1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ồ"?ố?- - Đặ?ỏằ?ng Thi

Chủ đề trong 'Trung (China Club)' bởi Guest, 06/10/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Mấy hôm trước mượn được cuốn Thơ Đường của Khương Hữu Dụng dịch. Đọc thấy mê mẩn, và hay quá. Lục lại các topic cũ của box Tiếng trung, thấy chủ đề về Thơ Đường. Hi hay quá. Mình thấy một chủ đề hay thế này không nên bị lãng quên
    Té ra là bác Thanh Khong đang ở bên Nhật,Thế mà vẫn uyên thâm Tiếng Việt, tiếng Hán quá.Đọc một bài thơ Đường bác hoạ theo kiểu ''kiếm hiệp'' , phúc đáp bài Vạn Lí Tình của Nangxuan. Home thấy hay quá.
    Chuyển sang đây cho mọi người đọc vậy:
    VẠN LÝ TÌNH
    -Nang xuan-

    Dẫu cách xa nhau vạn dặm trường,
    Vẫn tràn lưu luyến đắm yêu đương.
    Ngày ngày chất chứa sông ân ái,
    Tháng tháng vun trồng bể nhớ thương.
    Vạn lý xa xôi, xâu chỉ thắm,
    Ngàn trùng cách trở, nối tơ vương.
    Muốn tan hòa quyện trong nhau mãi,
    Cưỡi gió mây trời, dạo bốn phương
    Thất tình
    -Thanh Khong-

    Cô nhân độc tửu hận canh trường
    Minh nhật quyết tâm thượng võ đương
    Ẩn tích cao sơn tu đạo sĩ
    Mai danh cùng cốc đoạn đao thương
    Trần gian khổ ái vô lưu luyến
    Thế sự bi tình bất vấn vương
    Ân oán giang hồ duyên đoạn tuyệt
    Thành tâm thành ý hướng Tây phương
    hiii, may quá, em có bản dịch Du Sơn Tây thôn.
    Em sẽ post lên cho abcs và mọi người thưởng thức.
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Bản dịch Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị.Quả thật ông Phan Huy Vịnh đã có những câu xuất thần như:
    Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
    Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu

    Vì cái bản dịch này, mà sau này ít người giám dịch cái bài này. Vì khi nói đến bản dịch của Phan Huy Vịnh đều làm người ta khiếp sợ.Nhưng sau này, mãi đến ngoại 80 tuổi, Khương Hữu Dụng mãi giám công bố bản dịch tỳ Bà Hành của ông, và theo ông nói, ông đã dịch bản này trong suốt 30 năm. Có nghĩa là trong 30 năm đó, ông luôn xoá rùi sửa từng từ một bài dịch đó.
    Đọc bản dịch của KHD, không có những câu ''thần'''' như của PHV. Nhưng đọc bài đó thấy KHD dịch sát nghĩa, và có cái tâm trạng của cố nhân hơn.
    Về chi tiết bản dịch của KHD về Tỳ Bà Hành của KHD nếu như mọi người thích mình sẽ post lên. Và một bài viết so sánh về những chỗ hay của 2 bản dịch KHD và PHV cho mọi người xem.
    bạn nào thích bài nào, mình post lên cho.Nói chung tạm thời mình có 3 cuốn thơ Đường, đủ sài và nhâm nhi
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Xin lỗi, hôm nay đang định viết về Thơ Đường. Nhưng có chút việc bận, xin mạn phép hôm sau trả lời.
    Nhưng hơi uổng, vì từ nãy giờ ngồi xem những bài viết mình trả lời, về bản dịch. Xin mạn phép gửi vào đây, hôm sau home viết bài. không hôm sau viết bài mất công lắm.
    Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
    Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
    (Đừng vì xuân tàn mà cho rằng hoa rụng hết
    Đêm qua trước sân vẫn còn một cành mai)
    (Cáo bệnh thị chúng _Mãn Giác Thiền sư)
  4. vinhattieu

    vinhattieu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/01/2002
    Bài viết:
    2.169
    Đã được thích:
    0
    Bài Tỳ bà hành này, một người bạn của NT từng dịch thành lối thơ tám chữ gieo vần liên châu:
    Bến Tầm Dương một đêm đưa tiễn khách
    Gió thu vờn hoa sậy lá phong reo
    Chủ xuống ngựa mà thuyền khách còn neo
    Rượu muốn uống , nâng ly không đàn sáo
    Say chẳng vui mà biệt ly ảo não
    Thời chia phôi dằng dặc nhuốm trăng sông
    Tiếng tỳ bà trên nước chợt bềnh bồng
    Tiễn quên về , còn đi không rời bến
    Tìm tiếng tơ hỏi thầm ai đưa đến
    Tỳ bà ngưng dường muốn nói điều chi
    Mong gặp người cho thuyền sáp lại đi
    Tiệc thêm nữa , cả rượu đèn thêm nữa
    Nghìn vạn tiếng gọi mời ai lần lữa
    Ôm tỳ bà che nửa mặt nghệ nhân
    Tay so dây nắn phím dạo đôi lần
    Chưa thành khúc đã dâng lên tình ý
    Đàn réo rắt vang lên lời tế nhị
    Như tỏ đời còn chưa thỏa khát khao
    Cúi hàng mi , tay vân vũ rạt rào
    Dường nói tận cả vô vàn tâm sự ...
    Ngón lướt gảy lại mân mê tình tứ
    Mới Nghê Thường sau chuyển khúc Lục Yêu
    Dây lớn buông rào rạt đổ mưa chiều
    Dây nhỏ ấy nỉ non lòng riêng kể
    Rào rạt với nỉ non lòng như thể
    Mâm ngọc nào to nhỏ rớt hạt châu
    Dưới vùng hoa sóng sánh tiếng oanh tâu
    Suối róc rách qua bãi ghềnh trăn trở
    Nước lạnh kết làm tiếng đàn ngưng thở
    Nghẹn ngào nên thanh tứ tạm ngừng trôi
    U sầu ai chứa chất hận cả đời
    Giờ im lặng hơn ngàn lời bày tỏ!
    Bình bạc vỡ thoát toang tuôn nước đổ
    Tựa gươm đao thiết kỵ phá vòng vây
    Một nét gom cho trọn khúc nhạc đầy
    Bốn đường tơ bỗng rợn mình xé lụa
    Thuyền đông tây lặng chìm trong sầu úa
    Chỉ còn trăng trắng xóa giữa giòng thu
    Xếp lại đàn bâng khuâng nét trầm tư
    Sửa xiêm áo đường hoàng câu bày tỏ
    Thiếp là gái kinh đô Trường An đó
    Hà Mô Lăng thuở nhỏ sống bên nhà
    Tuổi mười ba đã thành thục tỳ bà
    Ở đệ nhất giáo phường danh ký lục
    Tấu trọn khúc làm nhạc sư thán phục
    Thu Nương nhìn trang điểm phải ghét ganh
    Trai Thiếu Lăng còn vây bủa tranh giành
    Đàn một bản lụa đào vô số tặng ...
    Gõ nhịp vỡ trâm vàng thoa bạc trắng
    Xiêm hồng kia hoen rượu giữa cuộc vui
    Tháng năm đi mải miết với trận cười
    Nhàn qua cửa xuân phong cùng thu nguyệt ...
    Em tòng chinh còn lại dì cũng chết
    Sớm chiều đi nhan sắc ấy tàn phai
    Trước thềm hoa xe ngựa vắng còn ai
    Lúc già mới kết duyên cùng thương khách
    Người mua bán trọng tiền hơn xa cách
    Đến mua chè tháng trước ở Phù Lương
    Mặc thuyền không chồng lai khứ vô thường
    Sông nước lạnh bốn bề đêm trăng sáng ...
    Giữa đêm khuya giấc mơ xuân bảng lảng
    Mộng phấn đào hoen lệ kẻ hồng nhan
    Ta đã nghe than vãn dứt cung đàn
    Lời nức nở trần tình sao buồn bã...
    Cùng làm khách nổi trôi trời xứ lạ
    Gặp nhau đây dù xưa đã quen gì
    Năm ngoái tôi cũng từ biệt kinh kỳ
    Bị giáng chức đến Tầm Dương bệnh dở ...
    Chẳng âm nhạc vùng đất hoang bồi lở
    Cả năm nào nghe được sáo đàn chi !
    Cạnh sông Bồn ở bãi trũng có gì
    Sậy vàng với trúc gầy vây khắp lối
    Nào những thứ lòng thường nghe sớm tối
    Tiếng quốc kêu ứa máu , vượn than trời
    Sớm xuân hoa , đêm giang nguyệt thu rơi
    Ngày qua lại , riêng mình nghiêng rượu rót ...
    Há chẳng có sáo làng sơn ca hót
    Líu lo buồn the thé điếc màng tai
    Trời đêm nay nghe được tiếng ca này
    Nghe thống thiết như rước nguồn tiên nhạc ...
    Xin đừng vội nán ngồi thêm giây lát
    Tôi vì ai phiên chuyển khúc tỳ bà
    Người bồi hồi cảm động bởi lòng ta
    Lại ngồi xuống vuốt cung đàn thoăn thoắt
    Tiếng khác trước cứ bi thương réo rắt
    Khách vây tròn nghiêng mặt dấu xót xa
    Giữa người nghe ai người đổ lệ nhoà ?
    Áo Tư mã Giang châu xanh đẫm ướt...

  5. blue_talisman

    blue_talisman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/07/2003
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
  6. blue_talisman

    blue_talisman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/07/2003
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0

    Tĩnh dạ tư
    Lý Bạch
    Sàng tiền khán nguyệt quang
    Nghi thị địa thượng sương
    Cử đầu vọng sơn nguyệt
    Để đầu tư cố hương
    dịch nghĩa :
    Đầu giường ngắm ánh trăng
    Nghi là sương trên đất
    Ngẩng đầu ngắm trăng trên đỉnh núi
    Cúi đầu lại nhớ cố hương
    Mình đọc mấy bản tiếng Hán của các NXB Trung Quốc thì đều thấy viết là : Cử đầu vọng minh nguyệt chứ không phải là "sơn nguyệt". Còn câu đầu, nếu mình nhớ không nhầm thì là "Sàng tiền minh nguyệt quang"
    Không biết bản nào chính xác.
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Tĩnh dạ tư
    Lý Bạch
    Sàng tiền khán nguyệt quang
    Nghi thị địa thượng sương
    Cử đầu vọng sơn nguyệt
    Để đầu tư cố hương
    dịch nghĩa :
    Đầu giường ngắm ánh trăng
    Nghi là sương trên đất
    Ngẩng đầu ngắm trăng trên đỉnh núi
    Cúi đầu lại nhớ cố hương
    Mình đọc mấy bản tiếng Hán của các NXB Trung Quốc thì đều thấy viết là : Cử đầu vọng minh nguyệt chứ không phải là "sơn nguyệt". Còn câu đầu, nếu mình nhớ không nhầm thì là "Sàng tiền minh nguyệt quang"
    Không biết bản nào chính xác.
    ha ha, bài của bạn một nửa đúng. một nửa sai.
    Cử đầu vọng minh nguyệt
    Sàng tiền khán nguyệt quang
    bài này quá nổi tiếng. Thì chắc ai cũng thuộc rùi.
    bây giờ xin nói về một bài thơ cũng khá nổi tiếng và hay. Home cũng rất thích bài này:
    "
    Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
    Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ.
    Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

    Dịch Nghĩa:

    Đêm đậu thuyền ở bến Phong Kiều
    Trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời, khách (tác giả) nằm trong thuyền ngó ra ngoài thấy hàng cây phong ở trên bờ sông và những ánh đèn thuyền chài trước bến trong lòng sinh ra buồn bã nên cứ mơ màng không ngủ được. Chợt có tiếng chuông chùa Hàn San ở ngoài thành Cô Tô nửa đêm vọng tới thuyền khách

    Đến nay đã có mấy bản dịch khác của Ngô Tất Tố, Trần Trọng Kim, Bùi Khánh Đản, Trần Trọng San... nhưng không có bài dịch nào hay bằng bài dịch đã chép ở trên.


    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 14:52 ngày 08/05/2004
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    Bàn về cái tôi trữ tình
    trong thơ từ của Lý Bạch và Tô Đông Pha
    Nguyễn Thu Phương


    «Văn như kỳ nhân» (văn giống như người viết ra văn) là mệnh đề có tính định luật đầu tiên, khẳng định sự có mặt của con người trong văn học cổ điển Trung Quốc đã được Lưu Hiệp nhà lý luận phê bình văn học lớn nhất thời Lục Triều đưa ra cách đây gần 1500 năm. Từ lý luận sơ khai đến thực tiễn sáng tác thơ ca cổ điển Trung Quốc đã chứng tỏ sức sống bền bỉ và mãnh liệt của một con người với những tiềm năng tối đa «được thể hiện qua các mặt mệnh, tình, tài, thân, phú quý...» [1] luôn gắn chặt với cuộc đời tác giả, để khắc hoạ thế giới nội tâm, cái tôi trữ tình và phong cách nghệ thuật riêng của họ. Với cách quan niệm như trên, chúng ta có thể tìm hiểu một vài khía cạnh về chân dung con người trong thơ ca cổ điển Trung Quốc thông qua cái Tôi trữ tình được thể hiện trong thơ từ của thi tiên Lý Bạch và cư sĩ Đông Pha.

    Sở dĩ chúng tôi chọn Lý Bạch (701-762) và Tô Đông Pha (1037-1101) làm đối tượng nghiên cứu, vì dù cả hai đều đại diện cho hai thời kỳ đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc ?" một Đường thi, một Tống từ ?" song họ lại cùng gặp nhau tại một điểm là đã xác lập được phong cách nghệ thuật vững vàng trên cơ sở sáng tạo tương đối hoàn thiện hình tượng cái Tôi - cá nhân, cá tính đến mức không ai có thể lặp lại.[2]

    Sinh thời Lý Bạch thường ví mình là «một vị tiên bị đi đày» (trích tiên), nhưng thơ ông lại «cuồng phóng» như không hề biết đến mọi vòng cương toả, còn khi Tô Đông Pha tự nhận «ta là kẻ sơ cuồng» thì người đời vẫn thấy trong sáng tác của ông bóng dáng «Tô tiên lão» ung dung phóng túng đi về giữa đời thực và trăng sao. Có thể nói, ở tác phẩm của hai người đều có mặt của cái Tôi hào mại, phóng túng nhưng lại thể hiện ở những cấp độ khác nhau.

    Đối với Lý Bạch, đó là một cái Tôi cụ thể, có tên tuổi như ông từng xưng danh trong «Đồng quan sơn tuý hậu tuyệt cú». Sự có mặt của con người Lý Bạch hữu hình đã khiến cho tác phẩm của ông vượt thoát ra ngoài khuynh hướng siêu hình hoá cái Tôi đang thịnh hành trên thi đàn đương đại. Không chỉ khẳng định sự hiện hữu của bản thân, thơ Lý Bạch còn kỳ vĩ hoá cái Tôi trong tư thế ngang hàng với trời đất:

    Thác bản
    Phong Lạc Đình Ký
    thư pháp Tô Đông Pha
    Xanh mờ thăm thẳm chẳng thấy đáy,
    ánh trời, ánh trăng ngấn bạc vàng.
    Mặc áo giáng hề cưỡi ngựa gió,
    Thần trong mây bời bời bay xuống đó.
    Hổ đánh đàn hề, loan cưỡi xe,
    Người tiên đồng hề đông gớm ghê.
    (Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt)

    Rõ ràng với tầm vóc và sự phóng túng bay bổng như vậy, cái Tôi Lý Bạch đã tự chủ, tự tin hơn nhiều dáng vẻ cô độc nhỏ nhoi của Trần Tử Ngang khi mất hút giữa giao điểm không gian - thời gian để «ngẫm trời đất thật vô cùng, Riêng lòng đau mà lệ chảy» (Đăng U châu đài ca).

    Lý Bạch bước vào đời bằng cái Tôi kỳ vĩ, nên mọi nỗi niềm, mọi lý tưởng của cái Tôi ấy dù rất riêng tư, nhưng dường như cũng đủ sức khuấy động thời đại:

    Qua sông thề với nước,
    Chí muốn yên cõi bờ.
    Tuốt kiếm chặt ngang cột,
    Hát buồn dạ ngẩn ngơ!
    (Nam bôn thư hoài)

    Lý Bạch
    (tranh của Lương Khải
    đời Nam Tống
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Lý Bạch yêu trời đất, trăng sao, sông núi, yêu đến mức có thể đem cả Hoàng Hà vạn dặm vào cõi lòng mình:

    Sông Hoàng Hà lưng trời tuôn nước
    Xuống biển rồi có ngược lên đâu.
    (Tương tiến tửu) Trần Trọng Kim dịch


    để dòng sông hoá thân thành khát vọng tự do, và hoài bão bứt phá mọi rào cản:

    Sông Hoàng Hà chảy vỡ núi Côn Lôn
    Thét gào muôn dặm húc Long môn.
    (Công vô độ hà)


    Thích xê dịch, thích làm bạn với núi rộng, sông dài, trời cao, mây trắng song cái Tôi Lý Bạch, trước hết vẫn sinh ra từ đời thực. Cho nên, tỉnh mộng là gặp đời, cái Tôi ấy chỉ sau phút «Bỗng bàng hoàng làm phách động, Hoảng vùng dậy than dài» (Mộng Thiên Mụ ngâm lưu biệt) đã cất cao giọng khinh miệt bọn quyền quý «Dễ đâu cúi gãy lưng phụng quyền quý» và day dưt khôn nguôi trước cái chết vô tội của dân đen:

    Xương trắng chất thành núi
    Người dân có tội gì?


    Trong sự đối mặt với đời Lý Bạch nhận ra rằng sự tự do tuyệt đối chỉ có được trong thế giới mộng thần tiên, nên Lý Bạch sầu, đó là cái sầu của con người phóng khoáng, cuồng trong men say, cuộn trong nước chảy:

    Muốn đến trời xanh xem vầng nguyệt
    Giơ dao chém nước, nước càng chảy mạnh
    Nâng chén tiêu sầu, sầu chẳng vơi.
    (Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt hiệu thư thúc Vân)


    Muốn thoát ra khỏi nỗi sầu nhân thế, Lý Bạch tìm đến rượu, để say rồi mộng:

    Ba trăm sáu chục ngày trời
    Ngày ngày say khướt như đời con nê.
    (Tặng nội) Tản Đà dịch


    vì khi mộng ông sẽ tìm lại được sự tự do theo ý muốn của chính mình:

    Vui cho đẫy khi ta đắc ý
    Dưới vầng trăng đừng để chén không.
    (Tương tiến tửu)


    Và cứ thế Lý Bạch ngược xuôi trong thế giới thần tiên:

    Cuối năm nếu muốn sang chơi
    Cưỡi con rồng trắng giữa trời thẳm xanh.
    (Tiễn sơn nhân họ Dương về núi Tung) Nguyễn Hữu Hồng dịch


    ông sống nhiều cùng trăng sao hơn là gắn bó với trần thế:

    Trăng ra khỏi núi thiên sơn
    Bể mây bát ngát trăng vờn chơi vơi
    Gió tung bay vạn dặm dài,
    Thổi vào tận chốn ở ngoài Ngọc môn
    (Quan sơn nguyệt)


    Có thể nói dưới ngòi bút Lý Bạch, cái Tôi được miêu tả đầy cá tính, ngang tàng, phóng túng, không ngượng ngùng, không sợ hãi, dù yêu hay ghét, đều đi đến tận cùng. Chính vì thế, nó được coi là «cái Tôi cuồng phóng», và Lý Dương Băng người cháu họ sống cùng thời Lý Bạch đã phải kinh ngạc mà thốt lên rằng: «Đơn độc nghìn năm duy chỉ ông» (Thiên tải độc bộ, duy công nhất nhân. [Thảo đường thi tập]).

    Nhưng Lý Dương Băng không ngờ được rằng ba trăm năm sau, trên thi đàn Bắc Tống lại xuất hiện một «Tô tiên lão» phảng phất vị trích tiên ngày nào trong khát vọng tự do tiên thế:

    Ta muốn bay lên theo gió
    Múa nhảy đùa vui cùng bóng nguyệt.
    (Thuỷ điệu ca đầu - Minh nguyệt kỷ thời hữu)
    Thu Phương dịch


    trong tinh yêu đằm thắm với thiên nhiên:

    Gió xuân biết lão sắp lên đèo
    Thổi bạt đầu hiên giọt nước gieo
    Đỉnh núi làn mây hình mũ chụp
    Đầu cành vầng nguyệt mảnh trăng treo.
    (Tân thành đạo trung - bài 1) Nguyễn Văn Tư dịch

    trong những «canh sầu» (Thuỷ điệu ca đầu - Minh nguyệt kỷ thời hữu), trong những giấc mộng ngao du tiên cảnh, để «Múa nhảy đùa vui cùng bóng nguyệt» (Thuỷ điệu ca đầu - Minh nguyệt kỷ thời hữu), và «say mình trong cỏ thoảng hương» (Giang hồng nguyệt); trong dáng vẻ ngất ngưởng men say trên mặt đất mênh mang «Nâng chén hỏi trời xanh» (Thuỷ điệu ca đầu - Minh nguyệt kỷ thời hữu), để giãi bày chí anh hùng cùng «Nhân vật phong lưu thiên cổ» (Niệm nô kiều - Xích Bích hoài cổ); trong tư thế ngạo mạn giữa đất trời để khẳng định sự tồn tại vững bền của mình với dòng chảy thời gian:

    Mãi cùng trời xanh kia khó già nua
    Cuối cùng thì việc gì phải ngưỡng mộ nhân gian
    Nhân gian ngày dài tựa năm.
    (Bồ tát man - Phong hồi tiền ngự vân khai phiến)
    Phạm Bá dịch

    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 17:37 ngày 08/05/2004
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Cái Tôi ấy có quyền kiêu hãnh, bởi cũng như Lý Bạch, nó là cái Tôi tài hoa sung mãn, chứa đựng một thế giới nội tâm phong phú. Trong thế giới đó, nó «cuồng phóng» chẳng kém gì Lý Bạch khi bày tỏ hết mình đủ mọi thứ tình, từ tình yêu chính đáng: tình yêu thiên nhiên, yêu nước, yêu cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè, tình hoài cổ, tình cố hương, tình ly biệt,... đến thứ tình vụng trộm như trăng gió thoảng qua nơi tửu điếm. Vì hào phóng và chan chứa, vì bay bổng và trữ tình nên cái Tôi của Tô Đông Pha gợi lại hình ảnh Lý Bạch một thời đã qua, và hình ảnh ấy quả thực vô cùng quyến rũ. Nhưng ở những góc độ sâu hơn, cái Tôi ấy lại chinh phục hoàn toàn người đọc bởi một vẻ đẹp mang đậm dấu ấn riêng biệt của con người Tô Đông Pha.

    Qua quá trình khảo sát thơ từ Tô Đông Pha, chúng tôi nhận thấy không chỉ có sự xuất hiện của một cái Tôi mang đặc điểm hào phóng mà đó còn là một nhân cách mang nhiều sắc diện. Nhân cách ấy, trước hết có một tư duy biện chứng và có phần hiện đại:

    Ngang trông thành dải, nghiêng nhìn thành đỉnh
    Cao thấp gần xa thảy khác nhau
    Chẳng rõ Lư sơn đâu mặt thật
    Bởi thân đứng ở chính lòng núi.
    (Đề Tây Lâm bích) Thu Phương dịch


    Nhìn nhận sự vật ở các góc độ khác nhau, nên khi trực tiếp bày tỏ cái Tôi công dân trong cương vị một viên quan :

    Nhà ta ở tận đầu sông
    Nghề quan đưa đến biển Đông sóng dồn.
    (Du Kim sơn tự) Thu Phương dịch


    bao giờ Tô Đông Pha cũng có thái độ hết sức khách quan, ông lo cho dân bằng cái lo rất thực:

    Trời mà mưa châu
    Kẻ lạnh làm áo được đâu!
    Trời mà mưa ngọc,
    Kẻ đói làm sao có thóc.
    (Hỷ vũ đình ký) Phong Lê dịch.


    Nhưng để có được miếng cơm manh áo cho dân, Tô Đông Pha thừa hiểu phải «Mong vua như Nghiêu Thuấn» (Tẩm viên xuân - Phó Mật Châu), song ông cũng tự xác định được rằng: «Làm thế khó biết bao» (Tẩm viên xuân - Phó Mật Châu), vì hiện thực nhãn tiền đầy bất công:

    Mười dặm một trạm chạy trong bụi,
    Năm dặm một chòi lính giục vội.
    Ngã hang, sa hố, chết chồng nhau,
    Để cho vải quý được mang tới.
    Như cắt qua khơi, khe vượt núi,
    Lá mượt cành tươi tuồng mới hái,
    Người đẹp trong cung một tiếng cười,
    Nghìn năm máu bụi còn tung mãi.
    (Lệ chi thán) Hoàng Tạo dịch


    và vì cả cuộc đời con người hết lòng vì dân vì nước như ông kết cục lại cũng chỉ là một chuỗi dài năm tháng thăng giáng, đày ải liên miên.

    Nhìn đời thấu triệt, hiểu quy luật cuộc sống nên Tô Đông Pha luôn tìm cho mình một cách ứng xử bình thản, dù đó là vấn đề xuất xử hành tàng vốn được coi là điểm nóng trong đời sống kẻ sỹ dưới thời phong kiến:
    Dùng bỏ theo thời
    Hành tàng tại ta
    ống tay áo làm quan sao ngăn nổi ta xử sự theo
    kiểu nhàn nhân.
    (Tẩm viên xuân - Phó Mật Châu) Phạm Bá dịch


    hay là khi rơi vào cảnh ngộ bi đát nhất:

    Về đi thôi
    Ta về nơi đâu?
    Quê nhà ngàn dặm Mân Nga
    Quá nửa đời người
    Ngày sau không muôn khổ
    Ngồi thấy Hoàng Châu năm nhuận năm.
    .....
    Cứ vậy mà đi sao?
    Cuộc đời bao việc
    Qua lại tựa thoi đưa
    Đợi khi nhàn xem gió thu lay lắt
    Nước trôi xanh sóng vỗ bãi bờ
    Trước nhà liễu rủ nhớ ta chăng?
    (Mãn đình phương - Quy xứ lai hề)


    tô Đông Pha

Chia sẻ trang này