O媳夫人O?媳?夫人?,
    Và nó đã được Anh Tú tài chơi lại bằng cách sửa thành :
    ^>oYO子>oYO^子s?>oY>
    ?失夫O媳失夫O?媳?失夫
    quả thật là 1 vố đau cho Vị tiến sỹ hơm hĩnh kia. đúng chỉ với vài nét quyệt thêm. Anh Tú thật là tài tình.
  7. aqcharles

    aqcharles Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/07/2004
    Bài viết:
    2.668
    Đã được thích:
    1
    Tiếp chú Sơn cái món này. Mấy cái chú vừa post Anh cũng đọc ở đâu đó nhưng không nhớ. Chú còn món Việt thì cứ tiếp chiêu nhé. Cu Đức là hư lắm. Không tình tình tính tính nữa thì post bài đi chứ!! Sắp thi học kỳ chưa?
    Đây là đôi câu đối hôm trước có post nhưng không thấy ai tiếp chiêu. Đôi câu đối về Anh Tú tài sửa câu đối trêu tiến sỹ . Thôi để Vũ tôi công bố vậy. Âu cũng là 1 giai thoại thật tuyệt.
    Đôi câu đối mà Vị Tiến Sỹ hợm hĩnh đã treo trước cửa là :
    ^>士?子>士O^子s?>士>
    ?夫人O媳夫人O?媳?夫人?,
    Và nó đã được Anh Tú tài chơi lại bằng cách sửa thành :
    ^>oYO子>oYO^子s?>oY>
    ?失夫O媳失夫O?媳?失夫
    quả thật là 1 vố đau cho Vị tiến sỹ hơm hĩnh kia. đúng chỉ với vài nét quyệt thêm. Anh Tú thật là tài tình.
  8. aqcharles

    aqcharles Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/07/2004
    Bài viết:
    2.668
    Đã được thích:
    1
    Mỗ khoái Anh này nhất. Kính Anh Em 1 giai thoại Tàu nữa. Hay dở gì cũng xin Bình cho một câu nhé !!
    Trong Khánh có CÁ
    Pháp Ấn và Đông Pha là đôi bạn kết giao lâu niên. (Aqcharles tôi đã có vài bài post từ trước rồi kính mong chữ hữu gần xa đọc lại). Hai người thường ngồi vơi nhau đàm luận thơ văn và nghiên cứu Kinh Phật. Pháp Ấn là vị hoà thượng chẳng phải tay vừa, tính tình khoáng đạt không câu nệ, uống rượu chén thịt đều không kiêng khem gì cả (đi tu như vị này kể cũng sướng nhỉ các bác nhỉ??) Hôm ấy, Pháp Ấn nhà ta đang dụng thiện, trên mâm cơm có khúc cá rán vàng ươm còn chưa kịp động đũa thì Đông Pha đến chơi. Pháp Ấn nhìn quanh chẳng thấy gì khác mà chỉ thấy có cái khánh chuyên dùng để đánh khi niệm kinh còn ở trên bàn bèn vội vàng lấy khánh đậy lấy đĩa cá rán lại và sắn tay buông đũa nghênh Đông Pha giả như chỉ ăn cơm không rất đạm bạc . Họ Tô vốn đã quá hiểu Pháp Ấn, chưa vào đến cửa đã thấy mùi cá rán ngào ngạt bay vào mũi nhưng vô phòng nhìn vẻ mặt ngây thơ vô số tội của Pháp Ấn đang giả vờ giả vịt ăn cơm không rất đạm bạc mà cái khánh thì thấy úp trên bàn Đông Pha đã hiểu ra sự việc muốn chơi Pháp Ấn 1 vố nên bèn hắng giọng giả đò hỏi :
    Ấy chẳng là tôi vừa đi qua nhà 1 thí chủ thấy có đôi câu đối hay ra phết mà vế trên là : Thướng Dương Môn Đệ Xuân Thường Tại; vế đối là cái gì mà mà . . . Tích Thiện nhân gia . . . . Sư Bác có nhhớ ra 3 chữ cuối không?
    Pháp Ấn không biết đây là kế của Họ Tô, chưa kịp để Đông Pha ngưng lời đã tiếp luôn : chết chết, đây là đôi câu đối đón xuân mới rất phổ biến sao quan Bác lại có thể hồ đồ quên được thế này? chẳng phải là Tích Thiện Nhân Gia Khánh Hữu Dư là gì !!!
    Đông Pha lúc ấy mới à lên một tiếng vỗ tay cười mà rằng : đúng !! đúng !! Khánh có cá, khánh có cá !! Như vậy khánh đã có cá sao sư Bác không đem ra ta làm chén rượu nhạt nhỉ?
    Chỉ biết rằng lúc ấy Pháp Ấn mặt đỏ lựng cười xuề xoà gọi chú tiểu đi lấy rượu. . . .
    Có lẽ không cần giải thích nhiều chắc chư vị cũng hiểu Đông Pha đã chơi xỏ Pháp Ấn thế nào ở kiểu chơi chữ trên.
    Kính
    aqcharles
    Được aqcharles sửa chữa / chuyển vào 12:36 ngày 16/11/2004
  9. aqcharles

    aqcharles Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/07/2004
    Bài viết:
    2.668
    Đã được thích:
    1
    Mỗ khoái Anh này nhất. Kính Anh Em 1 giai thoại Tàu nữa. Hay dở gì cũng xin Bình cho một câu nhé !!
    Trong Khánh có CÁ
    Pháp Ấn và Đông Pha là đôi bạn kết giao lâu niên. (Aqcharles tôi đã có vài bài post từ trước rồi kính mong chữ hữu gần xa đọc lại). Hai người thường ngồi vơi nhau đàm luận thơ văn và nghiên cứu Kinh Phật. Pháp Ấn là vị hoà thượng chẳng phải tay vừa, tính tình khoáng đạt không câu nệ, uống rượu chén thịt đều không kiêng khem gì cả (đi tu như vị này kể cũng sướng nhỉ các bác nhỉ??) Hôm ấy, Pháp Ấn nhà ta đang dụng thiện, trên mâm cơm có khúc cá rán vàng ươm còn chưa kịp động đũa thì Đông Pha đến chơi. Pháp Ấn nhìn quanh chẳng thấy gì khác mà chỉ thấy có cái khánh chuyên dùng để đánh khi niệm kinh còn ở trên bàn bèn vội vàng lấy khánh đậy lấy đĩa cá rán lại và sắn tay buông đũa nghênh Đông Pha giả như chỉ ăn cơm không rất đạm bạc . Họ Tô vốn đã quá hiểu Pháp Ấn, chưa vào đến cửa đã thấy mùi cá rán ngào ngạt bay vào mũi nhưng vô phòng nhìn vẻ mặt ngây thơ vô số tội của Pháp Ấn đang giả vờ giả vịt ăn cơm không rất đạm bạc mà cái khánh thì thấy úp trên bàn Đông Pha đã hiểu ra sự việc muốn chơi Pháp Ấn 1 vố nên bèn hắng giọng giả đò hỏi :
    Ấy chẳng là tôi vừa đi qua nhà 1 thí chủ thấy có đôi câu đối hay ra phết mà vế trên là : Thướng Dương Môn Đệ Xuân Thường Tại; vế đối là cái gì mà mà . . . Tích Thiện nhân gia . . . . Sư Bác có nhhớ ra 3 chữ cuối không?
    Pháp Ấn không biết đây là kế của Họ Tô, chưa kịp để Đông Pha ngưng lời đã tiếp luôn : chết chết, đây là đôi câu đối đón xuân mới rất phổ biến sao quan Bác lại có thể hồ đồ quên được thế này? chẳng phải là Tích Thiện Nhân Gia Khánh Hữu Dư là gì !!!
    Đông Pha lúc ấy mới à lên một tiếng vỗ tay cười mà rằng : đúng !! đúng !! Khánh có cá, khánh có cá !! Như vậy khánh đã có cá sao sư Bác không đem ra ta làm chén rượu nhạt nhỉ?
    Chỉ biết rằng lúc ấy Pháp Ấn mặt đỏ lựng cười xuề xoà gọi chú tiểu đi lấy rượu. . . .
    Có lẽ không cần giải thích nhiều chắc chư vị cũng hiểu Đông Pha đã chơi xỏ Pháp Ấn thế nào ở kiểu chơi chữ trên.
    Kính
    aqcharles
    Được aqcharles sửa chữa / chuyển vào 12:36 ngày 16/11/2004
  10. alex_fsvn

    alex_fsvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/07/2004
    Bài viết:
    1.411
    Đã được thích:
    0
    Vừa phải, không hay cũng không dở! Tớ thích tự mê hơn.

Chia sẻ trang này