1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Paul Carell - Hitler mặt trận miền Đông

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi huytop, 30/10/2015.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Những lời nói đùa thậm chí còn phóng túng hơn và cuối cùng cũng được Roosevelt nói ra với Stalin, “Tôi có một điều muốn nói với Ngài. Thủ tướng và tôi đã liên lạc qua lại trong hai năm nay, và chúng tôi hay gọi Ngài là 'Chú Joe.' (Uncle Joe)”.

    Quai hàm của Stalin dường như cứng lại và ông ta cứng rắn hỏi câu nói vui của Ngài Tổng thống có hàm ý gì không ?. Vị khách quí người Mỹ thì không thể hiểu được từ ngữ nhưng giọng nói của Stalin lúc đó thì không thể nhầm lẫn được, và khoảng thời gian tạm dừng rất cần thiết để phiên dịch lại khiến khoảnh khắc đó càng trở nên khó xử hơn. Cuối cùng, Roosevelt nói rằng đó là một biệt danh thân mật và gọi thêm một vòng sâm panh nữa.

    "Ngài đã đến giờ trở về phòng chưa nhỉ ?" Stalin hỏi.

    Lúc đó Roosevelt thốt lên, “Ồ, chưa !”.

    Tướng Marshal thì lạnh lùng nói rằng thời gian đã muộn và ông còn phải về để còn lo nhiệm vụ quân sự. James Byrnes, Giám đốc Cơ quan Động viên Nguồn lực chiến tranh Hoa kỳ (U. S. War Mobilization), đã cố gắng cứu vãn tình hình. “Ngài thử nghĩ xem…,” James Byrnes nói, “Ngài cảm thấy không phiền khi nói về chú Sam (Uncle Sam), vậy tại sao chú Joe (Uncle Joe) lại phải mang tiếng xấu như vậy?”

    Bộ trưởng Bộ ngoại giao Molotov, trong vai trò nhà hòa giải bất thường của mình, quay sang họ và cười. “Đừng lừa nhau nhé. Tướng Marshal đang bấm chân báo hiệu cho Ngài kìa.. Chúng tôi đã biết cách gọi này trong hai năm rồi. Cả nước Nga đều biết rằng các Ngài gọi Stalin là ‘Uncle Joe’. ”

    Vẫn chưa rõ là Stalin coi cách gọi đó là xúc phạm hay chỉ là giả vờ, nhưng ông ta hứa sẽ ở lại đến 10 giờ 30 phút. Churchill, một bậc thầy trong những khoảnh khắc như vậy, đã nâng ly chúc mừng cuộc gặp gỡ lịch sử của họ. Ông nói, cả thế giới đang theo dõi, và nếu họ thành công, một trăm năm hòa bình sẽ theo sau. Big Three đã chiến đấu trong cuộc chiến sẽ phải duy trì được một thời gian hòa bình như vậy….

    Việc cụng ly chúc mừng và đây có lẽ là thời điểm đánh dấu một phản hồi đặc biệt từ Stalin. Nâng ly của mình lên, ông tuyên bố rằng Big Three đã phải gánh chịu sức nặng của cuộc chiến tranh và đã giải phóng các nước nhỏ hơn ra khỏi ách thống trị của người Đức. Ông nói một cách mỉa mai rằng một số quốc gia mới được giải phóng dường như nghĩ rằng ba cường quốc đã buộc phải đổ máu để giải phóng cho họ. "Bây giờ họ đang trách cứ các cường quốc vì đã không màng đến các quyền lợi của các quốc gia nhỏ."Người Nga sẵn sàng cùng Mỹ và Anh bảo vệ các quyền lợi như vậy. “Nhưng chúng tôi sẽ không bao giờ đồng ý về bất cứ hành động nào của bất kỳ cường quốc lớn nào nhằm phục vụ cho sự ủng hộ riêng rẽ dành cho các quốc gia nhỏ..”

    Lúc này, Stalin và Churchill đã đồng ý như vậy - còn Roosevelt là người đứng ngoài cuộc. Tổng thống nói: “Toàn bộ các vấn đề đối phó với các quốc gia nhỏ không không là vấn đề đơn giản ….Ví dụ, chúng tôi có rất nhiều người Ba Lan đang sinh sống ở Mỹ, và những người này đang cực kỳ quan tâm đến tương lai của đất nước họ.”

    “Nhưng trong số bảy triệu người Ba Lan của Ngài chỉ mang lại 7.000 phiếu bầu,”
    Stalin vặn lại. “Tôi đã tìm hiểu và chắc chắn cho là đúng.”

    Roosevelt đã quá lịch sự khi nói rằng điều này là không chính xác một cách vô lý và Churchill, trong một nỗ lực rõ ràng là muốn thay đổi đề tài, đã mời mọi người nâng cốc chức mừng giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Nhưng chủ đề tiếp sau đó lại chỉ đề cập đến cuộc thảo luận sôi nổi về quyền tự quyết của con người. “Mặc dù tôi liên tục bị đánh giá là *********, nhưng tôi là đại diện duy nhất có mặt trong 3 người có thể bị đuổi ra khỏi chức vụ bất cứ lúc nào bởi quyền phổ thông đầu phiếu của người dân nước tôi”, Thủ tướng Churchill nói. "Về cá nhân tôi, tôi cảm thấy rất vinh dự trong chức vụ nguy hiểm đó." Khi Stalin lạnh lùng nhận xét rằng Churchill dường như có vẻ lo sợ các cuộc bầu cử kiểu này, ông ta liền trả lời: "Tôi không những không sợ họ mà còn tự hào về quyền của người dân Anh được phép thay đổi chính phủ của họ bất cứ lúc nào họ thấy phù hợp…."

    Một lúc sau, Stalin thừa nhận rằng ông sẵn sàng hợp tác với Anh và Mỹ để bảo vệ quyền lợi của các quốc gia nhỏ, nhưng một lần nữa khẳng định rằng ông sẽ không bao giờ phục tùng theo sự phán quyết của họ. Lần này Churchill chọn cách không đồng ý. Ông nói, không có vấn đề gì về việc các quốc gia nhỏ sẽ áp đặt sức ép lên các cường quốc lớn. Nhưng các cường quốc lớn trên thế giới có trách nhiệm luân lý là thực thi quyền lực của mình một cách chừng mực và tôn trọng các quyền của các quốc gia nhỏ hơn. “ Con đại bàng ”, Churchill diễn giải,“ “nên cho phép những chú chim nhỏ ca hát và đừng quan tâm đến việc chúng đã hát ở đâu….”.

    Bây giờ Thủ tướng và Roosevelt đứng cùng chung một chiến tuyến - và Stalin là người đứng ngoài cuộc. Nhưng đây chỉ là cuộc trao đổi thiện chí, một cuộc thăm dò nhau dưới hơi men của rượu vang và vodka, về những sự kiện sắp xảy ra. Trên thực tế, Stalin đã có tinh thần tốt đến mức ông ta ở lại đến 11 giờ rưỡi, và khi ông và Roosevelt rời phòng, họ vẫn còn đang ở trong tâm trạng phấn chấn, hồ hởi….

    Tuy nhiên, đối với Ngoại trưởng Anh quốc Eden, thì thật là u ám. Đối với ông ta, đó là "một bữa tiệc khủng khiếp." Roosevelt đã “mơ hồ, lỏng lẻo và kém hiệu quả”, trong khi Churchill lại đưa ra “những bài phát biểu quá đà khiến cho mọi điều dường như quay trở lại”. Đối với Stalin, thái độ của ông đối với các quốc gia nhỏ đã đánh thẳng vào Eden là "dữ tợn, nếu không nói là nham hiểm", và Bộ trưởng Ngoại giao Anh quốc rất nhẹ nhõm khi thấy "toàn bộ mọi thứ đã kết thúc."

    Và các cuộc thảo luận vẫn chưa kết thúc. Khi Eden và Churchill đi đến xe hơi, được Bohlen hộ tống, Thủ tướng nhận xét rằng họ nên để cho mỗi nước cộng hòa ở Liên xô được có tư cách bỏ phiếu tại Liên Hợp Quốc - điều mà người Mỹ phản đối. Sự nóng nảy của Eden bùng lên và anh ấy tinh thần bảo vệ quan điểm của người Mỹ. Churchill cất giọng đanh thép trả lời rằng mọi thứ phụ thuộc vào sự thống nhất của ba cường quốc. Ông nói, nếu không như vậy, thế giới sẽ phải chịu thảm họa khôn lường và bất cứ điều gì nhằm bảo tồn được sự thống nhất đó sẽ phải thông qua lá phiếu bầu của ông ta.

    "Làm thế nào một sự sắp xếp như vậy lại có thể thu hút các quốc gia nhỏ tham gia vào một tổ chức như Liên Hợp quốc?" Eden hỏi, và nói thêm rằng cá nhân ông tin rằng "..điều đó sẽ không tìm thấy được sự ủng hộ từ công chúng Anh…."

    Churchill liền quay sang Bohlen và muốn biết giải pháp cho vấn đề ủng hộ từ công chúng Mỹ là gì ?

    Bohlen trả lời một cách ngoại giao bằng một câu chuyện ngụ ngôn. “Đề xuất của người Mỹ khiến tôi nhớ đến câu chuyện của người chủ đồn điền miền Nam đã tặng một chai rượu whisky cho một người da đen như một món quà. Ngày hôm sau, ông chủ đó hỏi người da đen rằng anh ta thấy rượu whisky như thế nào. "Hoàn hảo", người da đen nói. Người chủ đồn điền hỏi anh ta như thế có ý nghĩ gì, và người da đen nói, "Nếu tốt hơn thế nữa thì Ngài đã không tặng nó cho tôi, và nếu tệ hơn thế nữa thì tôi đã không thể uống hết được chai rượu đó."

    Churchill trầm ngâm nhìn Bohlen. Cuối cùng ông ta nói, "Tôi hiểu…."

    ...............................
    caonam_vOz, viagraless, tatpcit1 người khác thích bài này.
  2. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    XIN LỖI MỌI NGƯỜI...DO MÌNH KHÔNG ĐỂ Ý NÊN BỊ NHẦM MỘT CHÚT : MARSHAL (CHỈ NGUYÊN SOÁI STALIN) CHỨ KHÔNG PHẢI TƯỚNG MARSHALL CỦA MỸ NÊN DỊCH NGHĨA BỊ SAI MẤT 2 CÂU :

    1/ Lúc đó Roosevelt thốt lên, “Ồ, chưa !”.

    Tướng Marshal ...thì lạnh lùng nói rằng thời gian đã muộn và ông còn phải về để còn lo nhiệm vụ quân sự. nay sửa thành :

    1/ Lúc đó Roosevelt thốt lên, “Ồ, chưa !”.

    Nguyên soái Stalin ... lạnh lùng nói rằng thời gian đã muộn và ông còn phải về để còn lo nhiệm vụ quân sự.

    2/Bộ trưởng Bộ ngoại giao Molotov, trong vai trò nhà hòa giải bất thường của mình, quay sang họ và cười. “Đừng lừa nhau nhé. Tướng Marshal đang bấm chân báo hiệu cho Ngài kìa.. Chúng tôi đã biết cách gọi này trong hai năm rồi. Cả nước Nga đều biết rằng các Ngài gọi Stalin là ‘Uncle Joe’. ”...Sửa lại là :

    2/Bộ trưởng Bộ ngoại giao Molotov, trong vai trò nhà hòa giải bất thường của mình, quay sang họ và cười. “Ông ta lừa các Ngài đấy....Chúng tôi đã biết kiểu gọi này trong hai năm rồi. Cả nước Nga đều biết rằng các Ngài gọi Stalin là ‘Uncle Joe’. ”...

    CÁM ƠN ÔNG EM GIÀ ĐÃ SỬA GIÚP CHO MÌNH.....
    viagraless, tatpcitngthi96 thích bài này.
  3. viagraless

    viagraless Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/07/2004
    Bài viết:
    701
    Đã được thích:
    360
    bác làm em si nghĩ hoài không hiểu đoạn đó. Tks
  4. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    :drm1:drm1:drm1
  5. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927

    BÓNG VỚI BÁNH....HƠI TỨC TRỌNG TÀI...SORRY CÁC BÁC....NGỦ DẬY MUỘN QUÁ




    CHƯƠNG 4 : “BÁNH TRẢ BÁNH - NỢ MÁU TRẢ MÁU !”


    (Хлеб для хлеба, кровь за кровь)"





    1.





    Giờ đây, nước Đức, không những đang bị tấn công từ phía đông và tây, lại còn bị tấn công từ trên không trung nữa. Trong khi còn đang phải che giấu với công chúng toàn bộ mức độ của thảm họa ở phía đông – kể cả với Hitler – thì hầu như tất cả mọi người ở Đức, trong đó có Hitler, đều ở tiền tuyến của những cuộc không chiến như vậy. Vào ngày 4 tháng Hai, Phó lãnh đạo Đảng Nazi - Martin Bormann đã viết thư cho vợ ông, Gerda, về tình trạng tồi tệ trong Tổng hành dinh Fuhrer :

    Em yêu dấu của Anh !

    Giờ phút này, anh đã náu mình trong văn phòng của anh, đó là căn phòng duy nhất ở nơi có một vài cửa sổ tạm thời và khá ấm áp ... Khu vườn Tòa nhà Văn phòng Đế chế có một quang cảnh… tuyệt vời – toàn là hố sâu, cây đổ và những con đường bị những tòa nhà đổ nát và các loại rác rưởi che kín. Tòa nhà của Führer bị trúng bom nhiều lần; những khu vườn mùa đông và phòng tiệc giờ đây chỉ còn lại những mảng tường; và tiền sảnh trên đường Wilhelmstrasse, nơi mà những Vệ binh Đức quốc thường xuyên đứng bảo vệ thì nay đã bị phá hủy hoàn toàn.

    Bất chấp tình hình như vậy, bọn anh vẫn phải tiếp tục làm việc không kể ngày đêm, vì cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn trên mọi mặt trận! Thông tin liên lạc qua điện thoại vẫn rất kém cỏi, và nơi ở của Quốc trưởng và Thủ tướng của Đảng nhiều lúc vẫn không có kết nối với thế giới bên ngoài ...

    Và để hoàn thiện mọi thứ, trong cái gọi là Trụ sở làm việc của Chính phủ, ánh sáng, nguồn cung cấp điện và nước vẫn luôn thiếu thốn ! Bọn anh luôn có một xe nước túc trực trước Tòa nhà Văn phòng Đế chế, và đó là nguồn nước cung cấp duy nhất dành cho bọn anh để nấu nướng và giặt giũ ! Và điều tồi tệ nhất, như Müller từng nói với anh, là cái phòng vệ sinh. Những con heo Kommando liên tục sử dụng nó, mà không một ai trong số chúng nghĩ đến việc mang theo một xô nước để dội vào chỗ …...

    Sau ngày hôm đó, Martin Bormann đã viết cho “Mommy bé bỏng”của mình về sự sụp đổ ở phía đông, kể cho bà ta nghe về mối nguy hiểm đang gia tăng thậm chí hơn cả những điều ông ta sẽ tiết lộ cho Quốc trưởng….

    “…Tình hình chiến sự cho đến nay vẫn không ổn định một chút nào cả. Đúng là chúng ta có một số dự trữ, nhưng người Nga có gấp nhiều lần xe tăng, đại bác và các loại vũ khí hạng nặng khác, và chống lại chúng ngay cả sự kháng cự tuyệt vọng và kiên quyết nhất của lực lượng dân quân Volkssturm cũng trở nên bất lực !.

    Anh sẽ không viết tất cả những điều này cho em nếu như anh không biết rằng trong con mắt em, anh là một Đảng viên Quốc gia Xã hội chủ nghĩa rất trung thành, dũng cảm, và hiểu biết. Nhưng với em, anh có thể viết khá thẳng thắn và nói với em rằng cái điều mà anh rất khó nói - thực sự, nếu như anh phản ánh một cách trung thực nhất , thì sẽ cảm thấy tình hình tuyệt vọng đến mức nào – thực sự không còn lối thoát, vì anh biết rằng em cũng như anh, sẽ không bao giờ có tinh thần chủ bại, không bao giờ đánh mất niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.

    Trong điều này, em yêu của anh, anh biết em không đòi hỏi gì ở anh nhiều hơn những gì anh đã hiến dâng cho em, và chính vì lý do đó mà anh nhận ra rằng, trong những ngày nguy ngập nhất như lúc này, anh đang sở hữu một kho báu..Đó chính là em yêu dấu…!.

    Cho đến bây giờ, anh vẫn chưa nhận ra một điều tuyệt vời khi Đảng ta có một cổ động viên trung thành với một tấm lòng son sắt như em, là người bạn đồng hành trong suốt cuộc đời anh, người yêu và mẹ của các con anh, nhiều lúc anh cũng chưa đánh giá đúng mức về sự may mắn to lớn của anh khi có em bên cạnh cùng với lũ trẻ ... Em, Mommy bé bỏng, người đẹp nhất dưới con mắt trong anh, em thực sự là báu vật của cuộc đời anh!

    Sự phục vụ tận tâm hoàn toàn dành cho Đảng Nazi đã khiến tình yêu của họ trở nên kỳ lạ. Chẳng hạn, sau khi dụ dỗ được nữ diễn viên “M”, Bormann đã kể cho Gerda nghe tất cả các chi tiết cuộc ngoại tình của mình trong một bức thư dài, tuyên bố mình là một người may mắn vì hiện giờ đã “kết hôn hạnh phúc một cách khó tin”. Bà Bormann đã trả lời rằng tin tức đó khiến bà ta vui mừng và “thật xấu hổ khi những cô gái xinh đẹp như vậy đã bị từ chối như những đứa trẻ…,” và tiếp tục nói rằng thật đáng tiếc khi bà ta và “M” không thể so sánh được với mọi sự cống hiến trong công việc của chồng bà, hiện đang cung cấp cho Quốc trưởng có được một đội ngũ Đảng viên kiên trung. Mười đứa con mà bà ta và Martin đã sinh ra trên đời dường như là không đủ. …..






    o O o






    Đại tá Fuller — trước cơn bão lớn mà Bormann vừa đề cập — đang viết một lá thư cho người Chỉ huy Hồng quân đang đóng quân tại nơi gần ông nhất, tại Friedeberg:

    ... Tôi lo lắng rằng bạn biết về sự hiện diện của chúng tôi ở đây, và muốn rằng bạn báo cáo ngay điều đó với ngườisĩ quan Nga chịu trách nhiệm cho lực lượng của chúng tôi hồi hương....Hiện tại chúng tôi không cần nhiều thức ăn. Tuy nhiên, chúng tôi đang bị thiếu bột để làm bánh mì, do đường điện đến ngôi làng này bị ngắt. Máy xay bột ở đây được vận hành bằng điện.

    ..Tôi muốn nhân cơ hội này để gửi lời khen ngợi đến Đại úy Abramov, người đến ngôi làng này vào ngày 3 tháng 2 đã hành động nhanh chóng và tích cực trong việc ngăn chặn các hành động bạo lực ...

    Abramov là một sĩ quan liên lạc thân thiện của Liên Xô, anh đã đến làng Wugarten một ngày trước đó, vừa đúng lúc để cứu một phụ nữ Đức khỏi bị cưỡng hiếp bởi một trung úy Hồng quân say xỉn. Vài giờ sau khi Abramov rời đi Friedeberg, ở phía bắc, những tiếng ồn của các trận giao tranh vọng tới ngày càng nhiều. Một đại tá Nga nói với Fuller rằng xe tăng Đức đang phản công và ra lệnh cho mọi người đào các hố cá nhân chiến đấu ở phía bắc ngôi làng để giúp đẩy lùi bất kỳ cuộc tấn công nào của người Đức. …..

    PS : CÂU BỊ KIỂM DUYỆT Ở PHẦN TRÊN LÀ ( ph-ản đ-ộng)
    huymaya, viagraless, caonam_vOz2 người khác thích bài này.
  6. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Vào lúc hoàng hôn, khi những tiếng gầm của những khẩu pháo hạng nặng gần đến mức Fuller, phải dẫn theo Bertin với vai trò thông dịch viên, rời làng để tìm kiếm viên đại tá đã ra lệnh cho ông ta đào công sự chuẩn bị chiến đấu. Sau khi di chuyển một dặm đường, cả hai bị chặn lại bởi một lính gác đa nghi, người sau đó đã dẫn họ băng qua lớp tuyết dày để đến một bãi tập kết chứa đầy xe tăng nằm bên dưới các mành lưới ngụy trang chăng trên cao. Tại đây, họ đã bị xét hỏi bởi hai lính bảo vệ khác và một sĩ quan nói bằng một giọng lớn đầy đe dọa.

    Thông dịch Bertin nắm lấy vai Fuller. "Đại tá, họ sẽ bắn chúng ta!" anh ta nói. "Họ đang nghĩ rằng chúng ta là du kích."

    Sau một hồi tranh cãi, viên sĩ quan nói rằng họ có thể đến Sở chỉ huy của anh. “..Nhưng nếu có bất cứ rắc rối nào xảy ra với người lính Nga đi cùng các ngài tối nay, thì anh ta… ” - nói với Fuller - “….sẽ bắn!”

    Sở chỉ huy nằm ngay ở một trang trại gần đó. Mọi người đang uống rượu và một số nhân viên tham mưu đang say bí tỉ nằm trên sàn nhà. Người chỉ huy, một đại úy Nga, vẫn nghĩ rằng họ là du kích, nhưng cuối cùng khi tin chắc rằng Fuller là một người Mỹ thực sự, anh ta liền bắt đầu đề nghị nâng ly chúc mừng Stalin và Hồng quân.

    Tuy nhiên, vì toàn bộ khu vực này sắp bị xe tăng Đức cắt đứt, nên viên Đại úy nghĩ mình nên hộ tống 2 cựu tù nhân trở lại thì tốt hơn. Họ đang đi về phía làng Wugarten thì một lính canh trên lưng ngựa phi nước đại, vung súng tiểu liên một cách điên cuồng. "Amerikansky!". Đại úy Nga hét lên khi thấy người lính canh nhắm khẩu súng vào Fuller. Nhưng người đàn ông quá say để hiểu và bắt đầu đe dọa cả chính viên Đại úy. Chỉ sau một cuộc xì xồ kéo dài ồn ào khác, tay lính canh này mới bắt đầu chuyến đi hộ tống 2 ông bạn Đồng minh trở về làng Wugarten an toàn.

    Sáng hôm sau, một chiếc máy bay 2 cánh nhỏ của Nga đã hạ cánh xuống cánh đồng gần làng. Hai sĩ quan Nga bước ra và hỏi danh sách hồi hương, tên tuổi của tất cả các tù binh Đồng minh trong làng. Những người mới đến cũng tiết lộ rằng mười sĩ quan Mỹ từ nhóm ban đầu của họ đã đang trên đường đến Odessa để hồi hương — và trong đó có cả tên của George Muhlbauer, người mà thông dịch viên Đức Hegel trong đội cựu bảo vệ trại giam đội lốt. Fuller vội vàng đổi lại cái tên mà Hegel phải mang theo từ nay là Thiếu úy người Mỹ gốc Đức George F. Hofmann, số hiệu Quân đội 0-1293395, và bắt Hegel phải ghi nhớ một tiểu sử mới: đã từng được huấn luyện tại Fort Benning, Georgia; học OCS (Trường học viên Sĩ quan) ở Virginia; phục vụ trong biên chế của Fuller thuộc Trung đoàn 109; và cả hai đều bị bắt trong Trận chiến Bulge. Kể từ ngày đó, Fuller liên tục hỏi Hegel, thường đánh thức anh ta khỏi một giấc ngủ ngon để tập trả lời các câu hỏi chất vấn, nhưng cho dù Hegel bị sửa bao nhiêu lần, người cựu lính Đức vẫn khăng khăng anh ta được huấn luyện ở Pháo đài Benny.(Cố tật của người Đức – phải trả lời là Fort Benning chứ không phải Fort Benny.ND)







    2.







    Ba nghìn người Mỹ khác bị bắt trong Trận chiến Bulge gần đây đã bị dẫn đến Trại Stalag II A, nằm trên đồi Neu-brandenburg, cách Berlin khoảng 100 dặm về phía bắc. Ngoài số lượng tù binh Mỹ ra, còn có hơn 75.000 tù binh đến từ các quốc gia Serbia, Hà Lan, Ba Lan, Pháp, Ý, Bỉ, Anh và Nga. Đây là trại dành cho những người lính nhập ngũ và chỉ có hai sĩ quan Mỹ ở đó: một bác sĩ, còn người kia là Cha Francis Sampson, một cha tuyên úy Công giáo bị bắt gần Bastogne trong khi cố gắng tìm kiếm nguồn cung cấp y tế nằm sâu trong hậu phương quân Đức. Francis Sampson là một người đàn ông rắn rỏi, nồng hậu và đầy hài hước; bây giờ nhìn ông ta cô đơn, khuôn mặt gầy gò, ốm yếu - nhưng vẫn dễ dãi và tốt bụng. Người Đức cho phép ông ở lại với những người lính nhập ngũ chỉ vì một bác sĩ người Serbia hợp tác với người Đức đã làm cho chỉ huy trại tin rằng Cha Sampson bị viêm phổi và không thể di chuyển được.

    Vào một buổi sáng đầu tháng Hai, Cha Sampson dẫn đầu một phái đoàn người Mỹ đến nhà kho để lấy những bưu kiện đầu tiên của Hội Chữ Thập Đỏ Hoa kỳ chuyển đến trại. Nhóm người tiều tụy tụ tập xung quanh những thùng giấy khổng lồ, tất cả đều nghĩ về thức ăn. Cha Sampson nhớ lại bữa ăn đầu tiên của mình trong trại: súp bắp cải, với một vài miếng củ cải và nhiều con giun nhỏ nổi lềnh phềnh trong bát; một người lính khác, đang ăn khẩu phần của mình trong một chiếc giày dùng làm bát, đã nhìn lên vị linh mục và nói, "Cú đá duy nhất dành cho tôi là - những con giun này không đủ béo."

    Họ háo hức xé các thùng giấy của Hội Chữ thập đỏ gửi đến. Tiếp theo là một sự im lặng gượng gạo, sau đó là hàng loạt lời nói t-ụ-c tĩu vượt qua bất cứ những lời ch-ử-i rủa mà Cha Sampson đã từng nghe trong 18 tháng khi ông ta còn ở trong đội ngũ những người lính nhảy dù: trước mắt họ là những cây vợt cầu lông, quần đùi bóng rổ, bộ đồ bóng bàn, hàng trăm bộ đồ trò chơi và hàng tá miếng đệm vai bóng đá kiểu Mỹ.

    Vào buổi chiều, lần đầu tiên Cha Sampson đã đến thăm Lazarett - bệnh viện dành cho tù nhân nằm cách xa khu nhà của khu trại dành cho người Mỹ và có các bác sĩ người Serbia và Ba Lan đang làm việc tại đó. Ông phải chứng kiến cảnh người Bác sĩ Ba lan đã cắt cụt cả hai chân của một người lính trẻ Mỹ và sau đó băng bó tạm thời cho anh ta bằng giấy vệ sinh và giấy báo. Anh lính Mỹ Gang-rene đã đặt chân đến trại tù sau khi lê lết đôi chân của anh bị đóng băng trong cuộc di tản bằng đường bộ và hành trình bằng xe lửa trên khắp nước Đức. Với những giọt nước mắt lăn dài trên má, bác sĩ nói với cha tuyên úy rằng đây là người Mỹ thứ năm buộc phải cưa cả hai chân; 18 người khác thị bị mất một chân.

    Trong khi Cha Sampson nói chuyện với những bệnh nhân Mỹ khác - hầu hết họ đều bị bệnh kiết lỵ hoặc viêm phổi - một lính gác Đức với bộ ria mép kiểu Hitler bước vào; hắn là người bị ghét nhất trong trại tù. Họ gọi hắn là Little Adolf, và mặc dù chỉ là một hạ sĩ, nhưng hắn ta là một quan chức của Đảng - ngay cả chỉ huy trại cũng kính sợ. Tại Trại tù Stalag IIA, lời của Little Adolf là luật lệ, và các tên lính canh khác, những người thường đối xử tốt với các tù nhân, tuyên bố hắn ta thường chống lưng cho mọi hành vi tàn bạo xảy ra……
    viagraless, caonam_vOz, tatpcit2 người khác thích bài này.
  7. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    …..“Adolf bé nhỏ”, người khiến Cha Sampson nhớ đến một người chuyên bán các nơ, dải ruy-băng, thích thảo luận về “văn hóa”“nền văn minh”, vì vậy bây giờ hắn ta lại quay sang Cha tuyên úy và hỏi, “Cha nghĩ gì về những người Bolshevik? Làm thế nào Cha có thể biện minh cho việc trở thành Đồng minh của những người Nga vô thần? "

    “Theo suy nghĩ của tôi, chính phủ Cộng sản và chính phủ Quốc xã là hai con chó cùng một giống,” (câu này có đụng chạm..các bác gạn đụng khơi trong …đừng nghĩ sâu xa quá.ND) - Linh mục trả lời. "Vào lúc này, Đức Quốc xã là thứ nguy hiểm nhất và chúng tôi sẽ sử dụng bất kỳ sự trợ giúp nào để loại bỏ nó."

    "Chắc Cha điên rồi!" - “Adolf bé nhỏ” nói gần như là khóc. "Nhưng nếu Cha không tin sự thật, hãy để tôi dẫn Cha xem người Nga là loại lợn gì!" Hắn ta chỉ vào khu trại của Nga. Nó bẩn thỉu, mùi hôi thối bao trùm khắp khu trại.

    “Họ ở bẩn, dơ dáy như trong cái chuồng lợn! – Cha Sampson thừa nhận như vậy : "Nhưng làm thế nào họ có thể giữ sạch sẽ được nhỉ ?"

    “Cha không hiểu chính xác vấn đề. Các chủng tộc khác vẫn giữ trại của họ luôn sạch sẽ. Có các giáo sư trong khu trại của Nga. Tôi đã nói chuyện với họ. Đó chính là những bộ óc tốt nhất của họ và những con người đó không thể phân biệt được sự khác biệt giữa văn hóa và văn minh của nhân loại. "

    "Đó chỉ là vấn đề ngữ nghĩa."

    “Không, không, Cha không hiểu được vấn đề. Những người đó đơn giản là không thể thấy sự khác biệt. Người Nga không phải là con người. Cha có biết rằng khi một người đàn ông chết trong trại, họ sẽ giữ xác của anh ta trong nhiều ngày không? "

    “Để lấy khẩu phần ăn của người chết,” vị linh mục chỉ ngay ra vấn đề. Trong số 21.000 người Nga đã vào trại, chỉ có 4000 người còn sống; hầu hết đã chết vì bị bỏ đói.

    “Adolf bé nhỏ” nói tiếp : “Chính bác sĩ Hawes của bạn đã kiểm tra những xác chết và xác minh có chuyện ăn thịt đồng loại.”Đại úy Cecil Hawes đã xác nhận chuyện đó. Mặc dù vậy, Cha Sampson không thể bắt người Nga phải chịu trách nhiệm về hành động của họ. Sau 7 tuần bị bỏ đói, Cha đã nhận ra rằng những người sắp chết sẽ không ngại ngần làm bất kể điều gì để có cơ hội sống sót.

    Tiếp theo,“Adolf bé nhỏ” dẫn Cha Sampson đến khu trại Lazarett dành riêng cho người Nga. Đó là một căn phòng của những nỗi kinh sợ. Những người đàn ông hấp hối nằm sóng soài trên nền nhà bẩn thỉu, sát chặt nhau đến mức chân tay họ đan vào nhau. Họ thúc và nhổ vào lẫn nhau, xô đẩy và cào cấu nhau một cách yếu ớt. Họ ngước nhìn Cha Sampson với đôi mắt trống rỗng, không cầu xin; tất cả đều biết họ sẽ sớm chuẩn bị hành trình về cõi chết. Người phục vụ duy nhất là một linh mục người Pháp với làn da tươi trẻ, không nếp nhăn; nhìn anh ta tưởng chừng chỉ ngoài hai mươi tuổi. Trong cả trại, người ta biết rằng anh ta đã tặng tất cả các gói thực phẩm của riêng mình cho những người Nga đang hấp hối và dành mọi khoảnh khắc có thể để xoa dịu nỗi đau cho họ. Cha Sampson nhìn vị linh mục người Pháp dịu dàng chăm sóc họ, phớt lờ sự thiếu cảm ơn hoàn toàn của những người tù binh Nga.

    "Thấy chưa, bọn chúng chỉ là một loại động vật!", đó chính là câu nói chia tay của “Adolf bé nhỏ”. Ngay khi hắn ta vừa biến mất, vị linh mục “trẻ tuổi” – trông anh ta bây giờ lại như người 50 tuổi - đã đến gặp Cha Sampson và nói với Cha rằng một xe chở thi thể sắp được vận chuyển ra ngoài. “Thưa cha, một số vẫn còn sống — nhưng hãy loại bỏ họ nhanh nhất có thể!”. Bọn lính Đức sẽ không để anh ta đi cùng toa xe và anh ta cầu xin người Mỹ làm điều gì đó — bất cứ điều gì nhằm an ủi cũng như giải thoát cho những tù binh Nga sắp từ giã cõi đời càng nhanh càng tốt. Cha Sampson vội vã bước ra ngoài đúng lúc ông nhìn thấy một toa xe lớn chất đầy thi thể đang lăn bánh đi về phía nghĩa địa. Anh thấy còn một số cánh tay và bàn chân vẫn cử động một cách yếu ớt. Những người tù binh ngắc ngoải như vậy sẽ bị chôn sống — và tất cả những gì Cha có thể làm là đứng quan sát mà thôi...

    Kinh hoàng, Cha bắt đầu rao bước về phía cổng chính, nơi một tù binh Nga đang bị lính canh khám xét. Họ bắt anh ta cởi quần dài, và một ổ bánh mì chua kiểu Đức bị rơi ra. Lính canh nhặt được nhưng bị người tù binh Nga vội giật bánh, mặc cho một lưỡi lê ấn sâu vào cổ vẫn không chịu rời bỏ. Người lính gác đã đập thẳng báng súng vào đầu người Nga, và khi anh ta ngã xuống, chúng đá và đánh đập anh. Người tù binh Nga vẫn ngoan cố giữ chặt ổ bánh mì. Cha Sampson chỉ có thể nghĩ, đó có phải là hình ảnh của loài vật không nhỉ ?


    Thốt lên bằng tiếng Đức, Cha cầu xin tên lính gác. “Tôi là một linh mục,” Cha nói đi nói lại, rồi chỉ vào cây thánh giá của mình, nhưng việc đánh đập vẫn tiếp tục diễn ra. Cha Sampson quỳ bên người tù binh Nga cầu nguyện. Người lính canh do dự, xấu hổ trước thánh giá của vị linh mục hoặc sợ hãi trước viễn cảnh bị đội trưởng tống vào phía sau song sắt, liền ra hiệu cho hai đồng đội đưa người tù binh Nga vào trong chòi canh. Bị lôi đi, người tù vẫn nắm chặt lấy ổ bánh mì…..







    o O o







    Cách thành phố Frankfurt an der Oder vài dặm về phía đông, Hồng quân vừa vượt qua một đoàn xe chở dân thường đang chạy trốn khác và một số lính Nga nhảy xuống kéo những người dân tội nghiệp ra khỏi những chiếc xe ngựa đang chở họ. Khoảng 30 cô gái và chàng trai bị tách khỏi cha mẹ và xếp hàng trên một con mương trong khi một sĩ quan Nga hét lên, "Khleb za khleb, krov za krov!" (Хлеб для хлеба, кровь за кровь). Một trong những người Đức, cậu bé Irwin Schneider, mười sáu tuổi, biết võ vẽ tiếng Nga có nghĩa là "Bánh trả bánh, nợ máu phải trả máu!"…..
    tatpcit, viagraless, caonam_vOz2 người khác thích bài này.
  8. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Những người già cả khuỵu gối, khóc lóc van xin khi thấy một số binh sĩ Nga giương tiểu liên lên, còn viên sĩ quan phớt lờ những lời cầu xin và đạn bắt đầu thi nhau xé toạc thân thể của những người trẻ tuổi. Cậu bé Schneider cảm thấy có thứ gì đó nhói lên trong cánh tay mình và nhìn thấy những người như cậu đang quằn quại tứ phía; trên tuyết xuất hiện những tia máu màu đỏ nhạt. Sau đó, một quả trứng khổng lồ bay về phía cậu ta, và trước khi cậu nhận ra đó là một quả lựu đạn, thì có một tiếng nổ chói tai và Schneider cảm thấy mình bị nhấc bổng lên như trong một cơn ác mộng. Vài giờ sau — chắc chỉ là vài giây sau thôi —tiếng lạch cạch trong đầu cậu ngừng lại và cậu vẫn động đậy được những ngón tay của mình. Tiếp đó, cậu có thể di chuyển phần còn lại của cơ thể, đang bị khói bụi che khuất, một cách từ từ, thận trọng bò ra khỏi đống thi thể — một số vẫn còn đang quằn quại — rúc vào một bụi cây gần đó. Irwin Schneider nghe thấy những tiếng la hét man rợ, sau đó là những tiếng nổ đơn lẻ, khô gọn khi những người vẫn còn ngắc ngoải đã bị loại bỏ một cách có phương pháp. Cuối cùng thì “bữa tiệc máu” cũng đã kết thúc và âm thanh duy nhất nghe được là tiếng khóc của những bậc cha mẹ…

    Những binh sĩ Nga này đã giết người trong cơn máu lạnh, được truyền cảm hứng bởi những nhà văn Nga tuyên truyền tiêu biểu là Ilya Ehrenburg về sự trả thù: “ …Các thị trấn Đức đều không có linh hồn ... Tất cả các chiến hào, nấm mồ và khe núi chất đầy xác chết của những người vô tội trên mọi ngả đường dẫn về Berlin ... Ủng, giày và dép của trẻ sơ sinh của những người bị sát hại trong phòng hơi ngạt tại trại Maidenek cũng đang diễu hành tới Berlin .. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên những tội ác tày trời của bọn phát xít. Khi chúng tôi đi qua vùng Pomerania, dường như trước mắt chúng tôi là những vùng nông thôn bị tàn phá, đẫm máu của đất nước Byelorussia .. Bọn phát xít Đức hiện hình ở khắp mọi nơi. Người Đức đã bị trừng phạt, nhưng vẫn chưa đủ. Bọn Fritzes vẫn đang chạy cong đuôi, nhưng chúng vẫn chưa đến ngày tận số. Ai có thể ngăn cản chúng tôi bây giờ? Sông Oder? Lực lượng Volkssturm? Không, đã quá muộn rồi. Giờ đây, những tên xâm lược Đức, sẽ bị thiêu sống trên những ngọn lửa căm thù, hú lên trong cơn giẫy chết của những kẻ xâm lược… Các đồng chí ơi, giờ trả thù đã đến ..!”

    Những binh lính Nga giống như người Mông Cổ và các khu vực ở phương Đông khác thì đang hãm hiếp, cướp bóc và thậm chí giết chóc, đặc biệt không phải để trả thù mà chỉ vì họ tuân theo lời thúc giục và niềm tin ban đầu của cha ông rằng chiến lợi phẩm sẽ thuộc về những kẻ chiến thắng. Trong vài ngày qua, điều này đã xảy ra ở Landsberg, một thị trấn gần làng Fuller. Vào ngày 6 tháng Hai, hai người lính Nga trẻ tuổi đã bắn vào bụng một cô gái, chắc là nhầm lẫn chứ không phải theo mệnh lệnh, và sau đó chúng sợ hãi bỏ chạy khi người giáo viên Katherina Textor chạy đến giúp nạn nhân. Katherina và hai người phụ nữ lớn tuổi đã tìm thấy một chiếc xe nôi và dùng nó để chở cô gái tội nghiệp đến bệnh viện. Khi họ băng qua sông Warthe đóng băng và vào bệnh viện thì trời đã chạng vạng, bác sĩ Bartoleit đã phải gỡ viên đạn ra mà không có thuốc gây mê dưới ánh đèn pin.

    Katherina và hai người bạn của bà quyết định ở lại bệnh viện để được an toàn trước mệnh lệnh khủng khiếp của Nga "Frau, komm!" (Frau–Lại đây ! ),nhưng họ không thể tìm thấy một nơi ẩn náu nào tồi tệ hơn thế. Những người lính Hồng quân say xỉn đi lang thang trên các hành lang bệnh viện suốt đêm hôm đó để tìm kiếm phụ nữ. Một số người còn xông vào căn phòng nơi ba người mới đến đang cố gắng ngủ và nhìn họ bằng đèn pin. Một lính Nga bực bội làu bàu : “..Già rồi - sắp chết rồi” và bỏ đi.

    Nhưng tất cả các y tá đều bị hãm hiếp trước khi bị trói, đưa lên xe tải chở về phía đông. Cuối cùng, khi lính Nga đột nhập vào căn hộ của Bác sĩ Bartoleit, họ phát hiện ra ông ta đã chết trên sàn nhà, tay cầm một khẩu súng lục. Nằm rải rác gần đó là xác của bà vợ và con gái ông ta….







    3.







    Cùng ngày hôm đó tại Berlin - ngày 6 tháng Hai - Quốc trưởng nói với những người thân cận của mình rằng Big Three sẽ dự định "nghiền nát và tiêu diệt" nước Đức. ( Các cuộc nói chuyện riêng của Hitler từ tháng Hai đến tháng Tư năm 1945, được Bormann sao chép trung thực theo yêu cầu của Fuhrer để chúng có thể được lưu giữ dành cho hậu thế. Vào ngày 17/4/1945, Hitler giao các tài liệu - được dán nhãn Bormann-Vermerke (Ghi chú Bormann) - cho một quan chức Đảng đến thăm với hướng dẫn cất giấu chúng ở một nơi an toàn. Mãi cho đến năm 1959, những tài liệu đáng chú ý này, mỗi trang được xác thực bởi chữ ký của Bormann, cuối cùng đã được xuất bản với tiêu đề Di chúc chính trị của Adolf Hitler, tài liệu Hitler & Bormann.)

    "Chúng ta chỉ còn 1/4 giờ cuối nữa mà thôi!" Quốc trưởng nói một cách u sầu. “Tình hình nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Thậm chí dường như là tuyệt vọng”. Nhưng Hitler khẳng định vẫn còn cơ hội chiến thắng nếu đất đai của Tổ quốc được bảo vệ từng tấc đất. “Trong khi chúng ta tiếp tục chiến đấu, vẫn luôn còn có hy vọng, và điều đó, chắc chắn là đủ để ngăn chúng ta nghĩ rằng dường như mọi thứ đã sụp đổ. Không có trận đấu nào bị thua cho đến khi tiếng còi mãn cuộc vang lên ”. Fuhrer nhớ lại sự thay đổi đáng kể của vận may khi Frederick Đại đế được cứu thoát khỏi thất bại trước cái chết đột ngột của thần Czarina. “Giống như Frederick vĩ đại, chúng tôi cũng đang chống lại một liên minh, và liên minh đó, các Ngài hãy nhớ rằng, nó không phải là một thực thể ổn định. Nó chỉ tồn tại bởi ý chí của một số ít con người. Nếu Churchill đột ngột biến mất, mọi thứ có thể thay đổi ngay trong nháy mắt! ”

    Giọng Quốc trưởng một lần nữa lại vang lên đầy phấn khích. “Chúng ta vẫn có thể giành lấy chiến thắng trong chặng đua cuối cùng! Mong cho chúng ta có thời gian để làm như vậy. Tất cả những gì mà chúng ta phải làm là không được phép gục ngã! Đối với người dân Đức, thực tế đơn giản là tiếp tục tự chúng ta phải đơn độc chiến đấu sẽ là một thắng lợi. Và chỉ điều đó thôi cũng đủ biện minh cho cuộc chiến này sẽ không hề vô ích ”.....
    tatpcit, viagraless, caonam_vOz2 người khác thích bài này.
  9. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Tướng SS Karl Wolff — “Wolffchen” của Himmler và là Tư lệnh đoàn quân SS ở Ý — đã đến Văn phòng Thủ tướng Đế chế để nhận câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi của ông về loại vũ khí kỳ diệu và tương lai dành cho nước Đức. Sếp của ông ta – Thống chế SS Himmler - đã không thể cung cấp nào khả dĩ cho ông ta và bây giờ Karl Wolff đã tự mình đến gặp Quốc trưởng. Cùng với họ có Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Joachim von Ribbentrop, và ba người khác đang đi đi lại lại xung quanh họ.

    “Thưa Fuhrer của tôi..!,” Wolff nói, “nếu Ngài không thể thông tin cho tôi biết được loại ‘vũ khí kỳ diệu’ xuất hiện sớm nhất khi nào, người Đức chúng tôi buộc phải tiếp cận người Anh-Mỹ nhằm mục đích tìm kiếm hòa bình.” Khuôn mặt của Hitler vẫn như một chiếc mặt nạ khi Wolff nhanh chóng tiết lộ rằng ông ta đã thiết lập 2 mối liên lạc dành cho mục đích như vậy : đó là Hồng y Schuster của Milan, một người bạn thân của Giáo hoàng và một Đặc vụ thuộc Cơ quan Tình báo bí mật Anh quốc..

    Wolff tạm dừng lời. Hitler không nói gì nhưng bắt đầu tiếp tục búng tay. Wolff coi đó Quốc trưởng cho phép ông ta tiếp tục trình bày và cho rằng đã đến lúc chọn một trong số những sứ giả thương lượng này. “Thưa Fuhrer của tôi..!,” Wolff tiếp tục, “rõ ràng là các bằng chứng mà tôi đã thu thập được từ lĩnh vực chuyên môn của mình đã thấy có sự khác biệt tự nhiên giữa các đồng minh gượng gạo này [Big Three]. Nhưng xin đừng xúc phạm nếu tôi nói rằng tôi không tin rằng liên minh này sẽ tự tan rã một khi không có sự nhúng tay tích cực của chúng tôi. "

    Hitler nghiêng đầu như thể chấp nhận ý kiến của Wolff và tiếp tục búng tay, rồi sau đó mỉm cười, cho biết rằng cuộc nói chuyện kéo dài 20 phút đã kết thúc. Wolff và Ribbentrop rời đi, hào hứng nói về thái độ có vẻ dễ tiếp thu của Quốc trưởng đối với đề xuất táo bạo. Đúng vậy, Quốc trưởng không hề nói một lời và không đưa ra bất kỳ chỉ thị cụ thể nào, nhưng Hitler đã không nói không đồng ý. Họ chia tay nhau, Wolff sẽ khám phá các khả năng ở Ý, và Ribbentrop sẽ sang Thụy Điển nhằm tìm giải pháp hòa bình của họ.

    Cách đó một dãy nhà, Bormann đang ở trong căn phòng của mình và viết một lá thư khác cho Frau Gerda “bé bỏng” của ông, lần này mô tả bữa tiệc sinh nhật hôm qua được dành cho Eva Braun, với Hitler, được tổ chức một cách tự nhiên và đầm ấm :

    “E. - ‘ chỉ Eva Braun.ND’ đang ở trong tâm trạng vui vẻ, nhưng hay phàn nàn rằng cô ta không có một ‘kép’ nhảy nào cho ra hồn; cô ấy cũng chỉ trích nhiều người khác với một sự khó chịu không giống như ở cô ấy một chút nào cả.

    Cô rất buồn vì Quốc trưởng vừa nói rằng cô và các phu nhân khác sẽ phải rời Berlin trong vòng vài ngày tới. Bức thư trò chuyện này đã bị vượt qua bởi một bức thư được Frau Gerda viết trong trạng thái ngây ngất về sự vinh quang của ĐảngQuốc gia Xã hội Chủ nghĩa(Nazi) : ... Quốc trưởng đã cho chúng tôi biết về những tư tưởng của ông ta dành cho Đế chế, hiện nay đã lan rộng — và vẫn đang bí mật lan truyền — đi khắp thế giới. Những hy sinh không thể tin được mà nhân dân Đức đang phải gánh chịu - những hy sinh mà họ chỉ thực hiện được một khi họ đã thấm nhuần và sở hữu nhữngtư tưởng đó - là bằng chứng cho thấy về sức mạnh của nó và cho tất cả thế giới thấy cuộc đấu tranh của chúng ta chính đáng và cần thiết như thế nào.

    Một ngày nào đó trên Đế chế, Vương quốc của những giấc mơ sẽ xuất hiện. Em tự hỏi, chúng ta hay con cái chúng ta, sẽ còn sống để chứng kiến điều tuyệt vời đó? Theo một cách nào đó, anhthấy không, điều này khiến em nhớ đến tập thơ “Hoàng hôn của các vị thần” do Edda viết. Những người khổng lồ và những người lùn, con sói Fenris và con mãng xà Mitgard, và tất cả các thế lực của cái ác đang liên minh chống lại các vị thần; đa số họ đã ngã xuống, và những con quái vật đang xông tới cây cầu của các vị thần; Đội quân của các anh hùng đã hy sinh trong một trận chiến vô hình, những đội quân linh hồn do các trinh nữ Valkyrie cùng tham gia, thành trì của các vị thần sụp đổ, và tất cả dường như bị mất hết; để rồi sau đó, đột nhiên một tòa thành mới mọc lên, đẹp hơn bao giờ hết, và thần Baldur đã sống lại.

    Daddy yêu dấu -Em luôn ngạc nhiên khi thấy tổ tiên của chúng ta trong những câu chuyện thần thoại của họ, và đặc biệt ở những dòng văn học của Edda, gần giống với thời đại của chúng ta như thế nào ...

    Anh yêu dấu của em, em sẽ mãi mãi và hoàn toàn dành cả cuộc đời em cho anh, và chúng ta sẽ sống để chiến đấu, ngay cả khi chỉ còn có một đứa con của chúng ta sống sót sau sự kiện khủng khiếp này.

    “Mommy bé nhỏ”….

    (Trong Thần thoại Bắc Âu cổ - Ragnarok là một chuỗi các sự kiện, bao gồm một trận chiến lớn, được báo trước là dẫn đến cái chết của một số nhân vật vĩ đại, thiên tai và sự chìm ngập của thế giới trong cơn hồng thủy. Sau những sự kiện này, thế giới sẽ tái sinh và màu mỡ, các vị thần sống sót và trở về sẽ gặp nhau và thế giới sẽ được tái sinh bởi 2 con người còn sống sót. Ragnarök là một sự kiện quan trọng trong thần thoại Bắc Âu và đã trở thành chủ đề của các bài thuyết trình và lý thuyết học thuật trong lịch sử văn học Đức. Sự kiện này được ghi lại trong Tập thơ của Edda từ thế kỷ XIII được gọi là Ragnarøkkr (Tiếng Bắc Âu cổ làHoàng hôn của các vị thần – còn tiếng Đức là Gotterdammerung. Vì vậy, Tập thơ Edda nghịch lý mang đến cho độc giả hiện đại một cảnh tượng kép về thảm họa tuyệt đối trong những bài thơ thần thoại và anh hùng của nó, gây ra bởi sự ngạo mạn của thần thánh và sự bất cần của con người. Nhưng không phải tất cả nhân loại đều diệt vong, giờ đây, những con người chính trực được che chở và thoát khỏi tai nạn, họ đang sống trong một thế giới đã được thanh tẩy, chỉ còn lại hạnh phúc và yêu thương. Mọi điều xấu xa đều biến mất, vũ trụ trở lại xinh đẹp và tràn đầy bình yên như thuở đầu mới được tạo ra. Baldur, vị Thần của sự lương thiện và thuần khiết, được hồi sinh. Các vị Thần công chính cũng được hồi sinh. Vạn vật sống trong niềm vui vô tận…ND)
  10. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927



    4.







    Đối với các công dân trong một nền dân chủ, triết lý của Đức Quốc xã dường như không thể hiểu nổi, một sự tưởng tượng méo mó, khó hiểu, nhưng với những người Đức, đó là những người đã từng chứng kiến Hitler giải cứu đất nước của họ thoát khỏi họa Cách mạng Cộng sản, khỏi nạn thất nghiệp và đói kém thì không hề. Mặc dù tương đối ít người Đức là thành viên Đảng quốc xã, nhưng chưa bao giờ trong lịch sử thế giới có một người đàn ông lại thôi miên hoàn toàn dân chúng đến mức như vậy. Hitler đã xuất phát từ hư không để thống trị hoàn toàn một quốc gia vĩ đại, không chỉ bằng vũ lực và khủng bố mà còn bằng các ý tưởng của mình. Ông đã mang đến cho người Đức một vị trí tự hào dưới ánh sáng mặt trời mà họ cảm thấy họ xứng đáng, với lời khuyên liên tục rằng điều này sẽ xảy ra chỉ khi họ đè bẹp người Do Thái và đập tan các âm mưu độc ác nhằm thống trị thế giới bằng chủ nghĩa Bolshevism của họ.

    Hơn hết, lòng căm thù chủ nghĩa Bolshevism đã không ngừng dội vào người Đức trong hơn một thập kỷ đã qua, và chính lòng căm thù này đã thôi thúc những người lính Đức ở mặt trận phía đông kháng cự một cách tuyệt vọng. Hitler đã nói đi nói lại với họ về những gì quân Đỏ sẽ làm với vợ con, nhà cửa và Tổ quốc của họ, và bây giờ họ đang chiến đấu chống lại những khó khăn vô vọng - bị thúc đẩy bởi lòng căm thù, sợ hãi và lòng yêu nước. Họ chiến đấu không quá nhiều bằng máy móc và vũ khí mà bằng lòng quyết tâm, sự tuyệt vọng và lòng dũng cảm. Và bất chấp sự gia tăng khổng lồ của Hồng quân, sự áp đảo mạnh mẽ về số lượng xe tăng, pháo và máy bay, mặt trận phía đông đang bắt đầu tương đối ổn định. Trước đó một tuần, điều này dường như là không thể.

    Hình ảnh tiêu biểu của tinh thần chiến đấu quật cường ở phía đông là Oberst (Đại tá) Hans-Ulrich Rudel, thủ lĩnh của một nhóm máy bay ném bom bổ nhào Stuka. Với chiều cao trung bình, anh ấy đã gây ấn tượng nhất với sức sống của mình. Anh ta không di chuyển nhiều, bởi vì chân anh vẫn còn đang bị nẹp; anh không nói chuyện nhiều, hay thốt ra những lời nói bằng một cái giọng the thé. Anh ta có mái tóc gợn sóng màu nâu nhạt, đôi mắt màu xanh ô liu nhẹ nhàng và những đường nét mạnh mẽ trông như được đục đẽo từ đá. Rudel luôn tin tưởng tuyệt đối Hitler mà không hề dè dặt, nhưng cũng không ngại ngần công khai chỉ trích những sai lầm của các đảng viên Quốc xã cũng như các nhà lãnh đạo quân đội. Sau gần 2.500 phi vụ chiến đấu trong sáu năm chiến tranh, thành tích của anh đã trở thành huyền thoại. Anh ta đã bắn chìm một thiết giáp hạm của Liên Xô và hạ gục khoảng 500 xe tăng.

    Vào ngày 8 tháng Hai, anh cùng với các đồng đội đang chiến đấu dọc theo con sông Oder giữa Küstrin và Frankfurt tại đỉnh của mũi nhọn mà Zhukov đã đánh đuổi được nhóm tàn quân của Himmler. Trên thực tế, Ngài Thống chế SS, đã có rất ít nhân lực để ngăn chặn người Nga ngoại trừ chướng ngại vật tự nhiên là sông Oder, một vài đơn vị lục quân đóng rải rác bên bờ tây, và chiếc Stukas của Rudel, được trang trí bên ngoài thân máy bay bằng biểu tượng của các Kỵ sĩ Huynh đệ Teutonic (Teu-tonic Knights)từng chiến đấu chống lại quân xâm lược phương Đông từ 600 năm trước. Thời điểm này, chiếc máy Stuka, không còn là nỗi khiếp sợ của bầu trời, nó chậm chạp và vụng về - trở thành một mục tiêu dễ dàng khi nó loạng choạng bổ nhào xuống mặt đất chụp lấy con mồi. Bản thân Rudel đã bị bắn rơi hàng chục lần và chân trái của anh vẫn phải bó bột trong lớp thạch cao của Paris vì những vết thương do đạn súng máy quân thù gây ra. Trong hai tuần qua, người của anh đã chạy ngược chạy xuôi dọc theo con sông, giống như một Sở chữa cháy khẩn cấp, cố gắng ngăn chặn làn sóng tấn công của xe tăng Hồng quân. Người Đức đã phá hủy hàng trăm chiếc, nhưng hàng ngàn chiếc tăng khác đang di chuyển không ngừng tới bờ sông Oder.

    Trong Trận chiến Bulge, Rudel đã được triệu tập đến trụ sở của Quốc trưởng ở mặt trận phía tây để nhận một tấm huân chương đặc biệt.

    “Giờ thì anh đã bay đủ rồi nhé..” Hitler nói, nắm lấy tay Rudel và nhìn vào mắt anh ta. "Mạng sống của anh phải được bảo toàn vì những kinh nghiệm chiến đấu anh rất cần cho lứa thanh niên Đức kế cận…”

    Đối với Rudel, không có gì tệ hơn là không được phép chiến đấu, và anh ta nói ngay : “Kính thưa Fuhrer, tôi không thể chấp nhận việc tặng huân chương nếu như tôi không được phép bay trên đôi cánh của mình."

    Hitler - vẫn nắm chặt bàn tay phải của Rudel, trong khi chàng aces phi công vẫn nhìn như xoáy vào trong mắt ông –đã dùng tay trái mở một chiếc cặp màu đen, lót nhung. Trong đó, lấp lánh những viên kim cương được đính trên một tấm huân chương đặc biệt mà chính Quốc trưởng đã thiết kế dành riêng cho Rudel. (Ngày 29/12/1944, Rudel được thăng hàm Đại tá và được trao tặng Huân chương Chữ thập hiệp sĩ với Lá sồi Vàng, Thanh kiếm và Kim cương. Anh ta cũng là người duy nhất nhận được tấm huân chương này trong suốt cuộc chiến và được đích thân Quốc trưởng trao vào ngày 1/1/1945. Vào thời điểm này, Rudel đã thực hiện được hơn 2.400 phi vụ và tiêu diệt được 463 xe tăng.ND.)Khuôn mặt nghiêm nghị của Hitler từ từ giãn ra và ông ta nói với một nụ cười, "Được rồi, anh có thể tiếp tục bay", nhưng vài tuần sau, Hitler lại đổi ý và ra lệnh cho Rudel không được phép bay nữa. Rudel vô cùng tức giận và cố gắng gọi điện cho Goring. Thống chếkhông có mặt ở nơi làm việc. Rudel gọi thử Keitel, nhưng ông ta đang họp trong hội nghị. Chỉ có một việc cần làm: gọi thẳng cho chính Quốc trưởng. Khi Rudel xin phép yêu cầu được nói chuyện với Hitler, một giọng nói nghi ngờ hỏi cấp bậc của anh là gì.

    “Hạ sĩ,” Rudel nói đùa. Rudel nghe thấy một tràng cười tán thưởng và một lúc sau đó đang nói chuyện với Đại tá Nicolaus von Below, phụ tá Luftwaffe của Hitler, và ông ta trả lời : “Tôi biết là anh muốn gì nhưng tôi xin anh đừng làm cho Quốc trưởng bực bội.”

    Rudel quyết định đưa ra lời kêu gọi cá nhân với Goring, người đang nghỉ ngơi tại vùng thôn quê Karinhall của ông ta. Thống chế Đế chế mặc một chiếc áo choàng rực rỡ với cái tay áo buông thõng như cánh của một con **** khổng lồ. “Tôi đã nói chuyện với Quốc trưởng về bạn cách đây một trước,” Goring tâm sự với Rudel, “và đây là những gì Fuhrer đã nói:“ Khi Rudel đứng trước mặt, tôi không còn có tâm trí nào để nói với cậu ta rằng cậu ấy phải ngừng bay; tôi không thể làm điều đó được. Nhưng còn Ngài (Goring) đứng đầu lực lượng Không quân Đức để làm gì? Ngài có thể nói với cậu ta ; Tôi không cho phép !... Tôi rất vui khi được gặp Rudel, nhưng tôi không muốn gặp lại cậu ấy cho đến khi tự bản thân cậu ta đã đáp ứng được sự mong muốn của tôi. ”…Đấy ! Tôi đang trích dẫn chính xác những lời nói của Quốc trưởng về bạn và tôi cũng không muốn thảo luận thêm về vấn đề này nữa . Tôi biết tất cả những lý lẽ và phản đối của bạn! ”

    Biết tình hình như vậy, Rudel không dám nói gì mà vẫn quay lại mặt trận với quyết tâm tiếp tục bay như mọi lần. Anh ta bí mật cất cánh, cho đến khi một thông cáo tuyên dương Rudel đã tiêu diệt mười một xe tăng trong một ngày và anh ta được lệnh gọi điệnvề lâu đài Karinhall ngay lập tức.

    Goring tức giận. “Quốc trưởng biết bạn vẫn đang bay,” ông tata tiếp tục nói. “Fuhrer đã nói với tôi hãy cảnh cáo bạn, buộc bạn phải dừng ngay các phi vụ cất cánh và mãi mãi là như vậy. Bạn không được làm Fuhrer khó xử bằng cách buộc Quốc trưởng phải thực hiện các hình thức kỷ luật vì không thượng tôn mệnh lệnh. Hơn nữa, Fuhrer không thể có cách cư xử như thế với một người línhđang vinh dự được đeo tấm huân chương cao quí nhất của nước Đức vì lòng dũng cảm. Có gì nói thế, tôi thấy không cần thiết phải thêm ý kiến riêng của tôi nữa ! ”

    Thế nhưng, hai tuần sau vào ngày 8/2, Rudel vẫn đang thực hiện các chuyến bay, và vào buổi tối, anh được Albert Speer, người Bộ trưởng được coi là thông minh và có năng lực nhất của Hitler, người đứng đầu bộ phận sản xuất vũ khí và khí cụ chiến tranh đến thăm. Speer bắt đầu: “Quốc trưởng đang lên kế hoạch tấn công các nhà máy sơ tán của ngành công nghiệp vũ khí Nga tạivùng Ural. " - Fuhrer dự kiến sẽ làm gián đoạn việc sản xuất vũ khí của kẻ thù, đặc biệt là xe tăng, trong vòng một năm. Rudel sẽ là người đứng ra tổ chức việc thực hiện các chiến dịch như vậy. “Nhưng bạn không được phép bay ; Quốc trưởng lặp đi lặp lại rõ ràng như vậy… "


    Rudel phản đối. Anh ta nói lúc này còn có những người khác hội tụ đủ điều kiện cho một công việc như thế; anh chỉ là một phi công, được đào tạo về ném bom bổ nhào. Trước những lập luận của Rudel, Speer chỉ trả lời, "Quốc trưởng muốn bạn làm điều đó," và nói rằng ông sẽ gửi thông tin chi tiết về Chiến dịch Ural. Ông đã nói những lời tạm biệt khi tâm sự với Rudel rằng sự tàn phá lớn của ngành công nghiệp Đức khiến ông ta cảm thấy bi quan cho tương lai Đế chế, nhưng ông hy vọng phương Tây sẽ nhận ra tình hình và không để châu Âu rơi vào tay người Nga Cộng sản. Sau cùng, Albert Speer thở dài và nói, "Nhưng tôi vẫn tin rằng Quốc trưởng là người phù hợp nhất để giải quyết mọi vấn đề…."
    tatpcit, caonam_vOzMuahoaLekima thích bài này.

Chia sẻ trang này