1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ồ?ÔồưƯỗ?ắồ?Z - Cỏằ. Hỏằ?c Tinh Hoa

Chủ đề trong 'Trung (China Club)' bởi aqcharles, 29/09/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. MeoNhoDen

    MeoNhoDen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2006
    Bài viết:
    1.409
    Đã được thích:
    0
    45. BIẾT RÕ CHỮ "NGHĨA"​
    Hoa Hâm(1) chạy loạn, cùng đi với một bọn sáu bảy người. Giữa đường gặp một người lại cũng chạy loạn, đến kêu nài, xin nhập bọn(2). Chúng(3) lấy làm ái ngại, thuận cho. Một mình Hoa Hâm nói: "Không nên. Ðang bước nguy hiểm(4); sinh, tử, họa, phúc có nhau, ta đi bấy nhiêu người cũng như một người vậy. Bây giờ, vô cớ(5) nhận một người lạ, lỡ khi xảy ra việc gì, thì có bỏ được người ta không?"
    Chúng bất nhẫn(6), cố nói với Hoa Hâm cho người kia cùng đi. Hoa Hâm bằng lòng.
    Người kia đi được một quãng đường, chẳng may sa chân ngã xuống giếng. Cả bọn muốn bỏ mặc, để đi cho rảnh thân. Một mình Hoa Hâm nói: "Không nên. Người ta cùng đi với mình là người bọn mình. Người ta gặp sự chẳng may như vậy, mà mình bỏ người ta sao cho đành."
    Nói rồi, bảo bấy nhiêu người cùng ở lại vớt người kia lên. Sau cứu mãi không được, Hoa Hâm lại bảo phải ở lại mai táng chu tất rồi mới đi.
    GIẢI NGHĨA
    (1) Hoa Hâm: Người cuối đời nhà Ðông Hán, học giỏi, làm quan đến chức Thượng thư lệnh.
    (2) Nhập bọn: Vào với một bọn nhiều người.
    (3) Chúng: Nhiều, đây chỉ bọn người cùng đi với Hoa Hâm.
    (4) Nguy hiểm: Cheo leo, có thể hại đến sức khỏe hay tính mệnh được.
    (5) Vô cớ: Không có cớ gì.
    (6) Bất nhẫn: Không nỡ, không đành để như thế.
    LỜI BÀN
    Vô cớ cho một người lạ nhập bọn, nghĩa cũng không nên, một là e xẩy ra sự gì thì hại đến thân mình, hai là sợ không được thủy chung với người tạ - Ðã nhận người ta đi với mình một bọn, giữa đường người ta gặp sự chẳng may mà bỏ mặc người ta, nghĩa lại càng không nên lắm, vì như thế là bạc ác bất nhân, chỉ biết nhau trong lúc vô sự, đến khi nguy hiểm rồi lại bỏ nhau.
    Biết được cái đạo không nên nhận và cái đạo đã nhận như Hoa Hâm đây mới thực là người hiểu rõ chữ "Nghĩa" tức là hiểu việc nên làm thế nào mới là phải vậy.
  2. MeoNhoDen

    MeoNhoDen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2006
    Bài viết:
    1.409
    Đã được thích:
    0
    46. TRI KỶ​
    Bảo Thúc(1) chết, Quản Trọng(2) thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo. Có người hỏi: "Ông với Bảo Thúc không phải là họ hàng thân thích(3) gì, mà sao ông thương khóc quá như vậy?"
    Quản Trọng nói: "Ngươi không rõ, để ta nói cho mà nghẹ Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn chung với Bảo Thúc, lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, mà Bảo Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh quẫn bách(4) bất đắc dĩ(5) phải lấy thế. - Ta ở chỗ chợ búa thường bị lắm kẻ nạt dọa, Bảo Thúc không cho ta là hèn nhát, biết ta có lượng bao dung(6). - Ta bàn việc với Bảo Thúc, nhiều khi việc hỏng, Bảo Thúc không cho ta là ngu, biết có lúc may, lúc không may, cho nên công việc thành hay bại. - Ta ba lần ra làm quan, bao lần bị bãi, Bảo Thúc không cho ta là bất tiếu(7) biết ta chưa gặp thời, chưa tìm được vua giỏi. - Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bảo Thúc không cho ta là bất tài, biết ta còn có mẹ già phải phụng dưỡng(8). - Ta nhẫn nhục thờ(9) vua Hoàn Công, Bảo Thúc không cho ta là vô sỉ(10), biết ta không giữ tiểu tiết, có chí làm ích lợi cho cả thiên hạ... Sinh ra ta là cha mẹ, biết ta là Bảo Thúc. Mà đối với người biết mình, mình đem cả tính mệnh(11) ra hiến còn chưa cho là quá, huống chi(12) thương khóc thế này đã thấm vào đâu!"
    (Thuyết Uyển)

    GIẢI NGHĨA
    (1) Bảo Thúc: Tức Bảo Thúc Nha thường còn gọi là Bảo Tứ, người giỏi nước Tề, tiến Quản Trọng cho Hoàn Công dùng.
    (2) Quản Trọng: Tên là Di Ngô, người nước Tề, làm tướng giúp Hoàn Công giỏi có tiếng.
    (3) Thân thích: Người có họ nội hay họ ngoại với mình.
    (4) Quẫn bách: Túng bấn không biết xoay xở thế nào cho đủ tiền tiêu dụng.
    (5) Bất đắc dĩ: Không sao làm khác được như thế.
    (6) Bao dung: Rộng lượng, không chấp những điều người ta phạm lỗi với mình.
    (7) Bất tiếu: Người không ra gì.
    (8) Phụng dưỡng: Nuôi nấng tôn kính.
    (9) Nhẫn nhục: Nhịn được những sự khó chịu đến mình.
    (10) Vô sỉ: Không biết xấu hổ.
    (11) Tính mệnh : Mạng người.
    (12) Huống chi : Lại thêm một lẽ nữa.
    LỜI BÀN
    Khó thật! ở đời mình giao thiệp với nhiều người, bè bạn tưởng vô số, nhưng hồ dễ đã được mấy người thực gọi là tri kỷ. Thế nào là tri kỷ? Tri kỷ là người biết mình, nghĩa là đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với mình, chơi với mình rất thân thiết, bao bọc che chở cho mình, lúc sống cùng hưởng, họa cùng đau, lúc chết, tưởng cho chết với nhau cũng không hối. Quí thật! người tri kỷ! cho nên cổ nhân có câu nói: "Ðắc nhất tri kỷ, khả dĩ bất hận" nghĩa là ở đời có được một người tri kỷ cùng không còn ân hận gì nữa; lúc sống, có được một người biết mình, thì mình chết cũng không lấy làm uổng đời.
  3. MeoNhoDen

    MeoNhoDen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2006
    Bài viết:
    1.409
    Đã được thích:
    0
    47. CẢM TÌNH​
    Có một người nước Yên lúc sinh, thì sinh ở nước Yên; lúc lớn lên, thì sang ở nước Sở; lúc già lại trở về cố quốc. Khi đi ngang qua nước Tấn (gần nước Yên), bạn cùng đi đường, chỉ vào cái thành mà nói dối anh ta: "Ðây là thành nước Yên". Anh ta buồn rầu, khác hẳn sắc mặt. - Chỉ vào nền xã, nói: "Ðây là nền xã làng anh". Anh ta ngậm ngùi than thở. - Chỉ vào cái nhà, nói: "Ðâu là nhà của ông cha anh". Anh ta rũ rượi rơm rớm nước mắt. - Chỉ vào cái gò, nói: "Ðây là mồ mả ông cha anh". Anh ta òa lên khóc.
    Bọn cùng đi, ai nấy phì cười, nói: "Chúng tôi nói đùa đấy. Ðây mới là nước Tấn, chưa phải là nước Yên". Anh ta nghe nói lấy làm bẽn lẽn.
    Kịp khi về đến nước Yên, anh ta trông thấy thật là thành, là xã nước Yên, thật là nhà cửa mồ mả của ông cha, thì lòng cảm thương lại hờ hững không còn được như trước nữa.
    (Liệt Tử)
    GIẢI NGHĨA
    (1) Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên, Trực Lệ và một phần phía Bắc nước Cao Ly (Triều Tiên bây giờ).
    (2) Sở : Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
    (3) Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    (4) Cố quốc: Nước nhà khi mình ở nước ngoài thì gọi là bản quốc và cố quốc.
    (5) Thành: Nơi đắp cao, quân đóng ở trong để giữ cho một tỉnh hay một xứ được bình yên.
    (6) Xã: Nền đất đắp lên để tế hậu thổ.
    LỜI BÀN
    Thường khi người ta, ai cũng sẵn mối cảm tình, khi gặp thời cảnh xúc động đến thì mối cảm tình ấy tất chứa chan hiện ra bên ngoài. Tuy vậy, mối cảm tình đã dùng lầm, thì sau này không còn được như trước. Một người đã đem bụng trung thành thờ kẻ vô đạo, một người đã để lòng ân ái thương gái bất trinh, dù về sau, gặp được bậc anh quân hay người thục nữ, thì mối cảm tình cũng không còn được đằm thắm như xưa. Chẳng khác nào như người nước Yên này, đã đem hết nước mắt khóc chỗ giả dối mà không biết, đến khi gặp sự thực, thì lại hình như cạn hết nước mắt rồi. Cho nên đối với tính tình, người ta có biết, lấy học thuật mà di dưỡng, lấy lễ nghĩa mà tiết chế, thì tính tình dùng mới chính đáng và thuần túy được. Xưa nay thánh hiền hào kiệt đều là người biết lý hội tính tình cả.
  4. MeoNhoDen

    MeoNhoDen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2006
    Bài viết:
    1.409
    Đã được thích:
    0
    Mấy hôm bị nhốt Nhọ mới lang thang trên mạng, mò được vào một site đặc tiếng Trung. Anh em bên ấy đều rất hăng hái, nhiệt tình, bài vở tương đối chất lượng. Ngạc nhiên nhất là Nhọ được đón tiếp khá nồng nhiệt, vì cũng có người đã thấy Nhọ bên CC. Sẵn đang buồn, đang ấm ức vì cảm giác bị coi rẻ, ghẻ lạnh, mới định đi hẳn sang đó.
    Nhưng cứ một chốc lại thấy nhớ CC, lại về đọc, lại tức, lại đi. Mới giật mình nhớ đến chuyện này, ngộ ra người xưa nói đúng. Cái gì mình đã dành cho cái tình đầu thì không có gì thay thế được. Dù cái tình đầu ấy nó có thô lỗ, cục cằn thì mình cũng đã dành cho nó quá nhiều tâm huyết, như sẻ mất một phần cơ thể. Có đi cũng không nguôi nhớ đến nó, để rồi lại thấy trống vắng?
    Không biết mối cảm tình của Nhọ có bị dùng lầm như người nước Yên kia không ?
  5. MeoNhoDen

    MeoNhoDen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2006
    Bài viết:
    1.409
    Đã được thích:
    0
    48. VÌ NGHĨA CÔNG, QUÊN THÙ RIÊNG​
    Ðời nhà Ðường(1), Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng làm phó tướng của An Tử Thuận. Tính hai người vốn không ưa nhau; nhiều khi, tuy cùng đi với nhau một xe, ngồi với nhau một tiệc, mà vẫn như cừu địch(2), không ai đàm đạo(3) với ai cả.
    Sau Tử Nghi được lên làm tướng thay Tử Thuận, Quang Bật sợ Tử Nghi hại mình, quả cảm(4) đến nói rằng: "Phần tôi chết cũng cam tâm(5), nhưng xin rộng lượng đừng hại đến vợ con tôi là kẻ vô tội." Tử Nghi thấy nói chạy ngay lại, cầm tay Quang Bật thưa rằng: "Tôi đâu dám đem lòng oán hận riêng mà nỡ hại ông. Hiện nay trong nước loạn lạc, vua tôi lo và nhục, không ông thì không ai gánh vác nổi việc thiên hạ(6)."
    Nói xong nước mắt ràn rụa, rồi lại lấy những điều trung nghĩa khuyên răn, và lập tức cất Quang Bật lên làm chức Tiết độ sứ(7). Từ đó hai người tuyệt nhiên(8) không chút nào ghen ghét, ngờ vực nhau, chỉ cùng nhau một lòng đánh giặc, yêu dân, giúp vua trị nước.
    GIẢI NGHĨA
    (1) Ðường: Một nhà thống trị nước Tàu 618-901 sau Th. Ch..
    (2) Cừu địch: Người thù hằn đối đầu với mình.
    (3) Ðàm đạo: Ðàm: bàn; đạo: nói.
    (4) Quả cảm: Bạo dạn không còn do dự e sợ gì.
    (5) Cam tâm: Cam: ngọt; tâm: lòng, vui lòng mà chịu việc gì thiệt hại khổ sở đến mình.
    (6) Việc thiên hạ: Ðây là việc cả nước.
    (7) Tiết độ sứ: Tên quan đời nhà Ðường được quyền tự chủ coi một địa phương về việc chính trị, lý tài.
    (8) Tuyệt nhiên: Thôi hẳn không còn một tí nào nữa.
    LỜI BÀN
    Thù riêng cá nhân là việc nhỏ mọn, nghĩa công đối với cả nước là việc rất trọng. Biết quên thù riêng để làm nghĩa công như Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật, thực là đáng khen vậy. Nghĩ đến thân, đến nhà trước, đến quốc gia đại sự cũng là nghĩa, song nghĩa hẹp mà gọi là tư Nghĩ đến quốc gia trước, đến thân, đến nhà sau cùng là nghĩa song nghĩa rộng mà gọi là công. Quốc gia hay, hay dở, một kẻ bình dân cũng có trách nhiệm, huống chi là người gánh vác được việc quốc gia như Tử Nghi và Quang Bật.
    Ôi! nước là cái thành để giữ thân, giữ nhà không biết trọng nước tức là khinh thân, khinh nhà vậy. Tiếc thay cho những kẻ chức trọng, quyền cao, đối với thân, với nhà, thì việc nhỏ mọn cũng lấy làm lo lắng quan tâm, mà đối quốc gia thì việc dù to lớn đến đâu cũng xem thường, xem khinh, chỉ thù hằn nhau, khuynh lẫn nhau, không biết đồng tâm hiệp lực lo liệu việc dân việc nước, thật là lầm to vậy.
  6. Newfarmmer

    Newfarmmer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2004
    Bài viết:
    1.945
    Đã được thích:
    1

    Nghe cứ như phương ngữ nhà Nông ấy này. Cô nên đọc bài này lại mà bớt bớt kêu ca đê
  7. MeoNhoDen

    MeoNhoDen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2006
    Bài viết:
    1.409
    Đã được thích:
    0
    49. DUNG NGƯỜI ĐƯỢC BÁO(1)​
    Vua Trang Vương nước Sở cho các quan uống rượu. Trời đã tối, đang lúc rượu say, đèn nến bỗng gió tắt cả. Trong lúc ấy, có một viên quan thừa cơ(2) kéo áo cung nữ(3). Người cung nữ nắm lấy, giật đứt giải mũ, rồi tâu với vua rằng: "Có kẻ kéo áo ghẹo thiếp. Thiếp giật được giải mũ. Xin cho thắp đèn ngay để khám xem ai đứt giải mũ, thì chính là kẻ ghẹo thiếp..."
    Vua gạt đi nói: "Thôi! không làm gì! cho người ta uống rượu, để người ta say, quên cả lễ phép, lại nỡ nào vì câu chuyện đàn bà mà làm sỉ nhục người ta!". Rồi lập tức ra lệnh rằng: "Ai uống rượu với quả nhân(4) hôm nay mà không say đến bứt đứt giải mũ là chưa được vui". Các quan theo lệnh, đều dứt giải mũ cả. Nên suốt tiệc hôm ấy, được vui vầy ổn thỏa.
    Hai năm sau nước Sở đánh nhau với nước Tấn(5). Ðánh luôn năm trận, mà trận nào cũng thấy một viên quan võ, liều sống, liều chết xông ra trước và đánh rất hăng, làm cho quân Tấn phải lùi. Vì thế mà quân Sở được. Trang Vương lấy làm lạ cho đòi viên quan ấy lại hỏi: "Quả nhân đãi nhà người cũng như mọi người khác, cớ sao nhà ngươi lại hết lòng giúp quả nhân khác người như vậy?"
    Viên quan thưa rằng: "Thần rắp tâm muốn đem tính mệnh để hiến(6) nhà vua đã lâu. Mãi đến bây giờ mới gặp dịp báo đền nghĩa xưa, thực là may cho thần lắm... Thần là Tưởng Hùng, chính là người trước bị đứt giải mũ mà nhà vua không nỡ làm tội đấy".
    (Ðào Ngột (Sở Sử))
    GIẢI NGHĨA
    (1) Dung người được báo: Rộng lượng tha lỗi cho người, được người tìm cách báo đền.
    (2) Thừa cơ: Nhân dịp tốt.
    (3) Cung nữ: Con gái đẹp hầu vua ở trong cung.
    (4) Quả nhân: Tiếng vua tự xưng với thần hạ và lấy ý khiêm tốn là người ít đức.
    (5) Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    (6) Hiến: Dâng, biếu.
    LỜI BÀN
    Ông vua không làm tội người công thần ghẹo cung nữ thực là có độ lượng, bao dung được lỗi của người. Người ghẹo cung nữ không quên cái ơn đã chịu, tìm cách để báo đáp, thực là có nghĩa, tỏ được cái bụng trung thành với người gia ơn. Có vua ấy tất có tôi ấy, vua tôi như thế thì nước đời nào mất được.
  8. MeoNhoDen

    MeoNhoDen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2006
    Bài viết:
    1.409
    Đã được thích:
    0
    50. NÓI THÍ DỤ​
    Có người bảo vua nước Lương(1) rằng: "Huệ Tử nói việc gì cũng hay thí dụ. Nếu nhà vua không cho thí dụ, thì Huệ Tử chắc không nói gì được nữa". Vua bảo: "Ừ, để rồi ta xem".
    Hôm sau, vua đến thăm Huệ Tử, bảo rằng: "Xin tiên sinh(2) nói gì cứ nói thẳng đừng thí dụ nữa".
    Huệ Tử: "Nay có một người ở đây không biết nỏ là cái gì, mới hỏi tình trạng cái nỏ thế nào. Nếu tôi đáp rằng: Hình trạng cái nỏ giống như cái nỏ, thì người ấy có hiểu được không?"
    Vua nói: "Hiểu gì được".
    Huệ Tử: "Thế nếu tôi bảo người ấy: Hình trạng cái nỏ giống như cái cung có cán, có lẫy, thì người ấy có biết được không?"
    Vua nói: "Biết được".
    Huệ Tử: "Ôi! khi nói với ai là đem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết, để khiến người ta biết. Nay nhà vua bảo tôi đừng thí dụ nữa thì tôi không sao nói được."
    (Huệ Tử)(3)
    GIẢI NGHĨA
    (1) Lương: Một nước chư hầu mạnh đời Chiến Quốc, tức là nước Ngụy ở vào địa phận Hà Nam và Sơn Tây bây giờ.
    (2) Tiên sinh: Bực có tuổi, có tài, đạo đức, đáng dạy được mình. Hay dùng chỉ thầy dạy học hay người đáng quý.
    (3) Huệ Tử: Tên một thiên sách của Huệ Thi người thời Chiến Quốc, bạn với Trang Tử.
    LỜI BÀN
    Cái cung, cái nỏ khác nhau nhiều, nhưng lấy cái cung nói với người đã biết cung để khiến cho biết được cái nỏ, thì may người ấy ý hội cũng được ít nhiều. Phàm dạy bảo người ta điều gì, là cốt ý làm cho người ta hiểu được điều ấy, mà muốn cho người ta dễ hiểu, không gì bằng thí dụ, nghĩa là nhân cái người ta đã biết mà dạy vào cái người ta chưa biết. Cái phương pháp giáo dục tối tân bây giờ "qui nạp" hay "phu diễn" cũng lấy thí dụ làm cốt. Người ta đã nói: "Một quyển sách không có thí dụ chỉ là một bộ xương mà thôi". Câu Huệ Tử nói: "Ðem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết để khiến người ta biết", thực là ám hợp với cái lối học tối tân đời này.
  9. MeoNhoDen

    MeoNhoDen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2006
    Bài viết:
    1.409
    Đã được thích:
    0
    51. CON CÚ MÈO VÀ CON CHIM GÁY​
    Con cú mèo(1) gặp con chim gáy(2).
    Chim gáy hỏi: "Bác sắp đi đâu đấy?"
    Cú mèo nói: "Tôi sắp sang ở bên phương Đông".
    Chim gáy:"Tại làm sao lại đi thế"?
    Cú mèo nói:"Ở đây người ta nghe tôi kêu người ta ghét, cho nên tôi phải đi chỗ khác".
    Chim gáy: "Bác có thế nào đổi tiếng kêu đi mới được. Chớ không đổi tiếng kêu, thì sang phương Đông, người ta nghe tiếng, cũng lại ghét bác thôi, vì nhân tình(3) đâu mà chả thế. Cứ như ý tôi, thì không gì bằng bác phải rụt cổ, thu cánh suốt đời không kêu nữa là hơn".
    GIẢI NGHĨA
    (1) Cú mèo: Loài chim dữ mắt như mắt mèo, đêm đi bắt các chim nhỏ và chuột để ăn.
    (2) Chim gáy: Chính chữ là cưu, loài chim gáy, đầu nhỏ đuôi ngắn mà cánh dài.
    (3) Nhân tình: Cái tình yêu ghét chung của loài người.
    LỜI BÀN
    Cú kêu ra ma, cú ở phương Tây, kêu người ta ghét, lấy gạch, ngói, mảnh sành ném. Cú tưởng sang ở phương Đông, thì người ta ưa được, nhưng nếu tiếng kêu vẫn cứ như cũ, thì người phương Đông tất cũng ghét chẳng khác gì người phương Tây. Nếu cứ muốn người yêu, thì một là phải đổi tiếng kêu, hai là thôi hẳn không kêu nữa, chớ không phải đổi chỗ ở mà được.
    Bài này cốt ý nói người ác, thì đi đến đâu ai cũng cũng ghét, không đâu người ta dung. Muốn người ta yêu, thì phải cải ác, vi thiện, làm cho người ta đáng yêu mới được.
  10. MeoNhoDen

    MeoNhoDen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2006
    Bài viết:
    1.409
    Đã được thích:
    0
    52. CON CÒ VÀ CON TRAI​
    Nước Triệu(1) toan đánh nước Yên(2), Tô Tần, vì nước Yên, sang nói với vua nước Triệu là Huệ Vương rằng: "Vừa rồi tôi đi qua bên bờ sông Dịch Thủy(3), tôi trông thấy con trai đang há miệng phơi mình trên bãi, có con cò đâu đến, mổ ngay vào thịt trai. Trai liền ngậm miệng, cắp chặt lấy mỏ cò. Cò nói: "Hôm nay không mưa, ngày mai không mưa, thế nào trai cũng phải chết." Trai nói: "Hôm nay không rút được mỏ, ngày mai không rút được mỏ, thế nào cò cũng phải chết". Hai bên găng nhau, chẳng ai chịu ai.
    Bỗng đâu có người đánh cá đi qua, trông thấy chộp được cả trai lẫn cò... Nay mà nước Triệu đem quân sang đánh nước Yên, nước Yên tất phải chống lại. Hai bên đánh nhau lâu, hại người tốn của, chắc là suy yếu cả. Tôi e nước Tần(4) thừa cơ(5) ấy, đem quân chụp cả hai nước như người đánh cá chụp cả trai lẫn cò, thì lúc bấy giờ hối(6) cũng không kịp. Dám xin nhà vua thử nghĩ kỹ lại xem".
    Huệ Vương cho là nói phải, bèn đình(7) việc đánh Yên.
    (Chiến Quốc Sách)(8)

    GIẢI NGHĨA
    (1) Triệu: Một nước thời Chiến Quốc ở vào tỉnh Trực Lệ và Sơn Tây bây giờ.
    (2) Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên, Trực Lệ và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ).
    (3) Dịch Thủy: Tên một con sông qua Trực Lệ.
    (4) Tần: Nước mạnh đời Chiến Quốc ở vào địa phận Thiểm Tây bây giờ.
    (5) Thừa cơ: Nhân dịp tốt.
    (6) Hối: Ân hận, ăn năn, khi mình đã nghĩ hay làm một việc gì không phải.
    (7) Ðình: Thôi không làm việc gì nữa.
    (8) Chiến Quốc Sách: Bộ sách còn gọi là Trường đoản thư của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
    LỜI BÀN
    Trai, cò vì găng nhau mà hai con cùng bị hại trong tay người đánh cá. Cái bài "Bạng duật tương tri, ngư ông đắc lợi" này cũng như nhiều bài trong các sách Tây: Con cò và hai người tranh nhau", "Con khỉ chia pho mát cho hai con mèo..." đều có ý khuyên người ta không nên tranh giành chọi lẫn nhau. Hai nước tranh nhau, thì hao người, tốn của tai hại đã đành. Hai người tranh nhau thì tất sinh ra kiện cáo. Mà "vô phúc đáo tụng đình", thua được chưa biết thế nào, hãy biết có bao nhiêu thầy kiện, thầy cò những phường tham nhũng ở giữa thời cơ dòm dỏ để cầu lợi, rất thiệt hại cho cả hai bên. Vậy ta chẳng nên găng nhau, chống nhau làm gì. Nhỏ thì tốn tiền. Lớn thì hại nhà, lớn nữa thì hại nước. Ta phải lấy câu "Dĩ hòa vi quý" mà cư xử nhún nhường nhau là hơn.

Chia sẻ trang này