1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Panzer Division và Chiến tranh thế giới II

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 01/06/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7

    Cũng nên để mở cho mọi người đóng góp ý kiến chứ bác, cứ các ý kiến tích cực là được hoan nghênh
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    [​IMG]

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Số lượng thực tế về nhân sự của các Sư đoàn Panzer trên chiến trường là xấp xỉ với số được thiết lập. Trong tháng 9 năm 1939 tổng số nhân lực của Sư đoàn 4 Panzer là 10.221 người rất gần với con số lúc được thành lập. Những thay đổi về tổ chức cũng có ảnh hưởng đến tổng số nhân lực thực tế: vào ngày 10 tháng 5 năm 1940 tổng số nhân lực của Sư đoàn 1 Panzer là 13.192 người và của Sư đoàn 4 Panzer là 13.941 người, và điều này đã thể hiện rõ hiệu quả của việc tái cơ cấu vào số lượng nhân sự là như thế nào. Các đơn vị không chiến đấu cũng như là phục vụ chiến đấu của sư đoàn, trụ sở sư đoàn và tiểu đoàn Abteilung Nachrichten chiếm từ 17 đến 20 phần trăm tổng số nhân sự, và phần đông nhân sự của sư đoàn là nằm ở các đơn vị xe tăng và Lữ đoàn Schiitzen của họ. trụ sở Sư đoàn và đơn vị có liên quan chỉ chiếm khoảng 1,4 phần trăm tổng số nhân lực (xem chương chỉ huy và kiểm soát); họ bao gồm 18 sĩ quan, 14 Beamte ( cái cũng là sỹ quan ), ngày 26 Hạ sỹ quan và 107 người thuộc các cấp bậc khác, trang bị của họ là 50 súng ngắn, 111 súng trường và hai súng máy MG hạng nặng. Các xe cộ được giao là 41 xe máy, 11 xe ô tô chở quân và 13 xe tải hạng-nặng.

    [​IMG]
    Tổ chức đội hình của một trung đoàn Panzer tại tháng 3 năm 1930

    Tổng số nhân sự của Lữ đoàn xe tăng khi thành lập là 120 sĩ quan, 22 Beamte, 682 Hạ sỹ quan và 2112 cấp bậc khác (một trung đoàn xe tăng đơn lẻ chỉ có 58 sỹ quan, 11 Beamte, 338 Hạ sỹ quan và 1.044 cấp bậc khác). Sự khác biệt giữa các sư đoàn ( về mặt nhân sự) là nằm ở bộ phận xe cộ và đơn vị phụ trợ: Sư đoàn 1 Panzer có 1.235 cây súng trường, 296 cây tiểu liên PM và 592 cây MG hạng nhẹ (bao gồm vũ khí cả những vũ khí gắn trên xe AFV), trong khi bốn sư đoàn khác lại có 1.801 súng ngắn, 1.111 súng trường, 336 cây tiểu liên PM và 508 cây MG hạng nhẹ. Việc phân bổ xe tăng ở các trung đoàn tạo ra sự khác biệt đáng chú ý nhất, theo tổ chức của nó vào tháng Ba năm 1939, mỗi Trung đoàn Panzer gồm có một tiểu đoàn Stab, một Werkstatt Panzer Kompanie ( đại đội bảo trì xe tăng) cộng với một Panzer Nachrichten Zug và Panzerzug hạng nhẹ (xe liên lạc có Thiết giáp và trung đội xe tăng hạng nhẹ), sau này được trang bị một Panzerbefehlswagen I cộng với hai PzKpfw I và hai PzKpfw II. Mỗi Panzer Abteilung được tạo thành từ một Stab, một Zug Nachrichten, một Panzerzug hạng nhẹ, một leichte Kolonne (tiểu đoàn đào tạo), một Staffel Panzer (tiểu đoàn mang những phụ tùng xe tăng) và ba Panzer Kompanien ( đại đội thứ tư rời đi làm đơn vị đào tạo), cộng với hai Panzer hạng nhẹ và một đại đội Panzer Kompanien 'a' hạng nhẹ. Đơn vị cũ bao gồm một PzBefh I và tổng số bảy PzKpfw I và 16 PzKpfw II, trong khi đơn vị mới được thành lập gồm một PzBefh I, 7 PzKpfw II, 3 PzKpfw III và 6 PzKpfw IV. Như vậy, tổng cộng một trung đoàn Panzer đơn lẻ tại tháng Ba năm 1939 có 11 PzBefh I, 4 PzBefh III, 34 PzKpfw I, 85 PzKpfw II, 8 PzKpfw III và 12 PzKpfw IV. Với đơn vị Staffel cũng được bao gồm trong đó, có nghĩa là tổng cộng có 30 xe chỉ, 258 xe tăng hạng nhẹ, và 48 xe tăng hạng trung ở mỗi lữ đoàn. Những bảng về tổ chức mới vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, được phát hành vào tháng Tám năm 1939 và cả hai trung đoàn xe tăng 1 và 2 được uỷ quyền để thực hiện chúng, mặc dù sau này chỉ có sự tái tổ chức trước khi nổ ra chiến tranh mới chấm dứt toàn bộ vấn đề. Những thay đổi đã ảnh hưởng đến Panzer Abteilung Stab và các đơn vị hỗ trợ, lúc này họ lại được tái hợp trong một đơn vị Stabskompanie ( đại đội sư đoàn bộ và đại đội này cũng bao gồm một trung đội AufkHirung, một trung đội Pionier và một trung đội Fla Zug – súng máy phòng không hạng nhẹ). Tổ chức của cả đại đội Panzer Kompanien hạng nhẹ và của đại đội Panzer Kompanien hạng nhẹ 'a' lúc này đã được đổi tên thành mittlere Panzerkompanien. Theo Kriegsstarke Nachweisung mới ( thiết lập biểu đồ thời chiến, KStN), một đại đội Panzer Kompanie hạng nhẹ lúc này bao gồm 5 (hoặc 6) PzKpfw II và 17 (hoặc 16 PzKpfw III, trong khi các mittlere Panzer Kompanie bao gồm 5 PzKpfw II và 16 PzKpfw IV, tổng số một trung đoàn Panzer lúc này bao gồm 6 PzBefh III, 45 PzKpfw II, 71 PzKpfw III và 32 PzKpfw IV ( không tính đến Staffel). Trong năm 1939 trong biên chế của Lữ đoàn xe tăng cũng còn bao gồm 246 xe gắn máy, 88 ô tô chở quân, 296 (theo biên chế của sư đoàn Panzer số 1.) Hoặc 328 (tại các sư đoàn khác) xe tải hạng trung bình/ nặng và 26 xe ké
    o.

    [​IMG]
    Tổ chức đội hình của Panzer Abteilung tại tháng 9 năm 1939

    Những tổ chức khác nhau lại tiếp tục gia tăng sau việc tạo ra bốn sư đoàn Panzer mới, và nó ( việc thành lập sư đoàn mới ) cũng làm tăng thêm sự khan hiếm vốn đang tồn tại của vũ khí và trang thiết bị, đặc biệt của xe tăng hạng trung. Để lấp đầy khoảng thiếu hụt này, ngày 21 Tháng Hai, năm 1940 điều lệnh KStN mới được phát hành và tất cả các Đại đội Panzer Kompanien hạng nhẹ và trung của trung đoàn Panzer số 2, 3, 4, 7 và 8 được uỷ quyền thực hiện theo điều lệnh mới này. Theo điều lệnh mới, một đại đội Panzer Kompanie hạng nhẹ mới có 1 PzBefh I, 4 PzKpfw I, 8 PzKpfw II và 7 PzKpfw III, trong khi một đại đội Panzer Kompanie hạng trung mới có 1 PzBefh I, 6 PzKpfw II và 8 zKpfw IV và tổng cộng một trung đoàn đơn lẻ có 11 PzBefh I, 4 PzBefh III, 22 PzKpfw 1, 51 PzKpfw II, 30 PzKpfw III và 16 PzKpfw IV. Hậu quả hệ thống hậu cần của các sư đoàn Panzer mới được tái tổ chức lại trở thành hỗn loạn hơn nữa: Vào tháng 5 năm 1940 1. Trung đoàn 1 Panzer của Sư đoàn Panzer số 1 vẫn còn được giữ lại cơ cấu tổ chức theo điều lệnh ngày của 01 tháng Ba 1939. Nhưng cả hai trung đoàn Panzer số 2 và 10 lại được tái cơ cấu theo điều lệnh KStN ngày 21 tháng 2 năm 1940, trong khi tất cả các Đại đội Panzer Kompanien của cả trung đoàn Panzer số 3 và 4 và sư đoàn 5 Panzer vẫn được tổ chức theo điều lệnh KStN trong ngày 1 tháng 3 năm1939, mặc dù tiểu đoàn Abteilung Stab của họ đã được thay đổi theo sự tái tổ chức trong tháng 9 năm 1938 và đã thành lập ra Stabskompanie.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}

    [​IMG]
    Cơ cấu của một trung đoàn xe tăng tại thời điểm tháng 9 năm 1939

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Các biến thể khác được đưa ra bởi việc tạo ra các trung đoàn mới: Trung đoàn xe tăng đơn lẻ và các đơn vị Panzer Abteilung đi kèm của cả hai sư đoàn Panzer số 6 và 8, tất cả đều được trang bị xe tăng của Cộng hòa Séc, chúng được tổ chức theo điều lệnh KStN trong ngày 01 tháng 9 năm 1939, trong khi Trung đoàn Panzer 2S và tiểu đoàn Panzer Abteilung 67 thuộc Sư đoàn 7 Panzer cũng đã được tổ chức theo điều lệnh KStN ngày 21 tháng 2 năm 1940, một lần nữa với xe tăng Séc lại thay thế xe tăng PzKpfw II và III. trong một hỗn hợp khá kỳ lạ của Trung đoàn Panzer 33 thuộc sư đoàn 9 Panzer, với tiểu đoàn I. Abteilung của nó được biên chế theo KStN ngày 01 tháng ba 1939 và tiểu đoàn II. Abteilung lại được thành lập theo điều lệnh ngày 1 tháng 3 năm 1939. Tuy nhiên, không có đơn vị Panzer nào có thể được tổ chức tối đa theo điều lệnh, nguyên nhân là do sự đặc biệt thiếu hụt về xe tăng PzKpfw III và IV.

    [​IMG]
    Trên: Cơ cấu của một đại đội tăng hạng nhẹ tại ngày 21 tháng 2 năm 1940
    Dưới: Cơ cấu của một đại đội tăng hạng trung tại ngày 21 tháng 2 năm 1940

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trong tháng 9 năm 1939 việc thiếu bộ binh trở nên rõ ràng như là mộtkhiếm khuyết nghiêm trọngcủa các sư đoàn Panzer: Lữ đoàn Schiitzen 1 của sư đoàn 3. Panzer bao gồm hai tiểu đoàn SchiitzenRegiment cộng với một tiểu đoàn Kradschiitzen Bataillon, với một tổng số nhân sự là 3.183 người ở tất cả các cấp bậc. MỗiTrung đoàn Schiitzen, có tổng số nhân sự là 2.203 người và với một số vũ khí lớn được tập trung xung quanh(62 súngMG hạng nhẹ 28 súng MG hạng nặng, sáusúngAT 37mm PAK 35/36, 18 súng cối hạng nhẹ 50mm và 12 súng cối hạng nặng 81mm, bốn pháo hạng nhẹ Infanterie Geschiitz 75mm),hai tiểu đoàn Schiitzen Bataillone, mỗi đơn vị gồm hai đại đội bộ binh cơ giới(Schiitzen), một đại đội bộ binh đi môtô (Kradschiitzen), một đại đội MG và một đại đội trang bị hạng nặng (Schwere Waffen). Tổ chức này đã không phù hợp với các đơn vị Schiitzen của các sư đoàn khác: Trung đoàn Schiitzen số 12 của Sư đoàn Panzer số 4-đơn vị bộ binh duy nhất của sư đoàn này - được tạo thành từ hai tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn chỉ ba đại đội Schiitzen và một đại đội trang bị nặng Schwere Kompanie. Trung đoàn Schiitzen 13 và 14 của sư đoàn 5 Panzer, mỗi đơn vị bao gồm hai tiểu đoàn với một đại đội Kradschiitzen, hai đại đội Schiitzen và một đại đội Schwere Kompanie. Nhìn chungnhân sự của trung đoàn chỉ tương đương với một trung đoàn yếu, cả baTrung đoàn Schiitzen12, 13,14 đều có tổng số nhân sự là 2.260 người (nhưng trong tháng chín năm 1939biên chế thực sự của Trung đoànSchiitzen 12là 2.298 người ) và vũ khí của họ là: 108 súng MG hạng nhẹ và 24 súng MG hạng nặng, sáusúngAT 37mm PAK 35/36, 18 súng cối hạng nhẹ 50mm và 12 súng cối hạng nặng 81mm, và 8 pháo hạng nhẹ Infanterie Geschiitz 75mm.Kinh nghiệm thu được trong chiến dịch Ba Lan, các sư đoàn Panzergặp phảikhó khăn khi chiến đấu tại các thị trấn và thành phố do thiếubộ binh, đã cho rằng các Lữ đoàn Schiitzen nên phải được tăng cường. Điều nàyđã được chứng minh không quá khó để thực hiện, và đã có một quyết định được thực hiện để giảmsố lượng trung đoàn Schutzen ở các Sư đoàn Bộ binh Infanterie từ ba xuống còn có hai. T tháng 11 năm 1939, các sư đoàn Panzer số 1, 2, 3 đã có một tiểu đoàn thứ ba đi kèm liền với (và sau đó là biên chế luôn)Trung đoàn Schutzen của họ, do đó nâng tổng số nhân sự lên khoảng 3300 người với mức tăng tương ứng trong hỏa lựcngoại trừ đơn vị súng MG hạng nhẹ (trung đoàn bộ binh cơ giới lúc này có tới 87 súng MG hạng nhẹ và 42 súng MG hạng nặng, chínsúngAT 37mm PAK 35/36, 27 súng cối hạng nhẹ 50mm và 18 súng cối hạng 81mm và sáu pháo hạng nhẹ Infanterie Geschutz 75mm). Việc tăngsẵn có các xehalf-tracked MTW cũng được phép choTrung đoànSchutzen số 1 thuộc Sư đoàn 1 Panzer được trang bị đầy đủ hơn, nhưng chỉ có một Đại đội Schutzen Kompanie duy nhất trong cả hai Trung đoàn Schutzen số 2 và 3.

    [​IMG]

    Bộ binh cơ giới
    Schutzen đang chuẩn bị vượt sông Meuse ở đoạn Dinant trong thánh 5 năm 1940. Khẩu pháo trong ảnh là 1 khẩu 75 mm

    Tương tự, trong tháng 11 năm 1939 Trung đoàn Schutzen 33 đã gia nhập sư đoàn 4 Panzer, vốn lúc này giống như Sư 5 đoàn Panzer (có tổ chức vẫn còn chưa thay đổi), có hai trung đoàn Bộ binh cơ giới trong biên chế của họ. Trong tháng 5 năm 1940 Trung đoàn Schutzen số 12 - chỉ có thay đổi về tổ chức và tổ chức lại đại đội 6 Kompanie của nó thành một đại đội Kompanie Kradschutzen - đã có một số lượng nhân sự lên tới 3.384 người (50 sĩ quan, 530 Hạ sỹ quan và 2.804 cấp bậc khác) mà không có thay đổi gì về vũ khí được giao của nó. Ngược lại, Trung đoàn Schutzen 33 lại có một sự tái tổ chức hoàn toàn khác biệt, nó chỉ giống các trung đoàn Schutzen 69 và 86 của sư đoàn 10 Panzer - cả hai được nâng cấp từ những Trung đoàn Bộ binh cũ. Số lượng về nhân sự của họ thưc sự yếu hơn với khoảng 2.200 người (trong tổng nhân sự thực tế của Trung đoàn Schutzen 33 trong tháng 5 năm 1940 là 2144 người), cũng như là toàn bộ vũ khí của họ, với ngoại lệ đáng chú ý về vũ khí hạng nặng: mỗi trung đoàn chỉ có 61 súng MG hạng nhẹ và 28 súng MG hạng nặng, mười hai súng AT 37mm PAK 35/36, 18 súng cối 50mm và 12 súng cối 81mm và 8 pháo hạng nhẹ Infanterie Geschiitz súng 75mm. Sự khác biệt chính trong tổ chức của họ việc tạo ra các Đại đội Pak và Infanterie Geschiitz Kompanien của trung đoàn, chúng vốn được hình thành từ những phần của đơn vị vũ khí hạng nặng Kompanie Schwere ( lúc này chỉ là một Đại đội súng MG Kompanie) và tổ chức lại một số đại đội bộ binh thành đại đội Kradschiitzen Kompanien; ngoài Trung đoàn Schiitzen 12 ra, nó cũng ảnh hưởng chủ yếu đến Trung đoàn Schiitzen 69, với đại đội đầu tiên và thứ năm được tổ chức lại theo cách này, nhưng Trung đoàn Schiitzen 86 lại không có đại đội nào được tái tổ chức. Trung đoàn Schiitzen 4 và 8 - cả hai đều là cựu Trung đoàn Schiitzen Kị binh của sư đoàn hạng nhẹ vốn được thành lập bởi mỗi tiểu đoàn trong ba tiểu đoàn của họ lại được tạo thành từ ba đại đội Schiitzen Kompanien và một đại đội Kompanie Schwere gồm có cả Pionier, Pak và Infanterie Geschiitz Zug trong đó, đại đội cuối này lại được lập thành một Đại đội IG Kompanie của trung đoàn. Tổng số nhân sự là khoảng 3.300 người và cả hai trung đoàn được cấp những vũ khí quan trọng là: 174 súng MG hạng nhẹ, 42 súng MG hạng nặng, 27 súng cối hạng nhẹ và 18 súng cối hạng nặng, chín súng AT 37mm PAK 35/36 và 8 pháo Infanterie Geschiitz 75mm. Trong tháng 5 năm 1940 tổ chức của các trung đoàn Schiitzen 6 và 7 của sư đoàn 7 Panzer cũng như các trung đoàn Schiitzen 10 và 11 của sư đoàn 9 Panzer - tất cả đều bắt nguồn từ các Trung đoàn Schiitzen Kị binh – tương tự như Trung đoàn Schiitzen 12 trong tháng chín năm 1939, mặc dù những trung đoàn kị binh cũ có nhiều súng MG hạng nhẹ hơn (116 so với 108).
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [​IMG]
    Sơ đồ tổ chức của Trung đoàn Panzer số 10, 11 và 25 trong tháng 5 năm 1940

    [​IMG]
    Sơ đồ tổ chức của trung đoàn tăng số 10 và 11 trong tháng 5 năm 1940

    [​IMG]
    Sơ đồ tổ chức của trung đoàn tăng số 25 trong tháng 5 năm 1940

    [​IMG]


    [​IMG]
    Trên: Sơ đồ tổ chức của các Trung đoàn Schlitzen Regiments 1-3, tháng 9 năm 1939
    Dưới: Sơ đồ tổ chức của các Trung Schlitzen Regiments 12-14, tháng 9 năm 1939


    [​IMG]
    Sơ đồ tổ chức của các Trung đoàn Schlitzen Regiments 1-3, tháng 5 năm 1940

    [​IMG]
    Trên: Sơ đồ tổ chức của các Trung đoàn Schutzen Regiments 33,69, và 86 tháng 5 năm 1940
    Dưới: Sơ đồ tổ chức của các Trung đoàn Schutzen Regiments 4 và 8 tháng 5 năm 1940

    [​IMG]
    Ảnh một nhóm lính Kradschutzen-lính cơ giới đi Motor ba bánh thuộc sư đoàn 4 Panzer đang nghỉ ngơi trước Cung điện Tourcoing tại Lille, 27 tháng 5 năm 1940 ( kiếm được chiếc BMW của mấy bác này bây chừ hái ra tiền he he)
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Một số hình ảnh về các sư đoàn Panzer trong chiến dịch Pháp - Hà Lan ( tiếp)



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]



    [​IMG]


    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]



    [​IMG]
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cứ tổ chức của Panzer Division mãi em thấy cũng hơi nhàm nên cho thêm tý quá trình phát triển của xe tăng Panzer vào cho nó bốc.


    Xe tăng Panzer I

    Loại xe tăng nhẹ
    Nơi sản xuất Đức Quốc xã Đức
    Trang bị 1934-1954
    Sử dụng trong Nội chiến Tây Ban Nha, Thế chiến II, Chiến tranh Trung-Nhật
    Lược sử chế tạo
    Thiết kế 1934
    Nhà sản xuất Henschel, MAN, Krupp, Daimler
    Sản xuất 1934-1937
    Số lượng được sản 1493
    Thông số kỹ thuật
    Trọng lượng 5,4 tấn
    Chiều dài 4,02 m
    Chiều rộng 2,06 m
    Chiều cao 1,72 m
    Kíp chiến đấu 2, Chỉ huy và lái xe
    Thiết giáp giữa 7 -> 13 mm
    Vũ khí chính
    Trang bị hai súng máy 7,92 mm MG13
    Động cơ động cơ xăng M 305 Krupp bốn xi lanh làm mát bằng không khí 60 PS (59 hp, 44 kW)
    Công suất / trọng lượng 11,1 hp/ tấn
    Hệ thống giảm xóc Quarter-elliptical leaf spring
    Tầm hoạt động
    Phạm vi 200 km trên đường bộ; 175 km không đường xá.
    Tốc độ 50 km / h trên đường bộ; 37 km / h không đường xá.

    Panzer I là một xe tăng hạng nhẹ được sản xuất ở Đức trong những năm 1930. Đây là tên gọi tắt của the German Panzerkampfwagen I (xe bọc thép chiến đấu mark I), viết tắt là PzKpfw I. Mã hiệu chính thức tồn kho của loại xe tăng Đức này là SdKfz 101 (xe chuyên dùng 101).

    Thiết kế của Panzer I được bắt đầu vào năm 1932 và sản xuất hàng loạt vào năm 1934. Ban đầu nó được thiết kế nhằm mục đích làm một chiếc xe tăng đào tạo để giới thiệu về các khái niệm của chiến tranh thiết giáp cho quân đội Đức, Panzer I đã được thấy chiến đấu ở Tây Ban Nha trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, Ba Lan, Pháp, Liên Xô và Bắc Phi trong Thế chiến thứ hai, và ở Trung Quốc trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Kinh nghiệm của Panzer I trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha đã giúp hình thành những quân đoàn thiết giáp Đức trong cuộc xâm lược vào Ba Lan năm 1939 và Pháp năm 1940. Trong năm 1941, khung gầm Panzer I được thiết kế sử dụng để sản xuất các loại xe diệt tăng và pháo tự hành. Có những nỗ lực để nâng cấp Panzer I trong suốt lịch sử phục vụ của nó, gồm từ cả những quốc gia ngoài nước Đức để kéo dài tuổi thọ thiết kế. Nó tiếp tục phục vụ trong quân đội Tây Ban Nha cho đến năm 1954.

    Thể hiện của Panzer I trong chiến đấu bị giới hạn bởi lớp giáp mỏng và trang bị vũ khí hạng nhẹ bởi chỉ bằng hai khẩu súng máy đa dụng. Là một thiết kế dành cho đào tạo, Panzer I không có được năng lực như những xe tăng hạng nhẹ khác cùng thời đại, chẳng hạn như xe tăng T-26 của Liên xô. Mặc dù yếu trong chiến đấu, nó đã hình thành lên một phần lớn sức mạnh của xe tăng Đức qua số lượng và được sử dụng trong tất cả các chiến dịch lớn giữa tháng 9 năm 1939 và tháng 12 năm 1941. Loại xe tăng hạng nhẹ nhỏ dễ bị tổn thương này sẽ được thay thế bằng những loại xe tăng Đức mạnh mẽ và hoàn thiện hơn như Panzer IV, Panther, và Tiger. Tuy nhiên, Panzer I đã đóng góp đáng kể vào những chiến thắng đầu tiên của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai.

    Lịch sử phát triển

    Sau Thế chiến thứ nhất Hiệp ước Versailles năm 1919 cấm Reichswehr thiết kế, sản xuất và triển khai xe tăng. Điều khoản Hai mươi bốn của hiệp ước quy định phạt tiền từ 100.000 Mark và phạt tù lên đến sáu tháng đối với bất kỳ ai "[sản xuất] xe bọc thép, xe tăng hoặc những máy tương tự có thể được chuyển sang sử dụng với mục đích quân sự".

    Mặc dù quân đội Đức bị áp đặt nguồn nhân lực và kỹ thuật hạn chế theo Hiệp ước Versailles, một số các bộ của Reichswehr vẫn thành lập một cơ quan bí mật nghiên cứu về Chiến tranh Thế giới I và phát triển chiến lược và chiến thuật trong tương lai. Mặc dù đầu tiên khái niệm xe tăng như một vũ khí của chiến tranh cơ động đã gặp sự thờ ơ, ngành công nghiệp của Đức vẫn được âm thầm khuyến khích để chú tâm đến việc thiết kế xe tăng, trong khi những hợp tác bí mật được tiến hành với Liên Xô. Đồng thời những hợp tác quân sự nhỏ được tiến hành với Thụy Điển , bao gồm cả việc khai thác dữ liệu kỹ thuật vốn được chứng minh là vô giá cho thiết kế ban đầu của xe tăng Đức. Vào đầu năm 1926 các công ty khác nhau của Đức, bao gồm Rheinmetall và Daimler-Benz., sản xuất một mẫu thử nghiệm duy nhất được trang bị một khẩu pháo lớn 75-mm (được đặt mật danh là Großtraktor, "máy kéo lớn" để che các mục đích thực sự của nó). Chỉ hai năm sau đó nguyên mẫu của Leichttraktor mới ("máy kéo hạng nhẹ"). được sản xuất bởi các công ty của Đức, được trang bị súng 37-mm KwK L / 45. Sau đó chiếc Großtraktor được đưa vào phục vụ trong một thời gian ngắn ở sư đoàn 1 Panzer. Chiếc Leichttraktor vẫn còn trong thử nghiệm cho đến 1935.

    Trong cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930 xe tăng Đức đã đi tiên phong về mặt lý thuyết bởi hai nhân vật: Tướng Oswald Lutz và viên tham mưu trưởng của ông-trung tá Heinz Guderian. Trong hai người Guderian đã trở nên có ảnh hưởng nhiều hơn và ý tưởng của ông đã được công bố rộng rãi. Giống như Sir Percy Hobart-người đương thời với ông- ban đầu Guderian hình dung một quân đoàn thiết giáp (panzerkorps) gồm một số loại xe tăng. Nó (panzerkorps) cũng bao gồm cả những xe tăng bộ binh chậm chạp, trang bị những khẩu pháo cỡ nòng nhỏ và một số súng máy. Chiếc xe tăng bộ binh, theo Guderian, phải được bọc thép hạng nặng để bảo vệ chống lại súng chống tăng và pháo binh của đối phương. Ông cũng hình dung ra một chiếc xe tăng đột phá nhanh, tương tự như Cruiser tank của Anh, được bọc thép để chống lại vũ khí chống tăng kẻ thù và có một súng chính lớn 75 mm (2,95 in). Cuối cùng, Đức phải cần một chiếc xe tăng hạng nặng, vũ trang với pháo cỡ nòng lớn-150 mm (5.9 in) để đánh bại đối phương và được thiết giáp mạnh mẽ hơn nữa. Như vậy chiếc xe tăng này đòi hỏi phải có trọng lượng từ 70->100 tấn và hoàn toàn không thực tế đối với sức khả năng sản xuất của nước Đức vào thời điểm đó.


    [FONT=times new roman,times][​IMG][/FONT]
    Heinz Guderian-người có những lý thuyết đột phá về TTG của Đức trong WWII

    Ngay sau khi lên nắm quyền ở Đức, Adolf Hitler chấp thuận việc thành lập sư đoàn Panzer đầu tiên của Đức. Đơn giản hóa đề nghị trước đây của ông, Guderian đề xuất thiết kế của một chiếc xe chiến đấu chính sẽ được phát triển theo kiểu Panzer III và một chiếc xe tăng đột phá-Panzer IV. [9] Không có thiết kế nào lúc đó thuyết phục được Guderian. Như một bước tạm thời, quân đội Đức đã đặt hàng cho một chiếc xe tăng sơ bộ để đào tạo các tổ lái xe tăng Đức và nó đã trở thành Panzer I.

    Lịch sử thiết kế của Panzer I có thể được truy ngược đến dự án Landswirtschaftlicher Schlepper (La S) năm 1932 (máy kéo nông nghiệp) –thực chất là chiến đấu xe bọc thép. La S đã được dự định không chỉ để huấn luyện cho bộ đội Panzer Đức, mà còn để chuẩn bị cho ngành công nghiệp của Đức để sản xuất hàng loạt xe tăng trong tương lai gần:. Một kỳ công về mặt kỹ thuật trong thời gian khó khăn. Vào tháng Bảy năm 1932, Krupp cho ra đời một nguyên mẫu Landswerk Krupp A, hoặc LKA, với một tấm giáp phiến nghiêng ở phía trước và một ổ súng đại bác lớn ở trung tâm, một thiết kế bị ảnh hưởng nhiều bởi loại xe tặng hạng nhẹ Carden Loyd của Anh. Chiếc này được trang bị hai khẩu súng máy Dreyse 7,92 mm (0,312 in) MG-13 đã lỗi thời. Người ta đã biết rằng súng máy phần lớn là vô dụng đối với ngay cả những xe tăng được giáp nhẹ vào thời gian đó, vai trò của Panzer I chỉ hạn chế trong đào tạo tổ lái, chống bộ binh và thiết kế.

    [​IMG]
    Panzer I với hai khẩu súng máy Dreyse 7,92 mm (0,312 in) MG-13 đã lỗi thời

    Một phiên bản sản xuất hàng loạt của LKA được thiết kế bởi một đội ngũ cộng tác từ Daimler-Benz, Henschel, Krupp, MAN và Rheinmetall, thay đổi chiếc ổ du
    ̀ng đặt súng đại bác bằng một tháp pháo quay. Phiên bản này được chấp nhận và đưa vào trang bị sau khi thử nghiệm vào năm 1934. Mặc dù những chiếc xe tăng được gọi là La S và cũng LKA khi bắt đầu sản xuất., thiết kế chính thức của nó được đặt tên trong năm 1938, là Panzerkampfwagen I Ausführung. A ( “model A” hay chính xác hơn là “ loạt A “ ).15 xe tăng đầu tiên, được sản xuất từ ​​tháng Hai và tháng Ba năm 1934, chưa bao gồm chiếc tháp pháo quay được sử dụng để đào tạo các kíp lái. Những loạt sản xuất tiếp theo được chuyển sang phiên bản xe tăng chiến đấu. Loạt đời Ausf. A có giáp rất kém với tấm đĩa thép chỉ dày 13 mm (0,51 in) tại chỗ dày nhất của nó. Chiếc xe tăng đã có lỗi trong thiết kế, bao gồm cả các vấn đề ở bộ phận giảm xóc làm cho chiếc xe bị giật cục ở vận tốc cao, và động cơ quá nóng. Lái xe được bố trí bên trong khung xe và sử dụng cần gạt thông thường để lái chiếc xe tăng, trong khi chỗ của chỉ huy được đặt ở tháp pháo, nơi ông ta cũng phải như là xạ thủ. Hai thành viên của kíp lái có thể giao tiếp bằng phương tiện ống loa, đạn súng máy được xếp gọn trong năm thùng có 25 băng. Lucas Molina Franco-một nhà nghiên cứu cho biết tổng số có 833 chiếc xe tăng Panzerkampfwagen I Ausf. A đã được sản xuất, trong khi Bryan Perrett-một nhà nghiên cứu khác lại đưa ra số lượng 300 và Terry Gander thì đưa con số 818.


    [​IMG]
    Krupp's L.K.A.1 (Leichte Kampfwagen Ausland) export light tank.

    [​IMG]
    Panzer I với kíp lái gồm 1 lái xe và một trưởng xe kiêm xạ thủ súng máy

    [​IMG]
    Sơ lược thiết kế của Panzer I

    Nhiều vấn đề tồn tại của Ausf. A đã được sửa chữa với sự ra đời của Ausf. B. Động cơ được thay thế bằng động cơ Maybach 38 TR NL sáu xi-lanh làm mát bằng nước, 98 mã lực (73 kW) và hộp số đã được đổi thành một model đáng tin cậy hơn. Chiếc động cơ lớn hơn yêu cầu phải cơi nới khung gầm của xe lên khoảng 40 cm (16 in) và điều này cho phép cải tiến lại hệ thống giảm xóc treo của xe tăng, thêm vào một giá chuyển hướng bánh răng và làm căng băng tải. Trọng lượng của chiếc xe tăng tăng lên 0,4 tấn. Việc sản xuất loạt Ausf. B bắt đầu vào tháng Tám năm 1935 và hoàn thành vào đầu năm 1937, Franco ( Lucas Molina) viết rằng có 840 chiếc được xây dựng, nhưng ghi chú rằng chỉ có 675 trong số đó là xe chiến đấu, trong khi Perrett ( Bryan) cho thấy rằng tổng số của loạt này lên đến 1500 chiếc ( để bù đắp số lượng xe Ausf. A mà ông đưa ra con số rất thấp ) và Gander thì cho rằng tổng số của chúng là 675 chiếc.


    Những xe tăng chị em


    Hai phiên bản chiến đấu
    nữa của Panzer I được thiết kế và sản xuất vào giữa năm 1939 và 1942. Vào giai đoạn này, khái niệm về thiết kế đã bị thay đổi và hướng về loại xe tăng trung bình và nặng và những biến thể này không được sản xuất với số lượng đủ để có một tác động thật sự tới quá trình của cuộc chiến. Nhữngbiến thể xe tăng mới chả có gì chung với các loạt Ausf. A hoặc Bcả, ngoại trừ cái tên. Một trong số đó loạt Ausf Panzer I. C, được thiết kế phối hợp giữa Krauss-Maffei và Daimler-Benz vào năm 1939 để cung cấp một xe tăng thiết giáp trinh sát hạng nhẹ vũ trang. Ausf. C một khung gầmvà tháp pháo hoàn toàn mới, một hệ thốnggiảm xóc treo thanh xoắnhiện đại và năm bánh chịu lực xen kẽ. Nó cũng được thiết giáp dày tối đa 30 mm (1,18 in), dày hơn hai lần so với cả Ausf. A B và được trang bị một súng tự động 20 mm EW 141 (0,78 in). Bốn mươi chiếc trong loạt xe tăng đã được chế tạo cùng với sáu chiếc mẫu.Hai xe tăng trong loạt này đã được triển khai sư đoàn 1 Panzer số trong năm 1943, và ba mươi tám khác đã được triển khai Quân đoàn Panzer LVIII dự bị trong thời gian cuộc đổ bộNormandy.

    [​IMG]
    Một chiếc Panzer I loạt Ausf. F được trưng bầy ở bảo tàng quân sự Beograd

    Phiên bản thứ hai là loạt Ausf. F, nó cũng hoàn toàn khác với loạt Ausf. C cũng như cũng khác với các loạt Ausf. A và B. Mục đích của nó là một xe tăng để hỗ trợ bộ binh, xe Ausf Panzer I. F một lớp thiết giáp dầy tối đa 80 mm (3,15 in) vàtrọng lượng từ 18 và 21 tấn. Chiếc Ausf. F được trang bị hai khẩu MG 7,92 mm-34. Ba mươi chiếc đã được sản xuất vào năm 1940. Và một đơn đặt hàng thứ hai gồm 100 chiếc đã bị hủy bỏsau đó. Để bù đắp cho trọng lượng tăng lên, mộtđộng cơ Maybach Otto HL45mới với 150 (110 kW) mã lực được đưa vào sử dụng, cho phép nó có tốc độ tối đa trên đường 25 km/ giờ (15,5 km / h). Tám trong số ba mươi chiếc xe tăng được sản xuất đã được gửi đến sư đoàn Panzer số 1 vào năm 1943 và đã tham chiến trong trận Kursk. Phần còn lại được trao cho một số trường quân sự với các mục đích đào tạo và đánh giá.

    Lịch sử tham gia chiến đấu


    Nội chiến Tây Ban Nha


    Ngày 18 Tháng Bảy, 1936, chiến tranh nổ ra trên bán đảo Iberia, nước Cộng Hòa Tây Ban Nha bị chia rẽ vào tình trạng của một cuộc nội chiến. Sau sự hỗn loạn của những cuộc bạo loạn ban đầu, các phe pháiđã tập hợp lại và bắt đầu để củng cố vị trí của họ-thành phe mặt trận Bình dân ( Phe Cộng hòa) và mặt trậnQuốc gia Tây Ban Nha ( Phe Độc tài ). Ở dạng khởi đầu của một cuộc chiến proxy, cả hai phe đã nhanh chóng nhận được hỗ trợ từ các nước khác, đặc biệt là từ Liên Xô (Phe Cộng hòa) và Đức( Phe Độc tài ), đây cũng là những quốc gia muốn thử nghiệm chiến thuật và trang thiết bị của họ.Những lô hàng đầu tiên của xe tăng nước ngoài đến Tây Ban Nha bao gồm 50 chiếc T-26 của Sô Viết vào ngày 15 Tháng Mười. Việc vận chuyển lô hàng đã bị theo dõi bởi Hải quân Đức và người Đức ngay lập tức. phản ứng bằng cách gửi 41 chiếc Panzer I cho phe Độc tài Tây Ban Nha một vài ngày sau đó. Lô hàng đầu tiên tiếp theo bởi bốn lô hàng Panzer I Ausf. B, với tổng số 122 xe.

    [​IMG]
    Panzer I sơn cờ của phe Franco

    Lô xe Panzer I đầu tiên được đưa vào tham chiến dưới sự chỉ huy của Trung tá Wilhelm Ritter von Thoma trong Gruppe Thoma (còn gọi là Panzergruppe Drohne). Gruppe Thoma hình thành một phần của Gruppe Imker, hình thành lực lượng Condor Legion trên bộ của Đức vốn chiến đấu ở bên cạnh mặt trận Quốc gia của Franco. Giữa tháng Bảy và tháng Mười., một cuộc tiến quân rất nhanh của quân Quốc gia từ Seville tới Toledođể họ có thể vào vị trí có thể tấn công vào thành phố Madrid-thủ đô của nước Cộng hòa Tây Ban Nha. Việc quân Phát xít tiến quá nhanh và sự sụp đổ của thị trấn Illescas trước quân đội Phát xít vào ngày 18 tháng 10 năm 1936 đã gây ra sự sụp đổ của chính phủ Đệ nhị Cộng hòacủa Mặt trận Bình dân, bản thân Tổng thống Manuel Azaña cũng phải trốn chạy sang Barcelona và Valencia. Trong một nỗ lực để ngăn chặn làn sóng của quân Phát xít để có một khoảng thời gian rất quan trọng để bố trí phòng thủ thành phố Madrid, lực lượng tăng thiết giáp của Liên Xô ( xe tăng của Liên xô và người lái cũng là những chiến sỹ tình nguyện Xô viết ) đã được triển khai ở phía nam của thành phố dưới sự chỉ huy của Đại tá Krivoshein vào trước những ngày cuối tháng Mười. Vào thời gian này, rất nhiều xe tăngT -26 dưới sự chỉ huy của Đại úy Paul Arman đã được tung vào một cuộc phản công của phe Cộng hòa hướng đến các thị trấn Torrejon de Velasco trong một nỗ lực để chặn đứng cuộc tiến quân của phe Phát xít về phía bắc. Đây là trận đánh xe tăng đầu tiên trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Bất chấp những thành công ban đầu, liên lạc quá nghèo nàn giữa lực lượng tăng thiết giáp Xô viết và bộ binh của phe Cộng hòa Tây Ban Nha đãtạo ra sự cô lập trong lực lượng xe tăng của Đại úy Arman và tiếp theo một số xe tăng của phe Cộng hòa bị tiêu diệt. Trận chiến này cũng đánh dấu đầu tiênbinh sỹ bộ binh sử dụng co.cktail molotov ( bom làm bằng chai xăng) chống lại xe tăng. Các xe Panzer I của Ritter von Thoma vốn chiến đấu cho phe Phát xít chỉ từnhững ngày sau đó-ngày 30 tháng Mười và ngay lập tức gặp chúng được thưởng thức mùi vị của bom xăng. Khi thiết giáp phe Phát xít tiến lên, chúng liền bị tấn công bởi tiểu đoànCông xã Paris ( Đương nhiên là Công xã Paris đã nổ ra từ cuối TK 19, còn đây là những chiến sỹ tình nguyện người Pháp chiến đấu cho nền Cộng hòa TBN lấy tên là tiểu đoàn Công xã Paris ) được trang bịxe bọc thép BA-10 của Liên Xô. Súng 45-mm (1,7 in) được trang bị trên xe bọc thép BA-10 quá đủ để loại bỏ những xe Panzer I vốn được thiết giáp quá yếu kém ở phạm vi trên 500 mét.

    [​IMG]
    Chiếc xe bọc thép BA-10 với khẩu pháo 45 mm dư sức để thịt Panzer I ở phạm vi trên 500 mét tại nội chiến TBN


    [​IMG]
    Một nhóm Panzer I trong nội chiến Tây Ban Nha

    Mặc dù Panzer I đã tham gia vào hầu hết các cuộc tấn công lớn của phe Phát xít trong cuộc nội chiến, quân Phát xít bắt đầu cố gắng triển khai càng nhiều càng tốt những xe tăng T-26 chiến lợi phẩm để bù đắp cho những bất lợi của họ về thiết giáp và hỏa lực. Tại một khoảng thời gian von Thoma được thưởng lên đến 500 pesetas ( đồng tiền vàng TBN ) cho mỗi xe tăng T-26 bị bắt tù binh.Vì biết rằng Panzer I có thể bắn hạ những xe T-26 ở cự ly gần150 mét (165 yd) hoặc thấp hơnbằng việc sử dụng đạn 7,92 mm xuyên giáp, nên các xe tăng của phe Cộng hòa thường tấn công ở những cự ly mà các khẩu súng máy của Panzer I không thể bắn trả.

    [​IMG]
    [FONT=&quot]
    [/FONT]Xe Panzer I được nâng cấp để tăng độ hủy diệt chết người của nó. Ngày 08 tháng 8 năm 1937, Thiếu tướng García Pallasar nhận được một bức thư từ nhà Độc tài Francisco Franco trong đó bày tỏ sự cần thiết phải có những xePanzer I (hoặc negrillo như các kíp lái người Tây Ban Nha của họ gọi chúng) với những khẩu súng 20-mm. Cuối cùng, thiết kế được trọn làmẫu súng Breda năm 1935, do có sự đơn giản trong thiết kế so với đối thủ cạnh tranh Flak30 mm của Đức. Hơn nữa, súng Breda 20 mm có khả năng đục xuyên qua lớp thiết giáp dầy 40 mm ở khoảng cách 250 mét (1,57 in tại khoảng cách 275 yard), đây được coi là quá đủ để xuyên thủng giáp trước của xe T-26. Mặc dù ban đầu bốn mươi xe tăng hạng nhẹ CV35 của Ý được đặt hàng với súng Breda để thay thế vũ khí ban đầu của họ, sau đó đơn đặt hàng này đã bị hủy bỏ sau khi họ cho rằng lắp khẩu súng này ( Breda 20mm) lên xe Panzer I sẽ mang lại kết quả tốt hơn. Nguyên mẫu đã sẵn sàng vào tháng 9 năm 1937 và một đơn đặt hàng đã được đặt sau những kết quả thành công. Việc lắp súng Breda lên trên xe Panzer I yêu cầu chiếc tháp pháo nguyên thủy của nó phải được mở rộng phần đầu và sau đó mở rộng bổ sung theo chiều dọc. Bốn trong số những xe tăngPanzer đầu tiên trang bị súng Bredađược hoàn thành tại Nhà máy vũ khíSeville, nhưng việc sản xuấttiếp tục đã bị hủy bỏ vì số xe tăng T-26 của phe Cộng hòa bị bắt giữ đãđủ để thực hiện yêu cầu của lãnh đạo phe Phát xít cho việc có thêm xe tăng với vũ khí hủy diệt. Việc sửa đổi để lắp súng Breda đặc biệt không được ưa thích bởi các tổ lái Đức vì làm tăng khoảng trống không được bảo vệ trong tháp pháo vốn được thiết kế để cho phép người chỉ huy xe tăng ngắm mục tiêu-và nó đã được phát hiện ra là một điểm yếu nguy hiểm.

    Vào cuối năm 1938, một chiếc Panzer I khác được được gửi đến nhà máy vũ khí Seville để lắp một khẩu súng 45 mm, lấy từ một chiếc xe tăng Liên Xô (một chiếc T-26 hoặc BT-5). Một chiếc thứ hai sau đó được gửi đến để thay vũ khí nguyên thủy ban đầu của nó bằng một khẩu súngchống tăngMaklen 37-mm, vốn được triển khai Asturias vào cuối năm 1936 được trang bị trên con tàuA. Andreiev của Liên Xô. Người ta vẫn chưa được biết về mức độ và sự thích nghi của các thử nghiệm này đã thành công ra sao, mặc dù những thành công này là điều hoàn toàn được cho rằng không phùvới bản thiết kế.

    [​IMG]
    Bảng số lượng xe tăng Panzer I người Đức giao cho nhà Độc tài Franco trong nội chiến TBN

    Xâm lược Ba Lan và chiến dịch ở phía tây

    Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức sử dụng bảy mươi hai sư đoàn (bao gồm 16 sư đoàn bộ binh dự bị trong lực lượng dự bị OKH) để xâm lược Ba Lan, bao gồm bảy sư đoàn xe tăng Panzer (1, 2.., 3., 4., 5., 10., "Kempf" ) và bốn sư đoàn hạng nhẹ (1., 2, 3.., 4.). Ba ngày sau, Pháp và Anh tuyên chiến với Đức. 7 sư đoàn xe tăng Panzer và 4 sư đoàn hạng nhẹ được chia vào trong năm tập đoàn quân, tạo thành hai nhóm tập đoàn quân (phương diện quân ). Sức mạnh của 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 1 Panzer bao gồm không ít hơn mười bốn chiếc Panzer là, trong khi sáu sư đoàn khác ba mươi bốn chiếc trong 1 tiểu đoàn.Tổng cộng có khoảng 2.700 chiếc xe tăng đã sẵn sàng cho cuộc xâm lược nhằm vào Ba Lan, nhưng chỉ 310 chiếc là xe tăng Panzer III và IV. Hơn 350 chiếc là những chiếc tịch thu của người Séc được trang bị lại, số còn lại là xe Panzer hoặc las Panzer IIs.Cuộc xâm lược đã diễn ra nhanh chóng và những túi quân Ba Lan cuối cùng đã ngừng kháng đầu hàng ngày 06 tháng 10. Toàn bộ chiến dịch kéo dài năm tuần và thành công của xe tăng Đức trong chiến dịch này đã được tổng kết trong câu trả trả lời của người đứng đầu lực lượng Panzer trước Hitler vào ngày 5 tháng 9: khi ông này hỏi liệu có phải là các máy bay ném bom bổ nhào đã phá hủy một trung đoàn pháo binh Ba Lan không, Guderian đã trả lời: "Không,Panzers của chúng tôi đã làm việc này!"

    Người Ba Lan bị thương vong gần 190.000 người (bao gồm khoảng 66.300 chết) trong chiến dịch này, quân Đức thương vong khoảng 55.000 (trong đó có khoảng35.000 người bị thương). Tuy nhiên, người Đứccó đến 832 xe tăng (bao gồm 320 PzI, 259 PzII, 40 PZ III, 76 PzIV, 77 Pz35 (t), 13 PzBef III, 7 PzBef 38 (t), 34 PzBef và Pz38 (t)) bị mất trong chiến dịch, khoảng 341 chiếc trong số đó không bao giờ quay trở lại phục vụchiến đấu. Con số này đại diện cho khoảng một phần ba số lượngthiết giáp của Đức triển khai cho chiến dịch Ba Lan. Trong chiến dịch không ít hơn một nửa số xe tăng của Đức không thể sẵn sàng để làm nhiệm vụ do vấn đề bảo trì hoặc hành động của đối phương và trong tất cả các loại xe tăng, thì loại Panzer I tỏ ra dễ bị tổn thương nhất trước vũ khí chống tăng của người Ba Lan.

    Hơn nữa, người ta thấy rằng những xử lý của lực lượng thiết giáp trong chiến dịch để lại nhiều điều phải suy nghĩ. Trong thời gian đầu của cuộc tấn công của Guderian ở miền bắc Ba Lan, quân đoàn của ông đã được tổ chức trở lại để phối hợp với bộ binh trong một thời gian khá dài, và sự kiện này đã ngăn chặn một bước tiến nhanh hơn. Chỉ sau khi cụm tập đoàn quân ở phía Nam ( tức là phía Bắc của Balan ) đã chú ý đến điều này và đã chiếm được Warsaw trong trận Bzura và tại trận này lực lương tăng thiết giáp của Guderian đã hoàn toànđược giải phóng ( khỏi mấy đồng chí BB đi chậm rùa ). Lúc này vẫn còn tư tưởng lấy tăng thiết giáp của Đức làm lực lượng dự bị, thậm chí vẫn còn cảý tưởng dùng các sư đoàn độc lập, để ngăn chặn bước tiến bộ binh hoặc đòn thọc sườn của bộ binh đối phương ( ngược hẳn với lý thuyết chiến tranh chớp nhoáng ). Mặc dù sản lượng sản xuất xe tăng tăng lên đến 125 chiếc mỗi tháng sau Chiến dịch Ba Lan, những mất mát trong chiến dịch này đã buộc người Đức phải quan tâm nhiều hơn nữa đến các xe tăng thiết kế của Séc và xe tăng hạng nhẹ vẫn tiếp tục hình thành lên phần lớn sức mạnh của lực lượng thiết giáp của Đức.

    Tham chiến ở Châu Phi và mặt trận phía Đông

    Ý thất bại tại Ai Cập và Libya-thuộc địa của họ-làm cho Hitler phải điều động máy bay đến Sicily và một lực lượng đánh chặn tới Bắc Phi. Lực lượng ngăn chặn này được đặt dưới sự chỉ huy của Trung Tướng Erwin Rommel bao gồm Sư đoàn cơ giới nhẹ số 5 và Sư đoàn 15 Panzer. Lực lượng này đã đổ bộ xuống Tunis vào ngày 12 tháng 2 năm 1941. Sau khi đến châu Phí, Rommel có trong tay khoảng 150 xe tăng, khoảng một nửa trong số đó là Panzer III và IV. Số còn lại là Panzer I và II, mặc dù các xe Panzer I đã sớm bị thay thế. Vào ngày 06 tháng tư năm 1941, Đức tấn công cả Nam Tư và Hy Lạp, với mười bốn sư đoàn xâm nhập từ nước láng giềng Bulgaria-nước này sau đó đã gia nhập Khối hiệp ước ba bên. Cuộc xâm lược Nam Tư có không ít hơn 6 sư đoàn Panzer với rất nhiều Panzer I. Nam Tư đầu hàng ngày 17 tháng 4 1941 và Hy Lạp sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1941.

    Chiến dịch lớn cuối cùng mà trong đó Panzer I hình thành một phần lớn sức mạnh của lực lượng thiết giáp là chiến dịch Barbarossa ngày 22 tháng Sáu năm 1941. Khoảng 3.300 xe tăng Đức có khoảng 410 xe tăng I tham gia chiến dịch này. Đến cuối tháng, một phần lớn Hồng quân bị mắc kẹt vào trong chiếc túi ở Minsk và vào ngày 21 tháng 9 Kiev đã thất thủ, sự kiện này đã cho phép người Đức tập trung vào mục tiêu cuối cùng của họ-đó là Moscow. Bất chấp sự thành công của lực lượng thiết giáp của Đức tại Liên Xô, vào giữa tháng sáu và tháng chín hầu hết các sĩ quan Đức bị sốc khi thấy xe tăng của họ đã thua kém mới hơn so với những xe tăng hiện đại của Liên Xô, đó là các loại xe tăng T-34 và Kliment Voroshilov (KV). Tập đoàn quân phía Bắc nhanh chóng nhận ra rằng không có loại súng trên xe tăng nào đang được sử dụng bởi thiết giáp Đức có thể xuyên thủng lớp giáp dày của xe KV-1. Các hoạt động của Hồng quân trong Trận chiến Moscow và những con số ngày càng tăng của xe tăng mới của Liên Xô đã làm cho người ta thấy một điều rõ ràng Panzer I không còn phù hợp với mặt trận này. Trong một số trận chiến ít được chú ý, Panzer I được giao nhiệm vụ kéo xe tải qua bùn để làm giảm các vấn đề hậu cần ở tiền tuyến.
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Panzer II

    [​IMG]
    Ảnh chiếc Panzer II tại một viện bảo tàng

    Loại Xe tăng hạng nhẹ


    Quốc gia chế tạo Nước Đức Quốc Xã


    Lược sử hoạt động

    Trang bị 1936–1945
    Sử dụng trong Nội chiến Tây Ban Nha, Thế chiến II

    Lược sử chế tạo

    Năm thiết kế 1934
    Giai đoạn sản xuất 1935–1943
    Số lượng chế tạo 1,856 (bao gồm cả các bản sửa chữa)
    Thông số kỹ chiến thuật
    Trọng lượng 7.2 tấn
    Chiều dài 4.8 m (15 ft 9 in)
    Chiều rộng 2.2 m (7 ft 3 in)
    Chiều cao 2.0 m (6 ft 7 in)
    Kíp chiến đấu 3
    Vũ khí chính 1 × 2 cm KwK 30 Ausf.A–f
    1 × 2 cm KwK 38 Ausf.J–L
    Vũ khí phụ 1 × 7.92 mm Maschinengewehr 34

    Động cơ Maybach HL(6 xi-lanh;chạy bằng xăng)

    140 hp (105 kW)
    Công suất/trọng lượng 15 hp/tấn
    Hệ thống treo Thanh xoắn
    Tầm hoạt động 200 km (120 mi)
    Tốc độ 40 km/h (25 mph)

    Panzer II là tên gọi của một loại xe tăng hạng nhẹ do nước Đức Quốc Xã sản xuất và sử dụng trong thế chiến II.Tên chính thức của nó trong tiếng Đức là Panzerkampfwagen II(viết tắt là PzKpfw II).Mặc dù được chỉ thị dừng sản xuất ngay từ những năm 1940-1941 nhưng Panzer II vẫn đóng một vai trò rất quan trọng trong các chiến dịch Ba Lan và Pháp.Vào cuối những năm 1942, dây chuyền sản xuất Panzer II đã bị dừng lại nhưng phải đến năm 1943, việc này mới chấm dứt hoàn toàn.Khung tăng của nó được sử dụng cho một vài phương tiện chiến đấu khác trong cuộc chiến.


    Lược sử



    [​IMG]
    Panzer II Ausf A
    [​IMG]
    Panzer II Ausf D/E

    Panzer II Ausf A
    Panzer II Ausf D/E

    Vào năm 1934, việc thiết kế Panzer III và Panzer IV bị trì hoãn do các vấn đề thiết kế.Việc chế tạo một loại tăng có tốc độ di chuyển nhanh, vũ khí trung bình, trọng lượng được xếp vào hạng nhẹ được giao cho các nhà máy như Krupp, MAN, Henschel và Daimler-Benz. Bản thiết kế cuối cùng được đưa ra đó chính là Panzer-II, được dựa trên Panzer-I nhưng vũ khí là một khẩu pháo chống tăng 20 mm.Việc sản xuất bắt đầu vào năm 1935, nhưng quy trình tốn thêm 18 tháng để chuẩn bị cho quá trình vận chuyển và chế tạo nguyên liệu.


    Panzer II là loại tăng chiếm số lượng nhiều nhất trong cuộc xâm lược nước Pháp, cho đến khi nó bị thay thế bởi Panzer III vào năm 1940/1941.Về sau, nó được dùng làm xe tăng do thám và thực hiện nhiệm vụ này rất xuất sắc.



    [​IMG]
    Panzer II Ausf J


    Panzer II được quân đội Đức Quốc Xã sử dụng ở mọi chiến dịch như Ba Lan, Pháp, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Na Uy, Bắc Phi và mặt trận phía Đông.Sau khi bị thay thế ở vị trí xe tăng chủ lực, nó được dùng làm xe tăng bảo vệ lãnh thổ, trong nước và luyện tập.Phần khung tăng được dùng làm sườn cho các loại pháo tự hành như Wespe và Marder II.


    Thiết kế


    Thiết giáp


    Panzer II được thiết kế trước cuộc nội chiến Tây Ban Nha vì vậy các kĩ sư thiết kế quên gia cố lớp giáp bọc phần đỉnh tháp pháo, phần giáp sườn và mặt trước-một trong những yếu tố quyết định sự sống còn của xe tăng trong các trận đấu tăng thời hiện đại.Panzer II chỉ được thiết kế giáp đủ dày để phòng hỏa lực của bộ binh và các đạn pháo cỡ nhỏ. Panzer II phiên bản A, B và C đều được bọc bằng một lớp giáp sắt đồng nhất với độ dày khoảng 14 mm ở các mặt trước-sườn-sau;dày 10 mm ở phần đỉnh và tháp pháo.Từ phiên bản Ausf.D, lớp giáp này được tăng lên 30 mm.Phiên bản F có lớp giáp trước dày 35 mm và lớp giáp sườn dày 20 mm.



    [​IMG]
    Panzerspahwagen II Ausf L Luchs - Sd.Kfz.123 (VK 1303)


    [​IMG]
    Panzerspahwagen II Ausf L Luchs in action!

    Lớp giáp này có thể bị xuyên thủng bởi một số loại vũ khí như
    :PCT 45 mm(của quân đội Liên Xô) và canon de 25-47(của quân đội Pháp).

    Vũ khí


    Hầu hết các phiên bản Panzer II đều được trang bị pháo chính 2 cm KwK 30 55(nòng dài);các phiên bản đời sau sử dụng pháo dài 2 cm KwK 38 L/55-có chức năng tương tự.Khẩu pháo này được thiết kế dựa trên pháo phòng không 2 cm FlaK 30 và có thể bắn được 280 viên đạn/phút-một tỉ số được đánh giá là khá cao.Panzer II còn được trang bị một khẩu 7.92 mm Maschinengewehr 34 lắp trên thanh đồng trục.


    [​IMG]
    VK 903b (Ausf H) armed with 50mm Pak 38 L/60 gun.

    Tuy nhiên, khẩu pháo 2 cm lại tỏ ra không hiệu quả lắm đối với nhiều loại tăng của Đồng Minh, có nhiều cuộc thử nghiệm về việc thay thế pháo 2 cm bằng pháo 37 mm nhưng về sau sự thay thế này bị hủy bỏ.Dự án thay thế pháo lại tiếp tục được đặt ra và lần này pháo 2 cm được thay bằng pháo 50 mm nhưng dốt cuộc mọi việc đều chỉ nằm trên các bản vẽ.Nhận thấy không thể thay thế pháo được nữa(do hiện tại người Đức đã bắt đầu phát triển các loại tăng mới hơn), các nhà quân sử đã thay thế loại đạn hiện tại là đạn xuyên giáp nổ bằng đạn lõi vôn-fram cứng, vì chi phí nguyên liệu đắt nên số đạn đó chỉ được sản xuất rất ít.

    [​IMG]
    Panzer II Ausf C

    Về sau, một số bản thiết kế pháo tự hành dựa trên khung Panzer II và lắp pháo 5 cm PaK 38 nhưng vì loại pháo này đã cũ kỹ nên nó được thay bằng pháo 7.62 cm PaK 36(r)-vốn có hiệu quả rất cao.Phiên bản được đem ra sản xuất lắp pháo 7.5 cm PaK 40-có độ chính xác và hỏa lực cao.Các phiên bản pháo tự hành sử dụng khung Panzer II ban đầu lắp pháo 15 cm sIG 33 nhưng về sau lại được thay thế bằng pháo 10.5 cm leFH 18.Tất cả các phiên bản trên đều được lắp súng máy 7.92 mm MG34 để chống hỏa lực bộ binh và phòng không.

    Độ cơ động


    Tất cả các phiên bản Panzer II được sản xuất đều được lắp động cơ 6 xi-lanh Maybach HL 62 TRM(140 mã lực và sử dụng xăng để chạy) và bộ truyền động ZF Friedrichshafen.Các mẫu A, B và C đều có tốc độ tối đa đạt 40 km/h.Mẫu D và E có hệ thống treo Christie và hệ thống truyền động tốt hơn, khiến cho tốc độ tối đa đạt đến 55 km/h nhưng tốc độ di chuyển trên đường đất có vẻ chậm hơn so với các phiên bản đầu nên mẫu F được cải tiến lại bằng hệ thống treo thanh xoắn.Tất cả các phiên bản đều đạt tầm hoạt động khoảng 200 km.


    Kíp chiến đấu


    Panzer II có kíp chiến đấu gồm 3 người.Người lái tăng ngồi phía trước thân.Chỉ huy tăng ngồi ở ghế tháp pháo và có thể ngắm-bắn pháo chính.Người thay đạn(kiêm luôn việc điều khiển radio) ngồi ở trên sàn xe tăng dưới tháp pháo.


    Các mẫu biến thể


    Phát triển và các phiên bản được sản xuất


    Panzer II Ausf. a (PzKpfw IIa) Phiên bản này dễ gây nhầm lẫn với phiên bản đời sau Ausf. A vì chữ cái A.Ausf. a chính là phiên bản đầu tiên được sản xuất với số lượng có hạn và được chia thành 3 biến thể khác nhau.Ausf. a/1 được lắp ráp bánh puli đệm với lớp sắt đúc cứng ở bên trong và có lõi là cao su thô, nhưng nó đã bị thay thế sau khi tập đoàn sản xuất 10 mẫu thử nghiệm và quyết định chọn mẫu bánh hàn cứng.Ausf. a/2 cải tiến phần động cơ.Ausf. a/3 cải tiến hệ thống treo và hệ thống làm mát động cơ.Về phần kỹ thuật thì phiên bản Ausf.a này cũng tương tự như các phiên bản khác, có tổng cộng khoảng 75 chiếc được sản xuất từ tháng 5/1936-tháng 2/1937 bởi hãng Daimler-Benz và MAN.


    • Thông số kỹ thuật

    o Kíp chiến đấu:3 người
    o Động cơ:Maybach HL57TR với 6 bánh răng chuyển động lùi
    o Trọng lượng:7.6 tấn
    o Kích thước:Dài-4.38 m;rộng-2.14 m;cao-1.95 m.
    o Độ linh động:tốc độ 40 km/h;tầm hoạt động 200 km.
    o Thiết bị liên lạc:radio FuG5.
    o Vũ khí chính:Pháo chính 2 cm KwK 30 L/55 với hệ thống ngắm TZF4, lắp trên tháp pháo.
    o Vũ khí phụ:súng máy MG34 7.92 mm, lắp trên hệ trục.
    o Lượng đạn mang được:180-loại đạn cỡ 20 mm và 2,250-loại đạn cỡ 7.92 mm.
    o Tháp pháo:góc quay tay 360 độ, góc nâng 20 độ và góc hạ khoảng -9.5°.
    o Lớp giáp bọc:Dày 13 mm ở mặt trước, sườn và sau;dày 8 mm ở phần đỉnh;5 mm ở phần dưới cùng.

    Panzer II Ausf. b (PzKpfw IIb) Không nên nhầm lẫn phiên bản này với phiên bản đời sau Ausf.B, đây là phiên bản có hệ thống xích rộng và thân dài hơn.Chiều dài được tăng lên 4.76 m nhưng chiều rộng và cao vẫn được giữ nguyên.Động cơ Maybach HL62TR được sử dụng với một hệ thống truyền lực mới.Lớp giáp mặt cầu được sử dụng và phần giáp ở đỉnh được gia cố lên từ 10-12 mm.Khối lượng xe tăng được tăng lên 7.9 tấn.Có khoảng 25 chiếc được sản xuất bởi Daimler-Benz và MAN từ tháng 2-tháng 3 năm 1937.


    Panzer II Ausf. c (PzKpfw IIc) Là phiên bản cuối cùng thuộc sê-ri sản xuất giới hạn đầu tiên của Panzer II, Ausf. c đã gần đạt đến đầy đủ các tiêu chuẩn cần thiết để sản xuất rộng rãi với những sửa đổi lớn liên quan đến hệ thống treo và sáu bánh xích nhỏ được thay bằng năm bánh cuốn xích hoạt động độc lập lớn với một hệ thống hồi bánh đà.Các bánh xích được sửa chữa lại và nới rộng ra.Chiều dài được tăng lên 4.81 m và chiều rộng được tăng lên 2.22 m trong khi đó chiều cao vẫn là 1.99 m.Có khoảng 25 chiếc thuộc mẫu này được sản xuất từ tháng 3-tháng 7/năm 1937.


    Panzer II Ausf. A (PzKpfw IIA) Phiên bản đem ra sản xuất thật đầu tiên, tất cả các mặt của giáp được tăng lên 14.5 mm và có một số cải tiến về hệ thống truyền lực.Mẫu Ausf.A bắt đầu được sản xuất vào tháng 7-năm 1937.


    Panzer II Ausf. B (PzKpfw IIB) Không có cải tiến gì mấy so với bản Ausf.A.Mẫu Ausf.B đi vào sản xuất vào tháng 12/năm 1937.


    Panzer II Ausf. C (PzKpfw IIC) Phiên bản Ausf.C có cải tiến một vài lỗi nhỏ và trở thành phiên bản được sản xuất tiêu chuẩn từ tháng 6-năm 1938 đến tháng 4-năm 1940.Có tổng cộng khoảng 1,113 mẫu thí nghiệm Ausf. c, A, B và C được sản xuất từ tháng 3-năm 1937 đến tháng 4-năm 1940 bởi các hãng Alkett, FAMO, Daimler-Benz, Henschel, MAN, MIAG và Wegmann. Những mẫu này được sử dụng khá nhiều và luân phiên thay thế cho nhau trong suốt quá trình hoạt động.Phiên bản C là phiên bản được sản xuất rộng rãi nhất thuộc dòng Panzer II và thuộc thành phần chính trong lực lượng chiến đấu thiết giáp trong suốt cuộc chiến.Những phiên bản đầu của Ausf.C có lớp giáp bọc nằm ngang nhưng để tham chiến trong trận chiến nước Pháp thì phần giáp này được bọc ngược để gia tăng độ dày.Ngoài ra chúng còn được gia cố thêm giáp ở phần đỉnh-trước và mặt trước.Các phiên bản có giáp bọc ngược được bọc giáp thân theo kiểu góc giống như phiên bản Ausf.F.Một vài mẫu được cải tiến bằng mẫu cu-pôn mới.


    Panzer II Ausf. F (PzKpfw IIF) Tiếp nối những bản sửa chữa của phiên bản Ausf.C, Ausf.F là phiên bản tăng do thám và được sử dụng với mục đích giống như các phiên bản đầu.Phần cấu trúc trước được gắn một lớp giáp đĩa cứng riêng với phần mu được thiết kế lại.Ngoài ra một miếng mu giả được đặt cạnh nó nhằm giảm thiểu đạn pháo tự hành chống tăng trúng phải mu thật.Phần thân được thiết kế lại bằng một lớp đĩa giáp phẳng dày 35 mm ở mặt trước, ngoài ra phần giáp của cấu trúc thân và tháp pháo được nâng lên 30 mm ở mặt trước và 15 mm ở mặt sườn và sau.Ngoài ra, phần cu-pôn và hệ thống treo cũng được sửa chữa lại một chút.Khối lượng được tăng lên 9.5 tấn.Có khoảng 524 chiếc được sản xuất từ tháng 3/năm 1941 đến tháng 12/năm 1942, nó là phiên bản tăng quan trọng cuối cùng thuộc dòng Panzer II.


    Panzer II Ausf. D (PzKpfw IID) Phiên bản Ausf.D được nâng cấp bằng hệ thống treo mới hoàn toàn Christie 4 bánh gối, Ausf.D được sử dụng với vai trò là xe tăng chiến đấu tốc độ cao-truy đuổi và do thám.Xét toàn bộ kết cấu thiết kế thì chỉ có mỗi phần tháp pháo là giống với phiên bản Ausf.C, phần thân và cấu trúc trên được thiết kế mới hoàn toàn và được trang bị động cơ Maybach HL62TRM với bảy bánh đà thuộc hệ truyền động.Ausf.D có chiều dài hơi khiêm tốn(chỉ dài có 4.65 m), nhưng rộng hơn(2.3 m) và cao hơn(2.06 m) so với phiên bản C.Tốc độ di chuyển của phiên bản D được tăng lên 55 km/h.Có tổng cộng khoảng 143 chiếc Ausf.D và E được sản xuất từ tháng 5-năm 1938 đến tận tháng 9-năm 1939 bởi hãng MAN;chúng được cho phục vụ ở Ba Lan.Chúng được cho nghỉ hưu từ tháng 3-năm 1940 vì tốc độ di chuyển việt dã kém và độ hoạt động được cho là khá lỗi thời.


    Panzer II Ausf. E (PzKpfw IIE) Giống như phiên bản D, phiên bản E có lắp ráp thêm một số bộ phận thêm vào hệ thống treo nhưng xét về toàn diện thì phiên bản E khá giống phiên bản D;nó được cho phục vụ cùng với phiên bản Ausf.D.


    Panzer II Ausf. J (PzKpfw IIJ) Tiếp nối các bản thiết kế tăng do thám, phiên bản J được thiết kế với lớp giáp được gia cố thêm;được đặt tên kỹ thuật là VK1601.Phần giáp trước được nâng lên 80 mm, phần giáp sườn và sau được nâng lên 50 mm, phần đỉnh và sàn được nâng lên 25 mm;nâng tổng khối lượng lên 18 tấn.Phiên bản J được trang bị động cơ Maybach HL45P, tốc độ tối đa bị giảm xuống còn 31 km/h.Vũ khí chính của phiên bản này là pháo 2 cm KwK38.Có khoảng 22 chiếc được sản xuất bởi hãng MAN từ giữa tháng 4 và tháng 12 năm 1942, có khoảng 7 chiếc được trang bị cho sư đoàn Panzer số 12 ở mặt trận phía Đông.


    Panzerkampfwagen II ohne Aufbau Đây là phiên bản Panzer II được sử dụng làm phần thân cho các loại pháo tự hành.


    Panzer II Flamm Dựa trên phần khung thân và hệ thống treo của phiên bản Ausf.D và E, phiên bản xe tăng phóng lửa Flamm(còn được biết dưới cái tên "Flamingo"), phiên bản này sử dụng tháp pháo mới với vũ khí phụ gồm súng máy MG-34 và vũ khí chính bao gồm hai súng phun lửa tự động gắn ở hai bên tháp pháo.Mỗi khẩu súng phun lửa có thể phun khắp mọi phía và có thể quay hết cỡ được 360 độ. Khẩu pháo phun lửa được trang bị 320 lít dầu và 4 phễu hợp chất cháy nitro.Những phễu chất cháy nitro được cất ở bên trong một hộp sắt cất hai bên cấu trúc thân.Phần giáp trước dày 30 mm và phần bên-sau dày 14.5 mm, phần giáp tháp pháo được tăng lên 20 mm ở mặt bên và sau. Tổng khối lượng chiến đấu được tăng lên 12 tấn và các kích thước thân bao gồm:chiều dài được tăng lên 4.9 m;chiều rộng được tăng lên 2.4 m và chiều cao khoảng 1.85 m.Hệ thống điện đàm của xe bao gồm FuG2.Có hai biến thể thuộc phiên bản này:Ausf. A và Ausf. B.
    Có khoảng 155 chiếc Flamm được sản xuất từ tháng 1/năm 1940 đến tháng 3/năm 1942.Phần lớn được sử dụng trên phần thân mới nhưng có khoảng 43 chiếc được sử dụng trên thân Ausf.D và E.Phần lớn số Flamm được sử dụng tại mặt trận phía Đông nhưng không được thành công cho lắm vì lớp giáp mỏng và hỏa lực không cao, số còn lại được cho giải tán vào tháng 12/năm 1941.

    5 cm PaK 38 auf Fahrgestell Panzerkampfwagen II Đây chính là phiên bản được sử dụng cùng lúc với phiên bản PTHCT Marder, 5 cm PaK 38 sử dụng thân Panzer II và trang bị pháo chống tăng 50 mm. Nhưng dù sao, các phiên bản pháo chống tăng 75 mm cho kết quả tốt hơn nên được sử dụng.

Chia sẻ trang này