1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Paul Carell - Hitler mặt trận miền Đông

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi huytop, 30/10/2015.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939

    Những người lính Bộ binh kỳ cựu của Đức đã hoàn thành việc rút quân trong tuần đầu tiên của tháng 11 và bắt đầu đào sâu xuống đất chuẩn bị chống đỡ một cách tuyệt vọng trước cuộc tấn công dữ dội sắp sửa bùng nổ. Họ được hỗ trợ bởi những người lính Hungary đi lạc đơn vị được các đơn vị cảnh sát chặn hậu giữ lại và tập hợp thành các đội công binh và cùng bắt tay vào công việc đào hố cá nhân, hầm hào và công sự dã chiến. Fretter-Pico ra lệnh tập trung củng cố các điểm phòng ngự chủ yếu ở phía nam Budapest, nơi ông dự kiến cuộc tấn công chính của kẻ thù sẽ ập đến đó.

    Trong tuần đầu tiên của tháng 11, Timoshenko cũng tập kết lại các lực lượng của mình và chuẩn bị cho một cuộc tấn công trên một mặt trận rộng lớn hơn nhiều. Ở bên trái, Phương diện quân Ukraina III của Tolbukhin, đã chiếm được thủ đô Nam Tư vào ngày 19 tháng Mười, tiến vào nước Hungary từ phía nam cùng với các Tập đoàn quân cận vệ LVII (57) và IV cũng như Quân đoàn xe tăng XVII vào đầu tháng 11 và được chuyển giao vào biến chế Tập đoàn quân XLVI (46) hiện đang đóng ở ngay phía nam Budapest. Áp sát phía đông và đông bắc thủ đô Hungary có Phương diện quân Ukraina thứ II của Mali-novsky, với các Tập đoàn quân Cận vệ 7, TĐQ LIII (53), XXVII (27) và XL (40), cùng với sự yểm trợ đến từ các Tập đoàn quân Rumani I và IV.

    Các lực lượng Đức được triển khai đối mặt với mối đe dọa lớn này bao gồm Tập đoàn quân Panzer II (thuộc Cục Đông Nam Âu) và Cụm Tập đoàn quân Nam (Đức), bao gồm những đám tàn dư thuộc Tập đoàn quân Hungary II, Armeegruppe Fretter-Pico (gồm Tập đoàn quân VI của Đức cộng với một số đơn vị Hungary) và Armeegruppe Woehler (gồm Tập đoàn quân VIII Đức và Tập đoàn quân I Hungary).

    Trên sườn phía nam của Đức có Tập đoàn quân Panzer II của Angelis, chính là đội quân chủ yếu chịu trách nhiệm bảo vệ các mỏ dầu của Hungary trong khu vực Nagyka-nizsa. Mặc dù mang danh Panzer, nhưng họ đã không còn các đơn vị xe tăng kể từ năm 1943. Đây là một tập hợp các đơn vị Quân đội Đức trung bình, cũng như các đơn vị SS tầm thường đến yếu kém (chủ yếu là quân tình nguyện nước ngoài) cùng ba Sư đoàn Croatia. Sư đoàn tốt duy nhất thuộc Tập đoàn quân là Sư đoàn Sơn cước I đã bị bầm dập trong chiến dịch Balkan (xem chương VI).

    Tập đoàn quân VI của Fretter-Pico đang bảo vệ tuyến phòng thủ giữa hồ Balaton và Hatvan, cách Thủ đô Budapest khoảng 25 dặm về phía bắc. Từ nam lên bắc, các đơn vị đóng tại đó lần lượt là Quân đoàn Panzer III của Breith, Quân đoàn LXXII (72) của Tướng Bộ binh August Schmidt, Quân đoàn Sơn cước SS số IX của Trung tướng SS Karl Sauberzweig (kể cả bên trong thủ đô) và Quân đoàn Panzer LVII (57) của Kirchner ở phía ngoài cùng bên trái.

    Bảo vệ sườn bắc của Đức là Armeegruppe Woehler, đơn vị đã triển khai Quân đoàn Panzer IV của Ulrich Klee-mann, Quân đoàn XXIX (29) của Roepke và Quân đoàn XVII của Kreysing, lần lượt được xen kẽ với Tập đoàn quân Hungarian số I ở sườn trái thuộc Cụm Tập đoàn quân Nam. Tổng cộng, Friessner có trong tay số quân tương đương với 15 Sư đoàn Đức, bao gồm 3 Sư đoàn xe-tăng, hai Sư đoàn Bộ binh cơ giới cũng như 2 Sư đoàn Kỵ binh SS.

    Cuối cùng, người Nga bắt đầu tiến công trong ngày 7 tháng 11, khi Phương diện quân Ukraina III cố gắng vượt sang bờ tây sông Danube gần Mohacs, Batina và Apatin. Phần lớn khu vực này đang bị ngập lụt và phòng thủ dễ dàng, vì vậy Tập đoàn quân Panzer II đã cố gắng kháng cự, kìm chân quân Đỏ một cách hiệu quả cho đến ngày 22 tháng 11, khi quân của Tolbukhin cuối cùng đã bắt đầu hành quân ra khỏi các khu vực đầu cầu đổ bộ của họ.

    Được hỗ trợ bởi cuộc nổi dậy của đội ngũ thợ mỏ, Tập đoàn quân LVII (57) Sô-viết (bao gồm các Quân đoàn Bộ binh LXIV (64) và LXXII (75) và Quân đoàn Bộ binh Cận vệ VI) đã đánh chiếm được thành phố Pecs(cách hồ Balaton khoảng 50 dặm về phía nam) vào ngày 29 tháng 11, bất chấp sự kháng cự quyết liệt của Sư đoàn Bộ binh Cơ giới Tình nguyện SS 31 “Bohemia-Moravia,” do Thiếu tướng Gustav Lombard chỉ huy, đang chiến đấu tốt hơn nhiều so với những gì mọi người mong đợi. Đây là một đơn vị hỗn hợp bao gồm những người lính Đức và ngoại kiều Đức mới được trang bị một phần (đang trong quá trình thành lập ở miền nam Hungary khi cuộc tấn công của Tolbukhin xảy ra) đã sơ tán 80 nghìn người ngoại kiều Đức ra khỏi miền nam Hungary và quay trở lại Hồ Balaton để tiếp tục công việc.

    Ở phía đông và đông bắc của Budapest, Phương diện quân Ukraina II của Malinovsky đã phát động một cuộc tấn công lớn khác vào ngày 11/11/1944. Người Nga dự kiến sẽ nhanh chóng kiểm soát kiểm soát được các vùng đất quan trọng tại đó, nhưng bộ binh Đức và một số đơn vị Hungary đã kháng cự kiên cường, và quân Đỏ phải trả giá đắt cho từng tấc đất mà họ chiếm được.

    Đội quân Feldgrau (lực lượng màu xanh xám) của Đức được hỗ trợ bởi các cuộc phản công liên tục từ các Sư đoàn xe-tăng số 1, 13, 23 và 24, cũng như các Tiểu đoàn thiết giáp hạng nặng 503 và 509, cả hai đều được trang bị các loại xe tăng King Tiger đời mới nhất. Quân Đỏ chỉ giành được các vị trí phòng thủ của người Đức rất chậm chạp, nhưng sau một tuần tấn công, cuối cùng họ cũng đã đe dọa thành phố Miskolc.

    Trong lúc này, ở phía nam, giờ đây quân Nga đã kiểm soát gần hết những ngọn đồi thấp nằm giữa 2 con sông Drava và sông Danube, thêm nữa, địa hình này rất phù hợp cho các hoạt động thiết giáp. Thống chế Baron Maxi-milian von Weichs, Tư lệnh Cục Đông Nam Âu tin tưởng chắc chắn rằng Tolbukhin đang có ý định tiếp tục đà tiến về phía tây, nhằm cắt đứt đường rút lui của chính ông ra khỏi bán đảo Balkan. Thế nhưng, Friessner lại nghĩ khác, ông bị thuyết phục bởi ý định của quân Đỏ sẽ thực hiện một đòn tấn công kép gồm 2 ngạnh cùng tiến về phía tây bắc. Theo Friessner dự đoán, ngạnh trái của người Nga sẽ nhắm vào mũi phía nam của Hồ Balaton và các mỏ dầu cùng các nhà máy lọc dầu gần Nagykanizsa; còn ngạnh phải tiếp tục hướng về phía bắc của hồ và bao vây Budapest từ phía nam và phía tây, trong khi Malinovsky bao bọc thủ đô từ phía bắc. Ban đầu, cho tới tận ngày 1/12/1944, dự định của Tolbukhin lộ ra lắm. Nó chỉ rõ ràng khi Tập đoàn quân LVII (57) Sô-viết bắt đầu từ Pecs lao nhanh theo hướng tây bắc cùng lúc với Tập đoàn quân Cận vệ IV tiến về phía bắc, dọc theo sông Danube.

    Bây giờ rõ ràng là Friessner đã tiên liệu chính xác, Hitler đã trao cho ông ta nắm quyền kiểm soát Tập đoàn quân Panzer II. Vào ngày 2/12/1944, Friessner ra lệnh cho de Angelis cắt đứt liên lạc với Cụm Tập đoàn quân F (Đức) và tập trung giữ mặt trận giữa mũi phía nam của Hồ Balaton và phía tây nam Drava thuộc Nagykanizsa (được gọi là vị trí "Margarethe"). Để giữ cho phòng tuyến này không bị sụp đổ và thu hẹp khoảng cách giữa Hồ Balaton và sông Danube, Friessner đã phải điều động tất cả các đơn vị cơ giới và thiết giáp của mình đến phía nam để ngăn chặn bằng được quân Đỏ, đương nhiên làm suy yếu đáng kể sườn phía bắc của ông ta….
    caonam_vOz, viagraless, tatpcit1 người khác thích bài này.
  2. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    CÓ VÀI CHỖ CẦN SỬA...SORRY MỌI NGƯỜI....

    1/....Đây là một đơn vị hỗn hợp bao gồm những người lính Đức và ngoại kiều Đức mới được trang bị một phần (đang trong quá trình thành lập ở miền nam Hungary khi cuộc tấn công của Tolbukhin xảy ra) đã sơ tán 80 nghìn người ngoại kiều Đức ra khỏi miền nam Hungary và quay trở lại Hồ Balaton để tiếp tục công việc.
    sửa lại là : ..Đây là một đơn vị hỗn hợp bao gồm những người lính Đức và các tình nguyện viên mới được trang bị một phần (đang trong quá trình thành lập ở miền nam Hungary khi cuộc tấn công của Tolbukhin xảy ra) đã sơ tán 80 nghìn người ngoại kiều Đức ra khỏi miền nam Hungary và quay trở lại Hồ Balaton để tiếp tục quá trình trang bị (xây dựng)...

    2/....Ban đầu, cho tới tận ngày 1/12/1944, dự định của Tolbukhin lộ ra lắm.... sửa lại là... Ban đầu, cho tới tận ngày 1/12/1944, dự định của Tolbukhin chưa lộ ra mấy....

    CÁM ƠN MỌI NGƯỜI RẤT NHIỀU...CHẾT CÁI TỘI VỪA DỊCH VỪA XEM MESSI.....
    caonam_vOz, viagraless, tatpcit1 người khác thích bài này.
  3. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Trong lúc này, Phương diện quân Ukraina II chuyển sang tấn công với 35 Sư đoàn Bộ binh hướng thẳng vào vùng đồi Matra (đôi khi được gọi là dãy núi Matra), nằm ở phía đông bắc Budapest, nhưng bị Tập đoàn quân VIII (Đức) chặn lại. Tuy nhiên, quân Sô-viết vẫn tiếp tục các đợt tấn công thăm dò và chiếm được thành phố Miskolc vào ngày 4 tháng Chạp. Sang ngày hôm sau, Malinovsky tiếp tục tổng tấn công trên quy mô lớn khi Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ VI (bao gồm các Quân đoàn tăng Cận vệ V và Quân đoàn Cơ giới hóa Cận vệ IX), được hỗ trợ bởi Cụm quân Pliev (gồm các Quân đoàn Kỵ binh Cận vệ IV và VI cùng với Quân đoàn Cơ giới Cận vệ IV) cũng như Tập đoàn quân Cận vệ VII tấn công vào khu vực Hatvan, nơi tiếp giáp giữa 2 Tập đoàn quân VI và VIII của người Đức.

    Trách nhiệm phòng thủ khu vực này được giao cho Sư đoàn Bộ binh 357, Sư đoàn Bộ binh Cơ giới SS số 18 và Sư đoàn tăng số 13 - tất cả đều trang bị yếu kém. Họ đã phải chịu hỏa lực đến từ 500 xe tăng và pháo tự hành của quân Nga ngay trong ngày đầu tiên. Hồng quân đã xuyên thủng ở một số nơi và đội quân thiết giáp của họ ào ạt tràn qua các lỗ thủng trên các tuyến phòng thủ của người Đức.

    Vào ngày 8 tháng Chạp, quân Nga đã chiếm được thành phố Vac nằm bên sông Danube thuộc khúc quanh phía bắc Budapest, khoảng 10 dặm về phía bắc Thủ đô, và họ cũng tràn vào vùng ngoại ô Estergom, khoảng 25 dặm phía tây bắc Budapest. Phía nam thủ đô Magyar, Quân đoàn Bộ binh XXXVII (37) thuộc Tập đoàn quân XLVI (46) Sô-viết đã chạm trán với sự kháng cự dữ dội, bất ngờ đến từ Sư đoàn Bộ binh nhẹ (Volksgrenadier) số 271 do Đại tá Bieber chỉ huy. Họ đã làm trì hoãn đà tiến của người Nga trong một thời gian đủ để cho Fretter-Pico điều động kịp thời các Sư đoàn tăng số 8, Sư đoàn tăng Hungarian số 1 cũng như một Trung đoàn Cảnh sát SS liên tục tấn kích và phản công buộc đà tiến quân theo hướng nam của Phương diện quân Ukraina II phải dừng lại đột ngột ở phía tây bắc Erd. “Không ai nghĩ đến việc bỏ cuộc,” Thượng sĩ Walter Boehm thuộc Tiểu đoàn Trinh sát Sư đoàn tăng số 8 nói tiếp. "Chúng tôi liên tục tấn công hết đợt này đợt khác, tiêu diệt một số lượng lớn Bộ binh Sô-viết và buộc chúng phải khựng lại, nằm im trên nhiều vị trí dọc đường tiến quân của họ…”

    Như những đợt sóng vỗ vào bờ, người Nga không ngừng tiến tới. Tập đoàn quân Cận vệ IV thuộc Phương diện quân Ukraina III của Tolbukhin đã tiến về phía tuyến phòng thủ trong khu vực hồ Balaton và hồ Velencze, thuộc phía tây nam thủ đô, cho đến khi bị các Sư đoàn xe-tăng số 1 và 23 của Đức chặn lại.

    Rõ ràng là một cuộc bao vây Budapest của Liên Xô đang đồng loạt diễn ra. Với sự cho phép của Hitler, Bộ Tư lệnh Lục quân (OKH) đã tăng cường cho Friessner thêm 2 Sư đoàn xe tăng và 3 Tiểu đoàn Tiger để phản công. Trong khi quyền Tổng tham mưu trưởng Guderian tin rằng nỗ lực chính của Liên Xô là ở phía bắc thì Friessner cảm thấy rằng mối nguy hiểm lớn hơn đến từ phía nam, nhất là khu vực giao tranh giữa hai hồ. Cuối cùng Hitler quyết định triển khai quân tiếp viện dọc theo các phòng tuyến chung mà Friessner từng xây dựng, phần lớn cũng là do ông ta quá lo lắng về việc để mất các mỏ bauxite gần khu vực Szekesfehervar, nằm giữa hồ Balaton và hồ Velencze.

    Lại một lần nữa, Friessner đã dự đoán chính xác, mặc dù cả hai mạn bắc và nam của Budapest, các phòng tuyến Đức đều đang ở trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc. Vào ngày 11 tháng Chạp, Malinovsky lệnh cho Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ VI (bao gồm các Quân đoàn tăng Cận vệ V và Quân đoàn Cơ giới hóa Cận vệ IX), ào ạt tấn công, với mục tiêu tiếp cận sâu vào thung lũng sông Hron, nằm ở phía bắc thành phố. Sư đoàn Bộ binh số 357 của Thiếu tướng Josef Rintelen và Sư đoàn xe-tăng Hungary số 2 chỉ làm chậm đà tiến của quân Nga chứ không thể ngăn chặn được và các đơn vị Hồng quân đã tiến đến thung lũng trong ngày 13 tháng Chạp. Ngày hôm sau, quân Nga làm chủ thị trấn Ipolysag ở phía bắc Budapest, và bắt đầu hành quân qua dãy núi nhỏ mang tên là Boerzsenyi ở phía bắc thành phố. Friessner không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ra lệnh bảo vệ thị trấn Sahy cho Lữ đoàn Dirlewanger, vừa chân ướt chân ráo từ Slovakia đến. Chỉ huy Cụm Tập đoàn quân đã đến Sở chỉ huy của Lữ đoàn Dirlewanger trong ngày 14, và những gì Friessner nhìn thấy đã khiến ông ta kinh ngạc. Dirlewanger, người chịu trách nhiệm cho nhiều hành động tàn bạo khủng khiếp đã gây ra trong việc dập tắt Cuộc nổi loạn tại Warsaw trong vài tháng trước, đang ngồi bình tĩnh tại bàn làm việc với một chú khỉ vắt vẻo trên vai. Cả Dirlewanger lẫn các nhân viên tham mưu dưới quyền đều mù tịt về tình hình mặt trận, nhưng hắn ta vẫn cứ muốn rút lui. Buộc lòng, Friessner ra lệnh cho Lữ đoàn Dirlewanger đóng quân tại chỗ. Sau đó, Friessner đến thăm Sư đoàn tăng số 24 và đi qua khu vực Sahy một lần nữa vào tối hôm đó, nơi ông ta suýt bị quân Nga bắt sống. Về phần Dirlewanger đã phớt lờ mệnh lệnh của Friessner và rút lui bằng mọi giá ; về sau không ai biết Dirlewanger biến đi đâu nữa…(Trớ trêu thay, phần còn lại của Lữ đoàn Dirlewanger được nâng cấp thành Sư đoàn Bộ binh Cơ giới hóa SS số 36 vào ngày 20/2/1945 nhờ tăng cường thêm một số đơn vị quân đội – gồm Tiểu đoàn săn Tăng hạng nặng 681, Lữ đoàn Công binh Quân đội 687 và Trung đoàn Bộ binh Cơ giới số 1244 trong quá trình xây dựng. Sư đoàn SS số 36 được điều đến khu vực Oder thuộc miền Đông nước Đức, và đã bị Hồng quân đập tan. Những người sống sót của đơn vị đã đầu hàng quân Nga. Bản thân Dirlewanger đã thoát khỏi mặt trận và tìm đường trốn đến Wuerttemberg, nơi hắn ta đầu hàng quân Pháp. Tại đây, một tù nhân khác đã nhận ra Dirlewanger, và ông ta dường như đã bị đánh chết bởi lính Pháp vào ngày 7 tháng Sáu năm 1945. Thi thể của Dirlewanger được khai quật và xác định danh tính vào năm 1960..)

    Friessner và Fretter-Pico đã chống lại mối đe dọa mới nhất này bằng cách dồn hầu hết các Sư đoàn xe-tăng số 3 và 6 đến khu vực vùng núi Boerzsenyi và sau đó chia nhỏ ra thành nhiều chiến đoàn nhỏ, nơi họ sẽ lấp đầy các lỗ thủng xuất hiện ngày càng nhiều trên phòng tuyến đang vá víu của người Đức. Họ có thể đi chậm hơn - nhưng không được phép dừng lại – bởi vì Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ VI của Nga, đang tiến gần đến Boerzsenyis, bất chấp cả thời tiết lạnh giá, ẩm ướt (yếu tố làm cản trở đến sự yểm trợ trên không của họ) và sự kháng cự ác liệt của người Đức…..
    caonam_vOz, gaume1, viagraless1 người khác thích bài này.
  4. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    ..Đến ngày 18 tháng Chạp, tình hình ở khu vực phía bắc trở nên tồi tệ đến mức Friessner buộc phải điều toàn bộ Sư đoàn tăng số 8 của Froelich sang cánh phía bắc để bảo vệ phòng tuyến trước áp lực đến từ Tập đoàn quân xe-tăng VI Sô-viết. Trong khi trước đó, Hitler lại ra lệnh cho Cụm tập đoàn quân Nam phải tổ chức ngay một cuộc phản kích bằng xe thiết giáp theo hướng tây nam Budapest nhằm chống lại Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ IV (Nga), thuộc khu vực giữa 2 hồ Balaton và Veleneze.

    Vì thế, trong lúc này, Friessner và Guderian đang có hàng loạt cuộc tranh luận nảy lửa, vì Friessner đã không thể ném lực lượng xe-tăng còn ít ỏi của mình vào cuộc phản kích ngay lập tức. Thời tiết rất xấu, làm ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng đội quân thiết giáp – bởi vì trời mưa tầm tã và nhiệt độ chỉ lạnh trên mức đóng băng chút đỉnh – đã biến toàn bộ khu vực xung quanh Budapest là một cánh đồng bùn khổng lồ. Vào ngày 14 tháng Chạp, Friessner dứt khoát từ chối chịu trách nhiệm về cuộc tấn công cho đến khi mặt đất đóng băng vững chắc, nhưng Guderian vẫn kiên trì ra lệnh cho ông ta phải tấn công.

    Các cuộc tranh luận của họ trở nên nóng bỏng đến mức Friessner phải đích thân bay đến Zossen (Trụ sở của OKH) vào ngày 18 tháng Chạp để có gắng tìm hiểu công việc đến nơi đến chốn. Tuy nhiên, không có điều gì xảy ra cả. Hóa ra Guderian chỉ đơn thuần lặp lại mệnh lệnh của Fuehrer; cả ông và Thiếu tướng Bodislaw von Bonin, sĩ quan tác chiến dưới quyền, dường như hoàn toàn đồng ý với ý kiến đề xuất từ Friessner và ông ta tiếp tục vận động xin cho phép triệt thoái quân đội ra khỏi Budapest.





    ☆☆☆☆☆☆





    Tuy Hitler tuyên bố thành phố là một "pháo đài" và ra lệnh bảo vệ thành phố từng căn nhà, từng con phố nhưng trên thực tế thành phố không có sách lược nào nhằm chuẩn bị cho một cuộc bao vây sẽ xảy ra. Thời điểm này, tại Budapest, cuộc sống vẫn cứ diễn ra như thể đang không có chiến tranh. Các cửa hàng vẫn mở cửa, đồ trang trí Giáng sinh thì hết nhẵn nhụi, và nhiều sĩ quan Hungary thậm chí dành cả ngày ở mặt trận và ở ngôi nhà của họ hằng đêm. Thực sự, họ vẫn đi đến và đi về từ mặt trận - mà đối với hầu hết chỉ giống như cuốc xe điện một chút. Guderian nói rằng sẽ chuyển quan điểm của Friess-ner tới Fuehrer, nhưng rồi ông ta cũng chả làm được điều gì khác hơn đối với Budapest.

    Sang ngày hôm sau, cuộc phản công của Sư đoàn tăng số 8 thất bại, và Lữ đoàn Dirlewanger lại xảy ra binh biến. Một số Đại đội đã nhảy về phe Đỏ trong khi các đơn vị khác bắn các sĩ quan của họ rồi tìm cách đào ngũ. Hầu hết, mọi quân nhân đều biến mất vào ngày hôm sau.

    Với quyết định đảo ngược tình thế mới nhất, Hitler và Guderian vẫn tiếp tục nắm quyền điều binh khiển tướng cho trận đánh từ Tổng hành dinh Quốc trưởng, cách thủ đô Budapest tới hàng trăm dặm đường. Fuehrer lại ra lệnh thực hiện một lực đẩy bằng thiết giáp rất mạnh giữa Hồ Balaton và Veleneze. Theo kế hoạch ban đầu, sẽ do Quân đoàn tăng III của Breith làm mũi nhọn xung kích, bao gồm các Sư đoàn tăng số 3,6,8 cũng như hai Tiểu đoàn Pan-thers hạng nặng được tăng cường…

    Bởi vì khu vực mà Breith phải tấn công có địa hình toàn đầm lầy mà chưa bị đóng băng, Hitler buộc các Sư đoàn tăng số 3 và 6 bỏ lại phía sau tất cả xe tăng, xe bọc thép chở quân, pháo binh cũng như pháo tự hành xung kích; các đơn vị bộ binh thuộc các Trung đoàn Bộ binh Cơ giới phải xuống xe, đi bộ xông vào trận chiến; còn các đơn vị Cơ giới (không có lực lượng bộ binh tùng thiết) vẫn tiến lên phía bắc, chống lại Tập đoàn quân Xe tăng VI của người Nga.

    Mệnh lệnh vô lý và ác nghiệt này trớ trêu thay, lại được chuyển đến Friessner qua miệng Heinz Guderian, "cha đẻ" của Chiến thuật Blitzkrieg và là bậc thầy đầu tiên trên thế giới về phương pháp hoạt động của lực lượng cơ giới. Cuộc phản kích đương nhiên không hề có kết quả gì, và khi Quân đoàn Thiết giáp III bị người Nga phản công vài ngày sau đó, họ không thể trụ vững được vì không có bộ binh yểm trợ.

    Trong khi đó, Liên Xô đang ra sức đóng “pocket” tại thủ đô Budapest. Sự rút lui của Sư đoàn tăng số 8 cũng như phần lớn các Sư đoàn tăng số 3 và 6 đã làm suy yếu đáng kể tuyến phòng thủ nằm ở phía bắc thành phố. Ngày 20 tháng Chạp, Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ VI thuộc Phương diện quân Ukraina II đã vượt qua dải phòng thủ của Sư đoàn Bộ binh 357 và tiến về phía nam, vượt ra khỏi dãy núi Boerzsenyi trên cả hai mặt của Sahy, trong khi Tolbukhin tiến về phía bắc, trên cả hai mặt của Hồ Velencze.

    Đến ngày 22 tháng Chạp, thị trấn Val đã thất thủ trước Quân đoàn Cơ giới Cận vệ II (thuộc Tập đoàn quân XLVI (46)), trong khi Sư đoàn tăng số 3 bị ghìm chặt trong trận giao tranh ác liệt tại Trung tâm liên lạc quan trọng ở Szekesfeherevar. Budapest có nguy cơ bị hợp vây. Một lần nữa, vào ngày 23 tháng Chạp, Friessner kêu gọi từ bỏ thành phố. Thế nhưng cả ông ta và Fretter-Pico đều bị sa thải ngay lập tức vào đêm hôm đó.

    Tướng Woehler, một người trầm lặng, luôn có điếu xì gà vắt vẻo trên môi được trao quyền chỉ huy Cụm tập đoàn quân Nam, Tướng thiết giáp Hermann Balck (chỉ huy Cụm tập đoàn quân G) được điều động từ Phương diện quân miền Tây sang nắm quyền chỉ huy Tập đoàn quân VI (rõ ràng là một sự giáng chức) và Tướng Kreysing lên kế nhiệm Woehler làm Tư lệnh Tập đoàn quân VIII (Đức).

    Guderian điện cho các chỉ huy mới rằng họ nên yêu cầu các quân nhân dưới quyền luôn mang bên mình một khẩu hiệu :”Tấn công!” trong chiến trận bất kể là lực lượng tuần tra, quân địa phương hoặc ở trên một mức độ lớn lao khác.

    Tướng Woehler đáp lại bằng cách điện cho người đứng đầu Bộ Tư lệnh Lục quân (OKH) và lập luận theo một cách rõ ràng là Budapest phải luôn được phòng vệ chắc chắn từ bên phía bờ tây con sông Danube. Lắng nghe những lý lẽ của Woehler, Guderian đã thay đổi hoàn toàn quan điểm của mình và thậm chí đồng ý nói chuyện với Hitler về việc từ bỏ Budapest.

    Ba giờ sau, ông thông báo lại cho Tướng Woehler quyết định của Fuehrer: thành phố, bao gồm cả khu vực đầu cầu bên bờ đông con sông Danube, phải được bảo vệ ; Bộ Tư lệnh Lục quân (OKH) sẽ phát động một cuộc tấn công giải cứu, sử dụng Quân đoàn Xe-tăng SS IV (bao gồm Sư đoàn tăng SS thứ 3 và 5) từ Cụm Tập đoàn quân Trung tâm chuyển đến và Woehler được phép rút hai sư đoàn ra khỏi thành phố.

    Tuy nhiên, điều đó đã xảy ra quá muộn; Quân đoàn tăng XVIII thuộc Tập đoàn quân XLVI (46) và các nhómxung kích thuộc Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ VI Sô-viết đã liên kết với nhau tại Estergom ngay trong đêm Giáng sinh, ngày 24/12/1944. Thế là vòng vây xung quanh thủ đô Budapest đã được khép chặt…
    caonam_vOz, tatpcit, gaume12 người khác thích bài này.
  5. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939

    BUDAPEST TRONG VÒNG VÂY.




    Điều gì đã xảy ra tại Thủ đô Budapest?

    Kể từ ngày 5/11/1944, thành phố Budapest đã được bảo vệ ngoan cường bởi các Sư đoàn Kỵ binh SS số 8 và 22 SS (cả hai đều bỏ hết ngựa bên ngoài thành phố), Sư đoàn xe-tăng 13, Sư đoàn tăng 60 mang tên là “Feldherrnhalle” (FHH), một chiến đoàn tương đương với một Lữ đoàn Pháo Phòng không ( nòng cốt là Trung đoàn pháo phòng không số 12 của Đại tá Ernst Jansa), một KG cỡ Tiểu đoàn đến từ Sư đoàn Bộ binh nhẹ 271, Trung đoàn Cảnh sát SS số 1(đến từ Sư đoàn Bộ binh Cơ giới SS số 4 “Police”) và Quân đoàn Hungary I (bao gồm Sư đoàn Thiết giáp Hungary số 1 ; các Sư đoàn Bộ binh 10 và 12 ; một Trung đoàn rút ra từ Sư đoàn Kỵ binh Hungary số 1 ; một vài Tiểu đoàn đến từ lực lượng Cảnh sát Hungary cùng một nhóm vệ binh thuộc Đảng Mũi tên Chữ thập).

    Đại tướng Ivan Hindy chỉ huy các lực lượng Hungary dưới quyền rất tốt. Kể từ ngày 5/11/1944, tất cả các đội quân đóng ở trong và xung quanh khu vực nội đô đều được đặt dưới quyền kiểm soát của Quân đoàn Panzer III do tướng Breith chỉ huy. Tổng cộng, Budapest đã được bảo vệ bởi 33.000 người Đức và 37.000 người Hungary. Chất lượng của các đơn vị Magyar rất đa dạng, từ tốt đến yếu kém, nhưng nhìn một tổng thể chung là thuộc mức độ trên bình thường, ít ra có sức chiến đấu cao hơn so với các đơn vị quân lực Hungary trung bình vào cuối năm 1944.

    Chất lượng các Sư đoàn Đức ít ra cũng là tốt, nhất là ở các Sư đoàn Kỵ binh SS số 8, Sư đoàn tăng 13 cũng như FHH thì rất xuất sắc, mặc dù tất cả từng bị rơi vào tình trạng thiếu đủ loại trang bị ngay cả trước khi cuộc bao vây bắt đầu. Sư đoàn mạnh nhất thuộc đội quân phòng vệ thủ đô chính là Sư đoàn tăng Feldherrnhalle, có 8.000 người, 25 xe tăng PzKw IV và V, và một Tiểu đoàn pháo Tự hành xung kích loại Hummel 150 mm rất tuyệt hảo.

    Sư đoàn tăng số 13, từng chiến đấu trên chiến trường Caucasus hai năm trước đó, có quân số giảm xuống còn 3.000 người, khoảng 20 xe tăng PzKw IV và V cùng một Trung đoàn Pháo binh đã được giảm thiểu. Sư đoàn kỵ binh SS số 8 "Florian Geyer" đóng góp 8.000 người, khoảng một nửa trong số đó là người ngoại kiều Đức (Volksdeutsche). Hầu hết những quân nhân trong Sư đoàn này đều là cựu chiến binh của Mặt trận miền Đông. Sư đoàn 8 cũng có 10 khẩu pháo tự hành, 3 Tiểu đoàn Pháo binh và một Tiểu đoàn pháo Phòng không loại 88 mm. Lực lượng Luftwaffe đóng góp một Trung đoàn pháo phòng không được trang bị rất tuyệt vời (thuộc Sư đoàn Phòng không số 15) bao gồm 60 khẩu pháo loại 88 mm.

    Thống kê chi tiết Quân số thuộc phe Trục trong vòng vây Budapest:

    ĐỘI QUÂN PHÒNG VỆ BUDAPEST (TỪ THÁNG 11/1944-2/1945)

    I/ Quân đoàn Xe-tăng III – Chỉ huy : Tướng Thiết giáp Hermann Breith (sẽ được Tướng SS Karl von Pfeffer-Wildenbruch thuộc Quân đoàn Sơn cước SS số IX thay thế vào ngày 4/12/1944 – Tướng von Pfeffer-Wildenbruch còn được bổ nhiệm là Tổng tư lệnh các lực lượng Wehrmacht vào ngày 25/12/1944).

    + Sư đoàn tăng FHH “Feldherrnhalle”: Chỉ huy là Đại tá Guenther Pape (Ghi chú : Tính gộp cả Tiểu đoàn Pháo chống tăng 13, ở bên ngoài thành phố khi bị vây hãm. Còn Đại tá Pape được thăng thiếu tướng vào ngày 1/12/1944. Ông đang chỉ huy một nhóm tác chiến đặc biệt bên ngoài Thủ đô và không thuộc Sư đoàn FHH bên trong Budapest).

    + Sư đoàn tăng số 13…Chỉ huy : Thiếu tướng Gerhard Schmid-huber

    + Sư đoàn Kỵ binh SS số 8 “Florian Geyer”. Chỉ huy : Đại tá SS Joa-chim Rumohr.

    + Sư đoàn Kỵ binh SS số 22 “Maria Theresia”. Chỉ huy : Đại tá SS August Zehender.

    + Trung đoàn Cảnh sát SS số 1 (thuộc thành phần của Sư đoàn Bộ binh Cơ giới SS số 4 “Police”). Chỉ huy : Oberfuehrer SS Helmut Doerner

    + KG thuộc Sư đoàn 271st Volksgrenadier. Chỉ huy : Trung tá Herbert Kuendiger

    II/ Quân đoàn Hungarian số I : Đại tướng Ivan Hindy

    + Sư đoàn Bộ binh Hungary số 10.

    + Sư đoàn Dự bị Hungary số 12.

    + Một phần của Sư đoàn Thiết giáp Hungary số 1.

    + Một Trung đoàn đến từ Sư đoàn Kỵ binh Hungary số 1.

    + Lực lượng Vệ binh của Đảng Mũi tên Chữ thập.

    + Một vài đơn vị Cảnh sát cũng như các Đơn vị hỗ trợ khác.

    Trong ngày 10 tháng 11, một lực lượng thiết giáp mạnh của Nga đã chiếm được thị trấn trọng yếu Vecses từ Tiểu đoàn Trinh sát Thiết giáp SS (Recon) số 8 của Thiếu tá Walter Drexler. Đại tá SS Joachim Rumohr, chỉ huy Sư đoàn kỵ binh SS số 8, đã phát động một cuộc phản công ngay lập tức với Trung đoàn kỵ binh SS 15, Đại đội 3 (Pháo tự hành) thuộc Tiểu đoàn Trinh sát Thiết giáp SS (Recon) số 8 cùng một Cụm Pháo tự hành đến từ Sư đoàn FHH, được yểm trợ bởi hỏa lực đến từ Trung đoàn pháo binh 8 SS và tiểu đoàn pháo phòng không hạng nặng thuộc quân số Sư đoàn SS số 8.

    Những người lính thuộc Sư đoàn bộ binh Hungary số 12 cũng tham gia vào trận chiến hết sức ác liệt. Quân SS đã chiếm được lại thị trấn ở những trận đánh giáp lá cà dữ dội trong từng ngôi nhà. Họ phát hiện ra rằng hầu hết các công dân của thị trấn đã bị sát hại; nhiều phụ nữ đã bị hãm hiếp trước khi bị giết chết. Hết lần này đến lần khác, một số phụ nữ còn sống sót khóc lóc thảm thiết với những người lính kỵ binh SS: "Chúa ơi, Chúa ơi, tại sao các ông lại bỏ rơi chúng tôi?" Các kỵ binh SS của trung đoàn bị bắt làm tù binh cũng được tìm thấy, nhưng thi thể của họ đã bị làm biến dạng tới mức khó có thể nhận dạng.

    Đối với lực lượng Waffen-SS, Vescus thiết lập không khí chung cho cuộc chiến. Trung thành với mệnh lệnh được giao phó, những người lính SS không bao giờ tự ý rời bỏ vị trí chiến đấu của họ. Điều này làm cho người Nga đã không thể chiếm lại thị trấn Vecsus cho đến tận cuối tháng Chạp.

    Do buộc phải bỏ hết ngựa ngoài thủ đô, Sư đoàn kỵ binh SS số 8 và số 22 hiện đang chiến đấu như là lính Bộ binh, đã bảo vệ tuyến đường trực tiếp đến Budapest và phải hứng chịu rất nhiều đợt tấn công liên tục đến từ quân Đỏ, tất cả đều bị đẩy lui, ngoại trừ một lần. Đó là ngày 17 tháng 11, Liên Xô vượt qua các chiến hào của quân Đức và tiến vào khu vực phía tây Vecses, nhưng chúng nhanh chóng bị bao vây bởi một cuộc phản công của lực lượng SS. Những người lính SS đã phong tỏa đường rút quân và phản kích lại, quét sạch kẻ thù ra khỏi trận địa.

    Vào các ngày 4, 5 và 6 tháng Chạp, quân Sô-viết đã xâm nhập vào tuyến phòng thủ của Hungary ở một số nơi. Hầu hết các cuộc thâm nhập này đã được chặn lại bởi các đợt phản kích đến từ Sư đoàn tăng số 13 của Thiếu tướng Gerhard Schmidhuber hoặc bởi Sư đoàn tăng FHH của Đại tá Guenther Pape. Giữa Alag và Kisalag, quân Nga đã chọc thủng sức kháng cự của Sư đoàn bộ binh Hungary 10 và 12 ở một số nơi, và Cụm thiết giáp, xe tăng của người Đức thiếu sức mạnh để phong tỏa tất cả các cuộc đột nhập của quân Sô-viết buộc họ phải lùi vào các vị trí "đầu cầu Budapest", nằm ngay khu vực ngoại ô thành phố.

    Vào ngày 9 tháng Chạp, quân Nga thiết lập được một đầu cầu đổ bộ nằm trên đảo Csepel, ở giữa sông Danube, ở phía nam thành phố. Đến ngày 11 tháng Chạp, Budapest bị bao vây chặt chẽ từ ba hướng : bắc, đông và nam, và quân Nga đã đặt tới 10 nghìn khẩu pháo hạng nặng và thi nhau bắn phá Thủ đô từ ba hướng. Nhưng mặc kệ chiến sự bùng nổ dữ dội, thường dân Hungary vẫn cố gắng tiếp tục cuộc sống hàng ngày của họ như thể không có điều gì xảy ra. Các cửa hàng vẫn mở cửa, xe điện vẫn hoạt động và lễ Giáng sinh được tổ chức theo cách thông thường - chừng nào có thể thực hiện được.
    caonam_vOztatpcit thích bài này.
  6. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    …Cũng vào ngày 11 tháng Chạp, Sư đoàn kỵ binh SS số 22 “Maria Theresa” do Đại tá August Zehender chỉ huy đã nhận quyền kiểm soát mọi hoạt động của Sư đoàn Thiết giáp Hungary số 1 và được giao phụ trách các tuyến phòng thủ của Đức trên đảo Csepel. Hai ngày sau, Quân đoàn Sơn cước SS số IX đã được Quân đoàn Panzer III thay thế và phụ trách luôn công cuộc phòng thủ Buda-pest. Quân đoàn Sơn cước SS số IX, ban đầu do Trung tướng SS Karl G. Sauberzweig chỉ huy, được thành lập vào mùa hè năm 1944 để kiểm soát các hoạt động huấn luyện, tác chiến của các Sư đoàn Sơn cước Tình nguyện SS số 13 và 23 với tên gọi là “Handschar” và “Kama”.Về cơ bản, đây là những đội quân đang trải qua thời kỳ huấn luyện.

    Tuy nhiên, các Sư đoàn này đã chứng tỏ là những Sư đoàn tồi tệ nhất trong Wehrmacht. Quân lính được hợp thành từ những người Hồi giáo trong vùng Croatia, những người lính không hề quan tâm đặc biệt đến việc phục vụ lợi ích của Đế chế Đệ tam mà họ chỉ chiến đấu thực sự hăng hái khi có cơ hội tấn công các ngôi làng Cơ đốc giáo không có sự bảo vệ. Sư đoàn SS 23 đã bị giải thể do thiếu kỷ luật và thiếu thời gian để huấn luyện, còn Sư đoàn SS 13 thì được thu nhỏ về quy mô Trung đoàn để tăng thêm hiệu quả hoạt động. Điều này đã khiến cho quân số chính thức của Quân đoàn Sơn cước SS số IX gần như biến mất trên các tuyến mặt trận (hay nói cách khác Quân đoàn này chỉ còn phiên hiệu).

    Vào đầu tháng Chạp, Tướng Sauberzweig được thay thế bởi Trung tướng SS (Obergruppenfuehrer) Karl von Pfeffer-Wildenbruch, đó cũng là một viên Tướng Cảnh sát. Viên sĩ quan kỳ cựu này sinh ngày 12/6/1888 tại Kalkberge-Ruedersdorf gần Berlin, con trai của một bác sĩ. Gia đình theo đạo Tin lành của ông đến từ Salzburg, Áo, nhưng đã chuyển đến Đông Phổ từ hai thế kỷ trước.

    Pfeffer-Wildenbruch gia nhập Quân đội Phổ vào năm 1907 với tư cách là một sĩ quan học viên thuộc Trung đoàn Pháo binh số 22 tại Muenster, Westphalia. Bắt đầu nhận nhiệm vụ từ năm 1908, ông đã có ba năm làm sĩ quan pháo binh. Năm 1911, ông được gửi đến Học viện Kỹ thuật Quân sự ở Berlin, nơi ông ở lại đó học tập cho đến khi Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất nổ ra. Ông quay trở lại trung đoàn cũ của mình trên chiến trường, làm phụ tá cho Trung đoàn Pháo binh 237 vào năm 1915, và sau đó được bổ nhiệm vào Bộ tham mưu của Thống chế Baron von der Golz ở Baghdad (Iraq), nhận một nhiệm vụ quân sự đặc biệt tới vùng Ba Tư.

    Năm 1917, ông là Tham mưu trưởng cho Tướng Liman von Sander, người đứng đầu Phái bộ quân sự Đức tại Đế chế Ottoman. Năm sau, ông làm việc trên tư cách là Sĩ quan tham mưu của Sư đoàn 11 Bộ binh, Quân đoàn LV z.b.V. (“Chuyên dành cho các nhiệm vụ đặc biệt”), và Quân đoàn Dự bị XXIV. Ông được tặng thưởng Huân chương Chữ thập sắt cả 2 hạng. Sau WW I, Pfeffer-Wildenbruch không được chọn để giữ lại ở Reichsheer gồm 4.000 sĩ quan do Tướng von Seeckt phụ trách, vì vậy ông gia nhập đội quân Cảnh sát Trật tự, phục vụ tại quận Rhineland-Westphalia.

    Sau đó, ông làm Cố vấn cho Bộ Nội vụ và chỉ huy các Đội cảnh sát ở Osnabrueck và Magdeburg. Từ năm 1928 đến năm 1930, ông là giảng viên của Lực lượng Cảnh sát Cơ động tại Santiago, Chile. Tiếp theo, ông lại trở về Đức, nơi ông chỉ huy các đơn vị cảnh sát ở Berlin và Kassel trước khi phụ trách Trung đoàn cảnh sát tại Frankfurt-am-Main.

    Ba năm sau, ông được bổ nhiệm làm Tổng Thanh tra các Trường Cảnh sát trong Bộ Nội vụ. Ông được thăng cấp Thiếu tướng cảnh sát vào năm 1937 và Trung tướng cảnh sát vào tháng 11 năm 1939. Trong khi đó, vào ngày 10 tháng 11 năm 1939, ông trở thành chỉ huy đầu tiên của Sư đoàn Cơ giới SS "Polizei", mà ông đã lãnh đạo tại Mặt trận miền Tây năm 1940. Ông được phong là SS-Grup-penfuehrer (Trung tướng SS) vào ngày 20/4/1940.

    Từ năm 1941 đến năm 1943, Pfeffer-Wildenbruch là Cục trưởng Cục Cảnh sát Thuộc địa thuộc Bộ Nội vụ, cơ quan chuyên giám sát hoạt động của các Lực lượng cảnh sát Đế chế tại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Vào ngày 27 tháng Chín năm 1943, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn SS tình nguyện VI (Latvia), hoạt động ở khu vực phía Bắc của Mặt trận miền Đông cho đến khi ông được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy lực lượng Waffen-SS tại Hungary.

    Trên tư cách vẫn là chỉ huy Quân đoàn Sơn cước SS số IX, ông đã lãnh đạo các lực lượng Đức ở Budapest trong suốt phần còn lại của cuộc bao vây. Vốn là một người chỉ huy cứng rắn, ông đã mất cả hai người con trai của mình trong Chiến tranh. Cậu con trai lớn bị giết khi còn là một học viên sĩ quan (Fahtienjanker)ở mặt trận Bắc Phi năm 1941, và cậu con trai thứ - nguyên là một thiếu úy quân đội - bị giết ở Pháp năm 1944. Mặc dù ông đang phục vụ trong nhánh SS tổng quát (Nhánh đảm nhận thực hiện các chính sách chủng tộc và giữ gìn trật tự ) của Đế chế - đối lập hẳn với nhánh Waffen-SS (bao hàm các đơn vị chiến đấu trong lực lượng Wehrmacht) – nhưng Pfeffer -Wildenbruch được hầu hết các tướng lĩnh quân đội ở Hungary coi là một chỉ huy có năng lực hợp lý, và tất cả đều dành sự tôn trọng nhất định cho ông ta.

    Tuy nhiên, với tướng Balck, lại không được như vậy. Chỉ huy mới thuộc Tập đoàn quân VI là một nhà lãnh đạo cực kỳ có năng lực và đôi khi tỏ ra xuất sắc. Ông là một trong những nhà chỉ huy thiết giáp giỏi nhất mà Wehr-macht từng sản sinh trong Thế chiến thứ hai — và ông ta thừa biết điều đó. Tuy nhiên, kỹ năng “con người” không phải là điểm mạnh của ông. Tướng Balck luôn tỏ ra ngạo mạn, khó tính, thiếu nhạy cảm và khó làm việc khi đối thoại với bất kỳ ai mà ông ta không cho là ở cùng trình độ chuyên nghiệp với mình, và đó hầu như là tất cả những người không phải là thành viên của Bộ Tổng tham mưu, thậm chí là ngay cả một vị tướng thiết giáp kỳ cựu.

    Nhiều khi, ông còn xung đột với một số người như vậy, thậm chí gồm cả Thống chế Gerd von Rundstedt, Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân miền Tây, người mà Balck cảm thấy không có đầy đủ những thông tin cập nhật về chuyên môn. (Có rất nhiều lời biện minh về quan điểm của Balck liên quan đến Thống chế Rundstedt.) Balck cũng đã từng xung đột với Himmler, vì thái độ khinh thường của vị Thống chế SS đối với tất cả các sư đoàn SS.

    Trên thực tế, Balck rất có thành kiến với các đơn vị Waffen-SS cùng với tất cả các sĩ quan của lực lượng Waffen-SS, và ông ta không hề che giấu sự khinh thường của mình đối với họ. Ở trong mọi lúc, vốn dĩ là người bạn thân đồng thời là tham mưu trưởng của ông - Thiếu tướng Heinz Gaedcke – luôn chia sẻ quan điểm của ông nhưng vẫn không giúp Balck cải thiện mối quan hệ hợp tác công việc với đội quân bên phía SS…
  7. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    …..Bộ binh Nga tiếp tục mở các cuộc tấn công trực diện vào các vị trí phòng thủ do Quân đoàn Sơn cước SS số IX bảo vệ, kết hợp cùng với Phương diện quân Ukraina II và III đang cố gắng cắt đứt đường liên lạc về phía tây cuối cùng từ Budapest để hoàn thành túi vây. Cả hai bên đều có thương vong rất cao. Vào ngày 14 tháng Chạp, Sư đoàn Kỵ binh SS số 8 buộc phải rút đi một phần lực lượng ở phía nam điều động lên phía bắc, nhằm tăng cường thêm cho số quân thuộc Sư đoàn tăng số 13 và Sư đoàn FHH, đã bị hao mòn rất nhiều qua những ngày chiến đấu ác liệt vừa qua. Ngày hôm sau, Tiểu đoàn Công binh 751 của quân đội cũng đã đến được thủ đô để xây dựng lên nhiều chiến hào cũng như boong-ke phòng thủ trong khu vực nội đô.

    Thành phố Budapest có gần một triệu dân vẫn cố gắng phớt lờ cuộc bao vây của Hồng quân. Ví dụ như, Tiểu đoàn Quân y thuộc Sư đoàn Kỵ binh SS số 8 đã thiết lập Trạm Cấp cứu của Sư đoàn ngay trong hầm rượu của Khách sạn sang trọng Britannia. Tuy nhiên, những người Hungary giàu có vẫn tiếp tục ăn uống trong phòng, bất chấp thực tế là những người lính SS bị thương, người họ đầy bùn và bẩn thỉu thường xuyên lết qua, máu vẫn rỉ ra từ những vết thương trên đoạn đường di chuyển của họ.

    Có tương đối ít giao tranh ở các chiến hào xung quanh Budapest trong tuần từ ngày 17 đến ngày 23 tháng Chạp, và một sự im lặng đáng ngại bao trùm lên các vị trí của quân Đức. Những người lính bị vây hãm cố gắng không nghĩ đến tình hình chiến trường đang xấu đi và thay vào đó, họ tập trung vào việc tổ chức lễ Giáng sinh. Các lễ hội mang một sắc màu ảm đạm hơn vào ngày 24 tháng Chạp, khi tin tức đã bay đến tai họ: Thủ đô Budapest hoàn toàn bị bao vây….

    Pfeffer-Wildenbruch muốn mở một cuộc phá vây ngay lập tức và cử Sư đoàn Kỵ binh SS “Floian Geyer” đến Buda, phía tây của “Pocket”, để chuẩn bị kế hoạch. Thế nhưng, ngay sau đó có lệnh từ Tổng hành dinh Fuehrer ban xuống: “Budapest phải được giữ vững trong mọi tình huống!”……

    Thay vì tấn công, Sư đoàn Kỵ binh SS số 22 đã đào sâu xuống đất để bảo vệ các hướng tiếp cận từ phía tây tới “fortress – pháo đài”.Thật không may cho đội quân bị vây, các kho hậu cần nằm quá xa về phía tây thành phố và các nhân viên hậu cần thuộc Quân đoàn Sơn cước SS số IX đã không cố gắng di chuyển mọi thứ vào trong Thủ đô trước khi “pocket” bị đóng lại. Thế là hầu hết 450 tấn đạn dược và ba trăm nghìn khẩu phần ăn đã bị rơi vào tay người Nga ngay trong đêm Giáng sinh. Một lần nữa, đội quân Waffen-SS lại thể hiện điểm yếu chí tử của họ trong vai trò là một lực lượng chiến đấu: khả năng của các sĩ quan thì kém và các nhân viên tham mưu luôn luôn mắc sai lầm.

    Vào ngày Giáng sinh 25/12/1944, chiến sự đặc biệt leo thang khi quân Sô-viết bắt đầu thi nhau tấn công vào trong nội đô thành phố. Có rất ít thời gian mà chiến sự tạm lắng trong phần còn lại của cuộc bao vây. Sau này, nhà văn, nhà sử học Ziemke đã viết:“Thật là kinh hoàng,“ – rồi ông tiếp tục đề cập :” Budapest đúng là một trận Stalingrad thứ hai. Gần như toàn bộ dân số, khoảng hơn một triệu người, bị mắc kẹt trong thành phố mà không có những dự trữ tốt nhất cho sinh hoạt hoặc sức khỏe, bị dồn tới các hầm tránh bom của không quân và pháo binh. Trong gần ba tháng tới trong vòng vây thì các dịch vụ điện, khí đốt và nước đã ngừng hoạt động ngay từ ngày đầu tiên. ”

    Hàng ngàn người chết vì cái lạnh và bệnh tật. Vào ngày lễ Giáng sinh, Sư đoàn FHH đã phải bảo vệ khu vực Budaors trong một trận giao tranh ác liệt. Ngày hôm sau, quân Nga bị tổn thất nặng tại Budakesci, nơi đó được Tiểu đoàn Trinh sát SS số 8 bảo vệ. Dọc theo bờ sông Danube, quân Đỏ đã chiếm được các điểm cao nằm trên đảo Csepel. Người Nga đã điều khoảng 20 Sư đoàn Bộ binh cũng như một số đơn vị xe-tăng và Cơ giới hóa dành cho trận đánh này, và họ thi nhau tấn công ở khắp mọi nơi trong nội đô.

    Thảm họa thường chỉ được ngăn chặn nếu ta ném các Tiểu đoàn cuối cùng vào những cuộc phản công. Lực lượng dự bị cuối cùng mà Pfeffer-Wildenbruch còn lại ở trong tay là một KG của Oberfuehrer Helmut Doerner rút ra từ Trung đoàn Cảnh sát SS số 1. Ông ta bèn xin lệnh từ Tổng hành dinh Fuehrer cho phép rút lui khu vực bên bờ đông (khu Pest) của “pocket”, để ông ta có thể tập trung lực lượng bảo vệ khu vực phía tây của Thủ đô Budapest. Chả cần phải nói nhiều, không bao giờ Tổng hành dinh Fuehrer lại cho phép Wildenbruch thực hiện một kế hoạch như vậy.

    Tình hình tiếp tục trở nên tồi tệ hơn vào ngày 27 tháng Chạp, khi Tiểu đoàn Trinh sát Thiết giáp SS số 8 của Drexlercuối cùng đã bị quân Đỏ đẩy bật ra khỏi thị trấn Vecses, lần này là vĩnh viễn. Quân Nga tiếp tục đà tiến của họ trong ngày hôm sau và đã chọc thủng đầu cầu khu phố nằm bên bờ đông (Pest). Lúc này, tình hình của đạo quân phòng vệ Budapest thật thảm hại, tỷ lệ về quân số so với Hồng quân là 1/5, các chỉ số khác còn tệ hại hơn con số trên như về pháo binh, xe tăng và hầu như mọi chủng loại vật chất khác.

    Không có sân bay hoạt động nào trong “pocket”, bởi vì Không quân Sô-viết thống trị tuyệt đối trên bầu trời. Mọi nguồn cung cấp cũng đang cạn kiệt; Quân đoàn Sơn cước SS số IX dự đoán rằng họ sẽ hết đạn vào ngày 3 tháng Giêng và hết lương thực vào ngày 12/1/1945. Mặc dù vậy, Sư đoàn tăng số 13 của Gerhard Schmidhuber đã tiến hành một cuộc phản kích mạnh mẽ và đập tan sự xâm nhập của Nga vào ngày hôm trước.

    Lúc này, Quân đoàn Sơn cước SS số IX chỉ có thể được tiếp tế bằng đường hàng không vào ban đêm. Địa điểm hạ cánh tốt nhất mà Quân đoàn xác định được là Trường đua tại Budapest; Thế là có 27 chiếc He-llls và Ju-52 hạ cánh trong đêm 29 rạng ngày 30 tháng Chạp, đem theo 75 tấn đạn dược và 10 tấn nhiên liệu. 45 tấn hậu cần khác được thả dù xuống và 29 máy bay tiếp tế khác đã hạ cánh được vào ban ngày (30/12/1944), mặc dù một số máy bay đã bị máy bay chiến đấu của Liên Xô bắn hạ. Việc tiếp tế hầu như không thể giải quyết vào đêm hôm đó, do nhiệt độ thấp, tuyết rơi dày đặc và tầm nhìn kém.
    caonam_vOz, tatpcit, gaume11 người khác thích bài này.
  8. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    …Giờ đây,các cuộc tấn công của Hồng quân liên tục diễn ra, không có một lúc nào ngưng nghỉ. Gần khu Csomor, quân Đỏ đã xuyên thủng phòng tuyến do Sư đoàn 10 Hungary bảo vệ, và Sư đoàn tăng 13 Đức đã tỏ ra hụt hơi, không thể nào lấp được các lỗ thủng trên tuyến phòng thủ. Cả hai sư đoàn buộc phải lui về một phòng tuyến ngắn hơn ở hướng tây.

    Malinovski và Tolbukhin có thể tin chắc rằng họ sẽ chiếm được Budapest trong vòng ba hoặc bốn ngày sau khi hoàn thành cuộc bao vây, nhưng chiến trận đang phát triển trái với những dự kiến của họ. Lực lượng phòng thủ Đức-Hung tại Budapest đang phải đối chọi với hơn 250.000 quân Liên sô và Rumani bao gồm 19 Sư đoàn Bộ binh, 3 Lữ đoàn tăng hoặc Cơ giới cùng một số đơn vị pháo binh và và pháo tự hành chuyên dụng.

    Do đó, các Tướng lĩnh Nga cố gắng đưa ra giải pháp đàm phán hòa bình với một tối hậu thư. Vào ngày 29 tháng Chạp, một nhóm gồm bốn “quân sứ” không mang theo vũ khí, đi dưới một lá cờ trắng đình chiến đã vượt qua phòng tuyến Đức. Lần đầu tiên họ được đưa đến Sở chỉ huy của Đại tá SS Zehender, chỉ huy Sư đoàn Kỵ binh số 22 SS. Tuy nhiên, Zehender tỏ ra khinh thường với ý tưởng đầu hàng và thậm chí từ chối xem xét các điều khoản do người Nga đưa ra.

    Đại tá Rumohr, Tư lệnh Sư đoàn Kỵ binh SS số 8, đã nóng nảy nói với các “quân sứ” rằng Budapest sẽ không bao giờ đầu hàng và yêu cầu họ quay trở lại phòng tuyến. Những gì xảy ra tiếp theo là chủ đề của những cuộc tranh luận nhưng nó nhuốm màu sắc thật bi thảm. Mọi người chỉ biết rõ ràng là khi các vị “quân sứ” hòa bình vượt qua chiến tuyến Đức dưới lá cờ trắng đình chiến thì chiếc xe jeep chở họ đã phát nổ, giết chết tất cả bốn người trên xe.

    Mỗi bên nói một kiểu ; một người lính SS chứng kiến vụ việc nói rằng chiếc xe jeep đã bị bắn bởi một khẩu súng chống tăng Hungary, được giấu ở gần nơi đó, chính xác là chỗ giao nhau giữa đường Budaorcsi cắt ngang với tuyến đường sắt Hamszabegi. Người Hungary thì phủ nhận cáo buộc và tuyên bố rằng chiếc xe này chắc chắn đã bị trúng mìn. Một số lính Hungary khác đổ lỗi cho một khẩu đội Hummels thuộc Sư đoàn FHH. Còn 2 Cựu binh thuộc Sư đoànFeldherrnhalle sau đó đã làm chứng rằng những vị “quân sứ” hòa bình này đã bị thiệt mạng vì do một khẩu súng cối của Nga bắn nhầm (??). Nói chung, quân Nga cho rằng lực lượng Waffen-SS đã sát hại những vị Sứ giả hòa bình và phạm tội ác chiến tranh nghiêm trọng. Họ thề sẽ trả thù bằng được qua hệ thống loa và đài phát thanh trên toàn mặt trận, làm cho quân Đức và Hungary biết rằng nếu thành phố bị thất thủ, họ khó còn có cơ hội sống sót. Công cuộc phòng thủ ngày càng trở nên khốc liệt hơn, và Chiến dịch Bao vây Budapest trở thành một trong những trận chiến khắc nghiệt nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

    Đến ngày 30 tháng Chạp, tất cả các loại pháo Phòng không Đức đều tập trung trong khu vực thuộc vùng trách nhiệm của Sư đoàn tăng số 13 vây xung quanh Csomor, nơi có trường đua đồng thời là một sân bay dã chiến. Ở phía tây, trong vùng đồi núi ngoại ô Buda, Sư đoàn Kỵ binh SS số 8 (được hỗ trợ bởi các nhóm quân đến từ Sư đoàn Bộ binh nhẹ số 271) cũng gặp khó khăn lớn trước các cuộc tấn công liên tiếp đến từ các Quân đoàn 23, 37 và Quân đoàn Cận vệ 10 Sô-viết.

    Trung sĩ SS Friedrich Buck, khi đó mới 22 tuổi đời nhưng đã là người phụ trách một nhóm quân phòng thủ gồm 400 người thuộc Sư đoàn Kỵ binh SS số 8 sau này kể lại rằng cuộc giao tranh trên các đường phố thuộc khu vực Buda “là cuộc chiến dã man nhất mà tôi từng thấy. Chúng tôi phải chiến đấu giáp lá cà bằng lưỡi lê, cuốc xẻng và lựu đạn. Quân Đỏ giao chiến với chúng tôi suốt đêm ngày không ngừng nghỉ…”

    Những hồi ức chiến tranh do những cựu binh chiến tranh hai bên hồi tưởng lại đều giống nhau ; …”bọn Đức chống cự trong từng dãy nhà. Hồng quân tiến càng sâu vào Budapest thì sức kháng cự của bọn chúng càng trở nên điên cuồng, liều lĩnh hơn…” Đại tá Hồng quân M. M. Malakhov nhớ lại,… “Quân ta phải vượt qua những mê cung gồm các chiến hào, dây cáp, hào chống tăng và mọi khu vực chứa dày đặc hỏa lực tập trung của kẻ thù…Chúng tôi đã phải chiếm từng ngôi nhà một dưới những cơn bão sắt thép…”

    Thương vong của người Nga là rất lớn, nhưng người Nga đông hơn quân Đức từ 15-20 theo từng chỉ số của hầu hết các hạng mục. “Túi vây” bắt đầu từ từ co rút lại. Phái bên trong khu vực do phe Trục bảo vệ, thực phẩm trở nên khan hiếm và đồ ấm, than và dầu sưởi hầu như bị cạn kiệt. Người già, trẻ em và những người bị thương thi nhau chết trong giá lạnh. Vì tất cả mọi người lính cần thiết đều ở trên các vị trí chiến đấu nên những người chết bị bỏ rơi trong đống đổ nát hoặc bị vứt lại thối rữa trên mọi con phố. Đến ngày cuối cùng trong năm 1944, Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn Kỵ binh SS số 8 đã bị đẩy bật đến khu vực đầu cầu dẫn sang Đảo Margarethe nằm trên sông Danube có nửa dặm đường ( Đảo Margarethe là một hòn đảo dài 2,5 km–rộng 500 m nằm ở giữa con sông Danube ngay khu vực trung tâmthủ đô Budapest. Thời Trung cổ đây là một Trung tâm tôn giáo, ngày nay đảo được bao phủ bởi các công viên cảnh quan, và là một khu vực giải trí nổi tiếng..).

    Trong ngày cuối năm cũng như ngày đầu tiên của năm 1945,toàn bộ mặt trận xung quanh Budapest trở nên sống động với âm thanh của hàng ngàn khẩu súng, sau đó là các cuộc tấn công lớn của Liên Xô trên khắp mọi chỗ thuộc khu vực nội đô. Quân Đỏ đập tan sức kháng cự của Sư đoàn tăng số 13 và hất ngược quân Đức về hướng tây. Dọc theo bờ đông thuộc khu vực đầu cầu đổ bộ, quân Đức buộc phải thực hiện những trận chiến giáp lá cà ở một số nơi trong những nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng của họ .."Vết thương của con dù sao cũng không quá tệ", một người lính Đức thuộc Trung đoàn Kỵ binh SS số 18 đã viết tiếp cho cha mẹ của mình ở Duesseldorf như sau :” Vào ngày 29, con bị một mảnh vỡ bắn vào bàn chân trái, được băng bó qua loa và trở lại tiếp tục làm nhiệm vụ. Vào ngày 30, con bị một mảnh đạn pháo của súng chống tăng Nga bắn vào đùi trái, tình trạng tồi tệ hơn… Cả năm tầng trong khách sạn Imperial, tất cả đều chất đầy thương binh… Tình hình chiến sự trong thành phố thật điên khùng. Những người lính Hungary như rắn mất đầu. Chúng con đang phải chiến đấu trên từng con phố…Pháo của quân Nga đang bắn đến từ mọi nơi, mọi lúc…Những ngày cuối cùng tại Budapest thật là khủng khiếp, chúng con không ngừng chiến đấu… Ba lần quân Nga đột phá bằng xe tăng và chúng con phải tổ chức phòng ngự, phản công trong tình trạng hết sạch mọi thứ. Về quân số, trung đội của con từ 42 còn lại chỉ có 14 người. Thức ăn thì nhẵn nhụi, chỉ còn một ổ bánh mì cho 18 người…. Máy bay thì đến sớm vào mỗi tối để đưa những người bị thương ra khỏi vòng vây và đưa đồ tiếp tế vào, nhưng hôm qua các phi công không thể hạ cánh do quân Nga khống chế hoàn toàn sân bay bằng lưới lửa phòng không của chúng..Người Nga đang đến gần chúng con hơn bao giờ hết…Đường phố tràn ngập xác người, ngựa động vật và những chiếc ô-tô bị hủy hoại cũng bị quân Đỏ phong tỏa hoàn toàn…”

    Người lính SS Đức viết những dòng thư này thật may mắn. Ngày hôm sau, anh ta đã được đưa lên một chiếc Ju-52 bốc từ trong vòng vây đến quân y viện tại Papa (Hungary). Tuy nhiên, bên trong “Pocket”, các đồng đội anh vẫn tiếp tục chiến đấu và hy sinh. Trong số 33.000 lính Đức bị mắc kẹt ở Budapest, khoảng 2.000 người đã giết chết và hơn 7.000 người bị thương (?).

    Những người Hungary đồng minh cũng bị thương vong nặng nề, và khoảng một phần ba lính Hungary đã đào ngũ sang hàng ngũ Hồng quân vào thời điểm trận chiến kết thúc. Người Nga đã giúp đẩy nhanh quá trình này bằng cách hứa với những người lính Hungary rằng họ có thể về nhà nếu thoát được về hậu phương của người Nga.

    Trong đêm đầu năm mới 1945, 56 chiếc máy bay He-llls thả 73,5 tấn đạn dược và vật tư vào nơi đóng quân, cũng như một lượng nhỏ nhiên liệu. Bất chấp sự dũng cảm tuyệt vời của các phi công Luftwaffe khi đối mặt với lưới lửa phòng không cũng như hằng trăm máy bay chiến đấu của Lực lượng Không quân Sô-viết, điều này là chưa đủ.….
    --- Gộp bài viết: 18/07/2021, Bài cũ từ: 18/07/2021 ---
    [​IMG]
    ẢNH : ĐẢO MARGARETHE NGÀY NAY - QUAY TỪ TRÊN CAO....
    caonam_vOz, gaume1, tatpcit2 người khác thích bài này.
  9. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    ….Trong lúc này, một chiến dịch cứu trợ bắt đầu được lên kế hoạch. Để giải cứu cho đội quân phòng vệ tại Budapest, Hitler đã giao cho Cụm Tập đoàn quân Nam (và Tập đoàn quân 6), Quân đoàn Panzer SS IV (bao gồm 2 Sư đoàn tăng SS số 3 “Totenkopf” và Sư đoàn tăng SS số 5 “Viking”) dưới sự chỉ huy của tướng Herbert Gille.

    Cả hai Sư đoàn trên đều được coi là những Sư đoàn tinh nhuệ. “Totenkopf” ban đầu bao gồm toàn là lính canh các trại tập trung bán quân sự, nhưng sau ba năm chiến đấu tại Mặt trận miền Đông, hầu hết những quân nhân này đã bỏ mạng. Chỉ trong khoảng thời gian từ ngày 22 tháng Sáu năm 1941 đến ngày 31 tháng Chạp năm 1944, Sư đoàn với biểu tượng “Death’s Head – Đầu lâu xương chéo” này đã phải hứng chịu tổng cộng 53.794 thương vong, đặc biệt là tổng số quân của Sư đoàn trong thời kỳ đầy đủ nhất có lẽ không bao giờ vượt quá 21.000 người.

    Trong Thế chiến thứ II, không có một Tập đoàn quân nào thuộc phe Đồng minh lại bị thương vong tới 53.000 người. Sư đoàn SS số 3 đã bị tiêu diệt, được xây dựng lại, bị tiêu diệt, được xây dựng lại, bị tiêu diệt và được xây dựng lại lần nữa. Sau chiến tranh, Nguyên soái Liên Xô Zhukov đã phải vung tay trái thuận của mình khi lên tiếng phàn nàn : ”Quỷ thật, tôi đến bất cứ nơi nào, cũng đều phải đụng độ với Sư đoàn Totenkopf”.

    Sư đoàn “Viking” cũng được coi là một đơn vị ưu tú. Không giống như “Totenkopf”, Sư đoàn này không chỉ bao gồm người Đức mà còn cả các tình nguyện viên từ Đan Mạch, Na Uy, Hà lan, Bỉ, Thụy Điển và Phần Lan - những người quân nhân cùng có lý tưởng tham gia lực lượng SS để chống lại Chủ nghĩa Cộng sản. Kết hợp cùng nhau, hai Sư đoàn SS đã tạo thành một lực lượng tấn công đáng gờm, kể cả đang ở trong năm thứ sáu của Thế chiến thứ II.

    Có hai phương án khả thi cho chiến dịch giải cứu (xem bản đồ). Phương án thứ nhất, tấn công theo hướng đông nam – từ Thành phố Komarno đến Budapest – đây là hướng tấn công ngắn nhất. Quân đoàn Panzer SS IV sẽ phải đi khoảng 30 dặm, nhưng một nửa chiều dài là phải vượt qua những khu rừng rậm bao bọc xung quanh dãy núi Vertes. Còn phương án thứ hai, tiến theo hướng đông bắc – từ thành phố Szekesfehervar hướng về thủ đô – có chiều dài khoảng 40 dặm. Địa hình tốt hơn nhiều dành cho lực lượng thiết giáp cơ động, nhưng Tướng Herbert Gille sẽ phải cần thêm năm ngày để tập kết lực lượng cũng như phải cần nhiều nhiên liệu hơn. Bất chấp những nghi ngờ mạnh mẽ, Cụm tập đoàn quân Nam đã chọn con đường ngắn nhất. Chiến dịch giải cứu mang mật danh là Konrad I.

    Sáng tinh mơ ngày đầu năm mới (1945), Sư đoàn Bộ binh 96 do Đại tá Hermann Harrendorf đã âm thầm vượt qua con sông Danube đóng băng cách Estergom (Gran) 5 dặm tây trong ánh bình minh của một ngày mới. Mãi khi màn đêm buông xuống, những người lính thuộc Quân đoàn Bộ binh Cận vệ XXXI (31) Sô-viết mới phát hiện ra rằng quân Đức đã ẩn sâu vào trong hậu phương của họ. Trong khi người Nga đang mải đối phó với Sư đoàn Bộ binh 96 thì Quân đoàn Panzer SS IV đã đến các vị trí tập kết và chuẩn bị lực lượng. Đó là lúc 10.30 tối cùng ngày hôm đó. Tổng cộng có khoảng 250 xe-tăng, trong đó có một số thuộc loại tăng Tiger (Tuy nhiên, sức mạnh xe tăng thuộc Quân đoàn SS số IV sẽ bị suy giảm nhanh chóng trong cuộc tấn công này, do tổn thất khi giao tranh và hỏng hóc về kỹ thuật. Vào giai đoạn cuối của Thế chiến, nhiều chi tiết trong xe-tăng đã bị bào mòn và ngành công nghiệp sản xuất phụ tùng của Đức— đã từng là một vấn đề kể từ năm 1941 — giờ đây đã hoàn toàn rối loạn vì những đợt không kích của quân đội Đồng minh.)

    Lực lượng tùng thiết hỗ trợ cho những chiếc xe tăng của Quân đoàn Panzer SS IV đến từ Sư đoàn Bộ binh nhẹ 711 của Trung tướng Joseph Reichert, mặc dù có đến 2 Trung đoàn vẫn đang trên đường di chuyển từ Hà-lan tới khi trận chiến bắt đầu. Bên sườn nam của Quân đoàn SS IV là Chiến đoàn Pape (bao gồm 2 Sư đoàn tăng số 6 và 8) cũng bắt đầu tấn công vào Sư đoàn Bộ binh Cận vệ 34 Sô-viết , họ tràn ngập trận địa của người Nga và tạo ra một bước đột phá tại đó.

    Còn ở phía nam, Quân đoàn Panzer III cũng như Quân đoàn Kỵ binh số I đã phát động một cuộc tấn công nghi binh ngay phía tây Szekesfehervar, do Sư đoàn Bộ binh 135 Sô-viết bảo vệ. Nguyên soái Malinovsky đã dự đoán sai rằng hướng tấn công giải cứu chính của người Đức sẽ theo hướng này, nên ông đã bố trí lực lượng dự bị cơ động của mình đến ngay gần đó. Ông điều các Tập đoàn quân Rumania số I và Tập đoàn quân Cơ giới hóa Cận vệ VII Sô-viết đến ngay chiến trường, đồng thời cử Quân đoàn xe tăng XVIII đến tăng cường cho Quân đoàn Cận vệ XXXI (31) Sô-viết.

    Các đợt tấn công nghi binh đến từ Quân đoàn Panzer III và Quân đoàn Kỵ binh số I của Đức đã nhanh chóng bị người Nga kiểm soát, nhưng mũi tấn công chính do Quân đoàn SS IV và Chiến đoàn Pape đã gây thương vong nặng nề cho cả Quân đoàn Cận vệ XXXI (31) cũng như Quân đoàn xe tăng XVIII Sô-viết. Những người Nga (nhiều người trong số họ vẫn còn say xỉn vì uống quá nhiều trong các bữa tiệc mừng năm mới) đã bị đẩy lùi sâu về phía Budapest, dọc theo con đường lộ Komarno – Budapest, nhưng bị nhiều yếu tố kết hợp như địa hình không thuận lợi, thiếu sự yểm trợ từ trên không, đường bị rải đầy mìn và sức kháng cự của kẻ thù cũng đủ để từ chối một bước tiến quân đột phá mang tính chất quyết định của người Đức. Các phi đội máy bay ném bom Liên Xô đặc biệt hiệu quả trong việc làm chậm bước tiến của những chiếc xe-tăng Đức.

    Mãi cho đến ngày 3 tháng Giêng năm 1945, Nguyên soái Malinovsky – sau khi xem xét kỹ về quá trình tiến quân của các Sư đoàn “Viking”“Totenkopf”, mới đưa ra kết luận đây là hướng tấn công chính của người Đức. Lập tức, ông ra lệnh cho các Quân đoàn Cơ giới Cận vệ VII, Cơ giới Cận vệ I, Kỵ binh Cận vệ V và Quân đoàn Bộ binh XXI đang đóng quân tại phía bắc lao ngay vào trận chiến để ngăn chặn mối đe dọa của quân Đức….
    --- Gộp bài viết: 19/07/2021, Bài cũ từ: 19/07/2021 ---
    [​IMG]
    ẢNH : CHIẾN DỊCH KONRAD I (TỪ NGÀY 1/1 ĐẾN 6/1/1945)
    caonam_vOz, gaume1, tatpcit3 người khác thích bài này.
  10. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    …Khi các động thái điều quân của người Nga mới bắt đầu tiến hành thì ngay trong ngày 4 tháng Giêng năm 1945, thì nhóm xung kích thuộc Sư đoàn tăng SS số 5 “Viking”chỉ còn cách có 3 dặm đường. Quân Đức đụng phải Sư đoàn Bộ binh Cận vệ 41 Sô-viết tại nút giao thông chiến lược ởBicske (Bieske) và bị chặn đứng lại một cách tàn nhẫn. Ngay đêm hôm đó, Trung tá SS Fritz Darges, tư lệnh Trung đoàn tăng SS số 5, đã tấn công thăm dò phòng tuyến của người Nga và tìm thấy một điểm yếu. Ông ta liền dẫn đầu một chiến đoàn Bộ binh Cơ giới đánh thẳng vào đó và lúc rạng sáng đã phục kích và tiêu diệt một lực lượng đặc nhiệm Liên Xô, loại khỏi vòng chiến4 khẩu pháo 122 mm, 4 khẩu pháo 76 mm chống tăng, khoảng một chục xe tải cũng như một số xe chở nhiên liệu.

    Tiếp tục với thành quả của thắng lợi, Fritz Darges xua quân tập kích vào khu vực Lâu đài Regis (Hegykastely), một công trình kiến trúc thời Baroque tọa lạc trên một ngọn đồi cao chỉ cách Bicske khoảng một dặm. Số quân Nga bảo vệ Lâu đài chỉ có lác đác , không đáng kể nhưng viện binh của Malinovsky đã tràn đến kịp thời giải nguy. Chẳng mấy chốc, tình thế đảo ngược hoàn toàn và Darges thấy mình đang bị bao vây. Viên Đại tá SS nhanh chóng tổ chức một “con nhím” (tạo thành một vành đai phòng thủ nhưng bị cô lập một cách toàn diện)và đẩy lui đợt tấn công này đến đợt tấn công khác của người Nga.

    Ba ngày sau, vào đêm ngày 7 - rạng sáng ngày 8 tháng Giêng, một nhóm quân thuộc Sư đoàn “Viking” đã chọc thủng phòng tuyến của người Nga và hoàn thành công việc giải cứu ông ta. Xung quanh vị trí “con nhím” của KG Darges(bao gồm Tiểu đoàn SS “Norge” của Trung tá Fritz Vogt, cùng một đơn vị của quân tình nguyện Na Uy) có tới 30 xe tăng Liên Xô bị cháy rụi, vây quanh lâu đài.Nhưng rõ ràng là, mọi nỗ lực cũng phải có giới hạn nên không còn một bước đột phá tiếp theo ở trong khu vực này nữa…

    Vào ngày 6 tháng Giêng, phần còn lại của Quân đoàn SS IV đã bị chặn lại tại điểm dân cư gần Perbal, cách vành đai phòng thủBudapest khoảng chừng 15 dặm, Tập đoàn quân xe-tăng Cận vệ VI và Tập đoàn quân Cận vệ VII Sô-viết đã mở một cuộc phản kích mạnh mẽ lên phía bắc, đe dọa đến hậu phương thuộc Quân đoàn SS IV Đức. Ngày hôm sau, tướng Balck (hành động theo mệnh lệnh đến từ tướng Woehler) đã tấn công vào đội hình quân Nga theo hướng nam với Quân đoàn Kỵ binh số I (bao gồm các Sư đoàn 3, Sư đoàn tăng số 23 và Lữ đoàn Kỵ binh số 4) nhưng người Nga phản ứng lại rất nhanh bằng cách ném ngày Tập đoàn quân Cận vệ IV tới khu vực chiến sự. Sang ngày 7 tháng Giêng, cả hai cuộc phản kích của người Đứcđều bị đình trệ và Balck (sau một cuộc đấu khẩu khá căng thẳng với tướng Herbert Gille) đã thông báo qua điện thoại rằng mệnh lệnh đột pháphải được đưa ra trong vòng 24 giờ tới. Tuy nhiên, Hitler từ chối, không cho phép. Do vậy, Woehler không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục tấn công vào các phòng tuyến của người Nga, hy vọng sẽ khoét được một cái lỗ vừa đủ sâu để cho phép một lực lượng cứu viện tiếp cận được với đội quân đồn trú.

    Để tăng cường lực lượng dành cho Konrad I, Woehler chấp nhận một rủi ro nghiêm trọng mà ông ta đã dự đoán : ông ra lệnh điều chuyển Sư đoàn tăng số 3 của Đại tá Wilhelm Soeth từ sườn bắc sông Danube đến ngay khu vực Zamoly.

    Động thái này đã đạt được một số thành công, nhưng nó cũng làm suy yếu nghiêm trọng hệ thống phòng thủ ở phía bắc con sông. Bây giờ, lực lượng bảo vệ sườn bắc quan trọng do Sư đoàn tăng số 8 làm hạt nhân đã bị kiệt quệ. Các Sư đoàn khác như St. Laszlo của Hungary không đáng tin cậy, Sư đoàn Bộ binh nhẹ 211 và Sư đoàn Bộ binh nhẹ Static 711 vừa đến từ Hà Lan và được trang bị cả bằng…xe đạp Hà Lan. ( Các Sư đoàn Static – tạm gọi là Sư đoàn phòng thủ bờ biển -“tĩnh”, là những Sư đoàn có trách nhiệm bảo vệ một vị trí phòng thủ vững chắc, thường là tại khu vực bờ biển. Họ không được đào tạo về chiến tranh Cơ động cho nên sở hữu phương tiện vận tải được cơ giới hóa rất hạn chế; chủ yếu là ngựa kéo hoặc xe đạp. Nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan – NCO - binh sĩ trong các sư đoàn này đã từng bị thương, lớn tuổi, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, mắc các bệnh về y tế, thậm chí có thể là tù binh nhập ngũ). Từng được tác giả Perry Pierik mô tả là “một đội quân khá tồi tàn”, Sư đoàn Static 711 mới được chuyển đến Pháp vào mùa thu năm 1944. Nhiều binh sĩ của Sư đoàn vừa từ hải quân chuyển đến và vẫn mặc bộ đồng phục màu xanh. Tuy nhiên, họ đã được lãnh đạo rất tốt bởi Trung tướng Josef Reichert.

    Bất chấp tình trạng của Sư đoàn 711, Woehler ra lệnh họ phải mở một cuộc tấn công nghi binh vào trung tâm thông tin liên lạc Gran (Estergom), một thành phố có 20 nghìn người vào ngày 6 tháng Giêng. Trước sự kinh ngạc của mọi người, Reichert lao qua một khoảng trống trên phòng tuyến của Nga và đánh chiếm thành phố, với một tổn thất không đáng kể. Cùng trong ngày hôm đó, ngay trên cánh bắc thuộc Sư đoàn Bộ binh nhẹ Static 711, các Tập đoàn quân Cận vệ VII và Tập đoàn quân VI Sô-viết đã phát động một cuộc tấn công trên diện rộng rõ ràng nhằm vào thành phố Komaron. Thành phố này rất quan trọng vì ba lý do: nó là một trung tâm thông tin liên lạc, nó là địa điểm kết nối với cây cầu vĩnh cửu duy nhất vào đất Slovakia, và trong thành phố còn một trong số ít nhà máy lọc dầu lớn vẫn còn đang nằm trong tay người Đức.

    Các Sư đoàn tăng số 8, Bộ binh nhẹ 211 và St. Laszlo nhanh chóng rút lui ngay lập tức. Woehler hỏa tốc ra lệnh thành lập một khu vực phòng thủ đầu cầu hình thành xung quanh thành phố Komaron; ông và Balck đã gia cố khu vực này với các đơn vị bảo vệ như Tiểu đoàn diệt tăng 13, Tiểu đoàn pháo Phòng không 286, 12 xe-tăng thuộc Tiểu đoàn Xe-tăng độc lập 208 một số Tiểu đoàn Đặc nhiệm khẩn cấp.

    Woehler chỉ định Tướng Herhudt von Roden chỉ huy tổng thể khu vực đầu cầu và tướng Balck, còn Thiếu tướng Gottfried Froelich phải chịu trách nhiệm về thành tích kém cỏi của Sư đoàn tăng số 8, nên bị cách chức.

    Trong lúc này, những cuộc phản công cục bộ của quân Đức, đặc biệt là của Trung tá Waldemar von Knoop của Trung đoàn Bộ binh Cơ giới 98 thuộc Sư đoàn tăng số 8, đã làm chậm bước tiến công của người Nga.

    Tình hình vẫn đang rất tuyệt vọng, thậm chí Woehler còn đang cân nhắc việc triển khai lại Quân đoàn Panzer III khi Hitler và Bộ Tư lệnh Lục quân (OKH) can thiệp một cách tích cực, để nhằm tạo ra một sự thay đổi. May mắn thay cho cả Woehler và Balck, Tập đoàn quân VIII Đức đang bố trí Sư đoàn tăng số 20 của Thiếu tướng Hermann von Oppeln-Bronikowski ở phía sườn phía nam xa xôi, nhưng lại gần sovới phía bắc thành phố Komarom. Hitler ngay tức khắc chuyển giao cho Tập đoàn quân VI, và Sư đoàn đến rất đúng lúc để ngăn chặncác cuộc tấn công của người Nga.

    Lúc này, tướng Woehler đã quyết định đình chỉ Chiến dịch Konrad I, vì thế ông cấp tốc nhanh chóng rút Sư đoàn tăng SS 5 “Viking”ra khỏi phòng tuyến đến ngay khu vực tập kết mới tại phía nam Grant (Ester-gom), khoảng 18 dặm phía bắc Bieske, với sự hỗ trợ đắc lực đến từ Sư đoàn Bộ binh nhẹ 711 ở bên cánh phải và Sư đoàn Bộ binh 96 bên cánh trái, từ đó Wehrmachtcó thể khởi động nỗ lực giải cứu lần thứ nhì. Đó chính là Chiến dịch Konrad II (xem bản đồ)…..
    --- Gộp bài viết: 20/07/2021, Bài cũ từ: 20/07/2021 ---
    [​IMG]
    ẢNH : CHIẾN DỊCH KONRAD II (TỪ NGÀY 6/1 ĐẾN 11/1/1945)
    huymaya, caonam_vOz, gaume11 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này